Lời mở đầu
Trong những năm qua, cùng với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng nói chung và trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng đã có những đóng góp tích cực, góp phần làm thay đổi đời sống kinh tế xã hội (KT-XH) của nước ta.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh nền KT-XH đất nước đang từng bước có những chuyển biến về cơ chế, chính sách cho phù hợp với nền KTTT thì hoạt động tín dụng ngân hàng trong suốt thời gian qua cũng bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế cần có những bi
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện pháp hữu hiệu để tháo gỡ, khắc phục. Một trong những đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong mọi hoạt động ngân hàng là rủi ro tín dụng (RRTD). Đây là một vấn đề nan giải, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nó không những làm tổn hại đến tài sản, uy tín của một ngân hàng mà còn có thể gây phá sản cả một hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Lịch sử đã chứng minh tại các nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Nhật... mặc dù hệ thống pháp luật đã hoàn chỉnh, hoạt động NHTM đã trải qua thời kỳ dài có kinh nghiệm trong việc xây dựng quy chế, thanh tra giám sát, kiểm tra, thiết lập các quỹ dự phòng khổng lồ, quỹ bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm tiền gửi... vậy mà gần như năm nào các nước này cũng có ngân hàng bị phá sản. Tại Việt Nam trong những năm 89-90 đã xảy ra sự đổ vỡ của gần 500 quỹ tín dụng ở các thành phố, gần đây trong các năm 95-99 là sự chao đảo của các NHTM cổ phần. Do vậy RRTD luôn là nỗi lo của các NHTM và việc hạn chế RRTD là vấn đề cấp thiết trong hoạt động của NHTM. Sự nghiên cứu về RRTD vừa mang tính kế hoạch vừa mang tính thực tiễn thể hiện ở chỗ nó góp phần hệ thống hoá lý luận về vấn đề nghiên cứu và đóng góp những biện pháp để giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Do thấy được tầm quan trọng của việc hạn chế RRTD trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam, được xem xét số liệu từ năm2001 -2003 em đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam”. RRTD là một vấn đề rất rộng lớn, là vấn đề mọi ngân hàng phải đối mặt, do đó khó có thể nghiên cứu đầy đủ trong giới hạn một bài viết. Do vậy, bài viết này chỉ nghiên cứu vấn đề trong phạm vi hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam .
Kết cấu của chuyên đề, ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 phần:
Chương 1: Một số vấn đề về RRTD của NHTM
Chương2: Thực trạng hoạt động tín dụng và RRTD ở Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Chương3: giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế RRTD tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam trong thời gian tới.
Do thời gian thực tập chưa còn ít, do những hiểu biết thực tiễn chưa nhiều, do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp của các thầy cô giáo, các cán bộ ngân hàng và những ai quan tâm tới vấn đề này để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn, có giá trị thực tiễn cao hơn.
Sinh viên thực hiện:
Hoàng Thanh Huyền
Lớp 3011Chương 1
Một số vấn đề về RRTD của NHTM
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Sự ra đời của hoạt động của ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển và tiến bộ của con người. Lê Nin đã coi sự ra đời Ngân hàng như “sự phát minh ra lửa” hay “bánh xe”. Vai trò to lớn của ngân hàng đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội được xuất phát từ chính các mặt hoạt động của ngân hàng. Một trong những hoạt động đặc trưng của ngân hàng là hoạt động TD.
Tín dụng được định nghĩa như là: “ một giao dịch về tài sản (tiền hoăc hàng hoá ) giữa bên cho vay (NH và các định chế tài chính khác) va bên đi vay (cá nhân,doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Đối với một NHTM, TDNH có ý nghĩa là sự cho vay hay ứng trước tiền do ngân hàng thực hiện. Bản thân ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là khách hàng của ngân hàng. Giá ngân hàng ấn định cho khách hàng khi đi vay là lợi tức và lãi suất hoặc tiền hoa hồng mà họ phải trả trong suốt thời gian tồn tại của khoản ứng trước.
Hoạt động TD là hoạt động đa dạng, là một loại kinh doanh tiền tệ phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh, đó là tiền tệ, và ở đây tiền tệ đã bị tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay.
Trong khái niệm TD hoặc TDNH ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó cho nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra. Và cần có một sự tín nhiệm hay nguyên tắc nhất định khi cho vay. TDNH được thực hiện theo 3 nguyên tắc:
+ Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn đã đăng ký trong HĐTD
+ Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả
+ Vốn vay phải được đảm bảo bằng hàng hoá có giá trị tương đương.
1.1.2. Phân loại TDNH
Trong nền KTTT, hoạt động TD rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý TD có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại TD. Có nhiều tiêu thức phân loại TD khác nhau:
+ Căn cứ vào thời hạn tín dụng: có cho vay ngắn hạn (dưới 12 tháng); cho vay trung hạn (1-5 năm); cho vay dài hạn trên 5 năm
+Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: có cho vay không đảm bảo, cho vay có đảm bảo
+ Căn cứ vào mục đích: có cho vay bất động sản, cho vay công nghiệp va thương mại, cho vay nông nghiệp, cho vay các định chế tài chính, cho vay cá nhân, cho thuê.
+Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: có cho vay có thời hạn, cho vay không có thời hạn cụ thể.
+Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: có cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp.
1.1.3. Chức năng của TDNH
Như chúng ta đã biết, TDNH có một vị trí quan trọng trong việc phát triển KT-XH đất nước và vị trí đó trước hết được biểu hiện qua các chức năng của TDNH.
Tín dụng ngân hàng có 2 chức năng cơ bản đó là chức năng tập trung và phân phối theo nguyên tắc hoàn trả; chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế.
1.1.3.1. Chức năng tập trung và phân phối vốn theo nguyên tắc hoàn trả, hay chức năng phân phối lại.
Sự tồn tại khách quan của phạm trù tín dụng là một tiền đề quan trọng cho sự vận động liên tục của vốn trong nền kinh tế quốc dân, những vốn tạm thời chưa sử dụng phát sinh ra trong nền kinh tế sẽ được ngân hàng huy động và tập trung lại. Trên cơ sở nguồn vốn đó, ngân hàng tiến hành phân phối bằng hình thức cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Giữa tập trung và phân phối luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Thực hiện tốt tập trung vốn tạo cơ sở để tiến hành cho vay đồng thời chỉ khi việc phân phối vốn có hiệu quả sẽ thúc đẩy nhu cầu tập trung vốn. Sự phân phối của tín dụng tuân theo một vòng tuần hoàn từ khi cho vay đến vốn tín dụng được sử dụng theo nhu cầu và sau khi hoàn thành việc tham gia vào quá trình phục vụ nhu cầu, trở lại hình thái tiền tệ thì nó được hoàn trả người cho vay. Đây là bản chất vận động của tín dụng. Đó là sự vận động với tư cách lượng giá trị vận động, do đó lượng giá trị này luôn được bảo tồn theo thời gian khi hoàn trả.
1.1.3.2. Chức năng phản ánh và kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế.
Khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của TDNH là rộng lớn hơn so với các hình thức TD khác. Bên cạnh quan hệ tín dụng đối với các doanh nghiệp và cá nhân, ngân hàng còn có quan hệ về tiền tệ, thanh toán với họ. Các mối quan hệ này bổ sung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh nghiệp dễ dàng hơn. Không những thế, tín dụng cũng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén đối với mọi biến đổi của nền kinh tế. Thông qua hoạt động thu vốn nhàn rỗi có thể đánh giá được tình hình tiêu dùng, tiết kiệm và các tiềm năng khác của nền kinh tế. Mặt khác, thông qua hoạt động cấp vốn có thể đánh giá được khả năng phát triển của các ngành các lĩnh vực, sự hợp lý của cơ cấu nền kinh tế qua đó có sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp. Do đó tín dụng được coi là công cụ quan trọng để nhà nước kiểm soát và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế.
1.1.4.Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.4.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng.
Trước hết hoạt động tín dụng ngân hàng là 1 trong 3 hoạt động tiền đề cho sự ra đời của NHTM, đây cũng là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bởi lẽ, khoản mục tín dụng chiếm khoảng 70% tổng tài sản và các khoản mục tín dụng này mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Vì vậy việc duy trì và mở rộng tín dụng mang một ý nghĩa sống còn với các NHTM. Khi các ngân hàng không thực hiện được duy trì và mở rộng thì vốn ngân hàng huy động được sẽ bị ứ đọng, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho phần vốn ứ đọng trong khi không có thu nhập từ lãi cho vay khiến ngân hàng bị thua lỗ và có khả năng rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng phát triển thêm các hoạt động khác như mở tài khoản tại ngân hàng, dịch vụ tư vấn, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền...kết quả là ngân hàng vừa tăng được nguồn vốn, vừa phát triển được các hoạt động dịch vụ tăng thu nhập và phân tán rủi ro.
1.1.4.2. Vai trò của tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt trong việc tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ, phục vụ quá trình phát triển KT-XH đất nước và là một công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ta thấy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay. Hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời, nên TDNH là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn và để giải quyết nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này. Nghĩa là tín dụng ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua tín dụng ngân hàng, có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Như vậy tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế cũng như đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Để phát huy vai trò đó, các nước trên thế giới đã sử dụng tín dụng ngân hàng như một công cụ đắc lực để thúc đẩy phát triển KT-XH. Tuy nhiên, đây lại là một hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khó lường trước. Để tín dụng ngân hàng thực sự phát huy vai trò của mình, nghiên cứu rủi ro tín dụng là một yêu cầu cần thiết.
1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM.
1.2.1. Những vấn đề chung về rủi ro trong kinh doanh của NHTM.
1.2.1.1. Khái niệm về rủi ro ngân hàng.
Cũng như với bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Rủi ro của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng đều có bản chất chung đó là khả năng xẩy ra những tổn thất cho ngân hàng.
Một số quan điểm cho rằng, rủi ro là toàn bộ tổn thất có thể xảy ra đối với ngân hàng. Một số khác lại cho rằng rủi ro chỉ là những tổn thất xảy ra ngoài dự kiến.
Dù có nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro, nhưng tựu chung lại có thể rút ra các kết luận sau:
+ Rủi ro ngân hàng là khả năng xẩy ra những tổn thất trong hoạt động ngân hàng, nằm ngoài ý muốn của ngân hàng.
+ Rủi ro được xem là một biến cố ngẫu nhiên, tuy nhiên ta có thể xác định được khả năng xuất hiện của rủi ro để lường trước hậu quả có thể xảy ra.
+ Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý của đơn vị, không thể coi rủi ro là hoàn toàn không thể tránh khỏi và để nó tự vận động. Rủi ro có thể được hạn chế khi tăng cường khả năng kiểm soát của đơn vị mà điều này lại phụ thuộc chủ yếu vào trình độ quản lý của đơn vị kinh doanh.
+ Rủi ro do nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, nhưng dù rủi ro do nguyên nhân nào gây ra thì cũng đều có khả năng phòng ngừa với các phương pháp khác nhau.
1.2.1.2. Các loại rủi ro trong kinh doanh của NHTM.
Có thể chia rủi ro trong hoạt động ngân hàng thành các loại sau:
+Rủi ro tín dụng (sẽ nghiên cứu ở phần sau)
+ Rủi ro hối đoái: là khả năng xẩy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính.
+ Rủi ro lãi suất: là khả năng xẩy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính.
+ Rủi ro thanh khoản: là rủi ro khi khả năng thanh toán của ngân hàng không đáp ứng được cho khách hàng khi họ đến rút vốn vượt quá mức dự trữ thanh toán của ngân hàng.
+ Rủi ro tồn đọng vốn: xẩy ra khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay, đầu tư được và các loại rủi ro khác.
1.2.1.3. ảnh hưởng của rủi ro đối với hoạt động ngân hàng
Rủi ro gắn liền với hoạt động NHTM, phản ánh các tình huống bất thường xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra, trước hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm. Từ đó có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sát nhập hoặc thay thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng và lãi suất có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người gửi tiền rút tiền ra khỏi ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản. Tổn thất làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của ngân hàng. Để đối phó với tình trạng trên, ngân hàng có thể phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động... dẫn đến các ảnh hưởng không tốt về nhân sự, về trạng thái nguồn và công nghệ.
