Tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội: ... Ebook Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2843 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sau 20 năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và dân doanh nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả.
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động tạo ra giá trị cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống NHTM ở nước ta hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Do đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng và hoàn thiện các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
Trước tình hình đó, cộng với những kiến thức có được trong quá trình nghiên cứu thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, tôi quyết định chọn tên đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội” để từ đó có nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quản lý rủi ro tín dụng đối với sự an toàn và vững mạnh của NHTM nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương 1: Lý thuyết chung về rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Chương i
rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm và phân loại
Ngân hàng là một trung gian tài chính có chức năng quan trọng là thu hút, tập trung các nguồn vốn, chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Các dịch vụ ngân hàng cung cấp ngày càng phong phú, đa dạng và cũng mang lại cho ngân hàng nguồn thu không nhỏ. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vẫn là tín dụng.
Trong các hoạt động của ngân hàng, tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Theo nhiều tiêu thức, tín dụng được phân chia như sau:
Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành tín dụng ngắn, trung và dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn là những khoản vay có thời hạn dưới 1 năm, để tài trợ cho tài sản lưu động.
Tín dụng trung hạn là những khoản vay thông thường từ 1 đến 5 năm, tài trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị…
Tín dụng dài hạn là những khoản vay từ 5 năm trở lên để tài trợ cho tài sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
Nhìn chung, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn ở ngân hàng thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn. Đó là do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của khách hàng. Hơn nữa, tín dụng trung và dài hạn thường có rủi ro cao hơn và nguồn đắt hơn. Việc phân loại theo thời gian để ngân hàng quản lý nhằm đảm bảo an toàn và sinh lợi.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong thời gian xác định. Trong phần lớn các ngân hàng, cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh có nhiều loại như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Cho thuê có hai hình thức là cho thuê nghiệp vụ và thuê tài chính.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
Theo tài sản đảm bảo, tín dụng được chia thành tín dụng có và không có tài sản đảm bảo.
Tín dụng có tài sản đảm bảo là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn dựa trên cam kết người nhận tín dụng sẽ dùng tài sản đảm bảo để trả nợ trong một số trường hợp.
Tín dụng không có tài sản đảm bảo: có thể được cấp cho khách hàng có uy tín, thường làm ăn thường xuyên có lãi hoặc các khoản vay của các tổ chức lớn hay theo chỉ định của Chính phủ.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn được phân loại theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định), theo mục đích sử dụng vốn (sản xuất, tiêu dùng…). Việc phân loại tín dụng cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi, gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.1.2. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Nhìn chung, hoạt động này phải tuân theo 3 nguyên tắc sau.
Thứ nhất, khách hàng phải cam kết trả cả gốc và lãi cho ngân hàng trong một thời gian xác định. Đó là do ngân hàng cho vay dựa trên các khoản tiền gửi của khách hàng và bản thân ngân hàng đi vay mượn. Cho nên ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như cam kết. Để có thể tồn tại và phát triển, ngân hàng luôn yêu cầu người vay vốn phải thực hiện đúng như cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, phù hợp theo luật hiện hành. Thông thường, hoạt động của ngân hàng đươc quy định trong luật nhưng mỗi ngân hàng lại có quy định riêng. Mục đích sử dụng vốn được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho những hoạt động trái pháp luật và phạm vi của ngân hàng. Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, khách hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước ngân hàng và luật pháp.
Thứ ba, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án) có hiệu quả. Bởi vì chỉ khi hoạt động sử dụng vốn vay ngân hàng mang lại lợi nhuận thì khách hàng mới có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Trong trường hợp thấy phương án hoặc dự án đó có thể có rủi ro cao, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có các hình thức đảm bảo tiền vay.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của phần lớn các ngân hàng thương mại, thường chiếm tỷ trọng từ 60 – 70% lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, ngân hàng luôn tìm cách duy trì, mở rộng tín dụng thông qua việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Mặt khác, hoạt động tín dụng còn có tác động đến những hoạt động kinh doanh khác hay uy tín nên ngân hàng cũng phải quan tâm đến chất lượng tín dụng để tránh những ảnh hưởng xấu. Như vậy, ngay đối với bản thân ngân hàng, tín dụng đã chiếm một vai trò quan trọng, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế, tín dụng ngân hàng lại thể hiện một vai trò rõ nét hơn.
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình điều hoà vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong cấu trúc hệ thống tài chính, ngân hàng là trung gian tài chính, có chức năng chuyển vốn từ người tiết kiệm đến người đầu tư và kiếm lời bằng phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Như vậy, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã tập trung vốn từ những người có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều chuyển đến những người muốn sản xuất kinh doanh, nhưng lại thiếu vốn. Do đó, các loại hình tín dụng càng phong phú và đa dạng bao nhiêu, quá trình điều hoà vốn càng đạt hiệu quả bấy nhiêu.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng cung cấp một nguồn vốn quan trọng, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Có thể nói rằng: không một công ty nào có thể hoạt động tốt và tồn tại vững chắc trên thị trường mà không sử dụng vốn vay ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, không bị gián đoạn; đặc biệt là có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp phải mất chi phí sử dụng, lại chịu sự thẩm định, giám sát từ phía ngân nên sẽ có ý thức tốt hơn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ chính sách tiền tệ, giúp chính phủ điều tiết nền kinh tế. Thông qua hạn mức tín dụng, lãi suất tín dụng, Chính phủ có thể điều tiết lượng cung tiền tệ hợp lý, góp phần kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng cũng tham gia vào quá trình tập trung vốn, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng chiếm vai trò quan trọng đối với ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế. Để có thể phát huy được vai trò của nó, ngân hàng càng ngày càng mở rộng nhiều loại hình tín dụng. Tuy nhiên, để tránh các tác động xấu có thể xảy ra, ngân hàng cần xem xét, đánh giá kỹ các rủi ro tiềm ẩn trước khi cấp tín dụng.
