Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc

Tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc: ... Ebook Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế xã hội giữa các nước ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy nền tài chính của mỗi nước cũng phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và NHTM cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Tín dụng, trong đó tín dụng trung dài hạn là một lĩnh vực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, và cũng là lĩnh vực mà các Ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các Ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay còn chứa đựng rất nhiều rủi ro. Bất kỳ một sự tác động nào ảnh hưởng đến tính khả thi và tính sinh lời của dự án đều có thể gây thiệt hại cho Ngân hàng, nhẹ thì cũng làm giảm tính cạnh tranh của các Ngân hàng, nặng thì sẽ gây tổn thất cho người gửi tiền và cho toàn bộ nền kinh tế do bản chất hoạt động của Ngân hàng là đi vay để cho vay. Trong những năm vừa qua, Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những thành tựu nhất định như dư nợ tín dụng tăng, tỷ lệ nợ xấu giảm… Song để đứng vững trong môi trường cạnh tranh và bắt kịp với xu hướng đổi mới của thời đại, thì Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển cần nỗ lực hơn nữa trong việc ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn. Xuất phát từ bối cảnh đất nước và thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển , em đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc”. 2. Mục đích nghiên cứu Khoá luận sẽ hệ thống lại những vấn đề có tính lý luận về rủi ro tín dụng trung dài hạn để khẳng định rằng rủi ro tín dụng là một tất yếu song có thể hạn chế đến mức thấp nhất để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lợi của Ngân hàng. Trên cơ sở phân tích thực trạng rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc, khoá luận sẽ rút ra các vấn đề còn tồn tại, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc trong thời gian tới. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Do rủi ro tín dụng là một vấn đề rộng và phức tạp, trong phạm vi khoá luận này, em xin chỉ tập trung vào đối tượng nghiên cứu là hình thức cho vay trung dài hạn đối với các tổ chức kinh tế, phạm vi nghiên cứu là các dự án được thực hiện tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc trong những năm gần đây. 4. Phương pháp nghiên cứu Khoá luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Sử dụng các số liệu thực tế để luận chứng thông qua các phương pháp so sánh, thống kê, đồ thị… 5. Kết cấu của đề tài Đề tài được kết cấu gồm 3 phần: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. Vai trò của tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm tín dụng trung dài hạn Hoạt động Ngân hàng ra đời khi quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá của xã hội đã phát triển ở mức độ cao, và cùng với thời gian, hệ thống Ngân hàng đã đóng một vai trò không thể thiếu trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Ngày nay, các Ngân hàng hiện đại có thể làm thoả mãn mọi đối tượng khách hàng là cá nhân hay doanh nghiệp bởi một khối lượng dịch vụ rất đa dạng và phong phú bao gồm nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, bảo lãnh, uỷ thác đầu tư, dịch vụ tư vấn, dịch vụ đối ngoại, dịch vụ bảo quản và ký gửi tài sản… Song dù các Ngân hàng có mở rộng và đa dạng hoá các dịch vụ cung ứng đến thế nào, nó cũng không thể tách rời hoạt động tín dụng, bởi hoạt động tín dụng chiếm một tỷ lệ lớn trong nghiệp vụ sử dụng vốn và mang lại thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Có thể định nghĩa tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hay hàng hoá), giữa bên cho vay (là Ngân hàng) với bên đi vay (là các cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác), trong đó, Ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận. Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động tín dụng cũng phát triển ngày càng phong phú và đa dạng với rất nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức tín dụng càng đa dạng, thì các loại rủi ro đi kèm với nó cũng càng đa dạng và phức tạp hơn. Để quản lý hoạt động tín dụng, các Ngân hàng phải đưa ra rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại tín dụng, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng như phân loại theo thời gian tín dụng, theo đối tượng tín dụng, theo xuất xứ của tín dụng, theo mục đích sử dụng vốn… Nếu sử dụng tiêu thức thời hạn cho vay để phân loại tín dụng, ta có thể đưa ta khái niệm về tín dụng trung dài hạn của các NHTM như sau: Tín dụng trung dài hạn là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ một năm trở lên. Trong đó, các NHTM thường qui định: Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Tín dụng dài hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng trung dài hạn có các loại sau : tín dụng trung và dài hạn theo dự án đầu tư, tín dụng thuê mua, tín dụng tuần hoàn, cho vay đồng tài trợ. Tín dụng trung dài hạn là một nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. Mục đích của tín dụng trung dài hạn là đầu tư cho các dự án xây mới, hoặc tài trợ cho các chương trình mở rộng, cải tạo khôi phục, ứng dụng khoa học, đổi mới kỹ thuật… của doanh nghiệp. 1.1.2. Đặc điểm của tín dụng trung dài hạn Tín dụng trung dài hạn có các đặc trưng riêng so với các loại tín dụng khác bao gồm: Vốn đầu tư lớn Việc đầu tư trung dài hạn nhằm vào các dự án lớn như xây dựng nhà máy, cầu cảng, cơ sở hạ tầng, hoặc dây chuyền sản xuất… do đó mà số vốn cần thiết cho mỗi dự án lớn gấp nhiều lần cho vay ngắn hạn. Thời hạn đầu tư dài Các dự án đầu tư thường là để tài trợ nhu cầu vốn cố định của doanh nghiệp, tuy toàn bộ số vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng nó chỉ chuyển một phần giá trị vào các sản phẩm được sản xuất ra trong suốt quá trình khấu hao. Do đó, việc thu nợ phải thực hiện trong thời gian dài qua nhiều kỳ hạn nợ. Tính rủi ro cao Các dự án đầu tư mà Ngân hàng tài trợ có thể có quy mô rất lớn và liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Hơn nữa, vì thời gian thu nợ kéo dài, trong thời gian đó có thể xảy ra nhiều thay đổi với vị thế của doanh nghiệp về sản phẩm được cung cấp, sự xuất hiện sản phẩm mới ưu việt hơn, sự thay đổi công nghệ sản xuất, nguyên liệu sản xuất, hoặc biến động về kinh tế – chính trị… tất cả các yếu tố này đều có thể gây khó khăn cho sự trả nợ của doanh nghiệp. Lãi suất cao Lãi suất cho vay, ngoài lãi suất cơ bản còn phụ thuộc vào cấu trúc rủi ro và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất. Mức độ rủi ro càng cao, thời hạn cho vay càng dài thì mức bù rủi ro cho Ngân hàng càng lớn, do đó, lãi suất càng cao và ngược lại. Ngoài ra, Ngân hàng cũng phải tốn nhiều chi phí trong huy động vốn, thẩm định, thực hiện và giám sát khoản cho vay… Chính vì vậy, lãi suất trong cho vay trung dài hạn thường cao hơn so với cho vay ngắn hạn. Các đặc điểm của cho trung dài hạn theo dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải tăng cường việc thẩm định, quản lý và giám sát khoản vay. Việc này khiến Ngân hàng tốn khá nhiều công sức và chi phí. Bù lại, các dự án trung dài hạn có giá trị rất lớn. Giá trị của một khoản vay trung dài hạn có thể bằng rất nhiều khoản vay nhỏ lẻ gộp lại trong một thời kỳ. Hơn nữa, những Ngân hàng thành công trong việc đầu tư theo dự án thường tạo được danh tiếng và ưu thế cạnh tranh rất lớn. Chính vì vậy, các Ngân hàng luôn coi trọng hoạt động tín dụng trung dài hạn. 1.1.3. Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với nền kinh tế Tín dụng trung dài hạn không chỉ là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập lớn cho Ngân hàng, mà xét trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, tín dụng trung dài hạn còn có vai trò cực kỳ to lớn: Tín dụng trung dài hạn góp phần phát triển kinh tế theo chiều sâu Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải biết nắm bắt và tìm mọi cách thoả mãn những nhu cầu không ngừng nâng cao của xã hội. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp cần có vốn để không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nguồn vốn ngắn hạn sẽ chỉ đáp ứng được nhu cầu thiếu vốn tạm thời trong doanh nghiệp chứ không thể giúp doanh nghiệp trong việc mở rộng vốn trung dài hạn. Đối với Việt Nam, số các doanh nghiệp lớn có khả năng kêu gọi vốn trung dài hạn trực tiếp từ thị trường chứng khoán không nhiều, nên vay vốn từ Ngân hàng được coi là giải pháp tối ưu nhất cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng sẽ tạo nền tảng cơ sơ vật chất kỹ thuật cho sự tăng trưởng thực sự vững bền, đó chính là đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu. Tín dụng trung dài hạn góp phần thúc đẩy, mở rộng sản xuất phát triển Đầu tư nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất…, đòi hỏi một lượng vốn rất lớn mà không phải chủ đầu tư nào cũng có thể đáp ứng được. Vì thế, tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thực sự là một cứu cánh khi doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng sản xuất mà chưa có vốn đầu tư. Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động, nó cũng tạo cơ hội mở rộng sản xuất cho các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào, cung cấp máy móc thiết bị, giải quyết nhân lực… Ngoài ra nhờ việc đầu tư vào máy móc, thiết bị hiện đại, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được tăng lên, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, mẫu mã đẹp đáp ứng yêu cầu của thị trường nội địa và nước ngoài, kích thích nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tăng khả năng xuất khẩu… Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Tín dụng trung dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của doanh nghiệp, kích thích sản xuất phát triển. Khi đó các doanh nghiệp cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều đó tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao nhu cầu vốn lưu động càng lớn và như vậy tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn ngày càng phát triển. Tín dụng trung dài hạn góp phần thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn, Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng sự phát triển của ngành này, cũng có thể hạn chế đối với một số ngành kinh tế khác. Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là cả quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với chuyển đổi mới cơ bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình CNH-HĐH đất nước là tập trung vốn đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ máy móc, chuyển dịch nền kinh tế, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong điều kiện thị trường vốn của nước ta chưa phát triển thì hiện tại và thời gian tới, tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định cho giai đoạn đầu thực hiện CNH-HĐH. Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách Tín dụng trung dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế theo chiều sâu, do đó khi sản xuất phát triển sẽ taọ ra nhiều sản phẩm hàng hoá để tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu. Việc này sẽ tạo ra nguồn thu cho ngân sách từ thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế sử dụng tài nguyên, thuế thu nhập… Khi xuất khẩu tăng thì chúng ta sẽ thu được ngoại tệ đảm bảo duy trì cho nhu cầu nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế… Tóm lại, vốn trung dài hạn có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Các NHTM ở các nước đang phát triển đều cố gắng tăng tỷ lệ dư nợ tín dụng trung dài hạn để phục vụ quá trình CNH-HĐH đất nước. 1.2. Rủi ro tín dụng trung dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường 1.2.1. Bản chất rủi ro tín dụng trung dài hạn Hiện nay, hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong danh mục tài sản có (trên 60%), nguy cơ phát triển tín dụng nóng vẫn chưa được ngăn chặn hữu hiệu, kinh doanh tín dụng là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu của các Ngân hàng trong khi đó môi trường kinh doanh tín dụng còn nhiều rủi ro. Do đó, rủi ro lớn nhất mà các NHTM Việt Nam gặp phải chính là rủi ro tín dụng. Vậy rủi ro tín dụng là gì? Trong tài liệu “Công nghệ Ngân hàng dành cho các nước đang phát triển” rủi ro tín dụng được định nghĩa là: Thiệt hại kinh tế của Ngân hàng do một khách hàng hoặc nhóm khách hàng không hoàn trả được nợ vay của Ngân hàng”. Trong tài liệu “Financial institutions management –Amodern perpective” A.Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng nguồn thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của Ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ cả về số lượng và thời hạn. Có định nghĩa khác cho rằng “rủi ro tín dụng xảy ra khi xuất hiện các biến cố không thể đo lường trước khiến khách hàng không thực hiện được các cam kết đã thoả thuận đối với Ngân hàng”. Hiện nay rủi ro tín dụng được định nghĩa: là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Cụ thể hơn, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả được đúng nợ với Ngân hàng xét trên cả hai khía cạnh: số lượng và thời gian. Do đó, rủi ro tín dụng có thể được phân thành: Rủi ro mất vốn: là rủi ro không thu hồi được một phần hay toàn bộ nợ. Rủi ro bị đọng vốn: là rủi ro không thu hồi được nợ đúng hạn. Qua định nghĩa có thể biểu diễn sơ đồ rủi ro tín dụng của NHTM Biểu đồ 01: Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng Không thu được lãi đúng hạn Không thu được vốn đúng hạn Không thu đủ lãi Không thu đủ vốn cho vay Phát sinh lãi treo Phát sinh nợ quá hạn Phát sinh lãi treo đóng băng Phát sinh nợ khó đòi Khả năng thanh toán suy giảm Hiệu quả kinh doanh giảm Thất thoát vốn, phá sản 1.2.2. Các chỉ tiêu của rủi ro tín dụng Các chuyên gia cho rằng một số tài sản của Ngân hàng (đặc biệt là các khoản cho vay) giảm giá trị hay không thể thu hồi là biểu hiện của rủi ro tín dụng. Do vốn chủ sở hữu của Ngân hàng so với tổng giá trị tài sản là rất nhỏ nên chỉ cần một tỉ lệ nhỏ danh mục cho vay có vấn đề sẽ có thể đẩy một Ngân hàng tới nguy cơ phá sản. Có bốn chỉ tiêu sau được sử dụng rộng rãi nhất trong việc đo lường rủi ro tín dụng của Ngân hàng: Chỉ tiêu thứ nhất: tỷ số giữa giá trị các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay Đây là chỉ tiêu có ý nghĩa hết sức quan trọng của một Ngân hàng. Vì khi tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ càng cao thì những tác động tiêu cực của nó tới hoạt động của Ngân hàng càng lớn, gây ra những hậu quả nghiêm trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà còn tác động tới cả hệ thống Ngân hàng. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và (hoặc) lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn tăng làm gia tăng chi phí có tính chất có tính chất hiệu ứng: khi các khoản nợ quá hạn phát sinh các NHTM không có nguồn thu từ các khoản vay này trong khi đó vẫn phải tiếp tục trả lãi cho nguồn vốn vay, vốn huy động từ khách hàng. Bên cạnh đó các chi phí khác tiếp tục phát sinh có tính chất cộng hưởng như chi phí quản lý nợ quá hạn phát sinh, các chi phí khác có liên quan… Tình trạng này dễ dẫn đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng bị lỗ. Nợ quá hạn xuất hiện làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của NHTM, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, giảm hiệu quả kinh doanh. Đồng thời hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh cũng như giảm uy tín của Ngân hàng và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Nợ quá hạn được kiểm soát chặt chẽ góp phần làm lành mạnh hoá toàn bộ tình hình hoạt động và tài chính của Ngân hàng. Do đó, các Ngân hàng phải nắm được tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ để có các biện pháp tác động thích hợp nhằm giảm tỷ lệ này. Chỉ tiêu thứ hai: tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ cho vay Theo điều 6 quy định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4, và 5, bao gồm: Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Nhóm 4 (nợ nghi ngờ): các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của các TCTD. Tỷ lệ này càng cao cho thấy chất lượng tín dụng của Ngân hàng càng kém. Khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên thì sẽ làm cho hệ thống Ngân hàng rơi vào tình trạng mất an toàn của toàn hệ thống, chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh sẽ xấu đi nghiêm trọng. Đặc biệt khi việc tăng trưởng dư nợ đi kèm với gia tăng các khoản nợ xấu trên thực tế, trong đó có một phần dư nợ xấu không được nhận dạng đầy đủ thì hoạt động tín dụng và mức độ an toàn của Ngân hàng sẽ trở nên xấu đi nghiêm trọng nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm vì các nguyên nhân ngoại sinh (ví dụ như thị trường quốc tế thay đổi bất lợi, khủng hoảng…). Do vậy đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình trạng rủi ro tín dụng của NHTM. Chỉ tiêu thứ ba: tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ Nợ khó đòi là các khoản nợ mà Ngân hàng khó có khả năng thu hồi được. Đối với những khoản nợ khó đòi NHTM thường phải tiến hành các biện pháp xử lý như sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, xoá nợ… mà quỹ dự phòng rủi ro được hạch toán và chi phí hoạt động của Ngân hàng. Do đó, tỷ lệ này càng tăng thì Ngân hàng càng phải đối mặt với tình trạng tăng chi phí, giảm lợi nhuận, suy giảm năng lực tài chính, thậm chí là nguy cơ phá sản nếu như Ngân hàng không còn khả năng bù đắp những khoản nợ này. Vì vậy, đây cũng là một tỷ lệ quan trọng phản ánh tình trạng rủi ro tín dụng tại NHTM. 1.2.3. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng trung dài hạn Các khoản vay không bao giờ bị giảm giá bất thình lình mà không có dấu hiệu bất thường báo trước. Đối với cho vay trung dài hạn, thời hạn của các khoản vay khá dài, nên cán bộ tín dụng càng có điều kiện để nhận biết những dấu hiệu cảnh bảo rủi ro. Các dấu hiệu này có thể được nhận biết từ các nguồn sau: Nhóm 1: Các dấu hiệu liên quan đến các mối quan hệ với Ngân hàng Thông qua việc theo dõi tài khoản và việc thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng cần thận trọng khi bắt gặp thường xuyên các dấu hiệu sau: phát hành quá số dư, khó khăn trong thanh toán lương, số dư của các tài khoản tiền gửi giảm, gia tăng dư nợ thương mại... Thông qua mối quan hệ tín dụng của khách hàng: Ngân hàng phải lưu ý đến các hiện tượng: mức độ vay tăng, thanh toán chậm nợ gốc và lãi, vay lớn hơn nhu cầu, thường xuyên yêu cầu Ngân hàng cho gia hạn... Thông qua việc theo dõi các phương thức tài chính của khách hàng, khoản vay có thể gặp rủi ro nếu có các dấu hiệu: khách hàng thường sử dụng các nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động dài hạn, khách hàng chấp nhận các khoản phương thức tài trợ đắt nhất, các khoản phải trả giảm và các khoản phải thu tăng, có biểu hiện giảm vốn điều lệ ... Nhóm 2: Các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng Thường xuyên thay đổi cơ cấu hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. Đội ngũ quản trị bất đồng về mục tiêu, có tranh chấp về quyền lực. Cách thức quản trị có biểu hiện: hội đồng quản trị hay giám đốc ít kinh nghiệm, can thiệp quá sâu vào những vấn đề thường nhật, ít quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ... Có tranh chấp với chính quyền địa phương, tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp... Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến các ưu tiên trong kinh doanh như hội chứng hợp đồng lớn, hội chứng sản phẩm đẹp...Các dấu hiệu này phải được xem xét cùng các yếu tố khác để đánh giá được ưu tiên đó là đúng hay sai để có được kết luận chính xác... Nhóm 4: Các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật, thương mại của doanh nghiệp như khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, sản phẩm mang tính thời vụ cao, hay có các thay đổi bất lợi trên thị trường hay trong các chính sách của Nhà nước... Nhóm 5: Các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán như chuẩn bị không đầy đủ hay chậm trễ, trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính, hay từ các báo cáo đó, Ngân hàng nhận thấy khách hàng đang gặp khó khăn về tài chính: tỷ lệ nợ tăng, khả năng thanh toán giảm, hàng tồn kho tăng, lợi nhuận giảm... Ngoài các nhóm dấu hiệu trên, Ngân hàng còn có thể nhận biết sớm được rủi ro tín dụng thông qua các dấu hiệu phi tài chính khác như dáng vẻ bề ngoài của chủ doanh nghiệp, thái độ làm việc của nhân viên, hiện trạng cơ sở sản xuất kinh doanh... Đối với tín dụng trung dài hạn, Ngân hàng không phải lo lắng thái quá nếu có biểu hiện trên trong một số giai đoạn nhất định. Miễn sao các khó khăn đó không phải là thường trực và tình trạng kinh doanh là tốt khi đến hạn trả nợ. 1.2.4. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trung dài hạn Tín dụng trung dài hạn với đặc điểm là thời hạn cho vay kéo dài (trên 1 năm), có những dự án đầu tư vào các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng, mua máy móc thiết bị, đóng tàu, mua tàu...thì thời hạn đầu tư kéo dài hàng chục năm. Trong một thời gian dài, bản thân dự án cũng như khách hàng có nhiều thay đổi khó dự đoán. Vì vậy, tín dụng trung dài hạn thường có độ rủi ro cao hơn trong các loại tín dụng. Khó có thể liệt kê một cách đầy đủ các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong tín dụng trung dài hạn. Xét một cách khái quát, có thể kể đến ba nhóm nguyên nhân chính như sau: Nguyên nhân rủi ro từ phía Ngân hàng: Nguyên nhân rủi ro từ phía Ngân hàng là rất quan trọng, theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): 50% Ngân hàng phá sản trên thế giới là do năng lực quản lý yếu kém của chính bản thân Ngân hàng. Cụ thể có thể là do: Chính sách tín dụng của Ngân hàng không hợp lý: Ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, hay chính sách cho vay không phù hợp với đặc điểm thực trạng nền kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy, sự hoạt động của một Ngân hàng dựa trên cơ sở chính sách tín dụng thống nhất, hợp lý, có hiệu quả nhiều hơn là dựa trên kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho cá nhân điều hành. Một chính sách cho vay không đồng bộ, thống nhất sẽ gây ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Ngân hàng không phân tích, đánh giá được khách hàng một cách đầy đủ trước khi cho vay, đồng thời không giám sát được việc sử dụng vốn vay một cách chặt chẽ sau khi giải ngân. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể do: Ngân hàng thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác, kịp thời để đánh giá vai trò, vị trí của doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, do đó quyết định cho vay thiếu chính xác. Ngân hàng chủ quan tin tưởng vào khách hàng truyền thống của mình hoặc quá coi trọng tài sản đảm bảo mà coi nhẹ khâu kiểm tra, giám sát khách hàng. Cán bộ tín dụng thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc năng lực chuyên môn yếu kém, không am hiểu về ngành nghề kinh doanh mà mình đang tài trợ không phát hiện được các yếu kém của dự án xin vay vốn cũng như các dấu hiệu bất thường trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hoặc do cán bộ tín dụng thái hoá biến chất, cố ý làm trái, không chấp hành đúng chính sách chế độ, tiếp tay đồng loã với kẻ gian lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng. Ngân hàng quá nhấn mạnh vào lợi nhuận và phát triển mà sao nhãng sự lành mạnh của các khoản cho vay. Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không tốt các đảm bảo tín dụng. Việc định giá tài sản đảm bảo thấp hơn giá trị thực, cho vay quá giá trị tài sản đảm bảo, không giám sát, bảo vệ tài sản cẩn thận. Ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm ngăn ngừa hạn chế rủi ro khi hoạt động trong nền kinh tế thị trường, từ đó chưa có được các biện pháp phòng ngừa, phân tán rủi ro thích hợp, chưa có tổ chức theo dõi quản lý rủi ro thật sự hữu hiệu. Nguyên nhân rủi ro từ phía khách hàng: Nguyên nhân rủi ro từ phía khách hàng rất đa dạng, nhưng đối với tín dụng trung dài hạn, khách hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế, nguyên nhân chủ yếu tập trung ở một số loại chính sau: Khách hàng gặp khó khăn trên thị trường cung cấp nguyên vật liệu hoặc thị trường tiêu thụ sản phẩm nên không thu đựơc lợi nhuận dự kiến: trên thị trường đầu vào, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn khi giá cả nguyên vật liệu tăng đột biến, nguyên liệu khan hiếm, hoặc chất lượng nguyên liệu không đảm bảo... Các biến cố này ảnh hưởng đến giá thành cũng như chất lượng của sản phẩm, do đó ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Trên thị trường đầu ra, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi giá bán không cạnh tranh, sản xuất vượt quá mức cầu, mẫu mã hàng hoá không phù hợp... Vốn vay sử dụng sai mục đích: có những trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn vay vào những mục đích khác với mục đích khai báo với Ngân hàng, khiến cho Ngân hàng không thể kiểm soát được khoản tín dụng cấp ra, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho Ngân hàng. Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản: trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp không trả được nợ không phải do hoạt động kinh doanh thua lỗ mà do vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng quá nhiều, nên đến hạn, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Do tình trạng tham nhũng, gian lận diễn ra trong nội bộ doanh nghiêp. Do rủi ro đạo đức: khách hàng cố tình dùng những thủ đoạn để lừa đảo, chiếm dụng vốn của Ngân hàng. Nguyên nhân rủi ro do môi trường hoạt động kinh doanh: Do một dự án có thời hạn dài nên nó thường không tránh khỏi ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Có thể kể đến một số nguyên nhân chính từ phía môi trường kinh doanh có thể gây khó khăn cho dự án như sau: Do những nguyên nhân mang tính chất bất khả kháng như thiên tai bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa... Tình hình an ninh, chính trị và kinh tế trong và ngoài nước không ổn định làm chậm quá trình thi công, xây dựng dự án hoặc làm cho dự án sản xuất phải tạm thời gián đoạn. Do tác động của thời kỳ khủng hoảng, suy thoái của chu kỳ kinh tế. Sự phát triển kinh tế thường diễn ra theo chu kỳ: hưng thịnh – khủng hoảng – suy thoái – phát triển – hưng thịnh... Trong thời kỳ phát triển và hưng thịnh, hoạt động kinh doanh thuận lợi, do đó hoạt động tín dụng cũng khá an toàn. Còn thời kỳ khủng hoảng, suy thoái, sản xuất đình trệ nên các khoản tín dụng gặp rủi ro cũng gia tăng. Tín dụng trung dài hạn thường diễn ra trong thời gian tương đối dài, nên khó có thể tránh khỏi ảnh hưởng của các chu kỳ kinh tế. Môi trường pháp lý không thuận lợi và sự lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô. Sự thay đổi bất thường của các chính sách có thể gây bị động, khó khăn cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời kéo theo khó khăn trong việc thu hồi vốn của Ngân hàng. Sự lơ là quản lý của các cơ quan pháp luật cũng có thể tạo những “kẽ hở” cho các doanh nghiệp thực hiện các vụ làm ăn phi pháp, gây nguy cơ rủi ro cao cho Ngân hàng... 1.3. Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở các nghiên cứu về nợ quá hạn, ta thấy khả năng phát sinh nợ quá hạn luôn tồn tại kể từ khi khoản vay phát sinh cho đến khi thu hồi hết nợ. Để đảm bảo khả năng thu hồi nợ và lãi đúng hạn, Ngân hàng phải thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém thuộc về bản thân Ngân hàng, phát hiện, loại trừ khả năng phát sinh nợ quá hạn từ phía khách hàng và môi trường kinh doanh. Rủi ro là một vấn đề phức tạp, để hạn chế được nó, đòi hỏi phải có sự phối hợp của tất cả các bộ phận, từ bộ phận quản trị cho đến bộ phận tác nghiệp của Ngân hàng. Trong phần này, chúng ta chỉ nêu lên những biện pháp cơ bản, có liên quan trực tiếp đến rủi ro tín dụng trung dài hạn. 1.3.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý kết hợp hài hoà giữa mục tiêu mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng. Chính sách tín dụng là một hệ thống các quy định nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một NHTM nhằm 3 mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận cao, sự an toàn và sự lành mạnh. Thông thường, chính sách tín dụng được thể hiện dưới hình thức các văn bản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nó có thể là chỉ là những chỉ thị bằng lời của ban lãnh đạo Ngân hàng, hoặc là một tập hợp những hành vi, thông lệ hoặc tập quán. Chính sách tín dụng có tầm quan trọng đặc biệt với sự phát triển của một NHTM. Chính sách tín dụng thể hiện “triết lý” và “văn hoá’ cho vay, bởi vậy nó là cơ sở hình thành nên các thủ tục cho vay. Mức độ chặt chẽ, khoa học của một thủ tục cho vay lại quyết định đến cơ cấu và chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. Một chính sách tín dụng hợp lý sẽ là “kim chỉ nam” đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, giúp Ngân hàng có thể đạt được lợi nhuận và kiểm soát rủi ro theo kế hoạch đã định. Trên thực tế, chính sách tín dụng phải được thay đổi theo từng thời kỳ nhằm đảm bảo cho việc phát triển tín dụng phù hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng của nền kinh tế. 1.3.2. Hoàn thiện kỹ thuật thẩm định các nhu cầu tín dụng Tín dụng trung dài hạn luôn là những khoản tín dụng có số lượng vốn lớn, thời hạn cho vay dài, do đó cần có sự cân nhắc trước khi cho vay: nên cho vay hay không và cho vay thì sẽ cho vay như thế nào, cho vay bao nhiêu thì phù hợp. Để trả lời những câu hỏi này và đi đến quyết định cuối cùng, cần thiết phải hoàn thiện thẩm định trên các mặt: Thứ nhất, uy tín của khách hàng phải được đề cập trong thẩm định và cụ thể hơn, nó phải có nội dung trong tờ trình của cán bộ tín dụng, với các tiêu thức cụ thể là: thẩm định qua hồ sơ quá khứ của khách hàng; thẩm định qua phỏng vấn trực tiếp với mục đích cần đạt rõ ràng là: tìm hiểu phẩm chất của khách hàng vay trên góc độ như động cơ._. cho vay, sự liêm chính, thái độ sẵn lòng trả nợ; thẩm định danh tiếng hoặc tai tiếng; uy tín của khách hàng qua các luồng thông tin và giới thiệu của khách hàng khác về khách hàng vay vốn. Thứ hai, hoàn thiện thẩm định nguồn trả nợ của khách hàng. Trước khi một nhu cầu cho vay được đáp ứng, việc nhìn thấy một loạt các nguồn tiền trả nợ là cần thiết, nó đem lại cho TCTD giải quyết cả ba vấn đề trong quan hệ tín dụng là giá cả, rủi ro và lòng tin. Với ba nguồn được xếp thứ tự trong việc thẩm định cần làm là: Một là, nguồn từ quyết toán của khoản vay: là nguồn trả nợ từ chính hiệu quả của khoản tín dụng, nó phụ thuộc vào khả năng tạo ra lợi nhuận của người vay mà trưc tiếp là phương án vay vốn. Hai là, nguồn từ chính năng lực tài chính của khách hàng vay vốn: được dùng khi dự án vay thực hiện không thành công, khi đó bản thân vốn nội sinh của doanh nghiệp, với tư cách người đi vay là nguồn thu khác của Ngân hàng. Nguồn này vẫn chứa đựng sự không chắc chắn do việc Ngân hàng cùng phải chia sẻ nguồn thu này với chủ nợ khác. Ba là, tài sản bảo đảm (thế chấp, cầm cố...): Là nguồn thu sau cùng từ khách hàng. Nguồn này tỏ ra khá chắc chắn do tính “ưu quyền” của Ngân hàng trên giá trị của tài sản đảm bảo. Tuy không phải là nguồn gắn liền với bản chất của tín dụng do thanh lý chậm, tốn kém chi phí và sức lực, khó tìm kiếm thị trường. 