1.2.1.4. Mối quan hệ rủi ro-lợi nhuận trong hoạt động của các NHTM.
Theo quy luật này thì các chủ thể kinh tế phải chấp nhận một mức độ rủi ro, hoặc điều chỉnh giảm thiểu rủi ro tới một mức độ nhất định nào đó sao cho hợp lý để hy vọng đạt được phần lớn lợi nhuận bù đắp mức độ rủi ro đó. Mối quan hệ ở đây mang tính tỷ lệ thuận nhiều hơn, tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là cứ rủi ro càng cao thì kiếm được lợi nhuận càng nhiều, mà muốn được nhiều lợi nhuận thì ngoài việc chấp nhận rủi ro hợp lý còn phải có nhiều yếu tố khác kết hợp. Trong đó quan trọng nhất là phải có đầu óc kinh doanh, nắm bắt được thời cơ và biến thời cơ thành hiện thực. Ngân hàng cũng vậy, không phải là càng gặp nhiều rủi ro thì càng thu được nhiều lợi nhuận mà vấn đề là phải quản lý được danh mục đầu tư một cách hợp lý. Đó chính là việc ngân hàng chấp nhận cơ cấu rủi ro hợp lý để hy vọng kiếm được lợi nhuận để tồn tại và phát triển.
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.
1.2.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của ngân hàng. Do đó rủi ro tín dụng cũng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động ngân hàng. Có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm rủi ro tín dụng:
+ Rủi ro tín dụng là quá trình hàm chứa nguy cơ vốn và lãi không được hoàn trả đúng hạn.
+ Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có khi cấp tín dụng cho một khách hàng.
Như vậy, ngay từ khi cấp tín dụng cho khách hàng, khoản tín dụng đó đã có rủi ro. Chỉ có điều, đó mới chỉ là rủi ro tiềm năng. Còn khi phát sinh việc vốn và lãi không được trả đúng hạn thì khi đó rủi ro đã xảy ra, đã trở thành hiện thực. Từ đó ta có thể đi đến khái niệm rủi ro tín dụng:
“Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán”.
Khái niệm trên chỉ đúng khi xét một dự án riêng lẻ. Nhưng nếu xét trong mối quan hệ với các dự án khác thì rủi ro tín dụng không chỉ là thiệt hại về vốn và lãi của khoản vay mà còn là thiệt hại mang tính chi phí cơ hội. Thậm chí ngay cả khi khách hàng hoàn toàn có khả năng trả nợ cho ngân hàng thì rủi ro tín dụng vẫn có thể xảy ra. Đó là rủi ro về việc ngân hàng mất cơ hội sử dụng vốn vào những dự án có khả năng sinh lời lớn hơn. Tức là hoạt động tín dụng đã hàm chứa một thiệt hại mang tính so sánh. Bên cạnh chi phí cơ hội, rủi ro tín dụng còn là rủi ro về thời gian của tiền. Ngay cả khi vốn và lãi được trả đúng hạn thì rủi ro vẫn xẩy ra vì dưới tác động của lạm phát và sự biến động của lãi suất trên thị trường khiến đồng vốn mà ngân hàng thu về kém về giá trị hơn so với ban đầu.
1.2.2.2. Bản chất của rủi ro tín dụng ngân hàng.
Trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan và ngân hàng không thể loại bỏ hoàn toàn được rủi ro mà chỉ có thể hạn chế được nó.
Thực vậy, ta thấy rằng tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi, giữa người có vốn và người thiếu vốn. Quan hệ này là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người cho vay và người đi vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản của HĐTD, nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xẩy ra khá phổ biến, kể cả trong trường hợp người vay có năng lực tài chính để thực hiện các điều khoản cam kết đó. Thậm chí ngay cả trường hợp có đảm bảo nợ vay như thế chấp, cầm cố...tình trạng rủi ro tín dụng vẫn xẩy ra, do tài sản dùng làm đảm bảo nợ vay rủi ro về giá trị vì những biến động về thời gian và thị trường. Điều đó có nghĩa là, một khi còn có hoạt động ngân hàng thì còn có rủi ro trong hoạt động tín dụng. Hay rủi ro tín dụng là hệ quả, là không thể tránh khỏi. Nhiều quan điểm nhất trí cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường của trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.2.2.3.Phân loại rủi ro tín dụng ngân hàng.
Trên thực tế, rủi ro tín dụng cũng rất phức tạp và đa dạng như chính hoạt động tín dụng vốn đã đa dạng, phức tạp. Cũng có nhiều cách phân loại nhưng ở đây ta chỉ nghiên cứu hai cách phân loại cơ bản.
Trên phương diện quản lý, rủi ro được chia làm 2 loại: rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được và rủi ro tín dụng không thể kiểm soát được.
+ Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được (hay còn gọi là rủi ro khả kháng) là loại rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể phần nào dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro đó, ước tính được mức độ ảnh hưởng, dự kiến được thời gian chúng phát sinh...mà từ đó có những biện pháp hợp lý để phòng ngừa, hạn chế ở mức thấp nhất có thể. Những rủi ro tín dụng thuộc loại này thường do chủ quan con người gây ra, cụ thể có thể là do khách hàng hoặc chính bản thân ngân hàng gây cho mình. Tuy nhiên, khách hàng thường chủ yếu gây ra loại rủi ro này.
+ Rủi ro không thể kiểm soát được (rủi ro bất khả kháng) là loại rủi ro tín dụng mà các ngân hàng không thể dự đoán, không thể biết chúng sẽ xẩy ra vào thời điểm nào, cũng không thể tính toán được một cách chính xác nhất những ảnh hưởng mà chúng gây ra. Những rủi ro tín dụng này thường không do con người gây ra mà chủ yếu la do những bất lợi về yếu tố tự nhiên gây ra như hạn hán, lũ lụt, mất mùa, hoả hoạn...Các NHTM thường phải tập trung vào ngăn chặn những những rủi ro có thể kiểm soát được, còn những rủi ro không thể kiểm soát được thì chỉ có cách là chống đỡ.
Ngoài cách phân loại trên thì dựa vào tính chất của rủi ro tín dụng mà ta có thể chia ra làm 2 loại: rủi ro sai hẹn và rủi ro mất vốn.
+ Rủi ro sai hẹn là rủi ro tín dụng xẩy ra khi người cho vay vốn ngân hàng không hoàn trả đủ gốc, lãi hoặc cả gốc và lãi tiền vay đúng hẹn đã cam kết trong HĐTD.
+ Rủi ro mất vốn là rủi ro tín dụng xẩy ra khi người vay vốn ngân hàng không hoàn trả gốc tiền vay một cách đầy đủ.
Dù với cách phân loại nào đi nữa thì rủi ro tín dụng luôn mang lại cho ngân hàng nhiều hậu quả xấu. Để hạn chế rủi ro tín dụng cần phải có biện pháp để quản lý được rủi ro tín dụng, khống chế nó ở một tỷ lệ hợp lý. Đó không phải là một vấn đề đơn giản dễ thực hiện. Để thực hiện được vấn đề này, chúng ta cần xem xét, tìm hiểu rủi ro tín dụng trên các khía cạnh trình bầy dưới đây.
1.2.2.4. Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng ngân hàng.
Nợ có vấn đề: phản ánh rủi ro tiềm năng.
Khi ngân hàng cho khách hàng vay, quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, có thể do nhiều nguyên nhân (thiên tai hoặc địch hoạ, hàng hoá không tiêu thụ được) đã ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp nhưng khoản nợ đó chưa đến hạn. Các khoản nợ này sẽ được xếp vào nợ có vấn đề.
Nếu muốn tránh khỏi những thiệt hại bất hợp lý này thì cán bộ tín dụng phải xác định các khoản cho vay có vấn đề ngay lập tức, nếu không thì có thể không giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở lên xấu hơn. Hơn nữa, nếu có thể thực hiện các biện pháp sửa chữa thích hợp, thì nguyên nhân và mục đích của vấn đề cũng phải được xác định và giải quyết. Có rất nhiều dấu hiệu để nhận biết một khoản cho vay có vấn đề, dưới đây là một số dấu hiệu dễ nhận thấy:
+ Hoạt động kinh doanh của người đi vay có chiều hướng không lành mạnh, có thể do ngành nghề kinh doanh của họ đang gặp rủi ro do sự thay đổi của thị trường, do sự thay đổi chính sách KT-XH của nhà nước, hoặc có thể là quan hệ giao dịch với các đối tác của doanh nghiệp không thuận lợi, các đối tác tự ý bỏ hợp đồng kinh doanh với doanh nghiệp...khiến cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về tài chính. Hay trong quá trình sản xuất kinh doanh có sự tăng lên bất thường của hàng tồn kho, các khoản phải thu. Hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan như bão, lũ lụt, hoả hoạn, hạn hán hay do mất trộm.
+Sự thay đổi trong cơ cấu quản lý kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức như thu hẹp quy mô sản xuất và chủng loại sản phẩm, công nhân nghỉ việc...Việc thực hiện công tác điều hành chuyên môn hoá kém chất lượng. Sự thay đổi này tạo tâm lý hoang mang đối với các đối tác, bạn hàng.
+ Người vay cố tình trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính cho ngân hàng. Người vay có thái độ lưỡng lự cố tình gây chậm trễ khi xắp xếp cho cán bộ tín dụng đi thăm cơ sở sản xuất kinh doanh.
+ Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích.
Các biểu hiện của một món vay có vấn đề rất đa dạng. Trên cơ sở các dấu hiệu đó, thông qua việc phân tích và phán đoán tình hình, xu hướng của hoạt động tín dụng, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng và của nền kinh tế cán bộ tín dụng cần tìm ra biện pháp hợp lý hoặc là thu hồi khoản cho vay hoặc là tư vấn hỗ trợ khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn, hoàn trả gốc và lãi vay đúng hạn.
Ngoài ra, những khoản vay như sau cũng được xếp vào loại nợ có vấn đề:
+ Số dư nợ đó đã được gia hạn nhiều lần, thậm chí thời gian gia hạn dài hơn kỳ hạn cho vay lần đầu.
+ Số dư nợ đó đã được đảo nợ nhiều lần (cho vay mới để thu hồi nợ cũ), có trường hợp kế toán đã chuyển sang nợ quá hạn, lại chuyển vào hạch toán trong hạn.
+ Khách hàng dùng vốn vay của ngân hàng để trả nợ ngân hàng khác.
+ Nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng với cùng một tài sản thế chấp mà hoàn toàn không hay biết.
Nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ khoanh chờ xử lý
Nợ quá hạn là biểu hiện đặc trưng nhất của rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn được hiểu là những khoản tín dụng ngân hàng mà vì nguyên nhân nào đó không được thanh lý đủ và đúng hạn như HĐTD
Như vậy, nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khi người đi vay vi phạm nguyên tắc của tín dụng là phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, gây đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người được cấp tín dụng.
Người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn (tỷ lệ nợ quá hạn = NQH/Dư nợ) để đánh giá mức độ rủi ro của tín dụng ngân hàng. Tỷ lệ NQH càng cao thì RRTD của ngân hàng sẽ càng lớn. NQH là vấn đề của tất cả các NHTM ở mọi quốc gia. Cần nhìn nhận NQH như một hiện tượng bình thường của hoạt động tín dụng, do vậy cần xác định một tỷ lệ NQH hợp lý là cần thiết. Hiện nay nhiều nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ NQH trên tổng dư nợ ở mức 3-5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng.
Có nhiều cách phân loại NQH, mỗi loại phản ánh mức độ rủi ro tín dụng ở một góc độ khác nhau. Việc phân loại chúng có một ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong việc đề ra các biện pháp xử lý, thu hồi nợ.
Xét theo thời hạn có thể chia NQH thành các loại chính sau đây:
+ NQH dưới 6 tháng: những khoản NQH này thường được coi là có mức độ rủi ro thấp.
+ NQH từ 6 tháng đến 12 tháng: hay là nợ khê đọng, là những khoản nợ có mức độ rủi ro bình thường.
+ NQH trên 12 tháng: đây là những khoản nợ có mức độ rủi ro cao nhất và có nguy cơ mất vốn cho ngân hàng.
Một số ngân hàng ở Việt Nam coi NQH trên 12 tháng là NKĐ.
Tỷ lệ NKĐ = NKĐ/NQH. Đây là những khoản tín dụng mà ngân hàng khó có thể đòi được trong tương lai. Với những khoản nợ này, ngân hàng đã nắm chắc khả năng bị mất vốn.
Xét theo nguyên nhân, người ta có thể chia NQH theo một số nguyên nhân chính sau:
+ Những thay đổi trong chính sách của nhà nước
+ Do khách hàng yếu kém, hoạt động kinh doanh không hiệu quả.
+ Do khách hàng cố tình lừa đảo
+ Do cán bộ tín dụng yếu kém, tiếp tay cho khách hàng lừa đảo.
