Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong ngân hàng Ngân hàng Thương mại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong vài năm trở lại đây, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển rất sâu rộng. Trong đó, nổi bật lên là sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các ngân hàng thương mại. Nhưng đi kèm với sự phát triển là rủi ro trong kinh doanh NHTM ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Trong đó rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Sở dĩ vậy là do hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng, dư nợ tín dụ

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1523 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong ngân hàng Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thường chiêm một tỷ lệ lớn trong tổng tài sản và tạo ra một phần không nhỏ nguồn thu cho ngân hàng. Do vậy, rủi ro tín dụng được đề cập rất nhiều trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Từ thực trạng của rủi ro tín dụng NHTM Việt Nam hiện nay, đề tài của chúng em nhằm phân tích nguyên nhân, từ đó đề ra giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất, nâng cao khả năng sinh lời của NHTM. Đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá và Việt Nam gia nhập WTO như hiện nay. Bài nghiên cứu của chúng em gồm ba phần: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng trong NHTM. 1.Hoạt động tín dụng trong NHTM 2.Rủi ro tín dụng trong NHTM. Chương 2. Rủi ro tín dụng trong NHTM Việt Nam. 1. Thực trạng rủi ro tín dụng trong NHTM Việt Nam. 2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM nước ta hiện nay. Chương 3. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong NHTM Việt Nam. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NHTM. 1. Khái quát về hoạt động tín dụng ngân hàng. 1.1. Khái niệm tín dụng. Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian tài chính khác), ví dụ như tín dụng ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Như vậy, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng dựa trên cơ sở tín nhiệm, với điều kiện khách hàng cam kết trả cho ngân hàng khoản tiền tại một thời điểm nhất định trong tương lai. Đó là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang người sử dụng (người vay – khách hàng) sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lúc đầu. Với tư cách là người cho vay, các NHTM có quyền yêu cầu khách hàng của mình - người đi vay muốn vay được vốn phải tuân thủ những điều kiện nhất định, những điều kiện này là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo cho người vay có thể thu hồi được vốn sau một thời gian nhất định. Để thu hồi được vốn các ngân hàng có quyền yêu cầu người đi vay đáp ứng những điều kiện vay cụ thể dựa trên mức độ tín nhiệm giữa ngân hàng và khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng,chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Thực tế cho thấy, đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm hơn 1/2 tổng tài sản và có thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 – 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Với ý nghĩa như trên, khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân chủ yếu thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng luôn là đối tượng kiểm tra trước hết của các cán bộ thanh tra ngân hàng. Qua đó đánh giá được chính sách tín dụng của ngân hàng nhằm đảm bảo lành mạnh và hiệu quả hoạt động tín dụng góp phần bảo vệ những người gửi tiền và các cổ đông của ngân hàng. . Để đảm bảo cho ngân hàng có thể duy trì và phát triển vững chắc, đòi hỏi hoạt động tín dụng của NHTM phải an toàn, hiệu quả. Muốn vậy, các khâu của hoạt động tín dụng phải được thực hiện một cách trôi chảy theo những nguyên tắc nhất định. 1.2. Các loại tín dụng ngân hàng. Để mở rộng và nâng cao hoạt động tín dụng, các ngân hàng phải không ngừng đa dạng hóa các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Để có cái nhìn tổng quát về các loại tín dụng, người ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau: . Phân loại theo thời hạn tín dụng. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được chia thành: Tín dụng ngắn hạn: thời hạn từ 12 tháng trở xuống, Tín dụng trung hạn: thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, Tín dụng dài hạn: thời hạn từ trên 5 năm. . Phân chia theo loại tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Theo cách này, tín dụng có thể được chia thành: Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cấm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba. Tín dụng này có thể cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay… Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba. . Phân loại tín dụng theo rủi ro. Phân loại tín dụng theo rủi ro là cách phân loại giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập quỹ dự phòng tổn thất kịp thời. Tín dụng được chia thành: Tín dụng lành mạnh: Là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. Tín dụng có vấn đế: Là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh, như khách hàng chậm tiêu thụ, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… . Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay. Theo mục đích tín dụng được chia thành: Tín dụng bất động sản: Là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản, gồm tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai; tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài. Tín dụng công thương nghiệp: Là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mua nguyên vật liệu, trả thuế, và chi trả lương. Tín dụng nông nghiệp: Là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc. Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong nhà… Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Các cách phân loại trên cho thấy tính chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của ngân hàng, qua đó cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi của các lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. 2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM. 2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng: Có nhiều cách tiếp cận về rủi ro dưới nhiều giác độ khác nhau và thống nhất ở quan điểm: ”rủi ro là khả năng có thể xảy ra các biến cố không lường trước và thường gây ra các hậu quả xấu” rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ. thường thì những hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu thuẫn này luôn tồn tại. Do vậy muốn có lợi nhuận càng cao thì cần phải chấp nhận rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp hạn chế, phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra. Là một đơn vị hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thương mại phải thường xuyên đối mặt với nhiều loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản… Trong điều kiện hiện nay, tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng và đồng thời rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Sở dĩ vậy là vì dư nợ tín dụng thường chiếm một tỷ lệ lớn giá trị tổng tài sản và tạo ra một phần không nhỏ nguồn thu của ngân hàng. Do vậy rủi ro tín dụng cũng được đề cập đến rất nhiều trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Theo quyết định 493/2005/QĐ- NHNN của ngân hàng nhà nước Việt Nam thì: “rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động của ngân hàng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Rủi ro tín dụng được hiểu một cách đơn giản là một khả năng trong tương lai người đi vay ngân hàng hoặc người cho vay thất bại trong việc thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Như vậy rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay vốn không thanh toán được tiền lãi hoặc vốn gốc hoặc cả hai. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cho thuê tài chính… Rủi ro tín dụng là một tất yếu mà các ngân hàng không thể loại bỏ hoàn toàn ra khỏi hoạt động tín dụng của mình, họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại của rủi ro và cố gắng tìm mọi phương thức để có thể hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng, đặc biệt là khi thế giới đang tiến tới giai đoạn toàn cầu hoá, các hoạt động của ngân hàng trở nên đa dạng và không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn hướng ra thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, các hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro hơn, vì vậy vấn đề đặt ra là cần có một phương thức quản trị rủi ro hiệu quả. 2.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng trong NHTM. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, những rủi ro này phát sinh do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, từ cả phía khách hàng và ngân hàng. 2.2.1. Nguyên nhân thuộc về khách hàng: Nguyên nhân chủ quan: Đó là những nguyên nhân phát sinh liên quan đến hành vi và ý chí chủ quan của khách hàng. Do người vay có trình độ yếu kém trong việc dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý dẫn đến việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng tới khả năng trả nợ. Có nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, họ hiểu rằng ngân hàng sẽ không chấp nhận cho vay những dự án mạo hiểm vì một trong những nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là an toàn, do vậy họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó nới ngân hàng như cung cấp các thông tin sai, mua chuộc cán bộ ngân hàng… Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Đặc biệt có trường hợp người vay kinh doanh có lãi song không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng quỵt nợ hoặc sử dụng vốn ngân hàng càng lâu càng tốt. Nói chung những nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân do khách hàng tạo ra và nó nằm trong tầm kiểm soát của khách hàng. Nguyên nhân khách quan: Rủi ro tín dụng có thể do khách hàng gặp phải những thay đổi môi trường kinh doanh không thể lường trước được. Những nguyên nhân bất khả kháng này tác động tới người vay làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, chẳng hạn như chiến tranh, thiên tai, những thay đổi tầm vĩ mô như chính sách của Chính phủ, hàng rào thuế quan… khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, tài chính không thể khắc phục được. Những thay đổi thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay. Nhiều người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho khách hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. Nói chung, những nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân không do khách hàng tạo ra, nó nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng. 2.2.2. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng. Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng thậm chí là nhiều quốc gia. Để cho vay tốt họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu hết về khách hàng thì rủi ro tín dụng luôn rình rập họ, do quá trình phân tích và thẩm định tín dụng không kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết định cho vay. Mặt khác, cũng có thể quyết định cho vay đúng đắn nhưng do thiếu kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn không phát hiện để ngăn chặn kịp thời. Trong hoạt động của ngân hàng, rủi ro giao dịch có thể phát sinh do sai sót ở các khâu đánh giá, thẩm định và xét duyệt khi cho vay, hoặc phát sinh do thiếu chặt chẽ ở khâu theo dõi, kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay, hoặc phát sinh do sơ hở ở khâu bảo đảm và những cam kết ràng buộc trong hợp đồng tín dụng. Còn rủi ro danh mục tín dụng có thể phát sinh do thiếu đa dạng hóa danh mục tín dụng. Chẳng hạn do cạnh tranh lãi suất khiến ngân hàng tăng lãi suất huy động, làm cho lãi suất cho vay tăng theo. Kết quả là, các dự án có mức rủi ro thấp, do đó suất sinh lời thấp bị đánh bật ra, chỉ còn các dự án có suất sinh lời cao kèm theo rủi ro cao mới vay được vốn ngân hàng. Tình hình này khiến cho danh mục tín dụng của ngân hàng thiếu đa dạng hóa mà chỉ tập trung vào các dự án có rủi ro cao. Mặt khác, sống trong môi trường hiện nay, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng, chấp nhận những thông tin sai do khách hàng cung cấp… từ đó cấp những khoản cho vay chứa đầy rủi ro. Như vậy, về phía ngân hàng, chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng. 2.3. Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng thường ẩn chứa trong “các khoản cho vay có vấn đề” được biểu hiện bằng nhiều dấu hiệu. Qua thực tiễn hoạt động tín dụng, người ta đã đúc rút được một số dấu hiệu để chỉ khó khăn tài chính của người vay và nó có vai trò cảnh báo đối với càn bộ tín dụng, đó là: Việc trì hoãn nộp các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính giúp cho ngân hàng hiểu được tình trạng hoạt động kinh doanh của khách hàng, cho thấy khả năng hoàn trả các khoản nợ. Việc trì hoãn nộp các báo cáo tài chính, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nhìn chung tình hình hoạt động đã có dấu hiệu không bình thường, hơn nữa, người vay thường không muốn để cho ngân hàng biết sớm tình hình tài chính của mình đang sút kém, sẽ gây khó khăn trong việc vay vốn của khách hàng. Mối quan hệ giữa người vay và ngân hàng thay đổi như chậm chễ trong việc sắp xếp những cuộc kiểm tra về việc sử dụng vốn vay tại doanh nghiệp, làm suy giảm độ tin cậy và hợp tác giữa đội ngũ cán bộ ngân hàng và người vay vốn có từ lâu. Hàng tồn kho tăng lên quá mức bình thường và các khoản công nợ cũng gia tăng. Hàng tồn kho tăng cho thấy quá trình sản xuất tiêu thụ diễn ra không bình thường, doanh số giảm sút và thu nhập cùng với các khoản công nợ gia tăng, điều đó cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm sút. Chất lượng sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, khách hàng không còn tín nhiệm như trước nữa, dẫn đến doanh nghiệp phải bán hàng với thời hạn trả tiền dài hơn, hoặc bán cả cho doanh nghiệp yếu kém về tài chính, khả năng thanh toán thấp. Hoàn trả nợ vay không đúng hạn, lãi vay không thanh toán theo định kỳ. Thay đổi tổ chức, công nhân nghỉ việc, bán các tài sản. Các thảm họa về thiên nhiên như: bão lụt, hỏa hoạn… Như vậy, có thể thấy dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là chậm thanh toán các khoản cho vay, còn các dấu hiệu khác cho thấy điều kiện kinh tế không thuận lợi dẫn đến làm suy yếu các khoản nợ vay. Khi các dấu hiệu nguy hiểm phản ánh một khoản vay có thể có vấn đề thì biện pháp đầu tiên mà các cán bộ tín dụng phải thực hiện là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề bằng các biện pháp thích hợp. Để hoàn tất công việc này đòi hỏi phải có thêm thông tin từ các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động kinh doanh, các cuộc thảo luận với khách hàng và cần có sự cộng tác của khách hàng. 2.4. Tác động của rủi ro tín dụng. 2.4.1. Đối với ngân hàng. Rủi ro làm suy giảm uy tín của ngân hàng: Một ngân hàng có rủi ro lớn là một ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Tình hình đó sẽ nhanh chóng được dân chúng biết đến và họ sẽ thiếu lòng tin vào ngân hàng, dân chúng sẽ hạn chế gửi tiền vào ngân hàng vì có mức độ rủi ro cao. Do vậy, ngân hàng khó có thể huy động được nguồn vốn dồi dào. Đồng thời các ngân hàng khác trong và ngoài nước cũng vì thế mà không cấp các hạn mức tín dụng, mở quan hệ đại lý… Rủi ro làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút: Các khoản tín dụng có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kì hạn. Trong khi đó, ngân hàng lại không huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên, kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán. Rủi ro làm lợi nhuận suy giảm: Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng không thu được lãi, thậm chí còn mất một phần hoặc toàn bộ gốc, đưa đến những mất mát, thiệt hại về tài chính. Thêm vào đó, quá trình mở rộng hoạt động gặp khó khăn, bế tắc, thu nhập thấp, kết quả là làm lợi nhuận giảm xuống. Rủi ro có thể dẫn tới phá sản ngân hàng: Khi rủi ro xảy ra, sẽ tác động tới ngân hàng trên 3 phương diện nêu trên, nếu không được ngăn chặn và khi phát triển đến một mức độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng đến phá sản. Như vậy có thể có thể thấy rủi ro tín dụng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng muốn đạt được lợi nhuận cao và ổn định cần phải có chính sách quản lý rủi ro tín dụng hợp lý.2.4.2. Đối với nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế như hoạt động của các doanh nghiệp, các ngành, các cá nhân. Vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản sẽ tạo ra tâm lý hoang mang trong những người gửi tiền, họ ồ ạt kéo đến ngân hàng rút tiền, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Sự hoảng loạn ngân hàng làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội bất ổn định. Ngoài ra rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 3. Các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng Với sự phát triển mạnh mẽ của các NHTM như hiện nay, quy mô tín dụng rất lớn đồng thời cũng rất phức tạp, các NHTM để đảm bảo giảm thiểu rủi ro tín dụng đã sử dụng rất nhiều mô hình đánh giá và phân tích rủi ro tín dụng. Các mô hình này phản ánh cả về mặt định lượng và định tính. 3.1. Mô hình định tính về rủi ro tín dụng: Với mô hình này các nhà tín dụng sẽ phải quan tâm đến các vấn đề: Phân tích tín dụng Kiểm tra tín dụng Xử lý tín dụng có vấn đề Các chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng 3.1.1. Phân tích tín dụng: Đối với mỗi đơn xin vay, cán bộ tín dụng cần phải quan tâm đến 3 vấn đề sau: Người xin vay, họ là ai Hợp đồng tín dụng có được kí kết một cách đúng đắn, hợp lệ Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có thể thu hồi nợ nhanh chóng không? 3.1.1.1. Người đi vay có đáng tin cậy không? Để trả lời câu hỏi này, cán bộ tín dụng cần nghiên cứu các vấn đề sau: Tư cách người vay: Cán bộ tín dụng cần phải làm rõ ràng mục đích tín dụng, liệu mục đích đó có rõ ràng và phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành hay không. Ngoài ra, tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, trung thực, cố gắng hết sức để trả nợ của khách hàng cần được cán bộ tín dụng xác định. Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay phải có đủ năng lực, hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng ở hầu hết các nước. Người trên 18 tuổi mới có đủ năng lực hành vi. Và đối với những người ký đại diện cho công ty, tổ chức phải là người được ủy quyền hợp pháp. Thu nhập của người vay: Liên quan đến việc người vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ không? Nhìn chung, hầu hết người vay đều có khả năng thanh toán các khoản nợ thông qua luồng tiền từ doanh thu bán hàng, bán thanh lý tài sản , tiền từ phát hành cổ phiếu hay trái phiếu . Nhưng ngân hàng luôn ưu tiên dòng tiền từ doanh thu bán hàng. Để đánh giá các luồng tiền trên thì cán bộ tín dụng cần đặt ra những câu hỏi như “doanh thu tăng trưởng cao trong quá khứ là rõ ràng và chắc chắn? Liệu mức tăng trưởng cao có duy trì trả nợ được không?” Tất cả sẽ được trả lời khi nhìn vào doanh thu trong quá khứ và thu nhập hiện hành. Bảo đảm tiền vay: Những tài sản mà khách hàng muốn làm tài sản bảo đảm cần phải thỏa mãn các yêu cầu về tuổi thọ, điều kiện, mức độ sử dụng thường xuyên của khách hàng. Đặc biệt là công nghệ, vì nếu tài sản của người vay có công nghệ lạc hậu thì giá trị giảm rất nhanh, khó tìm được phụ tùng thay thế hoặc người mua. Các điều kiện khác: Xu hướng hiện hàn và công việc kinh doanh, ngành nghề kinh doanh. Điều kiện kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng thế nào đến khoản tín dụng như: lạm phát, suy thoái, tỷ giá hối đoái,… Ngân hàng cần lưu các file dữ liệu, thong tin, bao gồm các bài báo, tạp chí, báo cáo, nghiên cứu có liên quan. Kiểm soát: Để ý đến những thay đổi trong luật pháp, quy chế có ảnh hưởng đến việc cho vay? Yêu cầu tín dụng có đáp ứng được tiêu chuẩn về chất lượng tín dụng? 3.1.1.2. Hợp đồng tín dụng: Sau khi đánh giá xem người vay có đủ tư cách để vay không thì cán bộ tín dụng bước tiếp theo là phải xem xét hợp đồng tín dụng có rõ ràng và hợp lệ không, đáp ứng được yêu cầu của người vay và cho vay không? Trước hết là nội dung của hợp đồng, hợp đồng phải đáp ứng được số vốn mà khách hàng muốn vay và lịch trả nợ sao cho khách hàng có thể trả đúng lịch, giảm thiểu rủi ro khách hàng không trả được nợ hoặc trả chậm dẫn đến rắc rối cho ngân hàng trước những người gửi tiền. Nếu người vay xin vay một số vốn quá lớn hay quá nhỏ so với thực tế họ cần hoặc là thời hạn vay lớn hơn hay nhỏ hơn so với thực tế yêu cầu thì việc dùng vốn của Ngân hàng sẽ không hiệu quả. Chính vì vậy, cán bộ tín dụng phải có khả năng cố vấn tài chính cho khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thành đơn xin vay. Nhằm bảo đảm các khoản cho vay, Ngân hàng phải đưa ra một số điều khoản nhằm giới hạn hoạt động sử dụng tiền vay của khách hàng. Ngoài ra, trong hợp đồng cũng cần ghi quá trình cưỡng chế thu hồi nợ vay. 3.1.1.3. Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tải sản bảo đảm không? Lý do để nhận bảo đảm tín dụng: Những khách hàng có hệ số tín nhiệm cao thường không yêu cầu có tài sản bảo đảm, nhưng đối với khách hàng khác phải có biện pháp bảo đảm tín dụng như cầm cố, thế chấp tài sản hay bảo lãnh trả nợ. Khi nhận bảo đảm tín dụng, Ngân hàng phải xác định rõ ràng và chính xác những tài sản nào là đối tượng có thể gán nợ và có thể bán được, đồng thời phải chứng minh cho các chủ nợ khác biết rằng mình là người hợp pháp có quyền chiếm đoạt tài sản nếu như người vay không trả được nợ. Khi đã nhận tài sản thế chấp, Ngân hàng sẽ có vị thế ưu tiên trong việc nhận gán nợ so với các chủ nợ khác và ngay cả với chủ sở hữu. Các loại bảo đảm tín dụng thông thường: Tài khoản phải thu: Ngan hàng thường nhận bảo đảm tín dụng bằng việc quy định tỷ lệ % (40% – 90%) giá trị của tài khoản phải thu (bán hàng chịu hay tín dụng thương mại) theo số liệu trên bảng cân đối tài chính của khách hàng. Bao thanh toán: Ngân hàng sẽ mua lại khoản phải thu của người vay theo tỷ lệ %quy định theo giá trị ghi sổ. Khách hàng của người vay sẽ chuyển giao quyền trực tiếp chuyển tiền sang cho Ngân hàng. Thông thường, người vay sẽ bù đắp cho Ngân hàng những khoản tiền phải thu nhưng không thu được. Hàng tồn kho: Ngân hàng có thể nhận hàng tồn kho, vật tư, nguyên liệu của người vay làm tài sản cầm cố. Thông thường, Ngân hàng chỉ cho vay một tỷ lệ nhất định (30% - 80%) trên giá trị thị trường hiện hành của tài sản cầm cố, nhằm phòng ngừa hàng hóa giảm giá. Thế chấp tài sản cố định: Các Ngân hàng cũng chấp nhận bảo đảm tín dụng bằng tài sản cố định. Bảo lãnh của bên thứ ba: Trong trường hợp người vay không có tài sản bảo đảm tín dụng thì phải có một bên thứ ba đứng ra bảo lãnh. Bảo lãnh làviệc bên thứ ba cam kết với bên cho vay là sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay nếu người vay không trả được nợ. Bảo lãnh có thể có bảo đảm bằng tài sản hoặc uy tín. Kiểm tra tín dụng: Sau khi phân tích tín dụng xong, người vay đã nhận được khoản vay. Ngân hàng thương mại không thể ngồi chờ đến hạn trả nợ để đi đòi nợ được, như vậy thật là nguy hiểm. Các khoản tín dụng dù đã được phân tích tốt đến mấy thì cũng không thể chắc chắn là sẽ không có rủi ro được. Rủi ro của khoản tài khoản tín dụng có thể do các nguyên nhân khách quan như nền kinh tế có biến động lớn làm suy yếu công ty, bệnh hiểm nghèo làm cho người vay không thể trả nợ cho công ty… hoặc các nguyên nhân chủ quan như người đi vay không sử dụng khoản tín dụng đúng mục đích ghi trong hợp đồng do có một mối làm ăn rủi ro cao nhưng lợi nhuận nhiều… Chính vì vậy, cán bộ tín dụng phải định kỳ kiểm tra các khoản tín dụng cho đến khi chúng đến hạn. Các nguyên lý chung thường được áp dụng tại các Ngân hàng gồm: Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định. Đối với các khoản tín dụng lớn phải thường xuyên hơn. Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra: thận trọng, chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất phải được kiểm tra: Kế hoạnh trả nợ. Chất lượng và điều kiện của tài sản bảo đảm. Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng. Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay. Đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của Ngân hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra. Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn. Quản lý chặt và thường xuyên đối với khoản tín dụng có vấn đề, kiểm tra dấu hiệu không lành mạnh. Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi xuống và những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện xấu (ví dụ: xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, áp dụng công nghệ mới.) Kiểm tra tín dụng là rất cần thiết để làm cho tín dụng của ngân hàng được đảm bảo. Giúp cho quản lý nhận ra vấn đề một cách nhanh chóng và còn có tác dụng kiểm tra cán bộ tín dụng có chấp hành chính sách cho vay một cách đúng đắn không? Vì vậy, để tăng tính khách quan của công tác kiểm tra tín dụng hầu hết các ngân hàng lớn đều thiết lập phòng “kiểm tra tín dụng” độc lập với “phòng tín dụng”. 3.1.3. Xử lý tín dụng có vấn đề: Ngân hàng đã xây dựng một cơ chế đảm bảo an toàn tín dụng song điều không thể tránh khỏi là một số khoản tín dụng có vấn đề. Đó là những khoản mà người vay không thể trả nợ đúng hạn, tài sản bảo đảm giảm giá đáng kể. Vậy, ngân hàng cần cố gắng thu hồi các khoản tín dụng có vấn đề theo một số bước như sau: Tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi đầy đủ nợ cho vay. Nhanh chóng khám phá, báo cáo kịp thời mọi vấn đề liên quan đến tín dụng Xử lý tín dụng phải độc lập với trách nhiệm cho vay. Chuyên gia tín dụng cần hội ý khẩn với khách hàng về các giải pháp có thể. Dự tính những nguồn có thể dùng để thu nợ có vấn đề. (Nguồn từ thanh lý tài sản và số dư tiền gửi tại ngân hàng) Tiến hành nghiên cứu thuế và những tranh chấp xem khách hàng còn tài chính nào chưa thực hiện Đối với doanh nghiệp cần đánh giá chất lượng, năng lực, nhất quán trong quản lý, trực tiếp tiến hành khảo sát các hoạt động, tài sản của doanh nghiệp. Rõ ràng, giải pháp tối ưu là phải đảm bảo thu hồi nợ, đồng thời tạo cơ hội cho Ngân hàng không có thể duy trì hoạt động bình thường. 3.1.4. Hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng: Hệ thống chỉ tiêu tài chính dung để phân tích, đánh giá tín dụng bao gồm: Nhóm chỉ tiêu thanh khoản Nhóm chỉ tiêu hoạt động Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời 3.1.4.1. Nhóm chỉ tiêu thanh khoản: Chỉ tiêu thanh toán nhanh,tức thời: đo lường khả năng chuyển tài sản lưu động thành tiền một cách nhanh chóng Chỉ tiêu thanh toán tức thời = Các tài sản lưu động chuyển thành tiền tức thời Nợ ngắn hạn Nếu chỉ tiêu thanh toán tức thời càng cao thì doanh nghiệp có khả năng chi trả nợ tức thời càng lớn. Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn: Đo lường khả năng thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn = Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc chuyển đổi tài sản lưu động thành tiền để trả các khoản nợ ngắn hạn Chỉ tiêu>1: khả năng thanh toán đảm bảo Chỉ tiêu<1: doanh nghiệp dễ gặp khó khăn trong trả nợ ngắn hạn đúng hạn Chỉ tiêu vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn 3.1.4.2. Nhóm chỉ tiêu hoạt động: Đo lường mức độ hiệu quả trong công việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Có 3 chỉ tiêu chính: Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho = Doanh th._.u hàng năm Hàng tồn kho bình quân Nếu vòng quay hàng tồn kho quá cao thì có thể doanh nghiệp đã dự trữ một mức hàng tồn kho quá ít. Việc này có thể không tốt vì doanh nghiệp không đủ hàng hóa cho hoạt động kinh doanh hoặc sẽ mất khách hàng vì dự trữ không có sẵn. Nếu chỉ tiêu này quá thấp thì cũng là không tốt vì có thể doanh nghiệp đã mua quá mức hay sản xuất ra mà không bán được. Kỳ thu nợ bình quân: phản ánh số ngày bình quân mà công ty phải chờ đợi kể từ khi bán hàng chịu cho đến khi thu được tiền Kỳ thu nợ bình quân = Tài khoản phải thu bình quân Doanh số bán chịu hàng ngày bình quân Vòng quay tổng tài sản: Vòng quay tổng tài sản = Doanh thu năm Tổng tài sản Chỉ tiêu phản ánh năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng tổng tài sản để tạo doanh thu. Nếu doanh thu càng cao thì càng có lợi thế 3.1.4.3. Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy: Phản ánh quy mô nợ so với vốn cổ phần của doanh nghiệp đồng thời phản ánh khả năng hoàn trả các khoản nợ của doanh nghiệp trong dài hạn Tỷ số nợ trên tổng tài sản: Tỷ số nợ = Tổng dư nợ Tổng tài sản Tỷ số nợ (hệ số đòn bẩy) càng cao thì doanh nghiệp đi vay càng nhiều.Những doanh nghiệp có hệ số đòn bẩy quá cao so với ngành hoạt động kinh doanh sẽ được đảm bảo an toàn bằng doanh nghiệp sử dụng vốn chủ nhà Khả năng trả tiền lãi vay: Khả năng trả tiền lãi vay = Lợi nhuận trước khi trả thuế và vay lãi Chi phí lãi tiền vay Trong nhiều trường hợp,chỉ tiêu này được sử dụng nhiều hơn so với hệ số đòn bẩy trong đo lường rủi ro tài chính,bởi nó là thước đo chính xác về khả năng thanh toán lãi nợ vay và tránh những khó khăn tài chính trong tương lai của doanh nghiệp. 