1.3.3. Thực hiện một cách khoa học và đồng bộ quy trình cho vay: Quy trình cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Một quy trình cho vay chặt chẽ và có hiệu quả sẽ là biện pháp hữu hiệu nhất để hạn chế rủi ro trong quá trình cấp tín dụng. Quy trình cho vay là một quy trình kể từ khi khách hàng lập đơn đề nghị vay vốn đến lúc Ngân hàng thu hồi hết nợ vay. Nó gồm 6 giai đoạn: Lập hồ sơ đề nghị vay vốn Giai đoạn phân tích tín dụng Giai đoạn quyết định tín dụng Giai đoạn giải ngân Giai đoạn giám sát khách hàng sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro Giai đoạn kiểm tra và thanh lý hợp đồng Các giai đoạn trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đòi hỏi phải được thực hiện một cách đầy đủ, sát sao ở từng giai đoạn. Tuy nhiên, trong thực tế có không ít cán bộ tín dụng lơi lỏng hời hợt trong việc thực hiện các giai đoạn, họ chỉ quan tâm tới một, hai giai đoạn đầu mà không xem xét kỹ các giai đoạn sau, điều đó rất dễ gây ra rủi ro. Chính vì vậy, từ khi thiết lập cho đến khi kết thúc mối quan hệ tín dụng, ác cán bộ Ngân hàng phải áp dụng đồng bộ quy trình nhưng cũng phải kết hợp một cách linh hoạt và mềm dẻo. Có như vậy, hiệu quả đầu tư tín dụng mới được nâng cao, rủi ro tín dụng cũng mới được hạn chế ở mức thấp nhất. 1.3.4. Tham gia bảo hiểm tín dụng Đây là một giải pháp nhằm đảm bảo sẽ bồi thường cho các Ngân hàng trong trường hợp khách hàng của Ngân hàng gặp rủi ro, không có khả năng hoàn trả số tiền vay. Ngân hàng có thể tiến hành bảo hiểm tín dụng dưới 3 hình thức: Một là, Ngân hàng khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh. Như vậy, khoản tín dụng trong trường hợp này đã được coi như là đã tham gia bảo hiểm. Hai là, Ngân hàng tự bảo hiểm cho chính mình bằng cách thành lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp những thiệt hại do rủi ro gây ra. Ba là, Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm từ các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp và sẽ được bồi thường thiệt hại khi gặp rủi ro mất vốn tín dụng. 1.3.5. Phân tán, chia sẻ rủi ro tín dụng Để tiến hành phân tán, chia sẻ rủi ro, Ngân hàng thực hiện dưới 2 hình thức: Đa dạng hoá đối tượng tín dụng: nhà kinh tế học Sammuelson đã khuyến cáo các nhà đầu tư cần tránh mạo hiểm, rủi ro rằng: “không nên bỏ tất cả trứng vào trong một giỏ”. Muốn tránh rủi ro Ngân hàng cần phân phối đầu tư vào nhiều khách hàng hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau. Như vậy, nếu xảy ra rủi ro tại một lĩnh vực hay một khách hàng nào đó, Ngân hàng vẫn có thể bù đắp vào những khách hàng hay lĩnh vực khác. Để thực hiện biện pháp này các Ngân hàng cần thực hiện 2 vấn đề: Cho vay nhiều đối tượng thuộc loại hình sản xuất khác nhau, không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một sản phẩm, hàng hoá. Không nên đầu tư một số tiền lớn cho một khách hàng mà phải san sẻ ra nhiều khách hàng. - Liên kết đầu tư: trong kinh doanh có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất lớn mà một Ngân hàng không thể đáp ứng được hoặc khó xác định mức độ rủi ro có thể thì Ngân hàng cần liên kết đầu tư, đồng tài trợ với các Ngân hàng khác. Theo cách này, Ngân hàng sẽ phân tán rủi ro của mình cho các Ngân hàng khác. 1.3.6. Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng theo nghĩa rộng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn sẵn có ở Ngân hàng (hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của cán bộ tín dụng...), từ khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp) từ các nguồn thông tin khác (các cơ quan thông tin đại chúng, toà án...). Để đảm bảo cho hệ thống thông tin của các NHTM hoạt động có hiệu quả, là nơi tin cậy để các cán bộ tín dụng nắm được những thông tin cần thiết, cần thực hiện một số biện pháp sau: Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các chủ đầu tư. Trước mắt phải kiểm toán tài liệu cân đối kế toán và kết quả hoạt động tài chính của các đơn vị xin vay vốn, đầu tiên là thực hiện đối với các dự án có quy mô từ trung bình trở lên. Tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu tín dụng chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các chi nhánh NHTM và các phòng, ban NHTM TW. Kết nối với các hệ thống thông tin khác của NHNN, bộ thương mại, bộ công nghiệp... thu thập thông tin tín dụng toàn ngành Ngân hàng và thông tin kinh tế khác. Xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực tuyến cho toàn hệ thống bao gồm: thông tin kinh tế, thông tin hoạt động tín dụng của khách hàng bất kỳ, thông tin xếp hạng tín dụng. 1.3.7. Tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào quá trình cung cấp tín dụng cho khách hàng, từ khâu đầu tiên như lập hồ sơ tín dụng cho đến khâu cuối cùng là thu hồi nợ cho vay, do đó, cán bộ tín dụng giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết định chất lượng của các khoản cho vay. Để nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro trong tín dụng trung dài hạn cần tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ tín dụng: Lựa chọn cán bộ có đủ kiến thức và đạo đức nghề nghiệp làm công tác tín dụng; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn phổ bíên kiến thức mới và kinh nghiệm cho vay đến các cán bộ tín dụng; gửi cán bộ đi đào tạo tại nước ngoài, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng có uy tín trong khu vực về thẩm định dự án và cho vay theo dự án..... 1.3.8. Phân tán rủi ro thông qua thị trường bán nợ và các hợp đồng tín dụng phái sinh Bên cạnh các phương pháp truyền thống được các NHTM sử dụng từ trước tới nay, hiện nay, các NHTM đã sử dụng các biện pháp hiện đại để phòng ngừa rủi ro tín dụng trung dài hạn. Chứng khoán hoá các khoản cho vay Chứng khoán hoá tài sản là việc Ngân hàng đem tài sản có ở nội bảng chưa đến hạn của mình bán cho những người đầu tư dưới hình thức phát hành chứng khoán. Ngân hàng sẽ dành riêng một nhóm tài sản sinh lời và bán ra thị trường các chứng khoán được phát hành trên các tài sản đó. Khi các tài sản này được thanh toán, Ngân hàng sẽ chuyển khoản thanh toán này cho người sở hữu chứng khoán nói trên. Chứng khoán hoá là một công cụ tài chính giúp hạn chế rủi ro về lãi suất và rủi ro về danh mục đầu tư cho Ngân hàng, vì nhờ nó Ngân hàng có thể giảm được thời lượng của danh mục đầu tư cho phù hợp với tính chất của nguồn vốn huy động, và có thể chuyển nguồn đầu tư từ thị trường này sang thị trường khác có triển vọng hơn. Ngân hàng có thể phát hành chứng khoán qua trung gian là các tổ chức hoạt động chuyên nghiệp