Trong trường hợp do khách hàng hoạt động kinh doanh yếu kém, song thấy có khả năng phục hồi, ngân hàng có thể cho phép gia hạn nợ, chưa chuyển sang NQH.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo hay do cán bộ tín dụng phẩm chất yếu kém, những khoản nợ đó thường được chuyển sang NKĐ, vì khả năng thu hồi là hầu như không có.
Những thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước gây khó khăn đối với việc hoàn trả nợ vay cuả khách hàng đối với ngân hàng, hình thành nên khoản NQH. Nếu không thu hồi được ngân hàng có thể chuyển lên chính phủ để chờ xử lý giải quyết, hình thành khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
Xét theo khả năng thu hồi, có thể chia NQH thành 3 loại sau:
+ NQH có thể thu hồi 100%
+ NQH có thể thu hồi một phần
+ NQH không có khả năng thu hồi.
Việc phân loại các khoản NQH theo khả năng thu hồi phản ánh rõ nhất mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. NQH không có khả năng thu hồi càng cao thì rủi ro về nguy cơ mất vốn của ngân hàng càng lớn. Tuy nhiên việc phân loại này thường khó chính xác vì khả năng thu hồi của khoản nợ thì được xác định theo những nghiên cứu và dự đoán. Nói cách khác, tài sản có sinh lời đã chuyển sang tài sản có không sinh lời mà còn nắm chắc nguy cơ trắng tay. Với những khoản nợ này, NHTM phải có quỹ dự phòng bù đắp rủi ro đủ lớn để có thể loại bỏ chúng ra khỏi tài sản có của ngân hàng.
Tổn thất tín dụng
Là những khoản tín dụng của ngân hàng thực sự đã biến mất khỏi sự quản lý, kiểm soát của ngân hàng. Nó là hậu quả, kết quả cuối cùng của rủi ro tín dụng, là những khoản NKĐ không thu hồi được
1.2.2.5. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân gây ra RRTD cũng chính là nguyên nhân gây ra nợ có vấn đề và NQH. Các nguyên nhân này có thể xuất phát từ phía ngân hàng hoặc khách hàng, có thể do yếu tố chủ quan hoặc khách quan.
Do bản thân ngân hàng.
NHTM cũng là một loại hình doanh nghiệp trong nền KTTT. Mục đích hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng là lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao thì ngân hàng càng có điều kiện tồn tại và phát triển, tuy nhiên cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với nguy cơ rủi ro càng lớn. Điều này càng trở lên nghiêm trọng hơn nếu những rủi ro đó lại do chính yếu tố bản thân nội bộ ngân hàng gây ra.
Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng.
Trước tiên đó là do hạn chế về trình độ của cán bộ tín dụng: yếu kém trong phân tích tín dụng nhất là phân tích trước khi cho vay. Việc thu thập thông tin không đầy đủ, không cân xứng sẽ dẫn tới rủi ro đạo đức và sự lựa chọn đối nghịch, khâu sử lý thông tin kém dẫn tới những nhận định sai lầm về khách hàng (như về tính khả thi của dự án kinh doanh, khả năng quản lý của người vay, đạo đức của người vay, khả năng tạo ra lợi nhuận và trả nợ cho ngân hàng) và kết quả là những HĐTD kém chất lượng (rủi ro cao hay khả năng thu hồi thấp)
Buông lỏng trong khâu giám sát khách hàng, không duy trì mối quan hệ thường xuyên với khách hàng nên để khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không kịp thời phát hiện nợ có vấn đề để tìm cách tháo gỡ. Thậm chí đến khi hết hạn cũng không đốc thúc thường xuyên dẫn đến tình trạng khách hàng dây dưa không trả nợ.
Quá coi trọng tài sản thế chấp, cầm cố nên buông lỏng quản lý. Đến khii khách hàng không trả được nợ, khả năng thu nợ bằng tiền thực sự từ phát mại những tài sản này không phải dễ, kết quả là ngân hàng không thu được đủ cả gốc và lãi.
Quá nhấn mạnh vào lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh. Mong muốn chiến thắng trong cạnh tranh bằng cách tăng tỷ trọng cho vay nhiều hơn các ngân hàng khác mà ít quan tâm tới mức độ rủi ro của các khoản cho vay.
Sự bất hợp lý trong chính sách tín dụng của chính ngân hàng về quy mô, kỳ hạn nợ. Kỳ hạn nợ không hợp lý như ngắn hơn chu kỳ sinh trưởg của cây, ngắn hơn chu kỳ kinh doanh khiến khách hàng chưa kịp thu hồi vốn để trả nợ cho ngân hàng làm phát sinh NQH.
Nguyên nhân khách quan:
Cũng có rất nhiều nguyên nhân khách quan từ phía ngân hàng như:
Nhiều khi sử lý thu hồi NQH gặp phải rủi ro, rất nhiều khó khăn vì phải trải qua nhiều thủ tục rườm rà, có trường hợp ngân hàng phải mất vốn do các quy định của pháp luật chưa bảo vệ được lợi ích bình đẳng giữa ngân hàng và khách hàng.
Do chính sách, thể lệ tín dụng của NHTM còn chưa đầy đủ hoàn thiện, luôn có sự biến đổi, vì vậy mà có thể bị bỏ qua một số khoản cho vay nào đó.
Tài sản đảm bảo tín dụng bị giảm giá do biến động của giá cả thị trường, chất lượng tài sản thế chấp bị suy giảm do hao mòn tự nhiên và hao mòn hữu hình hoặc phát sinh một số trường hợp hết thời hạn bảo quản. Các điều khoản pháp luật liên quan về thuế, quyền sử dụng đất, bán đấu giá tài sản còn có nhiều điểm bất lợi cho ngân hàng. Đơn cử như việc khi thanh lý, phát mại tài sản để thu hồi nợ mà vẫn phải chịu mức thuế chung dẫn tới giảm giá trị. Khó phát mại tài sản làm cho ngân hàng không thu được đủ nợ gốc và chi phí cho vay
Có thể nói rằng, có tối đa 80-90% vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh của các khách hàng. Bởi vậy khả năng rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở bất cứ khâu nào từ sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm của khá._.ch hàng.
Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng luôn có 2 chủ thể là khách hàng và NHTM. Theo thống kê cho thấy khả năng xẩy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là phổ biến nhất bởi khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay. Có thể chia làm 2 trường hợp sau:
Nguyên nhân chủ quan:
Doanh nghiệp tiến hành phương án kinh doanh như trong hồ sơ xin vay nhưng do năng lực yếu kém, khả năng thích ứng thị trường, sản xuất kinh doanh còn thiếu linh hoạt, sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường dẫn đến tụt hậu trong cạnh tranh, sản phẩm làm ra không có doanh thu làm giảm khả năng trả nợ hay phát sinh nợ có vấn đề. Nếu không kịp thời tìm cách tháo gỡ, nợ có vấn đề sẽ trở thành NQH khi hết hạn mà doanh nghiệp không có tiền trả ngân hàng.
Doanh nghiệp có nhiều hành vi gian dối, lừa đảo trong quá trình đi vay và sử dụng vốn vay: cung cấp thông tin không đúng sự thật. Sử dụng một tài sản làm vật thế chấp để vay nhiều nơi mà tổng số tiền vay > giá trị tài sản thế chấp, sử dụng vốn vay sai mục đích khác với hồ sơ, rủi ro cao, dễ thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan
Khi nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thu hẹp chi tiêu của nền kinh tế như tăng các loại thuế đầu vào, đầu ra trong thời kỳ các doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất đã dẫn đến tình trạng là các doanh nghiệp phải tính toán lại giá cả, chi phí...gây thiệt hại cho các doanh nghiệp, từ đó gián tiếp ảnh hưởng tới ngân hàng.
Do có sự thay đổi trong môi trường chính trị ở những nước là thị trường tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu, có thể dẫn tới mất thị trường tiêu thụ, từ đó hàng hóa sản xuất ra sẽ không bán được do đó thua lỗ là nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng.
Trên thị trường có hành vi cạnh tranh không lành mạnh như hành vi làm hàng giả, buôn lậu...làm cho hàng hoá bán ra của doanh nghiệp suy giảm dẫn đến giảm doanh thu, lợi nhuận từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ.
Do trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp gặp phải các rủi ro bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ...làm gián đoạn hoặc thiệt hại cho các doanh nghiệp.
Do các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân kể trên thì còn có một số nguyên nhân khác cũng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng:
Do có những thông tin không minh bạch về ngân hàng dẫn đến khách hàng của ngân hàng ồ ạt kéo nhau đến rút vốn gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng từ đó gây ra sự mất lòng tin của khách hàng gián tiếp gây rủi ro tín dụng.
Do biến động tỷ giá, lãi suất cung cầu làm cho chi phí cơ hội của ngân hàng tăng lên
Thay đổi của các quy định của tín dụng điều chỉnh mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay theo hướng bất lợi cho ngân hàng hoặc khách hàng.
Do cạnh tranh không lành mạnh giữa các NHTM với nhau về các loại kỳ hạn và lãi suất cho vay.
Tóm lại, trong nhiều nguyên nhân kể trên thì nguyên nhân nào cũng ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong số đó các nguyên nhân do phía khách hàng gây ra là chủ yếu, đòi hỏi ngân hàng phải luôn dự đoán gắt gao, phân tích đánh giá tìm biện pháp phòng ngừa hạn chế. Còn với các nguyên nhân do ngân hàng thì ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động khắc phục dần đi tới loại bỏ. Còn các nguyên nhân khác thì ngân hàng phải luôn có dự phòng bù đắp rủi ro để có thể hạn chế, giảm thiểu từ đó bình ổn hoạt động của ngân hàng.
Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng ở Việt Nam
Ngoài các nguyên nhân kể trên, RRTD và NQH ở Việt Nam còn xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Ngân hàng bao cấp cho vay với cá doanh nghiệp quốc doanh, 80% vốn của doanh nghiệp là vốn đi vay. Khi các doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ, không trả được nợ sẽ tạo nên các khoản NQH và các khoản NQH của doanh nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng NQH của các NHTM.
Vốn tín dụng cấp cho các doanh nghiệp trải dài từ quá trình sản xuất đến phân phối lên rủi ro có thể xẩy ra ở bất cứ công đoạn nào cuả quá trình sản xuất hay xác xuất xảy ra rủi ro là rất lớn. Khả năng dẫn đến NQH là rất cao.
1.2.2.6. ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng không phải bây giờ mới có và cũng không phải mãi đến nay người ta mới đề cập đến, nó luôn là vấn đề mà mọi NHTM đều phải đối mặt. Rủi ro tín dụng đã và đang gây ra những ảnh hưởng to lớn không những đối với bản thân ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế nói chung. Có thể khái quát ảnh hưởng của RRTD trên hai khía cạnh
Đối với ngân hàng cấp tín dụng.
RRTD ảnh hưởng đến uy tín, sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường Tài chính-Tín dụng-Ngân hàng, vì vậy ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Không phải chỉ giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn từ các hoạt động khác do hoạt động tín dụng có tác động rất lớn đến các hoạt động khác của ngân hàng
Rủi ro tiềm năng đe doạ thu nhập của ngân hàng. Khi rủi ro xẩy ra, ngân hàng bị tổn thất, lợi nhuận kinh doanh bị giảm sút. Để hạn chế RRTD các ngân hàng phải lập quỹ dự phòng rủi ro từ lợi nhuận của ngân hàng nên làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu RRTD xẩy ra ở mức độ cao mà lợi nhuận không đủ bù đắp, ngân hàng phải dùng tới vốn tự có . tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của ngân hàng so với tổng giá trị tài sản là rất nhỏ nên có thể đẩy ngân hàng tới nguy cơ mất khả năng thanh toán và phá sản.
RRTD xẩy ra làm cho ngân hàng không thu được vốn và lãi theo đúng thời hạn trong HĐTD để tiếp tục thực hiện hoạt động cấp tín dụng. Như vậy RRTD sẽ làm giảm tốc độ vòng quay vốn của ngân hàng dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm khả năng thanh toán của ngân hàng, kết quả là uy tín và sức cạnh tranh của ngân hàng cũng giảm theo.