1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ – loại hàng hoá đặc biệt, do vậy nó chứa đựng rất nhiều rủi ro, gây những tổn thất không mong muốn đối với ngân hàng. Những rủi ro mà ngân hàng thường gặp phải trong quá trình hoạt động như : rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn…Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lợi chủ yếu của ngân hàng nên rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro có thể mang lại những tổn thất nghiêm trọng đối với ngân hàng, thậm chí làm phá sản. Để hạn chế được loại hình rủi ro này, trước hết phải hiểu thế nào là rủi ro tín dụng?
Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng, nhưng trong phạm vi luận văn này, rủi ro tín dụng được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất tài chính mà ngân hàng phải chịu do người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc, lãi như cam kết có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí không được trả.
Thông thường, khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không phải bao giờ các quyết định cũng là chính xác, một phần là do khách hàng, một phần do ngân hàng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là tất yếu khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, chỉ có thể hạn chế, không thể loại trừ.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Để có thể xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường tiến hành phân loại theo từng tiêu thức:
Theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro tín dụng được chia thành rủi ro theo khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Theo nguồn gốc hình thành , rủi ro tín dụng được chia thành 3 loại:
+ Rủi ro từ phía người cho vay: là những rủi ro do chính sách của ngân hàng; việc nghiên cứu và dự báo; theo dõi, xử lý rủi ro tín dụng; cán bộ tín dụng; công tác kiểm tra, kiểm soát…
+ Rủi ro từ phía người vay: rủi ro đạo đức, rủi ro vì khả năng tài chính yếu kém; biến động khả năng kinh doanh; vị trí của doanh nghiệp thay đổi; mối quan hệ với đối tác…
+ Rủi ro từ nguyên nhân khác: vì khâu quản lý của ngân hàng Nhà nước, chế độ chính sách, môi trường, biến động kinh tế…
1.2.3. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Các chuyến thăm khách hàng thường xuyên là cách tốt nhất để phát hiện nhanh chóng những dấu hiệu này. Những chuyến thăm luôn phải có việc kiểm tra tình hình thực tế và sổ sách của khách hàng. Sau đây là một số dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng cần được kiểm tra:
Từ báo cáo tài chính :
Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời.
Tiền mặt của khách hàng giảm
Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm
Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông của công ty.
Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng
Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm
Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
Từ hoạt động kinh doanh
Thay đổi về phạm vi kinh doanh
Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp.
Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng chính
Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành
Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng
Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm
Xuất hiện khoản nợ quá hạn
Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn
Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần
Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn) nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng.
Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi.
Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty
Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá
Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những rủi ro quá mức.
Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế
Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt
Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế
Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét, đánh giá kỹ để có thê hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng gây nên.
1.2.4. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng
Nhiều năm về trước,để đánh giá rủi ro tín dụng hầu hết các ngân hàng chỉ dựa duy nhất vào phương pháp định tính như xem xét khách hàng có đủ tư cách không, có tài sản thế chấp không, mục đích vay có hợp lý không…Tuy nhiên, phương pháp này tỏ ra vừa mất thời gian, tốn kém, lại mang tính chủ quan, chính vì vậy, ngân hàng không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng để ra quyết định cho vay.
Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp truyền thống ở chỗ là nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng ngân hàng. Các mô hình cho điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản ánh những đặc điểm của người vay để lượng hoá xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng các mô hình này, nhà quản lý phải xác định các tiêu chí về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính… Đối với tín dụng công ty thì các chỉ tiêu tài chính thường là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi tiêu chí đã được xác định, kỹ thuật thống kê sẽ được sử dụng để lượng hoá xác suất rủi ro tín dụng hoặc để phân loại rủi ro tín dụng. Sau đây là một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng cơ bản thường được sử dụng
1.2.4.1. Mô hình điểm số Z
Mô hình điểm số Z do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj)
Tầm quan trọng của các trị số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay (trọng số)
Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1 = tỷ số vốn lưu động ròng/tổng tài sản
X2 = tỷ số lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản
X3 = tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản
X4 = tỷ số thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn
X5 = tỷ số doanh thu/tổng tài sản
Trị số Z càng cao thì người vay cao xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao và ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi điểm số Z được cải thiện.
Tuy nhiên, mô hình này có những hạn chế là chỉ phân biệt được khách hàng thành hai nhóm vỡ nợ và không vỡ nợ. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả hay chậm trễ trong việc trả tiền vay đến không trả. Như vậy, cần có một mô hình chính xác hơn, với nhiều thang điểm khác nhau để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm. Hơn nữa, mô hình này không tính tới một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hoá, nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng như danh tiếng, mối quan hệ truyền thống hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh.
1.2.4.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay rất nhiều ngân hàng trên thế giới, trong đó có cả Việt nam sử dụng phương pháp cho điểm để lượng hoá rủi ro tín dụng trong việc xử lý các đơn xin vay của người tiêu dùng. Nhiều khách hàng ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ được xử lý bằng hệ thống cho điểm tự động. Thông thường, khách hàng có thể gọi điện thoại đến ngân hàng để xin vay, thông qua hệ thống máy tính nối mạng và có kết quả tín dụng sau vài phút.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thộc, sở hữu nhà, thu nhập, tài khoản…Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục, mỗi hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10 tương ứng với tình trạng người xin vay. Tổng điểm ở tất cả các hạng mục của khách hàng đó là tiêu chí để xếp hạng mức độ rủi ro cao hay thấp và từ đó có quyết định cho vay hay không?
Rõ ràng là mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên mô hình này cũng có nhược điểm như không điều chỉnh linh hoạt thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế.
1.2.5 . Tác động của rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Tác động của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng
Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có thể gặp phải khi rủi ro tín dụng xảy ra:
Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh. Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài sản là rất khó xảy ra.
Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Thứ ba, rủi ro tín dụng giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác.
1.2.5.2. Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế
Hoạt động của ngân hàng thương mại mang tính xã hội hoá cao vì nó liên quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đổ rất có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra, việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn; người gửi tiền không lấy lại tiền. Những hậu quả này còn làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
1.2.6. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân khác.
1.2.6.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Thứ nhất, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp ; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Thứ hai, sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba, ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro.
