LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đất nước chuyển mình hoà nhập với thế giới, hệ thống ngân hàng nước ta đã gớp phần quan trọng trong việc ổn định lưu thông tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh Ngân hàng thương mại là loại Ngân hàng kinh doanh chủ yếu, trong nền kinh tế còn hình thành các Ngân hàng chuyên doanh và các tổ chức tài chính mà các công ty Tài chính là một bộ phận rất quan trọng. Công ty Tài chính là một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành tín
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1781 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng vốn chủ yếu vào việc cho vay kinh doanh và tiêu dùng với điều kiện có đảm bảo bằng tài sản hữu hình. Khái quát trên cho ta thấy hoạt động cơ bản nhất của công ty Tài chính chính là hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động mang lại nguồn thu nhập lớn nhất song cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Đây là loại rủi ro không thể tránh khỏi, mà hậu quả của nó là kết quả kinh doanh bị giảm sút, trong nhiều trường hợp nếu rủi ro tín dụng quá lớn có thể đưa công ty đến tình trạng phá sản. Người ta chẳng có cách gì để loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể sử dụng những phương pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng xuống mức có thể chấp nhận được. Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trở nên cực kỳ quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý cũng như các nhà nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tế đó cùng với quá trình thực tập tại Công ty Tài chính Dầu khí, em nhận thấy vấn đề rủi ro tín dụng là rất quan trọng và cấp thiết. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: " Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí " làm đề tài cho chuyên đề của mình. Đề tài gòm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dung trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính.
Chương 2: Thực trạng vấn đề rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí:
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí:
Do kiến thức còn hạn chế nên bài chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các quý thầy cô góp ý, chỉ bảo giúp em nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1) Tổng quan về Công ty Tài chính:
1.1) Khái quát về công ty tài chính
Công ty Tài chính là một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng vốn chủ yếu vào việc cho vay kinh doanh và tiêu dùng với điều kiện có đảm bảo bằng tài sản hữu hình.
Công ty tài chính thường do các công ty kinh doanh lớn lập ra, người ta gọi công ty này là công ty phụ thuộc. Còn một số công ty khác hoạt động độc lập và được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần.
Nguồn vốn mà công ty tài chính tạo lập chủ yếu là việc phát hành các tín phiếu, trái phiếu trung và dài hạn. Trong các trường hợp cần thiết có thể vay từ các tổ chức tín dụng hoặc vay công ty mẹ. Loại hình kinh doanh chủ yếu của công ty tài chính là cung cấp tín dụng cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán và các hợp đồng tín dụng tiêu dùng.
Vai trò của công ty tài chính:
Trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành và phát triển của công ty tài chính đã mang lại những tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bổ sung những khiếm khuyết cho Ngân hàng thương mại. Những vai trò đó là:
Thứ nhất: Về tập trung nguồn vốn: Tập trung được đầy đủ nhất, ở mức cao nhất những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ bé của các cá nhân và gia đình trong xã hội để có được nguồn vốn tín dụng dồi dào đầu tư cho phát triển sản xuất và tiêu dùng.
Thứ hai: Về hiệu quả cho vay đối với nền kinh tế: hoạt động cho vay của các công ty tài chính đi sâu vào từng ngành, từng lĩnh vực nhất định. Do đố thông qua đầu tư tín dụng sẽ khai thac được hết tiềm năng, thế mạnh của các ngành, các khu vực. Từ đó, tạo ra một cơ cấu đầu tư tín dụng và cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và toàn diện đối với nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba: mở rộng cơ hội đầu tư sinh lời: thông qua hoạt động của các công ty tài chính, cơ hội đầu tư cho các tổ chức kinh tế và cá nhân sẽ được tăng lên. Nguồn lợi sẽ mang lại cho cả hai phía, phân tán rủi ro và đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Thứ tư: thúc đẩy cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tài chính nói riêng và hệ thống Ngân hàng kinh doanh nói chung. Công ty tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính - Ngân hàng đa dạng. Do đó, tăng cường áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng, làm cho chất lượng dịch vụ ngày càng tốt hơn tạo ra nhiều cơ hội cho khách hàng lựa chọn các sản phẩm. Đó là động lực thúc đẩy hệ thống Ngân hàng kinh doanh phát triển.