Đối với nền kinh tế
Như đã nói ở trên, vai trò của TDNH là rất quan trọng trong việc điều hoà các nguồn vốn trong nền kinh tế. Khi RRTD xẩy ra, các nguồn vốn trong xã hội sẽ không thể luân chuyển một cách liên tục, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Nếu RRTD càng lớn nghĩa là nguồn vốn trong nền kinh tế không được phân bổ hợp lý. Hiệu quả sử dụng vốn vì thế rất thấp, ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
ở mức độ nghiêm trọng hơn là RRTD kéo dài, khả năng thanh toán của các ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu rút vốn của khách hàng. Khi đó mất khả năng thanh toán, từ đó sẽ gây khủng hoảng dây chuyền trong toàn hệ thống và cuối cùng là ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế. Dù trên phạm vi quốc gia, khu vực hay quốc tế thì cũng gây suy thoái kinh tế ảnh hưởng tới đời sống kinh tế xã hội của hàng tỷ người.
1.2.2.7. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng ngân hàng.
Muốn quản lý được RRTD thì người ta phải ước lượng, đo lường chúng theo một số chỉ tiêu để có thể xác định một cách tương đối mức độ ảnh hưởng của chúng. Để đo lường được RRTD, người ta tiến hành phân loại theo khả năng sinh lợi của tài sản “có”. Những khoản cho vay đầu tư được gọi là tài sản “có” sinh lời. Tiền mặt tại ngân quỹ và tiền dự trữ tại NHTW là những tài sản “có” không sinh lời. Những khoản cho vay và đầu tư ra ngoài xã hội gọi là tài sản “có” rủi ro, còn cho vay dưới dạng đầu tư vào kỳ phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ được gọi là những tài sản “có” coi như không có rủi ro. Sau đây là một số chỉ tiêu:
+ Nợ có vấn đề: phản ánh rủi ro tiềm năng. Rủi ro do nợ có vấn đề được đo bằng chỉ tiêu: tỷ lệ nợ có vấn đề = NCVĐ/tổng dư nợ. Chỉ tiêu này càng cao thì nguy cơ RRTD của ngân hàng càng lớn, vì NCVĐ sẽ trở thành NQH nếu hết thời hạn mà khách hàng không trả được nợ.
+ NQH: là tổn thất khi RRTD đã xẩy ra. Rủi ro do NQH phát sinh được đo bằng chỉ tiêu:
Tỷ trọng NQH/tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết NQH chiếm bao nhiêu% trong tổng dư nợ. Tỷ lệ này càng cao thì tổn thất xẩy ra đối với ngân hàng càng lớn, khả năng an toàn của ngân hàng càng thấp.
+ NKĐ: ta có tỷ trọng NKĐ, nợ khoanh, xoá nợ, miễn giảm lãi/tổng doanh số cho vay . Các tỷ trọng này lớn là những dấu hiệu trực tiếp cho biết đã hoặc nguy cơ sẽ mất một phần hay toàn bộ nợ không thu hồi được.
+ Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay: được xác định bằng số tiền thu nợ do khách hàng bán tài sản/ tổng doanh số thu nợ
Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ khả năng thu nợ do bán tài sản của khách hàng càng thấp, tổn thất tín dụng càng cao.
+ Tỷ lệ tổng giá trị tài sản “có” rủi ro trong kỳ/ tổng giá trị các tài sản “có” sinh lợi trong kỳ. Tỷ lệ này cho biết cứ 100 đồng tài sản “có” sinh lời thì có bao nhiêu tài sản “có” có thể bị rủi ro trong kỳ.
+ Tỷ lệ tổng giá trị tài sản “có” rủi ro trong kỳ/tổng dư nợ bình quân. Tỷ lệ này cho biết cứ 100 đồng dư nợ thì có bao nhiêu đồng tài sản có có thể bị rủi ro trong kỳ.
+ Tỷ lệ phân bổ dự phòng tổn thất hàng năm tổng dư nợ hoặc tổng vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ cho biết cứ 100 đồng tổng dư nợ (hoặc tổng vốn chủ sở hữu) thì phải trích ra bao nhiêu đồng để dự phòng bù đắp rủi ro. Nó phản ánh sự chuẩn bị của ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập giữ lại.
1.2.2.8. Một số biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
Như trên đã khẳng định, trong nền KTTT, rủi ro là tất yếu. Các ngân hàng không thể không cho vay để tránh rủi ro vì như thế sẽ không có thu nhập từ hoạt động cho vay, một hoạt động vốn mang lại nhiềulợi nhuận nhất cho ngân hàng. Ngân hàng cũng không thể cho vay ồ ạt để thu được nhiều lãi mà không tính đến rủi ro của các khoản cho vay. Như vậy cần tìm ra một loạt các biện pháp để ngân hàng vẫn tiến hành cho vay để thu lợi nhuận đồng thời giảm thiểu rủi ro do các khoản vay đem lại. Em xin đề xuất một số biện pháp sau:
Tiến hành phân tích tín dụng trước khi cho vay. Phân tích tín dụng bao gồm công việc thu thập thông tin liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đối với việc đánh giá tín dụng, việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được và việc lưu lại thông tin để sử dụng trong tương lai.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư: nghĩa là hướng các hoạt động tín dụng đến đa dạng mà các hậu quả của các hoạt động tín dụng đó không liên quan chặt chẽ với nhau từ đó RRTD giảm đi một cách đáng kể. Tuy nhiên việc làm này chỉ giảm được RRTD đặc thù riêng biệt của các ngành kinh tế (rủi ro phi hệ thống), tuy nhiên rủi ro có tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế có ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh tế thì không thể loại trừ được.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro.
Dự phòng rủi ro được trích lập trên cơ sở vốn bị mất tức là số vốn ngân hàng không có khả năng thu hồi. Phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm được tính là một chi phí của ngân hàng.
Hiện nay, quỹ dự phòng rủi ro trong các NHTM chưa được coi là công cụ hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro. Bởi trong điều kiện tình hình kinh tế chưa ổn định, hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam vẫn chưa hiệu quả, chất lượng các khoản vay còn thấp, mức độ rủi ro cao, số tiền cần trích lập là quá lớn. Quỹ được trích lập từ lợi nhuận sau thuế (LNST), thuế lợi tức 45% khiến cho quỹ DPRR nhỏ bé lên không thể bù đắp những món vay không thể thu hồi.
Chủ động phân tán rủi ro thông qua:
+ Cho vay đồng tài trợ: nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng có một dự án có nhu cầu vốn lớn hay nhiều rủi ro.
+ Bán rủi ro: chuyển rủi ro cho các chủ thể có khả năng chịu đựng rủi ro cao hơn. Trong trường hợp khoản vay có rủi ro cao, ngân hàng khó có thể chịu nổi nếu rủi ro xảy ra, ngân hàng sẽ “bán” khoản cho vay cho ngân hàng lớn hơn hoặc một trung gian tài chính khác để hưởng hoa hồng phí.
Cuối cùng và quan trọng nhất đó là không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Nhân tố con người đóng vai trò quyết định đối với hiệu quả nói chung của các biện pháp nhằm hạn chế RRTD. Chất lượng một khoản vay có thể bị giảm sút vì nhiều nguyên nhân nhưng trước hết là các cán bộ phụ trách cấp tín dụng vẫn phải chịu trách nhiệm nhất định về khoản nợ tồi mà họ đã tiếp nhận hồ sơ, phân tích, trình xin phê chuẩn và tiếp tục giám sát trogn suốt thời gian hợp đồng. Do đó cán bộ tín dụng phải là người biết vận dụng kiến thức tổng hợp về khoa học, tự nhiên và xã hội cũng như công nghệ ngân hàng để có thể xem xét chính xác các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, phương thức tổ chức kinh doanh, phương án cho vay và trả nợ...Ngân hàng phải thường xuyên xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đào tạo nâng cao với nội dung phù hợp với yêu cầu công việc thực tế đồng thời phải xắp xếp công tác cho cán bộ tín dụng phù hợp với năng lực, chuyên môn của từng người.
Tóm lại tín dụng là sự chuyển nhượng vốn từ người sở hữu sang người sử dụng với mục đích thu về một lượng vốn lớn hơn và sự chuyển nhượng đó luôn tiềm ẩn rủi ro. Với ngân hàng, RRTD sẽ xuất hiện khi có nguy cơ không thu hồi đầy đủ và đúng hạn cả vốn lẫn lãi. Nguyên nhân gây ra rủi ro này đến từ hai phía khách quan và chủ quan. Để tránh những ảnh hưởng xấu do RRTD gây ra, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để quản lý hạn chế RRTD. Mỗi biện pháp được áp dụng ra sao và mang lại hiểu qủa như thế nào còn phụ thuộc vào khả năng và điều kiện, tình hình hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng. Và đây cũng là nội dung chủ yếu được đề cập đến trong chương tiếp theo. Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng và tình hình RRTD tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam .
Chương 2
Thực trạng hoạt động tín dụng và
tình hình RRTD tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam
2.1. Khái quát về Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam .
Có thể phân chia quá trình phát triển của Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam thành 3 giai đoạn chủ yếu sau:
Từ năm 1988 đến 1/4/1993
Từ 1/4/1993 đến 31/12/1998
Từ 1/1/1999 đến nay
Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1988 đến 1/4/1993
Là Ngân hàng Công Thương Hà Nội. Trong giai đoạn này, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng còn nghèo nàn, sản phẩm dịch vụ đơn điệu, kinh doanh đối nội là chủ yếu, kinh doanh đối ngoại chưa phát triển. Đội ngũ cán bộ được đào tạo trong cơ chế cũ, đông về số lượng song lại yếu về chất lượng, nhất là kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Về quy mô hoạt động còn khiêm tốn. Cụ thể:
Tổng nguồn vốn huy động tính đến ngày 31/9/1993 đạt 522 tỷ VNĐ.
Tổng dư nợ cho vay tính đến ngày 31/9/1993 đạt 323 tỷ VNĐ.
Giai đoạn hai: Từ 1/4/1993 đến ngày 31/12/1998
Sát nhập với Ngân hàng Công Thương Trung ương có tên là Hội sở Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Giai đoạn này, cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ của Hội sở được tăng cường, sản phẩm dịch vụ ngân hàng khá phong phú, ngoài cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn còn có nhiều loại cho vay mới ra đời như: Cho vay tài trợ uỷ thác, cho vay thanh toán công nợ, đồng tài trợ...Kinh doanh đối ngoại đã phát triển mạnh. Đội ngũ cán bộ được đào tạo lại và thích ứng dần với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Giai đoạn thứ 3: từ ngày 1/1/1999 đến nay
Hội sở được tách ra theo Quyết định số 134/QĐ HĐQT- NHCT VN và mang tên Sở Giao Dịch I, hạch toán phụ thuộc. Trong giai đoạn này, hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch I phát triển mạnh trên tất cả các mặt nghiệp vụ, áp dụng giao dịch tức thời trên máy tính tại tất cả các điểm huy động vốn, mở rộng mạng lưới kinh doanh, phát triển các dịch vụ mới. Năm 2001 Sở Giao Dịch đã mở phòng giao dịch số 1 và tổ nghiệp vụ bảo hiểm. Nguồn vốn huy động trong giai đoạn này tăng 25 lần so với năm 1988, chiếm 20% tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Dư nợ cho vay cũng tăng 40 lần so với năm 1988.
2.1.2. Vị trí, nghĩa vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam
2.1.2.1. Vị trí của Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam trong hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam.
Trong những năm qua, Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam có vị trí quan trọng trong hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản luôn đứng đầu hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam, trong đó nguồn vốn luôn chiếm khoảng 20%, dư nợ và đầu tư đứng một trong hai vị trí đầu trong hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Lợi nhuận hạch toán nội bộ luôn cao nhất, năm 2001 chiếm tới 50% trong toàn hệ thống.
Sở luôn được chọn làm nơi thí điểm cho sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng Công Thương Việt Nam, là đầu mối cho các chi nhánh trên địa bàn để triển khai các chương trình hợp tác của Ngân hàng Công Thương Việt Nam với các đối tác và bạn hàng.
2.1.2.2. Nghĩa vụ và quyền hạn
Nghĩa vụ
Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn , phát triển vốn và các nguồn lực của Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn, hiệu quả, phục vụ phát triển KT-XH của đất nước.
Thực hiện nghĩa vụ về tài chính theo quy định của pháp luật và của Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Quyền hạn
Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, dân cư trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại tệ.
Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các hình thức huy động vốn khác, phục vụ quá trình phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và theo quy định của Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Thực hiện nhiệm vụ thanh toán quốc tế như: thanh toán nhờ thu, thanh toán L/C, thanh toán L/C nhập khẩu, thông báo L/C xuất khẩu, bảo lãnh thanh toán, kinh doanh ngoại tệ theo quy định của Ngân hàng Công Thương Việt Nam và theo mức uỷ quyền.