về phát hành chứng khoán hay không qua trung gian. Người đầu tư vào các chứng khoán này thường là các Ngân hàng, các hiệp hội xây dựng, các công ty bảo hiểm, quỹ nhân thọ, quỹ hưu trí... Để có thể thực hiện chứng khoán hoá một cách hiệu quả, Ngân hàng phải có được một nhóm tài sản có giá trị đủ lớn và có cùng một đặc trưng. Với tiêu chuẩn như vậy, các khoản cho vay dài hạn với tài sản thế chấp thường là bất động sản là nhóm tài sản được ưu tiên hàng đầu để chứng khoán hoá. Các quốc gia phát triển thường có thị trường thứ cấp đối với các bất động sản (thường là địa ốc), do đó cho phép định giá tương đối chính xác các bất động sản trong trường hợp người vay không trả được nợ. (2) Bán các khoản cho vay Bán các khoản cho vay là nghiệp vụ trong đó Ngân hàng chuyển quyền thu nợ cho một tổ chức khác để sớm thu hồi vốn của mình. Các khoản cho vay mà Ngân hàng bán ra thường gồm 2 loại: các khoản cho vay tốt và các khoản nợ xấu. Thông thường các Ngân hàng bán các khoản nợ được đánh giá là tốt, còn hạn khoảng 90 ngày, có tính thu hồi cao. Việc này thường tăng khả năng thanh khoản cho Ngân hàng, giảm bớt rủi ro lãi suất góp phần chuyển hướng đầu tư cho Ngân hàng. Đối tượng thứ 2 của giao dịch bán các khoản cho vay là các khoản nợ quá hạn, tỷ lệ thu hồi thấp. Giá bán các khoản nợ này có thể thấp hơn mệnh giá, nhưng Ngân hàng có thể thu hồi vốn để đầu tư mới ngay và đảm bảo an toàn hơn và tránh phải lập dự phòng bổ sung, làm tăng chi phí của Ngân hàng. Người mua các khoản vay thường phải có sẵn điều kiện thông tin về lĩnh vực cũng như về khu vực đầu tư của khoản vay. Các Ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm và tiềm lực vốn lớn cũng có thể mua lại các khoản nợ lớn với mục đích tìm kiếm một vị trí chắc chắn trong thị trường nội địa. (3) Các công cụ tài chính phái sinh Bán nợ hay chứng khoán hoá có thể giúp Ngân hàng ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, tuy nhiên 2 phương pháp này không linh hoạt do các khoản vay được bán hay chứng khoán hoá phải có giá trị tương đối lớn và có những đặc điểm tương đồng. Ngày nay, Ngân hàng thường dùng công cụ tín dụng phái sinh, là các công cụ tài chính hiện đại và chủ động dể giảm rủi ro tín dụng. Hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit swap): Các hình thức phổ biến của hợp đồng trao đổi tín dụng bao gồm: Hợp đồng trao đổi tín dụng: Là hình thức trong đó 2 Ngân hàng cùng thoả thuận trao đổi với nhau 1 lượng tiền nhất định, bao gồm cả vốn và lãi mà Ngân hàng thu được từ người vay vốn thông qua tổ chức trung gian. Hợp đồng trao đổi toàn bộ thu nhập: là hình thức Ngân hàng A đồng ý thanh toán cho Ngân hàng B hoặc tổ chức trung gian toàn bộ các khoản thu từ 1 món vay nhất định. Bù lại Ngân hàng B hay tổ chức trung gian phải thanh toán cho Ngân hàng A một tỷ lệ lãi suất cố định (như lãi suất trái phiếu hay lãi suất Libor + một biên độ nhất định). Như vậy, Ngân hàng đã đổi những khoản thu nhập rủi ro từ khoản tín dụng lấy những khoản thu nhập ổn định hơn. Hợp đồng quyền tín dụng (Credit options) Đây là một công cụ phổ biến giúp bảo vệ Ngân hàng khi chất lượng tín dụng của Ngân hàng giảm sút. Nếu Ngân hàng lo lắng về chất lượng một khoản vay, Ngân hàng có thể ký hợp đồng quyền tín dụng với các tổ chức kinh doanh quyền (option dealer). Hợp đồng sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ khoản cho vay nếu khoản cho vay này giảm giá đáng kể hoặc không thể được thanh toán. Còn nếu khách hàng trả nợ, Ngân hàng sẽ không cần sử dụng đến hợp đồng quyển và sẽ chỉ mất chi phí trả trên hợp đồng quyền. Trái phiếu ràng buộc (Credit – Linded Notes) Trái phiếu ràng buộc là một công cụ kết hợp đặc tính của các khoản nợ thông thường và hợp đồng quyền tín dụng, nó tạo cho Ngân hàng một đặc quyền trong việc giảm mức thanh toán nếu như có những thay đổi lớn trong một số yếu tố. Ví dụ khi Ngân hàng chứng khoán hoá 1 nhóm các khoản nợ với lãi suất 10%/năm, chứng khoán này có thể có ràng buộc rằng nếu tỷ lệ tổn thất trong tín dụng trên khoản nợ là quá lớn thì Ngân hàng sẽ thanh toán cho các nhà đầu tư 1 tỷ lệ lãi suất thấp hơn, giả sử 7%/năm. Việc sử dụng các công cụ phái sinh tuy rằng khá hữu ích nhưng không phải không có rủi ro bởi vẫn còn nhiều vấn đề về mặt pháp lý liên quan đến việc sử dụng các công cụ này và do đó, Ngân hàng không được pháp luật bảo đảm hoàn toàn, trên thực tế thị trường các công cụ này còn nhỏ và chưa tạo được hấp dẫn đối với các Ngân hàng cũng như nhà đầu tư. 1.3.9. Xử lý nợ có hiệu quả Đặc điểm của kinh doanh tiền tệ là các Ngân hàng vẫn gặp rủi ro nhưng là ở mức chịu đựng được, tức là trong hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng vẫn luôn tồn tại những khoản nợ xấu. Nợ xấu là những khoản nợ khi đến hạn mà không được khách hàng thanh toán, những khoản nợ xấu này chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất cho Ngân hàng, để giảm bớt tổn thất Ngân hàng phải lập ra một kế hoạch thu nợ và cân nhắc các phương án tối ưu để thu hồi khoản vay một cách hiệu quả nhất. Có thể xử lý nợ quá hạn bằng một số biện pháp sau: Tổ chức khai thác Khai thác là quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản tín dụng được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ và không dựa vào công cụ pháp lý để ép buộc thu ngân. Biện pháp khai thác được áp dụng với những khách hàng vay trung thực, có trách nhiệm và mong muốn trả nợ, có giá trị tài sản lớn và có một quá khứ quản lý lành mạnh và hiệu quả. Biện pháp khai thác có thể là những lời khuyên về một chương trình mở rộng sản xuất, thay đổi phương thức bán hàng, tăng thêm sản phẩm mới hoặc loại bỏ các hoạt động không sinh lời, bán bớt một phần tài sản không cần thiết... Đối với các doanh nghiệp quản lý yếu kém, Ngân hàng có thể nắm phần chủ động trong quản lý kinh doanh. Mặt khác, Ngân hàng có thể điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt mức hoàn trả cấp thêm vốn. Thanh lý các khoản nợ khó đòi Nếu Ngân hàng thấy rõ việc tổ chức khai thác không có lợi, sự thanh lý dưới một vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lý một khoản cho vay đã trở thành khó đòi, tuy rằng đôi khi các thủ tục pháp lý rắc rối và tẻ nhạt: Xiết nợ và thanh lý các tài sản đảm bảo Ngân hàng có thể xử lý tài sản đảm bảo theo nguyên tắc đồng thuận hoặc theo phán quyết của toà án. Với phương pháp đồng thuận, khách hàng và Ngân hàng cùng thoả thuận việc thu hồi nợ từ tài sản đảm bảo theo một trong các cách sau: Khách hàng tự bán tài sản đảm bảo để thanh toán cho Ngân hàng: đây là biện pháp có lợi nhất đối với cả khách hàng và Ngân hàng vì Ngân hàng không mất các chi phí phát mại, doanh nghiệp thì có thể bán được với giá cao như mong đợi. Ngân hàng nhận tài sản thay cho nghĩa vụ trả nợ: biện pháp này có thể được thực hiện nhanh chóng, chi phí thấp, tuy nhiên không phải tài sản đảm bảo nào cũng có thể áp dụng. Bán tài sản qua các trung tâm bán đấu giá: phương pháp này khá tiện lợi vì dễ tìm được người mua nhưng chi phí quá cao nên ảnh hưởng đến việc thu nợ của Ngân hàng. Ngân hàng cũng có thể khởi kiện toà án khi không đạt được một thoả thuận thống nhất với khách hàng. Nói chung đây là biện pháp ít được sử dụng nó gây căng thẳng trong mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng, tốn nhiều chi phí và thời gian chờ đợi lâu. Tuy nhiên đây là cơ hội thu được vốn cho Ngân hàng trong trường hợp tài sản đảm bảo có tranh chấp, khách hàng không thiện chí... Phá sản doanh nghiệp Trong trường hợp Ngân hàng quyết định sử dụng biện pháp pháp lý để thu hồi nợ vay không đảm bảo, cần phải có phán quyết từ toà án. Phán quyết này