Thứ tư, định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.6.2. Nguyên nhân thuộc về người vay
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này thành hai loại chính:
Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được... Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai, do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao.Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình chây ỳ với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
1.2.6.3. Nguyên nhân khác
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai, những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo.
Thứ ba, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập…Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro tín dụng
Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng luôn đi đôi với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy, ngân hàng chỉ có thể đưa ra các biện pháp ngăn ngừa để giảm khả năng xảy ra hoặc giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây nên mà không thể loại trừ. Tuy nhiên, việc hạn chế rủi ro tín dụng được nhiều hay ít lại phụ thuộc phần lớn vào chính bản thân các ngân hàng. Sau đây là một số nhân tố ảnh hưởng tới việc hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.1. Chính sách và quy trình tín dụng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng, quy định chi phối hoạt động tín dụng do ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân; đồng thời thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. Thông thường, chính sách tín dụng quy định đối tượng vay vốn, nhu cầu vay vốn, hạn mức, điều kiện vay, phương thức quản lý…Nếu chính sách tín dụng được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông suốt từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh. Ngược lại, chính sách tín dụng không cụ thể, không thích ứng được với những thay đổi của môi trường, không phù hợp với khả năng và mục tiêu của ngân hàng sẽ làm giảm chất lượng của những khoản vay, dễ phát sinh rủi ro. Thực tế đã chứng minh rằng ngân hàng nào xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý, chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó thường cao hơn.
Trong khi đó, quy trình tín dụng lại bao gồm các bước cụ thể hoá chính sách tín dụng, giúp cán bộ tín dụng tiến hành quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa học, góp phần đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình cho vay gồm nhiều bước nhỏ nhưng thường được chia thành 4 giai đoạn: phân tích trước khi cấp tín dụng, xây dựng và ký kết hợp đồng, giải ngân, kiểm soát sau khi cấp tín dụng. Chính vì cán bộ tín dụng cho vay chủ yếu dựa vào các bước trong quy trình tín dụng nên đối với mỗi ngân hàng, quy trình cần được xây dựng cụ thể, chi tiết đối với mỗi loại hình tín dụng, mỗi đối tượng khách hàng để đảm bảo việc thực hiện đúng, đủ quy trình là có thể ._.hạn chế được rủi ro xảy ra.
1.3.2. Chính sách quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng
Trong công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng, ngoài việc tuân thủ theo các quy chế cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay…do ngân hàng trung ương ban hành, các ngân hàng thương mại cần xây dựng riêng cho mình một chính sách quản lý rủi ro tín dụng phù hợp. Mục tiêu của xây dựng chính sách này là nhằm giảm đến mức tối thiểu khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và tổn thất ở mức ngân hàng cho là hợp lý. Do vậy, chính sách này cần phải quản lý được các rủi ro hiện hữu ở từng khoản vay, cả trước và sau khi rủi ro gây ra tổn thất cho ngân hàng. Thông thường, chính sách quản lý rủi ro tín dụng thường đưa ra những khuyến cáo về ngành, lĩnh vực, đối tượng khách hàng không nên hoặc thận trọng cho vay để cán bộ tín dụng có thể sớm nhận biết được những rủi ro tiềm ẩn, đồng thời đưa ra những công cụ quản trị hữu hiệu, thích hợp với đặc điểm của từng ngân hàng. Cũng như vậy, trong trường hợp rủi ro đã xảy ra, chính sách quản lý rủi ro tín dụng cũng quy định cách thức giải quyết sao cho thu hồi được nợ nhiều và nhanh nhất, giảm tổn thất với ngân hàng. Có thể nói, ngân hàng ban hành được chính sách quản lý rủi ro tín dụng đầy đủ, cụ thể bằng văn bản, ngân hàng đó đã thành công bước đầu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.3. Tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng
Phần lớn các ngân hàng đều thành lập tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng như trung tâm thông tin tín dụng và phòng ngừa rủi ro, trung tâm giám sát và kiểm tra tín dụng, công ty quản lý nợ và xử lý tài sản đảm bảo. Các tổ chức này có chức năng cung cấp những thông tin thiết yếu cho cán bộ tín dụng về khách hàng, trợ giúp cán bộ trong quá trình ra quyết định cho vay; đồng thời giám sát, kiểm tra tình hình những khoản vay sau giải ngân để sớm phát hiện những dấu hiệu của rủi ro. Khi rủi ro xảy ra thì có biện pháp xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ. Các tổ chức quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng của một ngân hàng nên phối hợp với nhau vì chỉ khi các tổ chức này hoạt động hiệu quả thì mới hạn chế được nhiều rủi ro tín dụng. Tránh việc thành lập các tổ chức này mang tính hình thức vì như vậy không những ngăn ngừa được mà còn làm tình hình rủi ro tín dụng tại ngân hàng xấu đi.
1.3.4. Nhân tố công nghệ
Hiện nay, công nghệ thông tin là một trong những nhân tố có ảnh hưởng khá nhiều đến công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Một ngân hàng mà ứng dụng nhiều công nghệ, kỹ thuật hiện đại thì sẽ đạt tính chính xác, độ nhanh nhạy cao trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu các sai sót. Ví dụ như thông tin về khách hàng cập nhật hơn, đầy đủ hơn, đặc biệt là công tác chấm điểm khách hàng nếu làm tự động sẽ nhanh, ít nhầm lẫn hơn. Ngoài ra, các cấp quản lý khi cần cũng có thể nắm bắt thông tin về tình hình hoạt động tín dụng tại cơ sở nhanh nhất, chính xác nhất. Tóm lại, một ngân hàng nên đầu tư vào các trang thiết bị, công nghệ hiện đại để vừa mở rộng tín dụng lại vừa hạn chế được rủi ro.
Chương ii
Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
2.1. Đặc điểm ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
2.1.1. Lịch sử phát triển
Thành lập ngày 26/3/1988 theo luật các tổ chức tín dụng, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt nam. Đứng trước tình hình đổi mới của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng, Ngân hàng đã mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng từ đó NHNo &PTNT VN đã thành lập thêm nhiều chi nhánh trên cả nước đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,Huế , Gia Lai…Trên địa bàn Hà Nội ngày 27/6/1988 căn cứ theo quyết định số 51/QĐ-NH của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quyết định thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội.