Thực hiện các dịch vụ ngân hàng như: thanh toán, chuyển tiền trong nước và ngoài nước, chi trả kiều hối...
Thực hiện chế độ an toàn kho quỹ, bảo quản tiền mặt, ngân phiếu thanh toán và các ấn chỉ quan trọng, đảm bảo chi trả tiền mặt ngân phiếu thanh toán chính xác, kịp thời.
Thực hiện các dịch vụ tư vấn về tiền tệ, quản lý tiền vốn, các dự án đầu tư phát triển theo yêu cầu của khách hàng.
Theo dõi, kiểm tra kho ấn chỉ của Ngân hàng Công Thương Việt Nam, đảm bảo xuất kho ấn chỉ quan trọng cho các chi nhánh Ngân hàng Công Thương Việt Nam phí Bắc.
Thực hiện một số nghiệp vụ khác do Ngân hàng Công Thương Việt Nam giao
2.1.2.3.Cơ cấu tổ chức
Ban lãnh đạo Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam gồm có 1 giám đốc và 4 phó giám đốc. Sở có 11 phòng nghiệp vụ. Ta có sơ đồ sau:
Giám đốc
P.Giám đốc 1
P.Giám đốc 2
P.Giám đốc 3
P.Giám đốc 4
P.Khách hàng cá nhân
P.Tổng hợp tiếp thị
P.Kế toán giao dịch
P.Tiền tệ-Kho quỹ
P.Tổ chức – Hành chính
P.Khách hàng I (DN lớn)
P.Kế toán tài chính
P.Khách hàng II (DN vừa và nhỏ)
P.Thông tin điện toán
P.Tài trợ thương mại
P.Kiểm soát nội bộ
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Sở Giao Dịch I
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam trong những năm gần đây.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu có nhiều biến động, các nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu như Mỹ, Nhật Bản...tiếp tục suy giảm làm ảnh hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển kinh tế trong khu vực. Trong nước, năm 2002, lĩnh vực tài chính tiền tệ có nhiều đổi mới quan trọng, trước hết là trong điều hnàh chính sách tiền tệ đã chuyển từ cơ chế lãi suất ấn định sang lãi suất thoả thuận, tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định góp phần làm giảm thiểu tâm lý “găm” giữ ngoại tệ. Sang năm 2003 do áp lực kinh tế tăng mạnh, đã buộc các NHTM phải đẩy lãi suất huy động vốn lên cao tong gần 8 tháng đầu năm, ảnh hưởng đến KQKD của toàn ngành ngân hàng. SGDI-NHCT VN cũng không nằm ngoài tác động đó, song với phương châm “phát triển - an toàn - hiệu quả”, tình hình hoạt động kinh doanh của Sở đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ thể hiện trên các mặt sau:
Kết quả kinh doanh của SGDI-NHCT VN được thể hiện trong biểu 1 dưới đây:
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của SGDI-NHCT VN
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
1. Tổng thu
572.966
629.252
828.901
2. Tổng chi
458.258
488.461
629.578
3. Lãi
114.708
140.791
199.323
Qua bảng trên ta thấy, hoạt động kinh doanh của Sở luôn có lãi, lợi nhuận nhìn chung là ổn định. Năm 2002, Sở đã đẩy mạnh sự phát triển đồng đều, đạt 140.791 tỷ đồng, vượt 22,7% so với năm 2001và vượt kế hoạch được giao là 17,3%. Các chủ tiêu kinh tế cơ bản luôn đứng đầu hệ thống NHCT VN. Sang năm 2003 lợi nhuận hạch toán nội bộ của Sở giao dịch I đạt 199.323 tỷ đồng, vượt 41,6% so với năm 2002 và vượt 28,6 % kế hoạch lợi nhuận NHCTVN giao năm 2003.
Với kết quả lợi nhuận đạt được trên, Sở giao dịch I tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của mình trong hệ thống NHCTVN. Khẳng định sự phát triển có hiệu quả trên tất cả các mặt hoạt động kinh doanh. Đây là kết quả của sự đoàn kết nhất trí cao của Đảng uỷ và ban lãnh đạo Sở giao dịch I trong công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh, thể hiện sự phấn đấu nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên Sở giao dịch I quyết tâm thực hiện bằng được các chỉ tiêu kinh doanh đã đề ra. Với kết quả trên Sở giao dịch I vẫn duy trì là đơn vị thi đua xuất sắc và được chủ tịch Hội đồng quản trị NHCTVN thưởng 100 triệu đồng.
2.1.3.1. Công tác huy động vốn
Tạo nguồn vốn là khâu quan trọng mở đường tạo một mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc. Trong những năm qua, SGDI-NHCT VN đã triển khai kịp thời nhiều hình thức huy động vốn với lãi suất phù hợp theo từng thời kỳ như trái phiếu NHCT, kỳ phiếu, tiết kiệm dự thưởng, khai thác tối đa nguồn tiền gửi thanh toán của các cá nhân và tổ chức kinh tế. Tiếp tục củng cố, nâng cấp và mở rộng thêm 2 quỹ tiết kiệm mới. Chính vì vậy mà trong nhiều năm liền Sở luôn là chi nhánh đứng đầu trong hệ thống NHCT VN. Nguồn vốn huy động từ Sở chiếm 20% tổng vốn huy động của cả hệ thống NHCT VN. Nguồn vốn tăng với tốc độ cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các tổ chức đơn vị kinh tế và cá nhân trên địa bàn.
Bảng 2: Biến động của tổng nguồn vốn huy động
đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
1.Tổng nguồn vốn
11.587
14.605
15.158
2.So sánh thời điểm sau với trước
3.018
553
3.Tỷ lệ sau so với trước
126%
104%
Qua bảng trên cho thấy khái quát về tình hình huy động vốn của SGD I-NHCT VN đó là sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn. Năm 2001, tổng nguồn vốn huy động được là 11.587 tỷ đồng. Chuyển sang năm 2002, nguồn vốn huy động tăng nhanh và đạt 14.605 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2001. Sang năm 2003 tổng nguồn vốn huy động đạt 15.158 tỷ đồng, tăng 533 tỷ đồng so với năm 2002, tốc độ tăng 5%. Nguồn vốn huy động của Sở giao dịch I tăng trưởng vững chắc, chiếm gần 20% trong tổng số nguồn vốn huy động của toàn hệ thống NHCTVN. Với nguồn vốn dồi dào, SGD I không những chủ động đáp ứng đầy đủ vốn để cho vay, đầu tư và tham gia đồng tài trợ những dự án lớn mà còn điều chuyển một khối lượng vốn lớn về NHCT VN để cho vay phát triển kinh tế đối với các tỉnh thành phố trong cả nước.
Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ, nền kinh tế VN đã dần dần đi vào ổn định và phát triển. Người dân ngày càng tin tưởng và hiểu rõ hơn lợi ích của ngân hàng. Qua các năm qua, Sở I đã có mức tăng trưởng nguồn vốn khá lớn mặc dù sự tăng trưởng nguồn vốn chưa phản ánh được bản chất hoạt động kinh doanh của Sở là tốt hay xấu. Nhưng với truyền thống, Sở đã xâm nhập thị trường và có uy tín với khách hàng, tạo đà từng bước phát triển trong khai thác nguồn vốn, mở rộng đầu tư cho vay. Hiện nay, Sở I huy động nguồn vốn từ các nguồn chủ yếu sau:
+ Tiền gửi doanh nghiệp (cả VNĐ và ngoại tệ) với các loại không kỳ hạn và có kỳ hạn
+ Tiền gửi dân cư
+ Tiền gửi khác.
Xét theo nguồn huy động nguồn vốn ta có bảng:
Bảng 3: Kết cấu nguồn vốn huy động
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỉ trọng (%)
1. Tiền gửi doanh nghiệp
8.113
70
10.817
74
10.981
72,4
2. Tiền gửi dân cư
3.409
29,4
3.728
25,5
3.628
24
3. Tiền gửi khác
65
0,6
60
0,5
549
3,6
4. Tổng
11.587
100
14.605
100
15.158
100
Nhìn vào bảng 3 ta thấy, nếu so sánh cuối năm 2001 với cuối năm 2002 thì quy mô nguồn vốn huy động tăng đáng kể. Tiền gửi dân cư mặc dù tỷ trọng có giảm qua các năm nhưng số dư thì lại liên tục tăng. Nguồn này được coi là nguồn đắt đỏ bởi chủ yếu là các khoản tiền tiết kiệm của cá nhân, ngân hàng không phải chịu chi phí với lãi suất cao, song nó lại là các khoản đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng. Tiền gửi doanh nghiệp là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của Sở và tăng đều qua các năm, từ 8.113 tỷ đồng năm 2001 lên 10.817 tỷ đồng năm 2002 và đến cuối năm 2003 là 10.981 tỷ đồng. Tỷ trọng tiền gửi của tổ chức kinh tế cao cho thấy các doanh nghiệp ngày càng tin tưởng vào hoạt động kinh doanh của Sở, hơn nữa Sở đã tạo được uy tín, đã thiết lập được mối quan hệ mật thiết với các khách hàng là tổ chức kinh tế. Tuy nhiên ngân hàng sẽ gặp phải khó khăn nếu khách hàng rút tiền với khối lượng lớn.
Xét theo kỳ hạn, ta có bảng sau:
Bảng 4: Kết cấu nguồn vốn theo kỳ hạn
đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
1.Không kỳ hạn
6.903
59,6
9.518
65
9.396
62
2.Có kỳ hạn
4.684
40,4
5.087
35
5.762
38
3.Tổng
11.587
100
14.605
100
15.158
100
Ta thấy nguồn vốn huy động không kỳ hạn gia tăng cả về số lượng và tỷ trọng, từ 6.903 tỷ đồng năm 2001 đến 9.518 tỷ đồng vào năm 2002, tức là tăng lên 38%. Sang năm 2003 nguồn vốn huy động không kỳ hạn lại chững lại và có xu hướng giảm dần. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn tăng dần lên từ 4.684 tỷ đồng vào năm 2001 nên 5.762 tỷ đồng vào năm 2003, đây là dấu hiệu tốt vì nguồn vốn huy động có kỳ hạn có tính ổn định cao giúp Sở giao dịch I có thể tăng cường cho vay trung và dài hạn.
Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ ta có:
Bảng 5: Kết cấu nguồn vốn theo loại tiền gửi
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
31/12/2003
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
1.Nội tệ
8.940
77
11.934
81,7
12.958
85,5
2.Ngoại tệ quy VNĐ
2.647
23
2.671
18,3
2,200
14,5
3.Tổng
11.587
100
14.605
100
15.158
100
Thường chiếm khoảng 14-25% nguồn vốn huy động. Khối lượng vốn huy động bằng ngoại tệ tăng dần theo các năm, có thể giải thích là do trong những năm gần đây, tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định, góp phần làm giảm thiểu tâm lý găm giữ ngoại tệ. Bên cạnh đó là sự hấp dẫn của lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nguồn tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ tăng tạo thuận lợi cho Sở đảm bảo nguồn vốn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vay ngoại tệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ 23% vào năm 2001 và giảm xuống 14,5% vào năm 2003, trong thời gian tới Sở cần sử dụng nhiều biện pháp hấp dẫn hơn nữa để thu hút nguồn ngoại tệ lớn hơn từ dân chúng.
2.1.3.2. Công tác sử dụng vốn.
Tính đến 31/12/2002, tổng dư nợ cho vay và đầu tư của Sở đạt 2.806 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 2.060 tỷ đồng, tăng 563 tỷ đồng so với năm 2001, đạt tốc độ tăng 37,7%. Đến 31/12/2003, dư nợ cho vay và đầu tư đạt3.936 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 2.346 tỷ đồng, tăng 286 tỷ đồng so với năm 2002, tốc độ tăng 14%, đạt mục tiêu tăng trưởng NHCTVN giao.
Cơ cấu tín dụng đã dần dần thay đổi, không tập trung vốn cho vay vào một số doanh nghiệp lớn mà được dàn trải cho vay mọi thành phần kinh tế. Ngoài các doanh nghệp truyền thống, Sở giao dịch I đã chú trọng đầu tư và cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài theo chủ trương của Đảng, Nhà nước và hướng chỉ đạo của NHCT Việt nam. Tham gia nhiều dự án đầu tư theo chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước như các dự án phát triển của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông; Tổng Công ty Đường sắt; Tổng Công ty Điện lực; các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài như Công ty TNHH Moto Việt nam; Viko Glowin Hà nội, đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng ngàn người lao động.