cho phép nắm giữ và bán tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp thường thì quá trình này đi đôi với sự phá sản của một doanh nghiệp. Bù đắp tổn thất từ nguồn dự phòng, từ bảo hiểm tín dụng Tổn thất trong thanh lý tín dụng là những khoản nợ không được hoàn trả sau khi Ngân hàng đã tận thu tất cả các nguồn của người vay. Phần tổn thất này cần bù đắp để đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng được ổn định và an toàn. Các nguồn bù đắp tổn thất bao gồm: - Tiền bảo hiểm tín dụng. - Quỹ dự phòng rủi ro: quỹ này được hình thành sau khi phân loại các khoản vay trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro và được hạch toán vào chi phí hoạt động của Ngân hàng. Đây là nguồn đáng kể nhất để bù đắp những tổn thất trong hoạt động tín dụng. - Quỹ dự phòng tài chính: được trích lập bằng một tỷ lệ so với lợi nhuận còn lại trước quỹ dự phòng tài chính. Quỹ này được sử dụng để bù đắp tổn thất khi quỹ dự phòng rủi ro không đủ để bù đắp tổn thất trong thực tế. - Hạch toán vào chi phí bất thường: phần tổn thất còn lại sau khi đã bù đắp từ các nguồn kể trên sẽ được hạch toán vào chi phí thất thường của Ngân hàng. Trong một số trường hợp đặc biệt, ngân sách có thể hỗ trợ để giải quyết tổn thất. Kết Luận Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các NHTM. Trong đó tín dụng trung dài hạn đóng góp một phần không nhỏ trong lợi nhuận từ hoạt động tín dụng mang lại. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng trung dài hạn cũng là một tất yếu và có tác hại rất nặng nề đối với Ngân hàng, đối với người gửi tiền và toàn bộ nền kinh tế. Song, các NHTM có thể nhận biết được các dấu hiệu dẫn đến rủi ro, đánh giá được mức độ rủi ro mà Ngân hàng mình đang phải đối mặt và có các biện pháp để hạn chế tối thiểu rủi ro phát sinh. Có rất nhiều giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng trung dài hạn, các Ngân hàng thường tập trung vào nhóm các giải pháp như thiết lập một chính sách tín dụng chặt chẽ, khoa học, thực hiện tốt việc thẩm định toàn diện về khách hàng, về dự án vay vốn, về tài sản đảm bảo, có các biện pháp kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng một cách hiệu quả, xử lý tốt nợ quá hạn và áp dụng các công cụ phòng chống rủi ro hiện đại như chứng khoán hoá, bán nợ và các công cụ tài chính phái sinh để chủ động phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng… Chương 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc trong thời gian qua 2.1.1. Tổng quan về Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam Ngày 26/4/1957, Ngân Hàng được thành lập với tên gọi Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay Ngân Hàng mang tên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( BIDV). Qua 53 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần đắc lực cùng toàn ngành Ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công nghệ và tri thức, với hành trang là bề dày truyền thống, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tự tin hướng tới những mục tiêu và ước vọng to lớn hơn trở thành một Tập đoàn Tài chính Ngân hàng có uy tín trong nước, trong khu vực và vươn ra thế giới. Cùng với những thành tích đã đạt được, BIDV VN còn thể hiện được vai trò của một Ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu trong lĩnh vực đối ngoại. BIDV VN đã và đang mở rộng hợp tác với Ngân hàng nước ngoài, giới thiệu các sản phẩm Ngân hàng hiện đại trên thế giới vào Việt Nam. Bên cạnh đó, BIDV cũng đang áp dụng các phương thức thanh toán mới như là ứng dụng thẻ thông minh, trở thành thành viên của MASTER CARD quốc tế và VISA CARD quốc tế, là đại lý thanh toán của AMERICAN EXPRESS và JBC. BIDV còn là Ngân hàng thành viên của hệ thống thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Hiện nay, BIDV đã có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ sau: Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức kinh tế bằng VND và bằng ngoại tệ. Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND lẫn ngoại tệ. Thực hiện thanh toán xuất nhập khẩu. Chuyển tiền thanh toán trong và ngoài nước (đi và đến), nhờ thu, đổi tiền,... Kinh doanh ngoại tệ giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi, kinh doanh vàng bạc đá quý... Phát hành và thanh toán các loại thẻ và làm đại lý thanh toán các loại thẻ tín dụng quốc tế như VISA CARD, MASTER CARD và AMERICAN EXPRESS. Mở L/C thanh toán hàng nhập. Phát hành L/C trả chậm. Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng bán lẻ cho khách hàng như dịch vụ E-Banking. Ngoài ra, BIDV còn tiếp nhận và quản lý các tài sản của nhà nước và các TCTD khác nếu có yêu cầu, cho vay bán buôn các TCTD trong nước, cũng như hỗ trợ vốn cho các chi nhánh trong hệ thống khi cần. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, BIDV đã có một hệ thống tổ chức hoàn chỉnh gồm các phòng giao dịch và các chi nhánh tại các trung tâm thương mại, khu vực trên toàn địa bàn cùng đội ngũ cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động đối ngoại và quan hệ đại lý rộng khắp trên thế giới. 2.1.2. Hoạt động kinh doanh chủ yếu tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam - Chi nhánh Lò Đúc Qua nhiều năm đổi mới và tự hoàn thiện mình, hiện nay BIDV thực sự vững chắc để sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đồng thời ngày càng khẳng định mình là một Ngân hàng đứng đầu trong cả nước. Sau đây là một số điểm nổi bật trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một Ngân hàng nào, bởi vì trên cơ sở nguồn vốn huy động được Ngân hàng mới có thể thực hiện được các nghiệp vụ của mình như cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính... nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế. BIDV không nằm ngoài quy luật đó, để thực hiện được các chức năng và nhiệm vụ của mình, BIDV đã thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng của doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế vào Ngân hàng. Bảng 01: Tình hình huy động vốn tại BIDV VN năm 2006-2009 Đơn vị: triệu đồng Nguån vèn huy ®éng 2007 2008 2009 1.Néi tÖ 5,855,980 6,542,665 7,218,631 Kỳ phiếu, trái phiếu 1,497 392,783 308,583 TG cña c¸c TCKT 4,787,266 5,332,700 6,031,621 TG TK 1,067,217 828,152 878,427 2.Ngo¹i tÖ (quy VND) 1,192,944 1,928,525 2,203,843 Kỳ phiếu, trái phiếu 174,475 10,970 177,123 TG cña c¸c TCKT 315,571 1,223,247 1,295,335 TG TK 702,898 694,308 731,386 Tæng céng quy VND 7,048,924 8,471,190 9,422,475 Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh các năm từ 2006-2009 Ngoại tệ quy VND được tính theo tỷ giá do BIDV niêm yết ngày 31/12 hàng năm. Dựa vào bảng trên ta thấy, tính đến cuối tháng 12/2009 tổng nguồn vốn BIDV huy động được đạt 9,422,475 tỷ quy đồng, tăng 11,23% so với cuối năm 2008; tăng 33,67% so với năm 2007. Điều này cho thấy khả năng huy động vốn của BIDV ngày càng tăng và có hiệu quả cao qua các năm, mặc dù trong những năm qua, thị trường vốn huy động có nhiều biến động, như việc tăng chỉ số giá tiêu dùng, biến động trên thị trường tiền tệ do tác động của việc tăng lãi suất trên thị trường quốc tế, cuộc chạy đua lãi suất VND trên thị trường trong nước, đặc biệt là trong năm 2009 luôn có những biến động thất thường của giá vàng, giá bất động sản, giá chứng khoán, tỷ giá USD. Đó là nhờ các chính sách linh hoạt, việc điều hành quản trị lãi suất được thực hiện một cách năng động theo tín hiệu của thị trường, cơ chế quản lý và tập trung vốn toàn hệ thống đang từng bước phát huy hiệu quả, các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, mang tính đặc trưng của BIDV. Như vậy, trong thời gian tới BIDV cần quan tâm nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của đối tượng khách hàng TCKT có tiền gửi ngoại tệ hơn nữa, đặc biệt trong điều kiện môi trường cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng ngày càng gay gắt. 2.1.2.2. Hoạt động cho vay Nếu như hoạt động huy động vốn có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng thì hoạt động cho vay đóng vai trò sống còn của các Ngân hàng, hiện nay nghiệp vụ cho vay vẫn là hoạt động chính chủ yếu của các NHTM VN, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của NHTM, mang lại thu nhập cho Ngân hàng, quyết định sự tồn tại của các Ngân hàng. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng, BIDV đã có những chiến lược thích hợp trong việc mở rộng và tăng trưởng tín dụng, kiểm soát an toàn, chuyển dịch cơ cấu tín dụng. Bảng 02: Tổng dư nợ tín dụng của BIDV VN Đơn vị: triệu đồng Năm Dư nợ tín dụng Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng 2007 3,833,900 2008 3,521,120 -7,61% 2009 3,875,641 10,07% Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của BIDV năm 2007-2009 Từ những năm 2004 đến nay có thể thấy tuy doanh số năm sau cao hơn năm trước, nhưng lại thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ có xu hướng giảm dần. Xu hướng này nằm trong định hướng tăng cường kiểm soát rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng của toàn hệ thống BIDV, phù hợp với tốc độ tăng trưởng chậm lại của ngành và 04 NHTMNN. Nhưng đến năm 2008 dưới sự tác động của Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các NH chạy đua lãi suất, các DN không tiếp cận được với các nguồn vốn NH dẫn đến không có sự tăng trưởng tín dụng trong năm 2008. Sang đến năm 2009 tổng dư nợ của NH đạt 3,875,641 triệu đồng, tăng 10,07% so với năm 2008 cho thấy NH đã kịp thời ổn định sau cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu và dư nợ tín dụng dần tăng trưởng trở lại. Trong những năm qua công tác tín dụng từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực và phù hợp với nguồn vốn hơn. Trong công tác tín dụng, BIDV luôn đề cao việc thực hiện nghiêm túc Luật các TCTD, các quy định, quy chế của NHNN. BIDV đang từng bước cơ cấu lại hoạt động tín dụng cho phù hợp với tình hình chung và hiệu quả, mở rộng tìm kiếm cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đa dạng hoá các loại hình cho vay, phân tán rủi ro tránh tập trung tín dụng vào một loại hình doanh nghiệp. 2.1.2.3. Hoạt động khác Hoạt động thanh toán Thanh toán quốc tế là lĩnh vực kinh doanh truyền thống mà BIDV luôn duy trì và khẳng định vị thế hàng đầu trong toàn ngành. Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu cả nước liên tục tăng trưởng với tốc độ cao đã tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua BIDV (năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 22% và nhập khẩu tăng… so với năm 2008). Tính chung xuất nhập khẩu, năm 2009 BIDV đạt doanh số 22,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2008 (thấp hơn nhiều mức tăng 28% của năm 2008) và chỉ chiếm 27% thị phần cả nước, giảm 3,2% so với năm ngoái (năm 2008 thị phần thanh toán xuất nhập khẩu đạt 30,2%). Thanh toán liên Ngân hàng: Hoạt động thanh toán liên Ngân hàng đã có sự thay đổi quan trọng với việc BIDV thực sự trở thành trung tâm xử lý giao dịch VCB-MONEY của toàn hệ thống, cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử cho các đối tượng khách hàng là các định chế tài chính và các doanh nghiệp (kênh VCB-MONEY chiếm 97% giao dịch). Với việc thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ, gia tăng các tiện ích cho khách hàng sử dụng như dịch vụ báo có trực tuyến, trả lương với số lượng giao dịch không hạn chế, hệ thống bảo mật xác thực OTP, cho đến nay đã có 120 định chế tài chính và 175 tổ chức kinh tế sử dụng dịch vụ thanh toán qua kênh này. Trong năm 2009 đã thực hiện 928000 giao dịch với trị giá lên tới 332750 tỷ đồng và 21 tỷ USD. Kinh doanh thẻ Trong những năm qua, dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ của BIDV đã phát triển với tốc độ rất nhanh, tính tới cuối năm 2007 BIDV đã phát hành 20907 thẻ quốc tế, đưa tổng số thẻ quốc tế đang lưu hành đạt 72500 thẻ với tổng doanh số sử dụng thẻ đạt 1012,6 tỷ đồng, tăng 36,5% so với năm 2006. Doanh số thanh toán thẻ quốc tế năm 2009 đạt 6200 tỷ quy đồng (386,3 triệu USD), tăng 22,8% so với năm 2008. Doanh số sử dụng thẻ Connect 24 đạt mức rất cao: rút tiền mặt gần 2000 tỷ đồng/tháng (tăng 64%), chuyển khoản hơn 335 tỷ đồng/tháng (tăng 67,5%) và thực hiện các giao dịch chỉ tiêu hàng hoá dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ hơn 1,5 tỷ đồng/tháng (tăng 50%). Sự tăng trưởng vượt bậc về doanh số sử dụng dịch vụ tại ATM năm 2009 (tăng 73,3%) là kết quả trực tiếp từ việc mở rộng mạng lưới ATM (705 máy), đẩy mạnh triển khai các dịch vụ thanh toán billing với các đối tác cung cấp dịch vụ là bảo hiểm, điện lực, bưu điện, các công ty viễn thông di động. Kinh doanh ngoại tệ Trong giai đoạn 2007-2009, hoạt động kinh doanh ngoại hối của BIDV có nhiều thuận lợi: kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, nguồn kiều hối dồi dào, tỷ giá USD/VND tăng ổn định. Trong năm 2009, tổng doanh số mua bán ngoại tệ của BIDV đạt 19 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2008, doanh số mua vào đạt 8,5 tỷ USD, mua từ BIDV đạt 1 tỷ USD. Doanh số ngoại tệ bán ra đạt 9,5% tương ứng với 9,5 tỷ và hầu hết là bán cho TCKT và cá nhân, trong đó bán cho doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu chiếm 24,8%. 2.1.3. Kết quả kinh doanh Lợi nhuận trước thuế và trước trích lập dự phòng năm 2008 đạt 3600 tỷ, tăng 14,5%; Lợi nhuận sau thuế đạt 2470 tỷ, tăng 88,7% so với cuối năm 2008. Chỉ số thu nhập /tổng tài sản (ROA) của BIDV trong năm 2008 đạt 1,6%; Chỉ số thu nhập /vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 27,4%. Cơ cấu thu nhập tiếp tục có những chuyển biến tích cực theo hướng giảm tỷ trọng thu từ hoạt động tín dụng (từ 57,3% năm 2007 xuống còn 47,5% năm 2008), tăng tỷ trọng thu dịch vụ và thu khác (từ 42,7% lên 52,5% trong năm 2008). 2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng trung dài hạn tại BIDV VN 2.2.1. Hoạt động tín dụng trung dài hạn 2.2.1.1. Nguồn vốn trung dài hạn Một trong những thế mạnh của BIDV VN là tiềm lực vốn rất mạnh. Với tổng nguồn vốn huy động là 171862 tỷ quy đồng, BIDV hiện nay đang là Ngân hàng Việt Nam có tổng nguồn vốn lớn nhất. Tuy nhiên để tiến hành cấp tín dụng trung dài hạn thì BIDV không thể dùng và cũng không được phép dùng toàn bộ nguồn vốn huy động được bao gồm nguồn vốn huy động ngắn hạn và nguồn vốn huy động trung dài hạn để cho vay trung dài hạn. Theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN nguồn dùng để cho vay trung dài hạn ngoài nguồn huy động trung dài hạn thì chỉ được dùng 40% nguồn huy động ngắn hạn, do đó nguồn chính dùng để cho vay trung dài hạn là nguồn huy động trung dài hạn. Trong khi đó với những điều kiện hiện nay ở nước ta thì nguồn vốn huy động trung dài hạn chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động, đây là một khó khăn đối với bất kỳ một Ngân hàng nào cũng như BIDV VN. Bảng 03: Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn năm 2009 của BIDV VN Đơn vị: triệu đồng Nội dung 12/2008 12/2009 Tăng giảm Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Vốn huy động 8,471,190 100 9,422,475 100 951,285 11,23 Không kỳ hạn 1,900,840 22,44 1,690,346 17,93 -210,494 -11,07 kỳ hạn < 12 tháng 4,424,280 52,23 5,347,259 56._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25906.doc