Ngay từ khi thành lập chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội đã được phép thực hiện mọi hoạt động kinh doanh, được thanh toán trong và ngoài nước, tham gia các hoạt động mua bán ngoại tệ. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, đóng vai trò tao lập vốn tập trung cho vay các thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh cung cấp các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn thủ đô, góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của hệ thống NHTM quốc doanh.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội có những chức năng chính sau :
- Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu Ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác.
- Tiếp nhận vốn tài trợ, tín thác, uỷ thác đầu tư từ chính phủ, Ngân hàng nhà nước và các tổ chức quốc tế, quốc gia và cá nhân trong nước, ngoài nước đầu tư vào các chương trình phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội.
- Vay vốn Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước, các tổ chức, cá nhân và nước ngoài khác.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các cá nhân hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chiết khấu các loại giấy tờ có giá.
- Cho vay tài trợ theo chương trình dự án và kế hoạch của chính phủ.
- Cho vay tài trợ các chương trình, dự án vì mục tiêu nhân đạo, văn hoá -xã hội (tuỳ theo đặc điểm của nguồn vốn ).
- Thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán LC cho khách hàng, bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh đấu thầu cho các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội căn cứ vào tính chất đặc điểm và chức năng trong chỉ đạo, điều hành thực hiện các ngiệp vụ kinh doanh trên địa bàn hoạt động. Khi mới thành lập cơ cấu tổ chức của Ngân hàng còn rất đơn giản. Nhưng từ đó đến nay, chi nhánh đã không ngừng đổi mới cơ cấu nhằm hoạt động phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Mô hình bộ máy của chi nhánh
Gi¸m ®èc
Phã gi¸m ®èc
Phã gi¸m ®èc
Phßng kinh doanh
Phßng KDNT & TTQT
Phßng KÕ to¸n
KÕ ho¹ch tæng hîp
Phßng thÈm ®Þnh
Phßng tæ chøc hµnh chÝnh
Phßng kiÓm tra kiÓm to¸n néi bé
Phßng vi tÝnh
Tæ tiÕp thÞ
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội năm 2005
Trong năm vừa qua, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã tận dụng thuận lợi, khắc phục khó khăn hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế Thủ đô do uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đề ra. Với mục tiêu không ngừng hỗ trợ các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ngân hàng đã liên tục khai thác nguồn vốn, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, mở rộng và nâng cấp mạng lưới, mở rộng đầu tư tín dụng, đặc biệt đầu tư cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra, trong năm 2005, ngân hàng cũng không ngừng mở rộng các loại hình dịch vụ, khai thác nguồn ngoại tệ, đáp ứng đầy đủ kịp thời các nhu cầu xuất, nhập khẩu, thanh toán ngoại tệ đối với các doanh nghiệp và khách hàng trên địa bàn Hà Nội. Sau đây là tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng:
2.1.4.1. Nguồn vốn
Đối với mỗi ngân hàng, huy động vốn là một hoạt động không thể thiếu vì vốn là một yếu tố giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Nó quyết định quy mô, cơ cấu cho vay và từ đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Nhận thức được điều đó, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã chú trọng đến công tác huy động vốn. Do vậy,năm 2005, nguồn vốn của đạt 11.601 tỷ VND, tăng 2.325 tỷ so với năm 2004, đạt 103,5% kế hoạch TW giao. Đạt được kết quả như vậy là do ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, với 11 chi nhánh cấp hai, 38 điểm huy động vốn và nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích đối với khách hàng gửi tiền như huy động tiền gửi bậc thang, tiết kiệm khuyến mại, tiết kiệm khuyến mại bằng hiện vật, tiết kiệm dự thưởng…
Bảng 1: Tình hình huy động vốn trong năm 2005
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Tăng trưởng so với 04
Tuyệt đối
Tương đối
Tổng nguồn vốn
11.601
100
2.325
20,04
1. Theo đối tượng
- Tiền gửi dân cư
2.965
26
437
14,73
- Tiền gửi TCKT
4.915
42,36
954
13,4
- Tiền gửi TCTD
403
3,5
257
63,77
- Tiền gửi kho bạc
3.234
27,9
1.106
34,19
- Tiền ký quỹ
84
2. Theo thời gian
- Tiền gửi không kỳ hạn
4.661
40,2
1012
21,6
- Tiền gửi < 12 tháng
3.457
29,8
728
21,05
- Tiền gửi > 12 tháng
1.920
16,6
463
24,11
- Tiền gửi > 24 tháng
959
8,3
87
9,07
- Tiền gửi khác
604
5,1
35
5,79
3. Theo loại tiền
- VND
10.485
90,4
2.128
20,29
- Ngoại tệ quy VND
1.116
9,6
197
17,65
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
2.1.4.2. Hoạt động tín dụng
Năm 2005, tổng dư nợ của ngân hàng đạt 2.690 tỷ, đạt 99,6% chỉ tiêu kế hoạch ngân hàng nông nghiệp Việt Nam giao. Kết quả này đạt được là do trong năm, ngân hàng đã tập trung đầu tư chủ yếu cho các phương án, dự án thực sự có hiệu quả, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá và sản phẩm của mình trong cơ chế thị trường và chuẩn bị hội nhập AFTA. Ngoài ra, ngân hàng đã mở rộng phương thức cho vay đồng tài trợ với các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn đối với những dự án lớn có hiệu quả.