1.2) Hoạt động của công ty tài chính:
- Hoạt động huy động vốn: Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất, là hình thức huy động vốn phổ biến của các công ty tài chính. Công ty tài chính tiến hành các hoạt động nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng khác. Các khoản tiền gửi có thể được chia thành tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào, nó có thể là tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đặc trưng của loại huy động này là biến động thường xuyên. Do đó, cần quản lý chặt chẽ để nâng cao khả năng thanh toán cho bản thân công ty tài chính.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và công ty, đây là nguồn vốn lớn và ổn định.
Ngoài tiền gửi ra các công ty tài chính có thể huy động nguồn vốn tức thời bằng cách vay vốn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng hoặc là phát hành các chứng từ có giá: chứng từ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu…Trong hình thức huy động này, các công ty tài chính chủ động phát hành các chứng từ có giá theo đợt để bổ sung nguồn vốn kinh doanh, mà chủ yếu là nguồn vốn trung và dài hạn.
- Hoạt động sử dụng vốn: Sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất của các công ty tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sử dụng vốn ngày càng đa dạng và được thực hiện dưới nhiều hình thức:
+ Hoạt động cho vay đối với khách hàng: Đây là hoạt động trong đó ngân hàng sử dụng số tiền huy động được cung cấp cho người đi vay một khoản tiền nhất định để sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng hoặc để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn trong thanh toán của các tổ chức tín dụng. Khi thực hiện hoạt động này các công ty phải đảm bảo thu hồi cả vốn và tiền lãi. Gồm có cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, là loại cho vay phổ biến của công ty tài chính, nhằm bổ sung vốn lưu động cho khách hàng.
Cho vay trung và dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Loại cho vay này để khách hàng thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất có thời hạn thu lãi dài.
+ Hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư của công ty tài chính được thực hiện dưới các hình thức như: đầu tư chứng khoán, mua trái phiếu công ty khác, trái phiếu chính phủ, đầu tư vốn liên doanh, tham gia góp vốn, tài trợ dự án….Thông qua đó các công ty tài chính không những nhận được một khoản thu nhập mà còn phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Hoạt động dịch vụ của công ty tài chính: Các dịch vụ được phát triển mạnh mẽ trong điều kiện nền kinh tế thị trường và đưa lại nguồn thu đáng kể cho các công ty tài chính. Các hoạt động dịch vụ được thực hiện dưới các hình thức:
+ Dịch vụ thanh toán: Công ty tài chính thay mặt khách hàng thanh toán cho viêcẹ mua bán hàng hoá, dịch vụ của khách hàng. Bao gồm thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc thu chi tiền mặt qua công ty…Thông qua hoạt động thanh toán, các công ty tài chính sẽ thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn vốn và thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
+ Dịch vụ bảo lãnh: là sự cam kết của công ty tài chính về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên có quyền. Bảo lãnh được thực hiện dưới nhiều hình thức như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh chất lượng và khối lượng hàng hoá….
+ Kinh doanh ngoại hối: Các công ty tài chính tiến hành mua bán ngoại tệ ở thị trường trong nước và quốc tế. Lợi nhuận mang lại là chênh lệch giá giữa giá bán và giá mua.
+ Dịch vụ uỷ thác: Công ty tài chính thực hiện dịch vụ uỷ thác theo yêu cầu của khách hàng bao gồm: quản lý tài sản, các giấy tờ có giá và chứng từ quan trọng, mua hộ chứng khoán, thanh toán hộ khách hàng, đại lý và đại diện tại các tổ chức kinh tế hoặc cơ quan pháp luật.