3.1.4.4. Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời: Đánh giá tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) ROE = Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu Phản ánh tính hiệu quả trong việc sử dụng một đồng vốn sở hữu. Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA) ROA= Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Phản ánh trong việc sử dụng tổng tài sản của doanh nghiệp Tóm lại, các ngân hàng luôn mong muốn cho khách hàng vay thật nhiều vì thu nhập chính của ngân hàng là từ các khoản tín dụng nhưng với những khoản tín dụng xấu sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng . Vì thế, chất lượng tín dụng luôn được ngân hàng đặt lên hàng đầu.Các ngân hàng hiện nay đã xây dựng cho mình một “chính sách tín dụng” và “Quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng” phù hợp. 3.2. Các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng Trước đây hầu hết các ngân hàng chỉ dựa trên duy nhất vào phương pháp định tính song rất mất thời gian, tốn kém,mang tính chủ quan. Ngày nay một số ngân hàng đã sử dụng một số mô hình lượng hóa vừa nhanh chóng bớt tính chủ quan và thỏa mãn với tính phức tạp ngày càng cao của tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hóa rủi ro cơ bản: 3.2.1. Mô hình điểm số Z: Mô hình này dùng để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ phụ thuộc vào: Các chỉ tiêu tài chính của người vay(Xj). Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Mô hình: Z= 1,2X1 +1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5 X1 = vốn lưu động ròng X2= Lợi nhuận giữ lại Tổng tài sản Tổng tài sản X3= Lợi nhuận trước thuế Tổng tài sản X4= Thị giá cổ phiếu X5=Doanh thu Giá trị ghi số của nợ dài hạn Tổng tài sản Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Z thấp hay âm, khách hàng sẽ bị xếp vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao Các công ty có Z<1,81 được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao và ngân hàng sẽ không cấp tín dụng Hạn chế: Mô hình chỉ cho phép phân loại khách hàng thành vỡ nợ hoặc không vỡ nợ.Tức là các khách hàng chưa được phân chia chính xác theo nhiều mứa độ khác nhau. Không giải thích được sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số theo thời gian.Ngoài ra, các biến số Xj cũng không phải là bất biến và không phải là hoàn toàn độc lập với nhau. Không đề cập tới một số nhân tố quan trọng không thể lượng hóa được. VD: danh tiếng,mối quan hệ truyền thống,….. 3.2.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng: Mô hình này đang được các NHTM sử dụng để cho điểm tín dụng tiêu dùng đối với khách hàng. Các yếu tố để đánh giá là hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Sau đây là những hạng mục và điểm thường được sử dụng ở các Ngân hàng Mỹ. Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng 1. Nghề nghiệp của người vay: chuyên gia hay phụ trách kinh doanh-công nhân có kinh nghiệm- nhân viên văn phòng-sinh viên-công nhân không có kinh nghiệm- công nhân bán thất nghiệp: 10 - 8 - 7 - 5 - 4 - 2 2. Trạng thái nhà ở: nhà riêng-nhà thuê hay căn hộ-sống cùng bạn hay người thân: 6-4-2 3. Xếp hạng tín dụng: tốt -trung bình-không có hồ sơ- tồi: 10-5-2-0 4. Kinh nghiệm nghề nghiệp: nhiều hơn 1 năm-từ 1 năm trở xuống: 5-2 5. Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành: nhiều hơn 1 năm- từ 1 năm trở xuống: 2 - 1 6. Điện thoại cố định: có – không có: 2-0 7. Số người sống cùng: không- một- hai- ba-nhiều hơn ba: 3 - 3- 4 - 4 - 2 8. Các tài khoản tại ngân hang: cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc-chỉ tài khoản tiết kiệm - chỉ tài khoản phát hành séc - không có: 4-3-2-0 Khách hàng có điểm số cao nhất là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử Ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm như sau: Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng 29 – 30 điểm Cho vay đến 500$ 31 – 33 điểm Cho vay đến 1000$ 34 – 36 điểm Cho vay đến 2500$ 37 – 38 điểm Cho vay đến 3500$ 39 – 40 điểm Cho vay đến 5000$ 41 – 43 điểm Cho vay đến 8000$ Ưu điểm: Mô hình được thực hiện nhờ vào phần mềm tin học , vì vậy đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng cho ngân hàng. Nhược điểm: Không tự điều chỉnh để thích ứng với thay đổi trên thị trường và trong cuộc sống gia đình. Trên đây là một số mô hình mà các NHTM hay dùng hiện nay, mỗi ngân hàng phải chọn cho mình những mô hình phù hợp với đăc điểm tình hình hoạt động của ngân hàng sao cho đạt được hiệu quả tối ưu nhất. Ngược lại, sử dụng những mô hình không phù hợp sẽ đe dọa đến chương trình tín dụng của ngân hàng, bỏ xót những khách hàng tốt, gây mất lòng tin vào ngân hàng. 4. Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại. 4.1. Khái niệm về quản lý rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến, cho nên hậu quả khó lường trước. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần phải quan tâm tới rủi ro quản lý rủi ro tín dụng, đó là toàn bộ quá trình kiểm tra, giám sát, phòng ngừa liên tục, bắt đầu từ khâu thẩm định, đánh giá khách hàng cũng như khoản vay của khách hàng trước khi có quyết định cho vay, đến giải ngân, theo dõi các biện pháp xử lý những khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Như vậy, hoạt động quản lý rủi ro tín dụng nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động tín dụng của ngân hàng không phải gánh chịu rủi ro hoặc hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. 4.2. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng: Quản trị rủi ro tín dụng là để tối đa hóa tỷ suất thu nhập đã được điều chỉnh bởi rủi ro hoặc giảm tối thiểu sai biệt giữa mức sinh lời thực tế và kỳ vọng; hay nói cách khác mức độ rủi ro hay tổn thất tín dụng ở mức ngân hàng cho là hợp lý, được kiểm soát và trong nguồn lực tài chính của họ. Các ngân hàng phải quản lý rủi ro vốn có, hiện hữu các danh mục đầu tư cũng như trong từng khoản vay, từng hoạt động kinh doanh riêng lẻ. Các ngân hàng cũng cần xem xét rủi ro tín dụng trong mối tương quan với các loại rủi ro khác. Quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả là điều kiện thiết yếu để quản trị rủi ro ngân hàng nói chung và thật sự cần thiết cho sự thành công của ngân hàng. 4.3. Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng: Quản lý rủi ro tín dụng dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: 4.3.1. Nguyên tắc chấp nhận rủi ro: Các nhà quản lý cần phải chấp nhận rủi ro ở mức cho phép nếu như muốn có được thu nhập phù hợp từ hoạt động tín dụng của mình. Bởi việc loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng là điều không thể, trừ phi ngân hàng không cho vay đối với bất kỳ khách hàng nào. Do đó, nguyên tắc đầu tiên trong quản lý rủi ro tín dụng là phải nhận biết được rủi ro cho phép. Việc chấp nhận mức độ rủi ro tín dụng là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản lý rủi ro. 4.3.2. Nguyên tắc điều hành rủi ro ở mức cho phép: Nguyên tắc này đòi hỏi phần lớn rủi ro tín dụng trong mức cho phép phải được điều chỉnh sao cho hạn chế nó ở mức tối thiểu. Theo nguyên tắc chấp nhận rủi ro, rất khó hoặc hầu như không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, do đó nguyên tắc này đòi hỏi các nhà quản lý hạn chế rủi ro tín dụng ở mức tối đa. 4.3.3. Nguyên tắc quản lý độc lập rủi ro tín dụng với các loại rủi ro khác trong ngân hàng: Nhìn chung, sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác nhau gây ra là khá độc lập nhau nên quá trình quản lý chúng phải được điều tiết cách biệt, không thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra cùng một phương án điều hành. 4.3.4. Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: Hệ thống quản lý rủi ro tín dụng cần phải dựa trên những nền tảng, những tiêu chí chung của chiến lược phát triển ngân hàng cũng như các chính sách điều hành các hoạt động của ngân hàng. Trên đây là bốn nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng cơ bản để từ đó ngân hàng xây dựng một chính sách quản lý rủi ro tín dụng riêng biệt. Chính sách quản lý rủi ro của ngân hàng, đặc biệt là chính sách quản lý rủi ro tín dụng phải được xem là một phần trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng. 4.4. Các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng: Tín dụng là hoạt động chính của ngân hàng. Quản lý tín dụng tốt sẽ góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị ngân hàng. Ngược lại, quản lý tín dụng yếu kém có thể gây ra tổn thất lớn và làm giảm giá trị của ngân hàng. Do vậy, ngân hàng cần có các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả. 4.4.1. Xác định mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng hợp lý: Biện pháp trước hết trong công tác quản lý rủi ro tín dụng là xác định mục tiêu và thiết lập chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng được xây dựng khoa học, cẩn thận thông suốt từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh. Một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn là điều kiện thiết yếu để quản trị tốt rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng tốt phải được xây dựng dựa trên những nguyên tắc tín dụng thích hợp với những thay đổi của các nhân tố và môi trường kinh tế. Do vậy, cán bộ ngân hàng cần xác định được khoản vay nào nên cho vay, áp dụng loại sản phẩm nào, cho ai vay và với những điều kiện như thế nào. Chính sách tín dụng tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng khoản vay. Mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng là giảm thiểu rủi ro tín dụng, cụ thể là giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức thấp nhất có thể được. Các ngân hàng thương mại cần theo dõi sát sao và thường xuyên báo cáo với hội đồng quản trị về chỉ tiêu này. Thông thường đối với các ngân hàng thương mại, quản lý tín dụng tốt, có tỷ lệ nợ quá hạn thường xoay quanh mức 1%. Để đạt mục tiêu quản lý tín dụng đề ra, các ngân hàng cần thiết lập cho mình chính sách tín dụng phù hợp. Đó chính là hệ thống các quan điểm và công cụ do hội đồng tín dụng đề ra và thực thi khi xem xét cấp tín dụng cho khách hàng nhằm mục tiêu quản lý tốt dư nợ và rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng nói chung có hai kiểu chính sách: mở rộng và thắt chặt và được thực hiện thông qua các công cụ như lãi suất, tỷ lệ tham gia vốn của ngân hàng và tiêu chuẩn xét duyệt cấp tín dụng. Chính sách tín dụng mở rộng được thể hiện ở những nội dung sau: Lãi suất cho vay ở mức thấp và vừa phải. Tỷ lệ tham gia của vốn ngân hàng cho vay so với tổng nhu cầu vốn của khách hàng cao (từ 70% - 80%). Quy trình đánh giá và xét duyệt cho vay nhanh chóng và ở mức độ dễ dàng. Chính sách tín dụng mở rộng thích hợp áp dụng trong hoàn cảnh tình hình nền kinh tế tăng trưởng và công tác quản lý tín dụng của ngân hàng được đảm bảo. Ngược lại, chính sách tín dụng thắt chặt thể hiện ở những nội dung sau: Lãi suất cho vay ở mức cao. Tỷ lệ tham gia của vốn ngân hàng cho vay so với tổng nhu cầu vốn của khách hàng thấp (dưới 60%). Quy trình đánh giá và xét duyệt cho vay kĩ lưỡng và ở mức độ khó khăn. Chính sách tín dụng thắt chặt thích hợp áp dụng trong hoàn cảnh ngân hàng quản lý tín dụng kém hiệu quả hoặc khi nền kinh tế có dấu hiệu chững lại mở đầu cho thời kỳ suy thoái. Tóm lại, chính sách tín dụng phù hợp là chính sách tín dụng linh hoạt, chuyển đổi qua lại giữa hai trạng thái: mở rộng và thắt chặt, tùy theo tình hình của nền kinh tế cũng như tình hình quản lý tín dụng của khách hàng.Mặt khác, chính sách tín dụng của ngân hàng cần gắn bó chặt chẽ với chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là gắn với chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lãi suất, tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng GDP. 4.4.2. Giới hạn cấp tín dụng: Để hạn chế rủi ro, mỗi ngân hàng nên quy định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho từng cấp quản trị. Mức quy định có thể được áp dụng cho các chi nhánh ngân hàng các phòng giao dịch, tùy theo quy mô hoạt động, năng lực làm việc của chi nhánh; theo loại sản phẩm tín dụng, tính chất có hay không có tái sản đảm bảo của khoản vay. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần xác định mức giới hạn tín dụng đối với từng khách hàng riêng biệt. Giới hạn tín dụng được xác định đúng sẽ quản trị tốt rủi ro tổng thể của từng khách hàng. Giới hạn tín dụng bao gồm hạn mức của tất cả các dịch vụ chứa đựng rủi ro tín dụng do ngân hàng cấp cho khách hàng như: dư nợ vay, bảo lãnh, chiết khấu… Nếu vượt qua giới hạn này thì độ rủi ro đã ở quá mức cho phép. Giới hạn tín dụng được xác định trên cơ sở chính sách tín dụng trong từng thời kỳ, xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp, ngành nghề và quy mô hoạt động của họ, khả năng cung ứng và quản trị vốn của ngân hàng. 4.4.3. Định giá khoản vay: Định giá khoản vay là một công cụ vô cùng quan trọng trong tiến trình quản trị rủi ro tín dụng khi quyết định cho vay đã được đưa ra. Thông thường thu nhập mà một khoản vay mang lại cho ngân hàng gồm có: tiền lãi vay, phí…Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao thì phần bù rủi ro càng lớn. Lãi suất cũng phụ thuộc vào thời hạn của món vay, giá trị khoản vay (thông thường lãi suất đối với các khoản vay nhỏ thường cao hơn đối với các khoản vay lớn do chi phí quản lý cao), giá trị và tính thanh khoản của tài sản đảm bảo… Trên giác độ thị trường, lãi suất là giá cả của khoản vay, phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu tín dụng trên thị trường tại thời điểm vay, vào mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng. Vì cạnh tranh, một số ngân hàng phải chấp nhận một mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc cạnh tranh như vậy trong dài hạn sẽ làm giảm suất sinh lời của ngân hàng và tăng tính rủi ro của hoạt động tín dụng. Thực tế không phải lúc nào ngân hàng cũng có thể xác định được chính xác các chi phí hoạt động nên nhiều ngân hàng áp dụng phương pháp định giá theo lãi suất cơ sở (bao gồm lợi nhuận cận biên, chi phí quản lý và hoạt động). Lãi suất của từng khoản vay được tính bằng lãi suất cơ sở + phần bù rủi ro tín dụng + phần bù rủi ro kỳ hạn hay chính bằng lãi suất cơ sở + chi phí tăng thêm. Nhiều ngân hàng trên thế giới áp dụng mức phần bù rủi ro tín dụng tùy theo mức độ đánh giá rủi ro tín dụng của doanh nghiệp như sau: Mức độ rủi ro Phần bù rủi ro (%) Không 0.00 Thấp 0.25 Trung bình 0.5 Cần chú ý 1.5 Dưới tiêu chuẩn 2.5 Đáng ngờ 