Không những mở rộng tín dụng mà ngân hàng nông nghiệp Hà Nội còn chú ý đến chất lượng tín dụng. Cụ thể là chi nhánh đã quan tâm chỉ đạo sát sao ngay từ đầu năm công tác thẩm định món vay, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay đươc thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Đặc biệt ngân hàng đã thực hiện quy định 493 về việc cơ cấu và phân loại nợ theo nhóm, đồng thời rà soát, đánh giá lại toàn bộ dư nợ hiện tại theo thời điểm, từ đó đưa ra những giải pháp xử lý nghiêm túc nhằm đảm bảo xác định đúng chất lượng tín dụng đang lưu hành. Đến nay, chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt nhờ sự phát triển của các doanh nghiệp, sự chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túccủa ban giám đốc và tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Do vậy, tỷ lệ thu lãi bình quân đạt trên 97% lãi phải thu; tỷ lệ nợ xấu từ nhóm 3 đến nhóm 5 chiếm 3,5% tổng dư nợ lưu hành.
2.1.4.3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại
Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý và thanh toán với trên 800 ngân hàng nước ngoài nên doanh số hoạt động tăng trưởng tương đối cao. Vì kinh doanh đối ngoại là một mặt nghiệp vụ rất quan trọng, có liên quan đến phát triển kinh tế của đất nước cũng như của từng doanh nghiệp có liên quan đến xuất khẩu nên năm 2005, ngân hàng chú trọng mở rộng quan hệ với ngân hàng nước ngoài nên kết quả đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể là trong năm 2005, lãi kinh doanh ngoại tệ đạt 2.028.000 triệu VND và thu phí dịch vụ đạt 335.000 USD.
Tuy nhiên, trong năm 2005, ngân hàng cũng còn gặp một số khó khăn về ngoại tệ nhưng đã tìm mọi giải pháp đáp ứng cơ bản các nhu cầu thanh toán quốc tế. Để có nguồn ngoại tệ cung ứng kịp thời cho các thành phần kinh tế, ngân hàng đã mua trên 170 triệu USD (quy đổi); bán trên 169 triệu USD (quy đổi); mua 335 triệu JPY, mua gần 9 triệu, bán gần 8,5 triệu EUR .
2.1.4.4. Hoạt động phát triển dịch vụ ngân hàng
Trong năm 2005, việc tiếp tục triển khai các loại hình dịch vụ được ban giám đốc đặc biệt quan tâm chỉ đạo ngay từ đầu năm. Đến nay, ngân hàng đã triển khai nhiều hình thức dịch vụ: chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, FONE-BANKING, WESTERN UNION, dịch vụ thanh toán biên mậu, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, Master card, Visa card, American express, thanh toán séc du lịch...Mặt khác, trong năm, ngân hàng đã thu đổi 13,5 triệu USD, tương đương với 210 tỷ VNĐ và gần 900 ngàn EUR tương đương với 2 tỷ VNĐ; ngoài ra ngân hàng còn thực hiện thu đổi nhiều loại ngoại tệ khác như GBP, CHF, CAD, JPY, AUD…với số lượng còn hạn chế.
Hơn nữa, ngân hàng cũng đa dạng hoá các kênh chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam thông qua dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union. Đến nay, đã chi trả được trên 1,5 triệu USD, dịch vụ chi trả kiều hối thông qua tài khoản đạt 1,3 triệu USD. Thanh toán séc du lịch 150 ngàn USD, thanh toán thẻ quốc tế 100 ngàn USD…phát hành thẻ Success, ATM đạt 28000 thẻ với số dư bình quân trên 45 tỷ đồng, tăng 18000 thẻ so với năm 2004. Ngoài ra, ngân hàng cũng đã triển khai ký hợp đồng chi trả lương qua tài khoản cho 27 đơn vị và mở rộng đại lý thu đổi ngoại tệ tại các nhà hàng, khách sạn…
2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
2.2.1. Tình hình hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội trong những năm qua
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội chịu tác động của nhiều nhân tố nh sự tăng trởng và phát triển của nền kinh tế, những thay đổi trong chính sách kinh tế, sự cạnh tranh của các ngân hàng khác…Những nhân tố này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng phát triển nhng cũng mang lại không ít khó khăn cho ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đã biết phát huy thế mạnh của mình và khắc phục khó khăn.
Bảng 2: Hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội từ 2003 – 2005
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
So với 2003
Số tiền
Tỷ trọng
So với 2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng dư nợ
2.797
100
3.139
100
342
12.2
2.690
100
-449
-14,3
1. Theo thời hạn
- Ngắn hạn
1.793
64,1
2.062
65,7
269
15
1.631
60,6
-430
-20,9
- Trung hạn
582
20,8
552
26,8
-30
-5,2
383
14,2
-169
-30,6
- Dài hạn
422
15,1
525
7,5
103
24,4
676
25,2
152
28,8
2. Theo thành phần KT
- KT quốc doanh
1.563
55,9
1.615
51,4
52
3,3
971
36,1
-644
-39,9
- KT ngoài quốc doanh
1.234
44,1
1.524
48,6
290
23,5
1.719
63,9
195
12,8
3.Theo loại tiền
- VNĐ
2.241
80,2
2.196
69,9
-45
-2
1.960
72,9
-236
-10,8
- Ngoại tệ quy VNĐ
556
19,8
943
30,1
387
69,6
730
27,1
-212
-22,5
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội )
Qua số liệu, một cách tổng thể ta có thể nhận thấy rằng hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nột tương đối biến động trong ba năm qua (2003 – 2005), từ mức dư nợ 2797 tỷ đồng năm 2003 tăng lên 3139 tỷ năm 2004 và giảm xuống còn 2690 năm 2005. Tốc độ tăng dư nợ năm 2004 so với năm 2003 tăng 12,2 % ; tương đương với 342 tỷ đồng. Trong khi đó, dư nợ năm 2005 giảm 14,3% so với năm 2004, tương đương với 449 tỷ. Sở dĩ có sự thay đổi như vậy là do chính sách của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam chỉ đạo trong năm 2005 tích cực thu hồi các khoản nợ đến hạn, nợ có vấn đề, nợ quá hạn để không tăng dư nợ.