Nhìn chung công tác tín dụng đã đạt được mục tiêu đề ra, phù hợp với định hướng phát triển của đất nước, qua đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh các ngành khác và chất lượng tín dụng được nâng cao. Hoạt động tín dụng của Sở sẽ được phân tích cụ thể trong phần sau của chương.
2.1.3.3. Các công tác khác
Tình hình kinh doanh đối ngoại
Năm 2003 đã mở được 636 L/C trị giá 60 triệu USD; Thanh toán 767 L/C trị giá 56,5 triệu USD. Kim ngạch thanh toán hàng nhập đạt 117 triệu USD tăng 10,4%, hàng xuất đạt 2 triệu USD. Thanh toán nhờ thu 274 món trị giá 6,8 triệu USD, tăng 30% so với năm 2002. Thanh toán TTR gần 40 triệu USD, tăng 40%. Đặc biệt dịch vụ chuyển tiền kiều hối với ChinFonBank đạt 8 triệu USD, tăng 200%, chuyển tiền nhanh với Western Union đạt 353 ngàn USD, tăng 462%. Thanh toán séc du lịnh, thẻ VISA, giải ngân các dự án ODA… đều tăng trưởng khá. Năm 2003, tỷ giá USD và VND tương đối ổn định, Sở giao dịch I đã nắm bắt kịp thời biễn biến tỷ giá ngoại tệ trên thị trường Quốc tế và thị trường trương nước, áp dụng nhiều hình thức kinh doanh ngoại tệ, tăng cường khai thác nhiều loại ngoại tệ… kết quả doanh số mua bán ngoại tệ đạt hơn 300 triệu USD. Tổng số cước thu được từ hoạt động đối ngoại bao gồm cả lãi kinh doanh ngoại tệ đạt gần 6,5 tỷ đồng, tăng 8,3% so với năm 2002.
Nghiệp vụ kế toán
Luôn đáp ứng mọi nhu cầu thanh toán của khách hàng, cùng với việc áp dụng công nghệ hiện đại trong mọi hoạt động giao dịch của Ngân hàng, Sở giao dịch I luôn chấp hành nghiêm chỉnh, triển khai tốt các chương trình nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới của NHCT Việt nam. Khối lượng giao dịch phát sinh tăng lớn, số lượng chứng từ thanh toán trên 500 ngàn món, bình quân gần 2000 chứng từ giao dịch/ngày, tăng 14% so với năm 2002. Doanh số thanh toán cả năm đạt352 ngàn tỷ đồng, tăng 6%. Công tác thanh toán đảm bảo chính xác, nhanh chóng. Năm 2003 đã mở được 825 tài khoản mới và hàng ngàn tài khoản tiết kiệm, trong đó có 315 tài khoản ATM. Đến nay coa 7425 khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân quan hệ tiền gửi, tiền vay cùng 70.000 khách hàng gửi tiền tiết kiệm thường xuyên đến giao dịch.
Công tác tiền tệ kho quỹ
Công tác tiền tệ kho quỹ luôn chấp hành đúng chế độ thu chi tiền mạt và chế độ ra vào kho tiền, không để x._.ại tín dụng theo thời gian và trích lập dự phòng theo thời gian (khoản cho vay trong hạn hay quá hạn). Việc phân loại này làm cho RRTD không được nhìn nhận một cách chính xác theo đúng mức độ rủi ro của nó, làm giảm vai trò to lớn của việc trích lập dự phòng. Dựa trên cách phân loại này, khoản cho vay được chia thành nhiều cấp, theo thứ tự từ chất lượng tốt nhất đến nợ không có khả năng thu hồi. Khoản cho vay có hiệu quả được trích dự phòng ở tỷ lệ chung; khoản cho vay được liệt vào danh sách theo dõi bao gồm khoản cho vay có dấu hiệu rủi ro (thể hiện qua tiêu thức như khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp không hợp lý, trì hoãn trả nợ); khoản vay bị nghi ngờ (khi các tiêu thức trên được xác thực và có dấu hiệu xấu đi); cuối cùng là khoản cho vay khó thu hồi được và có khả năng phải xoá nợ. Trong đó trọng tâm là việc sử dụng chỉ tiêu nợ có vấn đề để thống kê các khoản vay nào còn trong hạn nhưng đã tiềm ẩn rủi ro.
Để phân loại tín dụng đúng ở mức độ rủi ro của nó, Sở cần dựa vào các chỉ tiêu: lịch sử quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng; luồng tiền và dư nợ của khách hàng tại ngân hàng; chất lượng quản lý của đội ngũ lãnh đạo; xu hướng của mặt hàng kinh doanh...Việc phân loại này giúp nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc theo dõi chặt chẽ đánh giá rủi ro của từng khoản tín dụng tại từng thời điểm, từ đó ngân hàng có thể đánh giá mức độ rủi ro hợp lý của mỗi danh mục đầu tư, giám sát nguồn vốn phân bổ hiệu quả hơn. Việc trích lập dự phòng của Sở một mặt tuân thủ theo quy định của NHNN, song không nên quá máy móc. Hiện nay, Sở chỉ trích lập dự phòng đối với các khoản nợ quá hạn còn các khoản vay trong hạn theo quy định tỷ lệ trích lập DPRR là 0%.
Song có những khoản vay đã xuất hiện dấu hiệu rủi ro, Sở cần trích lập dự phòng đối với cả những khoản này, căn cứ vào mức độ rủi ro để đưa ra một tỷ lệ hợp lý. Hay nói cách khác cần cụ thể hoá tỷ lệ trích lập dự phòng đối với từng khoản vay theo mức độ rủi ro.
3.2.4. Chủ động phân tán rủi ro thông qua cho vay đồng tài trợ và bán rủi ro.
Trong hoạt động tín dụng, việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có cho vay đồng tài trợ và bán rủi ro.
Thời gian qua Sở đã thực hiện thành công một số hoạt động đồng tài trợ như dự án đuôi hơi Phú Mỹ... Đó là những khoản tín dụng lớn, khó xác định được mức độ rủi ro mà một mình ngân hàng không đủ khả năng cho vay. Việc các ngân hàng tham gia đồng tài trợ hay hợp vốn tạo ra một thế mạnh như mỗi ngân hàng có một hệ thống khách hàng quen thuộc, có lĩnh vực am hiểu tường tận, hay nói cách khác, có thế mạnh riêng. Việc đồng tài trợ sẽ tập trung và phân bổ cho nhau thế mạnh của, hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung nghiệp vụ và học hỏi lẫn nhau. Do đó ngân hàng cần kêu gọi các ngân hàng và các nhà đầu tư khác cùng tham gia đánh giá khách hàng, thẩm định dự án và tài trợ. Biện pháp này tuy phải chia sẻ lợi nhuận đầu tư cho các nhà đầu tư khác nhưng bù lại nó đảm bảo chắc chắn hơn kết quả sẽ thu được từ việc đầu tư. Mặt khác, với cùng một số vốn bằng biện pháp đồng tài trợ, ngân hàng có thể tham gia được nhiều hơn các dự án có quy mô lớn. Không chỉ phân tán rủi ro mà biện pháp này còn giúp ngân hàng mở rộng kinh doanh, phát triển uy tín trên thị trường, tiếp thu nhiều kinh nghiệm
Bán rủi ro: đó là chuyển rủi ro cho các chủ thể có khả năng chịu rủi ro cao hơn. Trong trường hợp khoản vay có rủi ro cao , ngân hàng khó có thể chịu nổi nếu rủi ro xẩy ra . Ngân hàng sẽ “bán” khoản cho vay cho ngân hàng lớn hơn hoặc một trung gian tài chính khác để hưởng hoa hồng phí. Như ta đã biết, các biện pháp đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm phân tán rủi ro không có tác dụng đối với các rủi ro mang tính vĩ mô (rủi ro hệ thống) nên việc sử dụng kết hợp với biện pháp bán rủi ro cho các chủ thể khác nhau có thể là một giải pháp mang tính thiết thực cao. Mặc dù thu nhập từ cho vay có thể giảm sút nhưng bù lại ngân hàng lại đảm bảo khả năng an toàn, phòng tránh được những rủi ro lớn mà ngân hàng không chịu nổi. Đây có thể là một hướng để Sở áp dụng.
3.2.5. Hoàn thiện quy trình tín dụng.
Trước hết Sở cần xây dựng chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng. Trong đó nội dung quy mô và giới hạn tín dụng cần đặc biệt chú ý, tránh việc chạy theo mục đích lợi nhuận dẫn tới nguy cơ chất lượng tín dụng bị suy giảm. Trong các quy định về tài sản thế chấp trong việc cho vay vốn, Sở không nên coi tài sản thế chấp là chỗ dựa hoàn toàn đảm bảo an toàn tín dụng. Vấn đề là ai và hiệu quả sử dụng vốn như thế nào. Nếu được Sở nên nhận tài sản thế chấp là các giấy tờ có giá, dễ chuyển thành tiền, ít bị rủi ro hơn.
Trong công tác kiểm tra, giám sát khoản vay ngân hàng cần chủ động hơn. Điều đó giúp ngân hàng sớm phát hiện các dấu hiệu rủi ro. Không chỉ kiểm tra qua các báo cáo định kỳ do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng phải chủ động xuống tận cơ sở để kiểm tra. Việc kiểm tra không chỉ dừng lại ở mức tối thiểu 1 lần/ 1 năm như hiện nay mà cần xác định phù hợp với ngành nghề kinh doanh của khách hàng và nên quy định thực hiện ít nhất 1 lần/1 quý. Việc kiểm tra này không chỉ được thực hiện bởi cán bộ tín dụng phụ trách khoản cho vay mà cần quy định thêm việc thực hiện kiểm tra chéo giữa các cán bộ tín dụng và đối với những khoản vay lớn có thể có sự kiểm tra đánh giá của một bộ phận chuyên trách.
Sở cần quy định việc cán bộ tín dụng xuống cơ sở của khách hàng để thu nợ khi đến hạn. Quy định này thể hiện sự quan tâm, theo dõi sát sao của ngân hàng, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng không phải tốn nhiều thời gian, mặt khác đảm bảo các khoản nợ được trả đúng hạn, buộc khách hàng nâng cao ý thức trách nhiệm đối với khoản vay.
Trong việc thực hiện quy trình tín dụng cần có sự phân công trách nhiệm rõ ràng về phía ban lãnh đạo, về các cán bộ nhân viên cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận. Trong đó cùng với việc giao trách nhiệm cho cán bộ tín dụng cần quan tâm hơn đến quyền lợi của họ. Cần có sự động viên khuyến khích cả về tinh thần và vật chất kịp thời đối với những cán bộ tín dụng làm việc có hiệu quả.
3.2.6. Xử lý NQH bằng đồng tài trợ.
Trong những năm qua Sở đã thực hiện các biện pháp kiên quyết để thu hồi NQH, NKĐ, từng bước giảm tỷ lệ NQH trong tổng dư nợ . Tuy nhiên có một số khoản NQH mà khả năng của Sở không đủ sức về vốn, về con người và kinh nghiệm để giải quyết hoặc giải quyết không hiệu quả. Nên chăng, Sở cần phối hợp với các ngân hàng khác theo dạng đồng tài trợ để xử lý NQH. Như thế sẽ tập trung và phân bổ cho nhau thế mạnh, hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, bổ sung nghiệp vụ.
Dưới đây là một số đề suất cụ thể để xử lý NQH bằng đồng tài trợ.
Xử lý NQH mới phát sinh, ta phải phân loại NQH này theo các nguyên nhân khác nhau
+ Nếu là do ngân sách nợ: nên mời tham gia đồng tài trợ với các ngân hàng khác cho ứng vốn trước ngân sách dưới dạnh mua nợ và ngân hang cam kết khi có tiền sẽ trả cho ngân hàng mua nợ.
+Nếu là do xác định thời hạn không đúng
Dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. nên mời các ngân hàng khác tham gia hợp đồng vốn, hoặc bán nợ trong một thời gian sau đó mua lại.
Nếu quay vòng vốn nhiều lần do kiểm soát khách hàng không tốt, không am hiểu lĩnh vực kinh doanh của khách hàng, Sở nên tham gia đồng tài trợ, hoặc bán nợ cho ngân hàng am hiểu lĩnh vực này. Ví dụ: khách hàng vay để nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại ở ngân hàng khác, có thể tham gia đồng tài trợ giữa 2 ngân hàng để kết hợp 2 nguồn hoặc mua nợ.