+ Hoạt động thông tin, tư vấn: Để có thể kinh doanh thuận lợi trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động, đòi hỏi các tổ chức kinh tế phải nắm bắt thông tin nhanh nhạy và chính xác. Các công ty tài chính có khá đầy đủ và cập nhật thường xuyên các thông tin về thị trường, giá cả do vậy nó có thể cung cấp các thông tin theo yêu cầu của khách hàng trong giới hạn cho phép.Hơn nữa, do có trình độ nghiệp vụ có thông tin và kinh nghiệm nên các công ty tài chính có thể tư vấn cho khách hàng về xây dựng dự án đầu tư, phương án huy động vốn, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp…
2) Tổng quan hoạt động tín dụng của công ty tài chính:
2.1) Định nghĩa về tín dụng: Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn. Tóm lại có thể hiểu là sử dụng sự tin tưởng để thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất định.
Định nghĩa đầy đủ: Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Một số định nghĩa khác:
- Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho vay) chu cấp tiền hay hàng hoá dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia (người đi vay).
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
- Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vat, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, theo thoả thuận bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Quá trình vận động của tín dụng được thể hiện theo sơ đồ:
Cho vay
Người cho vay Người đi vay
(người sở hữu vốn) (người sử dụng vốn)
Trả nợ
Định nghĩa tín dụng thể hiện ở ba nội dung cơ bản:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng vốn từ người này sang người khác.
- Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời. Đó là thời gian sử dụng vốn. Nó là kết quả của sự thoả thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng vốn đó.
- Người đi vay có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cho người cho vay cả vốn gốc và lãi.
2.2) Phân loại tín dụng:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng, thường được dùng để cho vay bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân. Đây là loại hình tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng, chủ yếu dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình quy mô nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.... Đây là loại tín dụng có mức rủi ro cao.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng để cho vay dự án đầu tư xây dựng mới, cải tiến và mở rộng sản xuất ở quy mô lớn, có thời hạn thu hồi vốn dài. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro cao nhất.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế khác.
Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn cố định của các doanh nghiệp hoặc chủ thể kinh tế khác, loại tín dụng này được thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng:
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Căn cứ vào chủ thể tín dụng:
Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hóa.
Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội…
Tín dụng Nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, cá nhânm tổ chức xã hội… Nhà nước vùă là người đi vay, vừa là người cho vay.
Căn cứ vào tính chất đảm bảo tiền vay:
Tín dụng có đảm bảo: là loại tín dụng được đảm bảo bằng tài sản thế chấp hay cầm cố của khách hàng, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Nhờ có sự bảo đảm này mà các tổ chức tài chính có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Tín dụng không có đảm bảo: là loại tín dụng không có các loại tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động tín dụng:
Tín dụng nội địa: là quan hệ tín dụng phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia giữa các tổ chức kinh tế với nhau.
Tín dụng quốc tế: là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế.
2.3) Vai trò tín dụng:
- Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có một số doanh nghiệp "thừa vốn" tạm thời, có thể do bán được hàng hóa nhưng chưa có nhu cầu sử dụng ngay đã làm nảy sinh nhu cầu cho vay vốn để tránh tình trạng ứ đọng vốn và nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời, có thể do chưa bán được hàng hóa hoặc đang cần vốn để mở rộng sản xuất... làm nảy sinh nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận. Việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp thời, đã tạo ra khả năng đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh, cho phép các doanh nghiệp thỏa mãn nhu cầu về vốn, không để tồn đọng vốn trong quá trình luân chuyển.
Nhờ vào các nguồn vốn tín dụng huy động đươc, các doanh nghiệp tổ chức kinh tế không những đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn mở rộng quy mô, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tăng cường lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, đa dạng hóa sản phẩm...
Trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế, tín dụng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, tạo mối liên hệ khắng khít giữa sản xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội, nhờ đó mà quá trình lưu thông hàng hóa không chỉ diễn ra trong nội bộ 1 quốc gia mà còn ra thị trường quốc tế.
Tín dụng góp phần điều chỉnh quy mô sản xuất của doanh nghiệp, cơ cấu lại vùng lãnh thổ kinh tế, từ đó phát huy năng lực sản xuất, kinh doanh của từng thành phần kinh tế một cách tốt nhất.
Tín dụng góp phần tích tụ và tập trung vốn vào một số thành phần kinh tế, tạo ra những tập đoàn kinh tế vững mạnh, những tập đoàn xuyên quốc gia, làm nòng cốt cho sự phát triển của đất nước.