Để có thể thấy rõ hơn về tình hình tín dụng tại ngân hàng, ta xem xét qua một số khía cạnh sau:
Xét theo thời hạn cho vay
Dư nợ ngắn hạn tại ngân hàng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ, thường trên 60% tổng dư nợ. Trong 3 năm 2003 – 2005, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn năm 2004 là lớn nhất 65,7%, tương ứng với 2062 tỷ. Tuy nhiên năm 2005, tỷ trọng này có xu hướng giảm, chỉ còn 60,6% tổng dư nợ. Đó là do định hướng phát triển của ngân hàng muốn đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn đối với các dự án, các chương trình kinh tế lớn có tính khả thi.Trong ba năm qua, dư nợ trung và dài hạn thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ, luôn ở mức 35 – 37%, riêng năm 2005 tỷ trọng này có tăng nhẹ và đạt mức 37,4%, tương đương với 1059 tỷ đồng.
Xét theo thành phần kinh tế
Trước đây, ngân hàng nông nghiệp Hà Nội chủ yếu tập trung cho vay với thành phần kinh tế quốc doanh. Nhưng từ khi chính phủ có các chính sách về kinh tế, luật pháp không phân biệt các thành phần kinh tế, cộng với việc kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng đã có những chuyển hướng rõ rệt. Năm 2003 dư nợ các thành phần kinh tế quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng 55,9 % thì đến năm 2004 tỷ trọng này là 51,4% và đạt 36,1% năm 2005, tương đương 971 tỷ, giảm 644 tỷ so với năm 2004. Mặc dù tỷ trọng này vẫn còn cao nhưng khách hàng chủ yếu là tổng công ty lớn, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp xây lắp – đây là những đơn vị làm ăn có hiệu quả, trả nợ đúng hạn. Tuy vậy, định hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng trong thời gian tới vẫn tiếp tục giảm tỷ trọng cho vay thành phần kinh tế quốc doanh trong tổng dư nợ.
Trong khi đó, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh – gồm doanh nghiệp khu vực tư nhân, hộ sản xuất, cá nhân thì ngày càng chiếm được lòng tin của ngân hàng. Cụ thể là dư nợ của khu vực này năm 2003 chiếm 44,1% tổng dư nợ thì năm 2004 đạt 48,6%,tương đương với 1524 tỷ, tăng 290 tỷ so với năm 2003. Mặc dù tổng dư nợ năm 2005 giảm so với năm 2004, nhưng tỷ trọng dư nợ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh lại tăng lên đến 63,9%, tương đương với 1719 tỷ, tăng 195 tỷ so với năm 2004. Như vậy, năm 2005 là năm có sự thay đổi nhanh trong cơ cấu tín dụng giữa thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Theo ngân hàng thì đây là khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh, phần lớn các doanh nghiệp, hộ sản xuất có quan hệ vay vốn với ngân hàng đều năng động trong những lĩnh vực kinh doanh mới, làm ăn có hiệu quả, trả nợ đúng hạn. Tuy nhiên, ngân hàng còn chưa cung cấp đủ vốn xứng với tiềm năng của khu vực này do còn gặp nhiều “rào cản”.
Xét theo loại tiền
Thông thường, dư nợ cho vay bằng đồng Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, thường trên 70%. Tuy nhiên, trong 3 năm qua, tỷ trọng này có xu hướng giảm. Năm 2003, dư nợ bằng VNĐ chiếm 80,2% tổng dư nợ thì năm 2004, con số này chỉ còn 69,9% và năm 2005 tăng lên 72,9% nhưng số tuyệt đối lại giảm 236 tỷ. Còn về cho vay bằng ngoại tệ, ngân hàng đã cố gắng trong việc cung cấp đủ ngoại tệ cho khách hàng thanh toán hàng nhập khẩu.
2.2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
Để xem xét về thực trạng rủi ro tín dụng tại một ngân hàng, nếu chỉ xem xét về dư nợ, về cơ cấu thành phần thì hoàn toàn chưa đủ, chúng ta cần xem xét về chất lượng của các khoản vay đó, bao nhiêu khoản ngân hàng thu hồi được, bao nhiêu khoản ngân hàng chịu mất vốn…Thông thường, để đo lường về rủi ro tín dụng tại ngân hàng, người ta thường xem xét đến chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Trong đó, nợ quá hạn được hiểu là khoản nợ mà khách hàng không trả được một phần hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc lãi khi đã đến hạn ghi trên hợp đồng tín dụng.
Tuy nhiên ở Việt Nam, do sự thay đổi của các văn bản tín dụng, nên ở mỗi thời kỳ, lại có những chỉ tiêu khác nhau đo lường thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Do vậy, trong luận văn này, thực trạng rủi ro tín dụng được xem xét trên cơ sở các văn bản:
Năm 2003 – 2004: việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện theo quyết định số 488/2000/QĐ - NHNN.
Từ năm 2005: việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện theo quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN.
Dựa vào số liệu ở bảng trên, ta có thể thấy một số điểm về thực trạng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội như sau:
Bảng 3: Thực trạng chất lượng tín dụng từ năm 2003 – 2004
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm chỉ tiêu
2003
2004
Tăng giảm so với 2003
2005
Tuyệt đối
Tương đối
Tổng dư nợ
2.797
3.139
342
12,2
2.690
1.Nợ đủ tiêu chuẩn
2.760,6
3.111,7
351,1
12,7
1952
2.Nợ quá hạn
36,4
27,3
-9,1
-25
738
3.Nợ khoanh
295
71,8
-223.2
-75,6
0
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội )
Nợ đủ tiêu chuẩn và nợ quá hạn
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, rủi ro tín dụng như một người bạn đường, chỉ có thể hạn chế mà không thể loại trừ. Vậy mà, trong môi trường nền kinh tế luôn tiềm ẩn rủi ro như Việt Nam, chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội trong 3 năm qua tương đối tốt. Nếu như nợ đủ tiêu chuẩn năm 2003 là 2.760,6 tỷ thì năm 2004 đạt 3.111,7 tỷ, tăng 12,7% so với năm 2003, tương đương với 351,1 tỷ. Trong khi đó, nợ quá hạn lại có xu hướng giảm dần. Mặc dù tổng dư nợ năm 2004 tăng 342 tỷ so với năm2003 nhưng số nợ quá hạn lại giảm từ 36,4 tỷ xuống còn 27,3 tỷ, giảm 9,1% so với năm 2003. Trong năm 2005, dư nợ đủ tiêu chuẩn giảm và nợ quá hạn tăng so với hai năm trước. Nhưng điều này không có nghĩa là chất lượng tín dụng năm 2005 thấp hơn. Đó là do ngân hàng thực hiện phân loại nợ theo quy định mới của ngân hàng nhà nước, trong đó nợ quá hạn còn bao gồm cả những khoản nợ cơ cấu lại kỳ hạn và nợ tiềm ẩn rủi ro. Vậy nên, nợ quá hạn là 738 tỷ, cao hơn các năm trước là tất yếu. Tuy nhiên, nợ quá hạn tính theo quy định mới này phản ánh chính xác rủi ro tín dụng hơn là tính theo các quy định cũ. Theo như ngân hàng, con số 738 tỷ nợ quá hạn năm 2005 cũng chưa phải là đáng lo ngại.