+ Nếu do hàng chậm luân chuyển: Sở nên kết hợp với ngân hàng khác cho khách hàng mua hàng và có mạng lưới đại lý tốt vay vốn để mua hàng và bán hàng chậm luân chuyển, hoặc các ngân hàng có khách hàng quen, có lĩnh vực tiêu thụ các mặt hàng này. Ví dụ: Sở có khách hàng có mạng lưới bán mì ăn liền xuất khẩu tốt, trong khi ngân hàng khác có khách hàng sản xuất mì nhưng không bán được và khách hàng vay vốn đã vượt quá hạn mức sẽ phải tham gia đồng tài trợ để mua mì và xuất đi.
Xử lý NQH đã chuyển sang NKĐ.
Do coi trọng tài sản thế chấp hơn phương án vay vốn hoặc không kiểm soát được phương án kinh doanh hoặc giữ lô hàng mà ngân hàng không am hiểu, ngân hàng nên bán nợ hoặc đồng tài trợ với ngân hàng khác có khách hàng quen thuộc am hiểu lĩnh vực này.
Để ngăn ngừa NQH
Sở có thể tham gia đồng tài trợ để cùng xây dựng một hạn mức và cùng kiểm soát để khách hàng không tăng quy mô kinh doanh quá sức của mình, chia sẻ rủi ro.
Có thể tham gia đồng tài trợ khi đang gia hạn nợ do kế hoạch kinh doanh không đúng như dự kiến, trong trường hợp này nên mời các ngân hàng có khách hàng là người mua hàng cùng đồng tài trợ, hoặc mua lại nợ. Trên cơ sở ngân hàng khác kiểm soát được luồng tiền của khách hàng và chuyển trả nợ cho người bán.
Nếu vì nhu cầu vốn của doanh nghiệp quá lớn nhưng đã không cho vay đủ số vốn cần thiết dẫn đến không phù hợp với nhu cầu kinh doanh có khả năng dẫn đến NQH, mời ngân hàng khác tham gia bơm thêm vốn để tiếp sức cho khách hàng.
Đồng tài trợ nợ tốt: đây là dạng hợp vốn với thời gian < thời gian cho vay với lãi suất < lãi suất cho vay.
Ngoài các giải pháp trên, Sở còn kết hợp thực hiện các giải pháp khác như thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, linh hoạt trong khâu xử lý nợ, đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng... nhằm hạn chế RRTD đến mức thấp nhất.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hạn chế RRTD tại SGDI - NHCT VN.
Trong nhiều năm qua, Sở đã có nhiều cố gắng nhằm quản lý RRTD, giảm tỷ lệ NQH, giảm số nợ tồn đọng. Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn cũng như còn có những hạn chế nhất định. Để tạo điều kiện giúp đỡ ngân hàng thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình, NHNN,NHCT VN cũng như chính phủ và các ban ngành các cấp cũng cần có một số biện pháp tháo gỡ những vấn đề ách tắc do quản lý vĩ mô chưa phù hợp.
3.3.1. Kiến nghị về phía NHCTVN
3.3.1.1. NHCTVN cần phải thành lập phòng thẩm định riêng tại Sở giao dịch I
Ngày 20/10/2003, Chủ tịch Hội đồng Quản trị NHCTVN đã ban hành quyết định số 135/QĐ-HĐQT-NHCT1 về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo dự án hiện đại hoá WB. Từ đó đã nâng số phòng của Sở giao dịch I từ 09 phòng lên 11 phòng chức năng. Tuy nhiên khi xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau thì vẫn thấy rằng Sở giao dịch I cần phải có một phòng thẩm định riêng. Công tác thẩm định là một khâu quan trọng và rất cần thiết trong quy trình tín dụng. Tuy rằng trình độ cán bộ tín dụng đã được nâng lên nhiều nhưng vì công tác thẩm định là rất phức tạp và khó khăn nên người cán bộ tín dụng không thể xem xét hết được khả năng tài chính và dự án kinh tế của khách hàng. Vì vậy có một phòng thẩm định riêng sẽ giúp cho Sở giao dịch I thẩm định được kỹ càng tình hình tài chính của các doanh nghiệp xin vay từ đó sẽ phát hiện ra những nghi ngờ về số liệu báo cáo của doanh nghiệp. Dẫn đến sẽ hạn chế được tình trạng cho vay đối với những khách hàng có tình hình tài chính bất ổn. Ngoài ra việc có một phòng thẩm định sẽ giúp cho cán bộ tín dụng thẩm định được các dự án có hiệu quả kinh tế hay không, tránh hiện tượng đầu tư vào những dự án không có hiệu quả, hoặc hiệu quả kinh tế thấp. Từ đó góp phần làm hạn chế RRTD tại Sở giao dịch I.
3.3.1.2. NHCTVN cần tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho cán bộ
Trong những năm gần đây, trình độ cán bộ tuy đã được nâng lên nhiều về nghiệp vụ song chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Sở giao dịch I, nhất là về vi tính và ngoại ngữ nên khi áp dụng công nghệ Ngân hàng hiện đại còn gặp nhiều khó khăn. Số cán bộ đang phải học chuyển đổi từ cao đẳng lên Đại học cũng rất đông nên ảnh hưởng nhiều đến công việc. Vì vậy NHCTVN cần phải thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ nhằm nâng cao trình độ về nghiệp vụ để giúp cho cán bộ có thể dễ dàng tiếp cận với Công nghệ Ngân hàng hiện đại. Từ đó cán bộ nhân viên Sở giao dịch I có thể hoàn thành tốt công việc của mình trong quá trình HĐH của Sở giao dịch I. Nhất là cán bộ tín dụng có thể làm tốt công tác thu thập thông tin về khách hàng từ đó sẽ hạn chế được việc cho vay đối với những khách hàng không đảm bảo về tài chính từ đó sẽ hạn chế được RRTD.
3.3.2. Kiến nghị đối với NHNN
3.3.2.1. NHNN cần hoàn thiện các văn bản về quy chế trích lập quỹ dự phòng rủi ro.
Hiện nay, việc trích lập quỹ DPRR trong hoạt động tín dụng được thực hiện theo quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5 ngày 8-2-1999 của thống đốc NHNN. Đây là một quyết định rất phù hợp với xu thế và tình hình hiện nay của các ngân hàng. Tuy nhiên, do bước đầu xây dựng và thực hiện thì quyết định này có những điểm chưa thực sự phù hợp.
Thứ nhất, về thời điểm trích lập DPRR. Theo quy định này thì các tổ chức tín dụng phải phân loại tài sản “có” và trích lập dự phòng để bù đắp rủi ro mỗi năm 1 lần trong vòng 25 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm. Việc làm này sẽ làm cho hầu hết các tổ chức tín dụng bị lỗ ngay từ đầu năm và có thể kéo dài suốt cả năm dẫn đến tình trạng là kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng không được phản ánh một cách chính xác trên sổ sách kế toán suốt cả năm. Nên chăng cho phép các tổ chức tín dụng được trích lập DPRR vào thời điểm cuối mỗi quý. Việc làm này vừa có ý nghĩa về mặt tài chính, vừa đảm bảo cho số DPRR được trích ra luôn gắn liền với mục đích rủi ro có thể xảy ra.
Thứ hai. Tỷ lệ trích lập DPRR. Việc quy định trích DP 0% đối với các tài sản có thuộc nhóm 1 có nghĩa là tài sản này không hề có rủi ro, 100% đối với tài sản thuộc nhóm 4 chứng tỏ sự thừa nhận rằng các khoản nợ thuộc nhóm 4 được đánh giá là hoàn toàn không có khả năng thu hồi. Nhưng thực tế cho thấy, những khoản nợ chưa đến hạn vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thậm chí có thể xác định là không thể thu hồi được trong trường hợp con nợ bị phá sản, giải thể hoặc chết, mất tích. Do đó tỷ lệ trích lập 0% là không hợp lý. Thông thường các tổ chức tín dụng chỉ cho vay bằng hoặc thấp hơn 70% giá trị tài sản đảm bảo. Như vậy ngay cả khi giá trị tài sản đảm bảo bị mất giá tới 50-70% thì khoản nợ vẫn được thu hồi được 40-70%. Do đó tỷ lệ trích lập 100% với tài sản có thuộc nhóm 4 là chưa phù hợp. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ nên quy định việc trích lập DPRR cần phải phù hợp với mức độ tổn thất có thể xảy ra.
Thứ ba, đó là việc trích DPRR đối với các khoản NQH cũ được tích luỹ từ nhiều năm trước được dồn vào 1 năm tài chính dẫn đến tình trạng nhiều tổ chức tín dụng bị lỗ lớn và không phản ánh đúng kết quả kinh doanh trong năm tài chính của các tổ chức tín dụng. Vì vậy NHNN nên cho các khoản NQH cũ được tồn lại từ nhiều năm trước dải ra một số năm kế tiếp theo nhằm tránh gây ra những đột biến lớn về việc suy giảm lợi nhuận.
Và cuối cùng là việc sử dụng quỹ DPRR để xử lý NQH không có khả năng thu hồi. Các khoản NQH không có khả năng thu hồi đang là một gánh nặng lớn đối với hoạt động của các NHTM QD. Việc xử lý các khoản nợ này có thể được thực hiện bằng việc sử dụng quỹ bù đắp rủi ro được trích lập hàng năm. Nhưng việc sử dụng quỹ DPRR để thực hiện xoá nợ đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi đối với các NHTM QD là rất khó khăn. Mặc dù các khoản nợ này đã được xác định là không có khả năng thu hồi và không bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng, nhưng để xoá nợ thì ngân hàng phải thực hiện rất nhiều thủ tục rườm rà, mất thời gian. Vì vậy, NHNN cần xem xét lại vấn đề thủ tục xét duyệt xoá nợ không có khả năng thu hồi, giúp các NHTM QD nhanh chóng thực hiện cơ cấu lại tình hình tài chính, làm sạch bảng tổng kết tài sản.
3.3.2.2. NHNN cần có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin tín dụng của trung tâm thông tin tín dụng.
Hiện nay, nguồn thông tin chính thức của ngân hàng và các tổ chức tín dụng là ở trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Tuy nhiên, do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện lên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin. Việc thu thập xử lý thông tin biến động của CIC thực hiện chưa có hiệu quả, số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác cung cấp, thông tin này thường bị sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ pháp lệnh kế toán thống kê. Việc cung cấp thông tin không kịp thời đã làm cho các thông tin bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, và xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần trách nhiệm hợp tác với nhau để cho vay.
Chính vì vậy mà thông tin của CIC không đủ khả năng giúp các NHTM và các tổ chức tín dụng khác đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của các doanh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của quyết định cho vay, khiến cho mức rủi ro trong công tác tín dụng của NHTM VN cao hơn mức an toàn cho phép. NHNN cần có các chính sách và biện pháp tích cực hơn nhằm sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động tín dụng của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
3.3.2.3. Một số kiến nghị khác.
NHNN cần tiếp tục nghiên cứ kinh nghiệm thực tế của các nước trong việc quản lý RRTD, cần cho phép các ngân hàng đầu tư thêm vào tài sản xiết nợ để khai thác có hiệu quả hơn như đầu tư hoàn chỉnh thêm vào các tài sản đã được gán nợ còn đang xây dựng dở dang hoặc bị hư hỏng xuống cấp. Mặt khác NHNN cần phải có các văn bản hướng dẫn chỉ đạo việc cạnh tranh giữa các NHTM nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh tránh vì mục đích tranh giành khách hàng quá mức dẫn tới hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng dẫn tới rủi ro.
3.3.3. Về phía nhà nước.
Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tuy đã có những thành tựu nhất định song vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện. Với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cùng hoạt động bình đẳng và cạnh tranh mạnh mẽ đã tạo lên một thị trường hết sức sôi động, đồng thời cũng tiềm ẩn trong đó không ít rủi ro. Trong môi trường đó, việc xây dựng một hành lang pháp lý an toàn thuận lợi và việc đưa ra các chính sách quản lý vĩ mô phù hợp của nhà nước có tính chất quyết định đến thành công hay thất bại của mỗi NHTM trong việc quản lý RRTD và việc phát triển hoạt động ngân hàng. Để tạo điều kiện cho các NHTM nói chung và SGDI-NHCT VN nói riêng thực hiện tốt công tác quản lý RRTD đề nghị nhà nước xem xét một số vấn đề sau:
3.3.3.1. Nhà nước cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với các doanh nghiệp
Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế tư nhân ở giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, với thể chế, chính sách chưa hoàn chỉnh, đồng bộ đã nẩy sinh những mặt trái của nó, như kinh doanh không đúng ngành nghề như đăng ký, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp không phản ánh đúng chế độ kế toán thống kê (một phần là do pháp lệnh kế toán thống kê ở nước ta chưa đầy đủ và hiệu lực, một phần là do điều kiện hạch toán thống kê ở nước ta chưa phát triển và chưa thực hiện hoạt động kiểm toán bắt buộc định kỳ, chưa có những biện pháp kinh tế và hành chính xử lý các vi phạm thích đáng). Vì thế trước tiên nhà nước cần chấn chỉnh việc cấp phép hoạt động và kinh doanh đối với các doanh nghiệp mới, đảm bảo các điều kiện về vốn, cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh, cán bộ điều hành có đủ năng lực phẩm chất và có phương án kinh doanh khả thi. Thứ hai, nhà nước cần có những biện pháp kinh tế và hành chính tăng cường hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp.