Tín dụng còn làm cho quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh chóng, giúp cho các nước chậm phát triển có thể được sử dụng những tiến bộ khoa học mới, những công nghệ sản xuất cao của thế giới, từ đó làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiển tệ nói chung và chính sách tín dụng nói riêng như các điều kiện về lãi suất, thế chấp, bảo lãnh và các điều kiện khác trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dung, có thể thay đổi quy mô hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, ảnh hưởng đến tổng cầu, tổng cung của nền kinh tế. Nhờ đó, mà các mục tiêu vĩ mô có thể sẽ đạt được. Cụ thể
Nhà nước thường xuyên sử dụng tín dụng làm phương tiện cân đối thu chi ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo các nguồn lực tài chính để thực thi các chính sách kinh tế - xã hội.
Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện lãi suất tín dụng, nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng, chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng. Nhờ đó mà có thể thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của một số ngành, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Nhà nước sử dụng tín dụng để điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự cân đối tiền hàng, ổn định giá cả hàng hóa.
Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng tín dụng như là công cụ thực thi các quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực tài chính từ bên ngoài để đầu tư phát triển kinh tế trong nước. Trong điều kiện nền kinh tế mở, vay nợ nước ngoài trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Nhờ có tín dụng, các nước đang phát triển có thể liên hệ, nhập khẩu máy móc trang thiết bị hiện đại và tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật mới, cũng như trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới.Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và phát triển quan hệ ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế ở các nước nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế trực tiếp, một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.
- Tín dụng góp phần quan trọng trong việc giảm thấp chi phí sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Thông qua hoạt động tín dụng, vốn trong nền kinh tế được luân chuyển nhanh, tức là làm tăng nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ. Từ đó làm giảm khối lượng phát hành vào lưu thông, đồng nghĩa với việc giảm chi phí lưu thông tiền tệ.
Khi vốn tín dụng được cung cấp, đầy đủ kịp thời cho các doanh nghiệp, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục, chu kỳ sản xuất được rút ngắn lại. Đây là một yếu tố góp phần làm giảm tổn thất khi doanh nghiệp thiếu vốn liên quan đến cơ hội kinh doanh.
- Tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy sản xuất:
Do tín dụng đa dạng hóa danh mục đầu tư, thông qua việc cho nhiều nhà đầu tư của nhiều dự án khác nhau vay, do đó độ rủi ro cá nhân của những người tích lũy vốn được giảm xuống. Chính bởi lý do này cộng với tính chuyên môn hóa cao, tín dụng đã làm cho quá trình tích tụ, tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả, tạo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nhờ nguồn vốn tín dụng, có thể nhanh chóng mở rộng sản xuất, thực hiện các dự án đầu tư tạo ra những bước nhảy vọt về năng lực sản xuất do tiếp cận được với thiết bị máy móc hiện đại, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội khác của Nhà nước:
Thông qua các ưu đãi của Nhà nước về tín dụng như là ưu đãi về lãi suất, điều kiện và thời hạn tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng đã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách việc làm, dân số, các chương trình xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội. Từ đó làm nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy xã hội phát triển.
3) Rủi ro tín dụng:
3.1) Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là điều không lành, không tốt xảy ra không thể lường trước và để lại những hậu quả nhất định. Theo Allan Willett " rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi". Quan điểm này được nhiều học giả nổi tiếng ủng hộ. Một quan điểm khác về rủi ro cho rằng: "rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất" được đề cập lần đầu trong nghiên cứu của John Haynes, sau đó được Irving Pfeffer trình bày chi tiết hơn trong cuốn "lý thuyết Bảo hiểm và Kinh tế".Một học giả Việt Nam. ông Nguyễn Hữu Thân thì cho rằng "rủi ro là sự bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại".
Từ đó ta có cách hiểu chung nhất về rủi ro là: "Rủi ro là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm cho kết quả thực tế khác với kết quả kỳ vọng".