Nợ khoanh
Trong số các khoản nợ quá hạn, có những khoản không có khả năng thu hồi và một phần của chúng được chuyển thành nợ khoanh tiến tới thực hiện xoá nợ. Nhìn vào biểu trên, ta thấy rõ dư nợ khoanh năm 2003 là quá lớn, 295 tỷ nhưng con số này đã giảm nhanh chóng xuống còn 71,8 tỷ năm 2004. Phần lớn nợ khoanh năm 2003 là các khoản nợ phát sinh từ năm trước mà chưa được thu nợ, xử lý. Tuy nhiên, trong năm 2004, ngân hàng đã đôn đốc công tác thu hồi nợ, xử lý rủi ro nên dư nợ khoanh đến cuối năm 2004 chỉ còn 71,8 tỷ của tổng công ty vật tư nông nghiệp. Và khoản này đến quý 4 năm 2005 cũng đã được ngân hàng xử lý.
Trên đây là diễn biến chung về chất lượng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội trong 3 năm qua. Để hiểu rõ hơn về thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng, ta xem xét qua biểu phân loại nợ theo thời gian và chỉ tiêu phản ánh thực trạng này.
Năm 2003, dư nợ quá hạn là 36,4 tỷ đồng, trong đó tỷ trọng nợ quá hạn dưới 6 tháng chiếm 48%, tỷ trọng nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng chiếm 47,8% còn lại là nợ quá hạn trên 12 tháng. Tỷ trọng nợ quá hạn dưới 6 tháng chiếm chủ yếu vì phần lớn loại này là do đối tác của khách hàng chậm thanh toán. Nhưng tỷ trọng nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng trong tổng nợ quá hạn năm 2003 là hơi cao bởi loại này thường chứa đựng nhiều nguy cơ mất vốn hơn. Tuy nhiên, năm 2004, mặc dù tổng dư nợ cao hơn nhưng nợ quá hạn lại giảm xuống còn 27,3 tỷ. Trong đó, nợ quá hạn dưới 6 tháng chiếm 55,6%, tương đương với 15,2 tỷ; giảm 2,3 tỷ so với năm 2003. Nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng cũng chỉ còn 10 tỷ, chiếm 36,6% tổng nợ quá hạn, giảm 7,4 tỷ so với năm 2003. Nhưng nợ quá hạn trên 12 tháng lại tăng 0,6 tỷ, tương ứng với 2,1 tỷ năm 2004. Điều này có thể giải thích là do khoản nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng của năm trước tiếp tục quá hạn và bị chuyển sang nhóm này. Để đo lường thực trạng rủi ro tín dụng một cách tổng thể, các ngân hàng sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Theo đó, tỷ lệ này năm 2003 là 1,3% và năm 2004 là 0,87%. Đối với các ngân hàng khác cùng thời kỳ, tỷ lệ này ở mức 3 đến 5% là tốt. Như vậy, dựa vào đó có thể kết luận rằng mức độ rủi ro tín dụng xảy ra tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội như vậy là thấp.
Bảng 4: Phân loại nợ quá hạn năm 2003 - 2004
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
2003
2004
04 so với 03
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng nợ quá hạn
36,4
100
27,3
100
-9,1
25
Nợ quá hạn dưới 6 tháng
17,5
48
15,2
55,6
-2,3
-13,1
Nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng
17,4
47,8
10
36,6
-7,4
-42,5
Nợ quá hạn trên 12 tháng
1,5
4,2
2,1
7,8
0,6
40
Nợ quá hạn/Dư nợ
1,3%
0,87%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Bảng 5: Phân loại nợ quá hạn năm 2005
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng nợ quá hạn
738
100
Nợ cần chú ý (nhóm 2)
644,5
87,3
Nợ dưới tiêu chuẩn(nhóm 3)
46,1
6,3
Nợ nghi ngờ(nhóm 4)
10,5
1,4
Nợ có khả năng mất vốn ( nhóm 5)
36,9
5
Nợ xấu(nhóm 3- nhóm 5)/ Dư nợ
3,48%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Tuy nhiên, cách phân loại nợ như năm 2003-2004 chưa cho thấy được mức độ rủi ro của các khoản vay còn trong hạn. Bởi vì nếu khách hàng xin gia hạn nợ hoặc đảo nợ thì tổng dư nợ của ngân hàng vẫn tăng lên dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ giảm đi, ngân hàng sẽ không kịp có những biện pháp hạn chế và xử lý rủi ro tín dụng. Năm 2005, ngân hàng phân loại nợ theo quy định 493/2005/QĐ - NHNN nên những vấn đề trên đã được giải quyết. Theo quy định này, nợ quá hạn được phân thành 4 nhóm ( nhóm 2 đến nhóm 5) và trong mỗi nhóm không chỉ bao gồm nợ quá hạn mà còn có những khoản nợ cơ cấu lại kỳ hạn hay trong hạn nhưng bị đánh giá là tiềm ẩn rủi ro. Nhìn vào bảng, ta thấy rằng nợ quá hạn và nợ cơ cấu lại năm 2005 là 738 tỷ nhưng chiếm chủ yếu trong đó là nợ cần chú ý 644,5 tỷ, chiếm tỷ trọng 87,3%. Loại nợ này chiếm tỷ trọng lớn nhưng chưa đáng lo ngại vì phần lớn là do khách hàng chậm nhận tiền hàng. Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn chiếm tỷ trọng lần lượt là 6,3%, 1,4% và 5%. Trong đó, ta thấy nợ có khả năng mất vốnlà 36,9 tỷ – không quá cao so với quy mô dư nợ của ngân hàng. Ba nhóm nợ này được gọi là nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ được dùng để đo lường mức độ rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Năm 2005, tỷ lệ này tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội là 3,48%. Ngân hàng có thể dựa vào tỷ lệ này để có những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng.