Hiện tại khách hàng chính của các NHTM là các doanh nghiệp quốc doanh nên việc chấn chỉnh lại hoạt động của các doanh nghiệp này phải tiến hành song song với việc cải tổ hệ thống ngân hàng. Nhà nước chỉ lên nắm giữ những doanh nghiệp chủ đạo trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp còn lại, nếu có thể duy trì hoạt động hiệu quả thì mới được phép tồn tại. Sau khi sắp xếp lại các DNQD, chính phủ cũng cần có biện pháp tăng cường năng lực tài chính để nâng số vón tự có của các doanh nghiệp này lên, khắc phục tình trạng vốn vay ngân hàng chiếm phần lớn trong tổng vốn kinh doanh và dùng vốn vay ngắn hạn để mua sắm tài sản cố định. Qua đó sẽ nâng cao được trách nhiệm của doanh nghiệp trong vạch ra kế hoạch và thực thi chiến lược sản xuất kinh doanh, đảm bảo an toàn về vốn, trong đó có vốn vay ngân hàng. Điều này sẽ giúp cho các tổ chức tín dụng nói riêng và xã hội nói chung tránh phải bơm vốn vào những doanh nghiệp không hiệu quả.
3.3.3.2. Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế pháp lý về giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản, thi hành án.
Tranh chấp HĐTD chủ yếu là do người vay đơn phương vi phạm hợp đồng, không tuân thủ đúng nghĩa vụ trả nợ tiền vay, buộc các ngân hàng phải đề nghị cơ quan pháp luật xử lý tài sản thế chấp hoặc kê biên xử lý các tài sản khác của người vay để thu nợ. Tuy nhiên, nhiều khi chi phí phát sinh cho việc kê biên tài sản phát mại tài sản còn lớn hơn số nợ thu hồi. Tiến độ giải quyết vụ việc rất chậm, riêng thời gian hoà giải phải làm tới 3 lần, thời gian xét xử tối thiểu cũng phải mất 3 tháng, thời gian thi hành án nhanh thì cũng mất 1 - 3 tháng, chậm 6 tháng, có khi 1 - 2 năm. Chính vì vậy, việc xử lý NQH của ngân hàng bị kéo dài thậm chí là bế tắc. Do đó, việc đầu tiên cần làm là nhà nước thiết lập một cơ chế pháp lý khắc phục được những bất cập hiện hành trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản, thi hành án. cơ chế pháp lý này phải phù hợp với đặc trưng, yêu cầu của hoạt động tín dụng. Về hình thức, cơ chế pháp lý phải có văn bản có hiệu lực cao, tầm luật do Quốc hội ban hành, chỉ có như vậy mới giải quyết được các tồn tại hiện nay. Kèm theo đó phải là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để của các cơ quan nhà nước, của toàn xã hội.
3.3.3.3. Nhà nước cần hoàn chỉnh các văn bản pháp luật hướng dẫn việc nhận và sử lý tài sản đảm bảo giúp đỡ các ngân hàng giải quyết NQH, giải toả các khoản nợ đóng băng.
Do hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn việc nhận và xử lý tài sản đảm bảo của nước ta chưa toàn diện và đồng bộ và lại thường xuyên thay đổi vì vậy đã gây không ít khó khăn cho Sở nói riêng và các NHTM nói chung trong việc sử lý tài sản đảm bảo. Có thể đưa ra một vài vấn đề như sau:
+ Xác định giá trị tài sản đảm bảo: đây là nội dung rất quan trọng, làm cơ sở để tổ chức tín dụng quyết định mức cho vay so với giá trị tài sản và được quy định rõ trong khoản 1 điều 8 của nghị định 178. Theo nghị định, việc xác định giá trị đảm bảo là chưa phù hợp với thực tế vì việc lập thành văn bản riêng hoặc ghi vào HĐTD là tuỳ thuộc vào đặc điểm của các loại tài sản đảm bảo và do các bên thoả thuận. Nên chăng, việc xác định giá trị tài sản đảm bảo tiền vay tại thời điểm kí kết hợp đồng đảm bảo chỉ làm cơ sở xác định mức cho vay của tổ chức tín dụng, không áp dụng khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
+ Xác định giá trị quyền sử dụng đất. Đối chiếu với quy định của luật sửa đổi và bổ sung một số điều của luật đất đai năm 2001 và nghị định 791/2001/NĐ-CP thì không có sự thay đổi. Vướng mắc ở đây là giá trị thế chấp quyền sử dụng đất được nhà nước giao, đất ở, đất được chuyển nhượng hợp pháp là giá đất của UBND tỉnh, thành phố quy định hay là theo giá trị thị trường. Nên chăng để cho tổ chức tín dụng và khách hàng vay thoả thuận theo giá thực tế chuyển nhượng ở địa phương đó tại thời điểm thế chấp. Tổ chức tín xem xét quyết định mức cho vay và tự chịu trách nhiệm về rủi ro vốn vay.
3.3.4. Kiến nghị với các doanh nghiệp.
Trong hoạt động ngân hàng các doanh nghiệp giữ vai trò hết sức quan trọng, là đối tác chủ yếu trong hoạt động ngân hàng. ở nước ta, lợi nhuận của các NHTM được khai thác chủ yếu là từ hoạt động tín dụng mà doanh nghiệp là khách hàng chính. Vậy có thể nói các doanh nghiệp vay vốn mang cho ngân hàng sự tồn tại và phát triển. Tuy nhiên các doanh nghiệp mang không ít rủi ro cho ngân hàng, đôi khi quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bị ách tắc dẫn tới vốn không thu hồi được gây ra tình trạng NQH và điều này ảnh hưởng rất nhiều tới ngân hàng. Do vậy, để cùng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường cả ngân hàng và doanh nghiệp cùng phải có trách nhiệm giữ gìn mối quan hệ giữa hai bên để cùng nhau hạn chế rủi ro tín dụng.
Chính vì thế, muốn phòng ngừa và hạn chế RRTD thì về phía doanh nghiệp cũng cần có giải pháp để cùng ngân hàng khắc phục như:
+ Doanh nghiệp cần phải cung cấp thông tin liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính… của mình một cách trung thực, đầy đủ.
+ Doanh nghiệp phải có trách nhiệm với khoản vay của mình, phải quản lý và sử dụng chúng đúng mục đích và có hiệu quả.
+ Doanh nghiệp phải có ý thức hoàn trả vốn vay cho ngân hàng, giữ chữ tín với ngân hàng
+ Định kỳ gửi các báo cáo tài chính tới ngân hàng, báo cáo tài chính phải trung thực, đầy đủ, chính xác.
+ Đáp ứng yêu cầu của cán bộ tín dụng khi họ đến kiểm tra tình hình kinh doanh của mình.
Tóm lại bản thân Sở Giao Dịch có thể chủ động hạn chế một phần rủi ro thông qua các biện pháp: chuyên môn hoá cán bộ tín dụng, nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động tín dụng, đa dạng hoá các hoạt động đầu tư, tín dụng... tuy nhiên việc hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là trách nhiệm của một mình Sở mà còn cần sự phối hợp của các cấp các ngành, sự chỉ đạo điều hành của chính phủ và NHNN. Chính vì vậy chính phủ và NHNN cần có những biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong việc hạn chế RRTD bao gồm: hoàn thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp, nâng cao chất lượng của công tác thông tin tín dụng...và hy vọng rằng với sự chỉ đạo điều hành của chính phủ, NHNN, sự phối kết hợp của các bộ các ngành và sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên chức tại ngân hàng, tình trạng RRTD sẽ được hạn chế ở mức độ an toàn, tạo điều kiện phát triển KT - XH.
Kết luận
Một trong những yếu kém chủ yếu hiện nay của hệ thống NHTM VN là “chất lượng hoạt động tài sản có của các NHTM trong nước rất thấp, NQH cao” (Đỗ Tất Ngọc-tạp chí Ngân hàng số đặc biệt 2001, tập 2 trang 41). Mặt khác, để thực hiện được định hướng công tác năm 2004 của SGDI - NHCT VN các biện pháp đã được thông qua trong đó có biện pháp “... tăng cường cập nhật thông tin, nắm bắt kịp thời tình hình biến động trên thị trường tài chính tiền tệ cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của từng khách hàng (thông qua các hình thức phân tích, đánh giá, phân loại nợ vay) để chủ động áp dụng các chính sách cho vay đúng hướng, hạn chế yếu tố rủi ro tiềm ẩn, đảm bảo vốn vay an toàn và phát huy được hiệu quả kinh tế...” (Báo cáo tổng kết công tác kinh doanh 2003 và triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2004 của SGDI - NHCT VN).
Như vậy, vấn đề cấp bách nhất hiện nay trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và SGDI nói riêng là làm sao để đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản về RRTD và qua quá trình tìm hiểu hoạt động tín dụng và thực trạng tình hình RRTD của SGDI-NHCT VN, thông qua phân tích tình hình trên, luận văn đã đề xuất một số giải pháp sát thực và khả thi nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN. Theo đó Sở có thể chủ động hạn chế rủi ro tín dụng. Song vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng, thiết nghĩ đó không phải là chỉ giới hạn trong Sở mà nó cần có sự quan tâm của chính phủ, các cấp các ngành và của toàn xã hội. Vì vậy chuyên đề cũng xin đề xuất một số kiến nghị đối với chính phủ cũng như NHNN và các doanh nghiệp. Đó là những ý kiến đóng góp nhỏ nhằm hạn chế RRTD tại SGDI-NHCT VN nói riêng và hệ thống NHTM nói chung.
Do thời gian nhiên cứu và trình độ chuyên môn còn hạn chế, mặt khác vấn đề RRTD rất phức tạp và rộng lớn vì thế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô, các cán bộ nhân viên ngân hàng và các bạn để bài viết có ý nghĩa thiết thực hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn thầy giáo hướng dẫn Trương Đăng Khoa, các thầy cô trong khoa Quản trị Kinh doanh Ngân hàng cùng tập thể ban lãnh đạo, cán bộ tín dụng SGDI - NHCT VN đã tận tình hướng dẫn giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Tín dụng Ngân hàng, Học viện ngân hàng (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và Ngân hàng, Học viện ngân hàng (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Frederic S Mishkin, Nxb Khoa học kỹ thuật.
Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng, viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (1998), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, PTS.Nguyễn Văn Tiến (1999), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Ngân hàng thương mại-quản trị và nghiệp vụ, TS.Phan Thị Thu Hà, TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nxb Thống kê, Hà nội.
Luật NHNN VN và luật các tổ chức tín dụng (được quốc hội thông qua ngày 12/12/1997).
Quyết định số 48/QĐ-NHNN5 ngày 8/2/1999 của Thống đốc NHNN về trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Báo cáo kết quả kinh doanh 2001,2002,2003 của SGDI-NHCT VN/
Tạp chí ngân hàng các năm ,2000,2001,2002,2003.
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Tạp chí phát triển kinh tế.
Các ký hiệu viết tắt trong chuyên đề
RRTD: Rủi ro tín dụng
TD: Tín dụng
TDNH: Tín dụng ngân hàng
NHTM: Ngân hàng thương mại
KT-XH: Kinh tế-xã hội
KTQD: Kinh tế quốc doanh.
KT NQD: Kinh tế ngoài quốc doanh.
KQKD: Kết quả kinh doanh
KTTT: Kinh tế thị trường
NQH, NKĐ: Nợ quá hạn, nợ khó đòi.
NCVĐ: Nợ có vấn đề
HĐTD: Hợp đồng tín dụng
CNH-HĐH: Công nghiệp hoá-hiện đại hoá
DPRR: Dự phòng rủi ro.
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
GTVT: Giao thông vận tải
NHNNVN: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0031.doc