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với rủi ro. Các công ty tài chính cũng là một hình thức doanh nghiệp, vẫn luôn phải đối mặt với vô vàn rủi ro : rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản.... Trong số đó thì rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất và gây hậu quả nặng nề nhất. Vì vậy các công ty tài chính nhất thiết phải đưa ra những giải pháp hiệu quả và thiết thực nhất nhằm giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Một số khái niệm về rủi ro tín dụng
Theo Thomas P.Fitch "rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ".
Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Hoàng gia Canada thì: "rủi ro tín dụng là rủi ro mất vốn do bên đối tấc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Cũng có thể bao gồm cả sự mất đi giá trị thị trường do sự suy yếu vị thế tài chính của đối tác. Đối tác có thể là nhà phát hành giấy tờ có giá, con nợ, người đi vay, nhà hoạch định chính sách, nhà tái bảo lãnh và bảo lãnh".
Theo quyết định số 493/2002/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam thì: "Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết".
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu bản chất của RRTD là khả năng chủ thể vay vón hay chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng không thực hiện đúng với hợp đồng tín dụng đã cam kết với tổ chức tín dụng, tức là không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay cho chủ thể cung cấp khoản vay và làm chủ thể này phải gánh chịu tổn thất về tài chính, trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn là phá sản. Ở đây chúng ta nghiên cứu rủi ro tín dụng trong các công ty tài chính.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của công ty tài chính đó là hoạt động tín dụng. Vì vậy, RRTD là một tất yếu luôn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của công ty tài chính, chỉ có thể tìm giải pháp hạn chế nó, chứ không thể triệt tiêu hoàn toàn nó được. Để có thể tìm được những giải pháp tối ưu nhất, không những phải hiểu biết đầy đủ về RRTD mà còn phải liên hệ mối quan hệ sâu sắc của nó với đặc điểm kinh doanh của từng công ty tài chính riêng.
3.2) Phân loại rủi ro tín dụng trong các công ty tài chính:
Trên thế giới có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy vào mỗi nước. Ở trong bài này, em xin giới thiệu tham khảo cách phân loại rủi ro tín dụng mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay.
Phân loại rủi ro tín dụng theo các loại nợ tín dụng, nếu phân loại theo phương pháp định lượng, Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao bồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ tên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Nếu phân loại theo phương pháp định tính, nợ cũng được phân thành năm nhóm tương ứng như năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp nhận. Các nhóm nợ bao gồm:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giấ là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao, không thu hồi được vốn
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
3.3) Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
- Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: Do sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới: Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại,các công ty tài chính và các tổ chức tín dụng khác trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các tổ chức trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các tổ chức nước ngoài thu hút.
Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình đời sống nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức tài chính đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành: Nền kinh tế thị trường thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng không trả được nợ, các tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các tổ chức tín dụng không làm được điều này vì tổ chức tín dụng là một loại hình kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng các tổ chức tín dụng không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM hay các công ty tài chính cũng như các tổ chức tín dụng khác không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM, công ty tài chính dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra ._.phát hiện và xử lý sớm hơn.
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
-Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan :
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho chủ thể cho vay nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ của tổ chức cho vay lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao các tổ chức cho vay vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía tổ chức tín dụng cho vay
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các tổ chức tín dụng: Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các tổ chức tín dụng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các tổ chức tín dụng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi các tổ chức tín dụng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và tổ chức tín dụng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các tổ chức tín dụng chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà các tổ chức tín dụng yêu cầu.
Sự hợp tác giữa các tổ chức tín dụng quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các tổ chức tín dụng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều tổ chức tín dụng khác nhau. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một tổ chức tín dụng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các tổ chức tín dụng nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng cá nhân tổ chức tín dụng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay của các tổ chức tín dụng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực của tổ chức tín dụng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
Nguyên nhân từ phía các tài sản đảm bảo
Trường hợp đảm bảo bằng tài sản: TSĐB là tài sản thuộc sở hữu của người đi vay dùng để cầm cố, thế chấp cho tổ chức tín dụng cho vay. Một TSĐB phải thỏa mãn 3 điều kiện: dễ định giá, dễ chuyển quyền sở hữu hợp pháp và có tính khả mại cao. Tuy nhiên, TSĐB có thể bị suy giảm giá trị do giá cả thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi hoặc do bản thân tài sản trong quá trình sử dụng bị hao mòn lớn hơn dự kiến. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cho vay có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ và xử lý TSĐB.