Để quản lý những khoản nợ có vấn đề và biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng còn phân loại nợ quá hạn theo thời hạn cho vay và theo thành phần kinh tế.
- Theo thời hạn cho vay: nợ quá hạn được phân thành ngắn, trung và dài hạn. Riêng năm 2005, ngân hàng thường theo dõi những khoản nợ xấu để tránh nguy cơ xảy ra rủi ro.
Bảng 6: Phân loại nợ quá hạn 2003 – 2004 và nợ xấu 2005 theo thời hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Nợ quá hạn
36,4
100
27,3
100
93,5
100
Nợ xấu(NX)
NQH ngắn hạn
33,5
92
16,3
59,7
67,1
71,4
NX ngắn hạn
NQH trung hạn
2,9
8
5,8
21,2
14,2
15,3
NX trung hạn
NQH dài hạn
0
0
5,2
19,1
12,2
13,3
NX dài hạn
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Từ biểu trên, ta có thể thấy rằng nợ quá hạn năm 2004 giảm so với 2003 nhưng cơ cấu của từng loại theo thời hạn lại biến động khác nhau. Năm 2003, nợ quá hạn ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn 92%, tương đương với 33,5 tỷ. Sang năm 2004, con số này giảm chỉ còn 16,3 tỷ, chiếm tỷ trọng 59,7% mặc dù dư nợ tăng. Trong khi đó, nợ quá hạn trung hạn năm 2004 lại ở mức 5,8 tỷ; tăng gấp đôi so với năm 2003 và chiếm tỷ trọng 21,2% so với tổng nợ quá hạn. Cũng như vậy, nợ quá hạn dài hạn năm 2003 không có nhưng đến năm 2004 đã tăng lên đến 5,2 tỷ, tương đương với 19,1% tổng nợ quá hạn. Phần lớn các khách hàng có dư nợ trung và dài hạn tại ngân hàng đều là những công ty lớn, tổng công ty làm ăn hiệu quả. Do đó việc phát sinh nợ quá hạn trung và dài hạn thường là không cao nên việc tăng nợ quá hạn trung và dài hạn năm 2004 cũng là một điểm đáng lưu ý. Riêng năm 2005, nợ xấu là 93,5 tỷ. Trong đó, nợ xấu ngắn hạn chiếm đến 71,4%, tương đương với 67,1 tỷ. Tỷ trọng nợ xấu ngắn hạn như vậy là rất cao, ngân hàng cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân để giảm bớt tỷ lệ này trong thời gian tới. Nợ xấu trung và dài hạn lần lượt ở mức 14,2 và 12,2 tỷ.
- Theo thành phần kinh tế: nợ quá hạn và nợ xấu được chia theo thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Bảng 7: Phân loại nợ quá hạn 2003 – 2004 và nợ xấu 2005 theo TPKT
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Nợ quá hạn
36,4
100
27,3
100
93,5
100
Nợ xấu
NQH quốc doanh
19,9
54,7
19,1
69,9
44,9
48,2
NX quốc doanh
NQH ngoài quốc doanh
16,5
45,4
8,2
30,1
48,6
51,8
NX ngoài quốc doanh
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Như đã phân tích trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, năm 2003 dư nợ thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng 55,9%. Qua bảng trên, ta thấy tỷ trọng nợ quá hạn của thành phần kinh tế này là 19,9 tỷ, chiếm 54,7% tổng nợ quá hạn – như vậy là tương đối cân bằng với dư nợ. Đến năm 2004, nợ quá hạn của thành phần kinh tế quốc doanh đã giảm xuống còn 19,1 tỷ nhưng vẫn chiếm 69,9% tổng nợ quá hạn trong khi dư nợ lại tăng so với năm 2003. Đó là do trước đây nhiều doanh nghiệp nhà nước kém về năng lực, trình độ kinh doanh nhưng vẫn được tạo điều kiện được vay vốn và không có khả năng trả nợ ngân hàng. Để giảm tình trạng này, năm 2005, ngân hàng đã tiến hành thắt chặt tín dụng với các thành phần kinh tế quốc doanh nên dư nợ chỉ còn 36,1%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của thành phần kinh tế này chiếm 48,2%, tương ứng với 44,9 tỷ. Nợ xấu của thành phần kinh tế quốc doanh tăng cao là do các khoản nợ được xếp loại theo quy định mới, phản ánh đúng rủi ro .
Đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nợ quá hạn lại diễn biến ngược lại so với thành phần kinh tế quốc doanh. Trong khi ngân hàng mở rộng cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh dẫn đến dư nợ tăng thì tỷ trọng nợ quá hạn lại giảm. Năm 2003, nợ quá hạn của thành phần này chiếm 45,4% ; tương ứng với 16,5 tỷ thì năm 2004 chỉ còn 8,2 tỷ nợ quá hạn, tương ứng với 30,1%. Mặc dù năm 2005, nợ xấu của kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 51,8%, tương ứng với 48,6 tỷ nhưng so sánh với 63,9% tổng dư nợ thì chất lượng tín dụng của khu vực này vẫn được đánh giá cao hơn khu vực quốc doanh. Nhưng số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng ngày một nhanh, quy mô nhỏ, vốn lại ít, không có các tài sản thế chấp nên tiềm ẩn rủi ro cao. Do vậy, ngân hàng cũng nên thận trọng khi ra quyết định cho vay.
2.3. Đánh giá rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đã có nhiều cố gắng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36450.doc