5.00 Lãi suất được tính đầy đủ buộc doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả, tạo ra suất sinh lời cao hơn lãi suất ngân hàng thì mới có lợi nhuận. Song, việc áp dụng toàn bộ mức rủi ro đối với khách hàng có chất lượng tín dụng thấp không phải là biện pháp hay vì khi đó buộc ngân hàng phải thực hiện một chiến lược kinh doanh mạo hiểm hơn với ít cơ hội thành công để thanh toán một khoản lãi vay cao, đồng thời làm mất đi cơ hội tiếp cận vốn vay của ngân hàng đối với các khách hàng có mức độ rủi ro thấp hơn. Ngân hàng quy định lãi suất cao để bù rủi ro cho mình. Nhưng lại làm cho mức độ rủi ro tín dụng tăng lên vì những khách hàng không kinh doanh mạo hiểm không tiếp cận được vốn của ngân hàng. Vì vậy, tùy thuộc vào chính sách của mình, ngân hàng có thể xác định lãi suất với phần bù rủi ro thấp đi kèm với chế độ sàng lọc khách hàng chặt chẽ để cấp tín dụng. 4.4.4 Xếp hạng tín dụng. Các ngân hàng cần định kỳ xếp hạng lại tín dụng cho khách hàng (mức độ rủi ro của khách hàng), đánh giá lại món vay và tài sản thế chấp để từ đó có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh lại giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng cho phù hợp hoặc thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện khoản vay, tài sản thế chấp có dấu hiệu bất thường ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay. 4.4.5. Tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo là một công cụ quan trọng quản lý rủi ro tín dụng. bảo đảm tiền vay hữu hiệu là sử dụng tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp là nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay nếu dự án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền của khách hàng không đúng như dự kiến. Tuy nhiên khoản vay sẽ được thanh toán bằng tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chứ không phải bằng tài sản nên tài sản thế chấp mới là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để cho vay. Một số lượng lớn các khoản vay chỉ chủ yếu dựa vào nguồn trả nợ thứ yếu luôn trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt giá trị của tài sản thế chấp (bất động sản, động sản) lại phụ thuộc vào chu kì kinh tế, hệ thống tài chính, tính pháp lý của tài sản nên có thể biến động rất lớn, tính thanh khoản thường không cao. Hầu hết các cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm đều thấy rằng tài sản thế chấp thay thế được rất ít cho các khoản thu và luồng tiền mặt trong kinh doanh. Do vậy, khi quyết định cho vay không nên chỉ dựa vào tài sản thế chấp. Khi dùng tài sản thế chấp làm bảo đảm tiền vay, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng mở tài khoản tại chính ngân hàng của mình và giữ lại một khoản vốn vay tối thiểu, chẳng hạn 5% giá trị món vay để dự phòng. Bằng cách này, ngân hàng có thể giám sát người vay tiền hiệu quả hơn, giúp tăng khả năng hoàn trả tiền vay. Khi người vay vỡ nợ, ngân hàng lấy phần đó để bù đắp một phần món vay tổn thất. 4.4.6. Đa dạng hóa danh mục đầu tư. Một công cụ quan trọng trong quản tri rủi ro tín dụng ở tất cả các ngân hàng là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro danh mục bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, ngành hàng khác nhau, khách hàng, mặt hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau: Tín dụng thương mại: rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh, tài chính của người vay. Ngân hàng cần thu thập thông tin trong quá khứ lẫn tương lai, tuy nhiên khía cạnh tương lai của công ty quan trọng hơn so với quá khứ. Rủi ro cho vay thương mại chủ yếu là do những tác động của thị trường đối với người vay (giá bán hàng hóa giảm sút, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, thiên tai, cạnh tranh…). Cho vay đối với người tiêu dùng: rủi ro liên quan tới thu nhập của người cho vay và khả năng kiểm soát thông tin về người vay: thông tin thường ít, ngân hàng khó kiểm soát người vay và khó thu nợ, công ăn việc làm của người vay không ổn định… Cho vay đối với các trung gian tài chính khác như ngân hàng thương mại khác, các tổ chức tài chinh phi ngân hàng. Hầu hết các khoản cho vay này là không có đảm bảo, do vậy, nếu các tổ chức đi vay bị phá sản thì ngân hàng cho vay sẽ bị mất. Vì vậy, rủi ro sẽ liên quan tới vị thế của tổ chức tài chính đi vay. Cho vay đối với Nhà nước: có độ an toàn cao nhất. Tuy nhiên trong các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hoặc khu vực, thì các khoản cho vay đối với Nhà nước cũng bị ảnh hưởng. Các dự án cho vay dài hạn có tính rủi ro cao hơn các món vay ngắn hạn, vay theo thời vụ. Các món vay bằng ngoại tệ sẽ phải gánh chịu thêm rủi ro tỷ giá bên cạnh rủi ro tín dụng nếu trạng thái ngoại tệ của ngân hàng không cân đối. Các món vay lớn có chi phí quản lý rẻ hơn nhưng rủi ro hơn các khoản vay nhỏ. Các doanh nghiệp mới vào ngành, có quy mô nhỏ, thường năng động ít bị tổn thương và dễ khắc phục hậu quả hơn đối với các doanh nghiệp quy mô lớn khi gặp rủi ro. Có những ngành hàng đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi về chính sách như xuất nhập khẩu (phụ thuộc vào giấy phép, thuế, hạn ngạch) Nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng đa dạng hóa là giải pháp phòng ngừa rủi ro hữu hiệu nhất trong quản tri rủi ro tín dụng. Khi một ngân hàng phát triển chiến lược và kế hoạch kinh doanh của mình, họ phải xem xét đến các yếu tố và mức độ rủi ro của thị trường của mình, sự kết hợp các loại sản phẩm, dịch vụ tín dụng, loại tiền cho vay, khả năng cấp tín dụng và trọng tâm của danh mục. Như vậy các ngân hàng cần đa dạng hóa danh mục cho vay của mình. Không nên chỉ cho vay một, hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn hoặc một vài nhóm kinh doanh đơn lẻ. Việc đa dạng hóa cũng cần được thực hiện đối với thành phần kinh tê, loại sản phẩm, mức cho vay, thời hạn và loại tiền cho vay. 4.4.7. Theo dõi giám sát việc sử dụng vốn vay: Nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng phải luôn luôn kiểm tra, đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, vấn đề tuân thủ các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Nếu họ không tuân thủ, ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế được ghi trong hợp đồng. do vậy việc soạn thảo hợp đồng tín dụng phải rõ ràng, đầy đủ, chính xác và chặt chẽ. 4.4.8. Xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Ngân hàng cần xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng để ngân hàng thu được thông tin về những người vay tiền của họ. Nếu khách hàng có quan hệ lâu dài với ngân hàng trong hoạt động gửi hoặc vay tiền thì thông qua các giao dịch phát sinh trên tài khoản tiền gửi, tiền vay, nhân viên tín dụng biết được nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng. Từ đó giúp ngân hàng giảm thiểu được các chi phí liên quan đến việc thu thập thông tin, đánh giá tiềm năng và rủi ro tín dụng của khách hàng. Việc phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro tín dụng dễ dàng hơn và đảm bảo chính xác hơn. Để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ này, ngân hàng có thể nắm giữ cổ phần trong các doanh nghiệp mà họ cho vay. Hoặc đưa ra hạn mức tín dụng cho khách hàng. Theo đó, ngân hàng cam kết cho khách hàng vay một lượng vốn nhất định vào một thời điểm nhất định trong tương lai, đổi lại khách hàng phải định kỳ cung cấp thông tin cho ngân hàng về tình hình thu nhập, hoạt động kinh doanh, tài sản có, tài sản nợ… 4.4.9. Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề. Rủi ro là điều khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh. Do vậy ngân hàng luôn xây dựng chính sách chung sống cùng rủi ro: Hạn chế rủi ro, chấp nhận rủi ro, khai thác hoặc thanh lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề. Ngân hàng phân loại nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề: Phân tích nguyên nhân, thực trạng, khả năng giải quyết. Ngân hàng phải luôn đặt mục tiêu là tận dụng tối đa các cơ hội để thu hồi nợ. Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn có khả năng và ý chí trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ thêm như: Cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi… Trong trường hợp người vay lừa đảo, chây ì, không có khả năng trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách thanh lý như: bán tài sản thế chấp, phong tỏa tiền gửi trên tài khoản. Xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất. Dựa trên tỷ lệ rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro, ngân hàng xây dựng quỹ dự phòng. Quỹ này, tạo ra nguồn bù đắp tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Do vậy, lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để tăng khả năng chống đỡ của ngân hàng giúp ngân hàng ổn định và phát triển khi rủi ro xảy ra. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NHTM Ở VIỆT NAM. 1. Rủi ro tín dụng trong NHTM ở Việt Nam hiện nay. Thị trường ngân hàng Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, nhiều ngân hàng được thành lập trong thời gian qua, quá trình cổ phần hoá các ngân hàng cũng đang được tiến hành. Ngày càng nhiều ngân hàng nhận thức được tầm quan trọng của năng lực quản lý rủi ro tín dụng đối với sự sống còn và phát triển của mình. Đây cũng là thách thức trước mắt của các ngân hàng Việt Nam hiện nay. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quản lý rủi ro tín dụng nhưng tình trạng rủi ro tín dụng ở nước ta còn ở mức khá cao. Theo báo cáo năm 2005 của các ngân hàng thương mại Nhà nước là ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Công thương, Ngoại thương, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, nợ quá hạn của cả bốn ngân hàng đều dưới 2% tổng dư nợ. Tuy nhiên, theo một đánh giá gần đây của ngân hàng Nhà nước, nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng Nhà nước là khoảng 7.7% tổng dư nợ. 7.7% là dựa theo tiêu chí của quyết định 493. Nếu tính toán theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ quá hạn của một số ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ gấp đôi con số chính thức, tức vào khoảng 15% tổng dư nợ. Ngày 2/4/2007 tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD (tổ chức của các nước phát triển) đã bỏ phiếu xếp hạng lại phân hạng rủi ro tín dụng của các nước. Trong lần bỏ phiếu này, Việt Nam đã được nâng hạng từ nhóm 5 lên nhóm 4. Việt Nam trong bảng xếp hạng rủi ro tín dụng của OECD: 1999 đến 4/2002: hạng 6 Tháng 4/2002 : hạng 5 Tháng 4/2007: hạng 4 Tuy nhiên, những tháng đầu năm 2007, khi vốn tín dụng có xu hướng tăng trưởng ở mức cao hơn so với cùng kì năm trước, chất lượng tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực chưa cao; cho vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán có nguy cơ rủi ro cao, do thị trường chứng khoán biến động; việc thông tin từ thị trường để đánh giá, quản trị rủi ro còn nhiều bất cập làm cho rủi ro tín dụng có xu hướng tăng lên. Rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay vẫn đang ở mức khá cao. Nguồn thu của các ngân hàng thương mại Nhà nước chủ yếu từ các nghiệp vụ tín dụng truyền thống. Các ngân hàng thương mại Nhà nước chủ yếu cho vay các tổng công ty Nhà nước mà thực lực tài chính rất yếu kém. Thực trạng cho vay với mức dư nợ tới 35-40% vào một nhóm khách hàng đang có “báo động đỏ về chất lượng tín dụng”. Trong đó, điển hình là các tổng công ty thuộc ngành xây dựng, giao thông vận tải với công nợ lên tới 11000 tỷ đồng, mà trong đó theo báo cáo của Bộ tài chính, có trên 90% khoản nợ nói trên thuộc vốn vay của ngân hàng thương mại. Nhiều chương trình kinh tế, mà chính sách cho vay của các ngân hàng thương mại phải hướng theo nhưng kết cục không hiệu quả như đánh bắt xa bờ, mía đường, cà phê Arabica… Hai vụ doanh nghiệp FDI phá sản đột ngột ở thành phố Đà Nẵng trong năm 2006 và tháng 5/2007 đã cảnh báo có dấu hiệu lợi dụng chính sách “buôn” dự án, vay và chiếm dụng vốn ngân hàng. Đó là vụ công ty Kim Khánh Nguyên của Đài Loan với số vốn thực tế chỉ 5000 Đài tệ, nhưng đã được cấp giấy phép đầu tư 2.5 triệu USD. Giấy phép đầu tư này như vật bảo chứng, tín chấp để công ty vay vốn ngân hàng với kẽ hở “thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay”. Với vụ việc này, các ngân hàng có nợ khó đòi trên 20 tỷ đồng. Hậu quả để lại của vụ việc trên chưa kịp giải quyết xong thì tháng 5/2007, sau gần 3 năm đầu tư, được miễn giảm hầu hết các loại thuế và hưởng nhiều chính sách ưu đãi, dự án sản xuất đĩa compact của công ty TNHH ODVD 100% vốn Malaysia đã đóng cửa, để lại khoản vay ngân hàng hơn 2.5 triệu USD chờ phát mại công ty để trả nợ ( báo Lao Động số ra ngày 23/07/2007). Như vậy, rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, do đó các ngân hàng cần tìm ra những nguyên nhân để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. 2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng ở Việt Nam: 2.1. Nguyên nhân do môi trường kinh tế: 2.1.1. Nguyên nhân khách quan: Chu kỳ kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi nợ vì thế tăng, đồng thời dư nợ đối với nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ các khoản nợ xấu. Nhưng trong thời kỳ kém tăng trưởng, các ngành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt kinh doanh bất động sản… sẽ gặp nhiều kkhó khăn… Các món vay, đặc biệt là trung, dài hạn được quyết định dễ dãi trong thời kỳ tăng ttrưởng sẽ trở thành khó đòi vài năm sau đó. Lãi suất, lạm phát: Lãi suất cơ bản cao phản ánh chính sách can thiệp của ngân hàng Trung Ương khi lạm phát vượt quá mức độ nào đó. Khi lãi suất tăng, nguồn vốn của các ngân hàng khan hiếm hơn, đồng thời hoạt động tín dụng cũng phải đối mặt với rủi ro cao hơn vì lãi suất cao buộc người vay phải thực hiện những phương án kinh doanh mạo hiểm hơn. Thị trường bất động sản: Theo thống kê sơ bộ, tối thiểu 50% các khoản vay ngân hàng là để mua nhà, đất, được đảm bảo bằng bất động sản, nguồn trả nợ cũng từ kinh doanh bất động sản chứ không phải dòng tiền thường xuyên ổn định. Dù hiện tại chúng chưa phải là nợ quá hạn nhưng đang tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu rất lớn do thị trường bất động sản Việt Nam được đánh giá là “ bong bóng” do tình trạng đầu tư quá mức dựa vào vốn vay ngân hàng có tính bất ổn cao và những thay đổi do chính sách của Nhà nước rất khó dự đoán. 2.1.2. Nguyên nhân chủ quan: Sự yếu kếm của cơ quan pháp luật địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật, hướng dẫn thi hành luật liên quan tới hoạt động tín dụng ngân hàng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32947.doc