Trường hợp bảo lãnh: Bảo lãnh là sự đảm bảo gián tiếp có ba bên tham gia trong đó bên thứ ba, tức là bên bảo lãnh đồng ý chịu trách nhiệm về khoản nợ của bên thứ hai là khách hàng khi khách hàng không trả được nợ cho bên thứ nhất là tổ chức tín dụng cho vay. Vấn đề là các tổ chức tín dụng cho vay có cố gắng giải thích về trách nhiệm tiềm tàng đến đâu thì người bảo lãnh cũng không bao giờ chờ đợi sẽ bị gọi đến trả tiền, các tổ chức tín dụng khó có thể thuyết phục họ trả tiền, và thực tế là nhiều vụ kiện đã phải đưa ra tòa kinh tế xử lý.
Nguyên nhân do thông tin không cân xứng, lựa chọn sai đối tác
Đây cũng là một rủi ro rất hay xảy ra trong quá trình hoạt động của công ty. Thông tin không cân xứng có thể do phía công ty không tìm hiểu kỹ càng về đối tác, hoặc là phía đối tác cố ý che dấu thông tin, che dấu những số liệu thông kê xấu, tình hình nợ xấu, khiến phía công ty có những đánh giá sai lệch về đối tác của mình. Hậu quả của sự đánh giá sai lệch này thường là rất to lớn, công ty có thể đối mặt với sự phá sản của đối tác và khả năng thu hồi nợ là hầu như không có. Do đó, phía công ty phải hết sức lưu ý, tìm hiểu thông tin chính xác và lựa chọn đúng đối tác tiềm năng.
3.4) Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và công ty tài chính nói riêng:
- Ảnh hưởng đến nền kinh tế: Hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung và công ty tài chính nói riêng có liên quan mật thiết đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một tổ chức gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các tổ chức khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các tổ chức khác, làm cho toàn bộ cả hệ thống gặp khó khăn. Sự phá sản của các tổ chức tín dụng sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng thưong mại và các tổ chức tài chính khác ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.
- Ảnh hưởng đến bản thân công ty tài chính:
Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của các công ty tài chính: Hoạt động đầu tiên và chủ yếu của các công ty tài chính là nhận tiền gửi và thực hiện cho vay trên nguyên tắc hoàn trả. Khi hoạt động tín dụng gặp rủi ro không thu hồi đủ cả gốc và lãi theo như hợp đồng tín dụng, trong khi đó công ty vẫn phải thực hiện thanh toán đúng hạn cho người gửi tiền như cam kết. Do vậy, các công ty tài chính sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán. Bên cạnh đó khi rủi ro tín dụng xảy ra thì các chi phí khác tiếp tục phát sinh có tính chất cộng hưởng như chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan sẽ càng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của các công ty tài chính: Đối với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tín dụng thì chữ tín là rất quan trong, nếu 1 công ty tài chính có tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ lớn hoặc có những thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng về việc công ty không thu hồi được nợ hoặc bị NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của công ty đó giảm sút một cách nghiêm trọng. Các cá nhân, tổ chức sẽ không liều lĩnh gửi tiền vào một công ty như vậy bởi vì họ cảm thấy rủi ro mất vốn là rất cao, từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của công ty.
Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của công ty: Lợi nhuận của công ty tài chính là chênh lệch giữa cho vay và lãi suất huy động vốn. Tuy nhiên rủi ro tín dụng làm cho doanh thu thấp do không thu đuợc lãi vay thậm chí là thu không đủ gốc, nên lợi nhuận thu được là rất thấp. Hơn nữa, khi rủi ro tín dụng cao các công ty tài chính sẽ phải tăng trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng làm cho lợi nhuận càng giảm sút.
Rủi ro tín dụng có thể khiến cho công ty tài chính lâm vào tình trạng phá sản: Khi rủi ro tín dụng ở mức độ không thể kiểm soát, không có khả năng ứng phó sẽ gây phản ứng dây chuyền trong dân chúng, họ sẽ đổ xô đến rút tiền, rút giao dịch làm cho công ty mất khả năng thanh toán, đi đến phá sản.
3.5) Các chỉ tiêu đánh giá và lượng hóa rủi ro tín dụng:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn là một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn được đo bằng tỷ lệ phần trăm số nợ quá hạn trên tổng số nợ.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 10
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết trong mỗi đơn vị tiền tệ công ty cấp tín dụng thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ công ty không có khả năng thu hồi đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao, tỷ lệ này càng cao thì rủi ro tín dụng càng lớn. Theo Ngân hàng Thế giới WB thì tỷ lệ này ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được và được coi là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung. Tỷ lệ này nằm trong khoảng 1% - 3% là tốt.
- Chỉ tiêu nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu: Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,6 quy định tại điều 6 bao gồm: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp, rủi ro tín dụng càng lớn. Bên cạnh đó, các công ty tài chính phải tăng chi phí cho việc giám sát, đôn đốc thu nợ, ch phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan. Do đó, kết quả kinh doanh của công ty sẽ bị ảnh hưởng.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn:
Nợ dưói tiêu chuẩn
Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn = x 100%
Tổng dư nợ
Nợ dưới tiêu chuẩn là các khoản nợ thuộc nhóm 3 trong cách phân loại nợ theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Các khoản nợ trong nhóm này được xem là nợ xấu đối với các tổ chức tín dụng và khi đến thời hạn được gia hạn thêm mà vẫn không được thanh toán thì có thể được xếp vào nhóm nợ nghi ngờ hoặc nợ không thu hồi được hoặc được xử lý theo các quyết định của tổ chức tín dụng. Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn càng cao thì rủi ro tín dụng gây ra càng lớn.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ nghi ngờ:
Nợ nghi ngờ
Tỷ lệ nợ nghi ngờ = x 100%
Tổng dư nợ
Cũng như nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ cũng phản ánh rủi ro đối với các khoản vay của ngân hàng. Các khoản vay thuộc nhóm này lại có mức rủi ro cao hơn nhóm 3. Tỷ lệ nghi ngờ phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng và nếu càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
- Chỉ tiêu nợ có khả năng mất vốn (nợ khó đòi):
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi = x 100%
Tổng dư nợ
Nợ có khả năng mất vốn hay nợ khó đòi là các khoản nợ ít có cơ hội đòi được, các công ty tài chính phải sử dụng quỹ dự phòng bù đắp rủi ro để xử lý, đồng thời đưa các khoản nợ này ra khỏi bảng tổng kết tài sản, xoá khỏi sổ sách. Tỷ lệ này phản ánh tổn thất trong hoạt động tín dụng của công ty tài chính. Tỷ lệ này càng cao thì rủi ro tín dụng càng lớn.
- Chỉ tiêu tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng:
Dự phòng RRTD đã trích lập
Tỷ lệ trích lậpDPRRTND = x 100%
Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng hoặc đối tác của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN yêu cầu trích lập 2 loại dự phòng là dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng chung là loại dự phòng được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ. Ngoài ra quyết định này cũng lần đầu tiên yêu cầu các tổ chức tín dụng lập dự phòng chung cho tất các các khoản nợ của mình bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo cách phân loại tại quyết định này.
Bảng 1: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể của từng nhóm nợ
Nhóm nợ
Tỷ lệ trích lập(%)
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn)
0
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý)
5
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn)
20
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ)
50
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn)
100
Nguồn: Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
Theo các quyết định trước đây thì số tiền dự phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích lập dự phòng nhân với tài sản có từng nhóm. Trong khi đó, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN đưa ra công thức tính số tiền dự phòng hoàn toàn mới:
R = max {0, (A-C)} x r
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy định đối
với từng loại tài sản bảo đảm)
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Như vậy, số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng,mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệphần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không phải lập dự phòng cho khoản nợ đó. Ví dụ, tổ chức tín dụng X có giá trị khoản nợ đối với khách hàng Y bằng 100 triệu đồng, giá trị tài sản bảo đảm là bất động sản bằng 120 triệu đồng và giả sử khoản nợ này được xếp vào nhóm có tỷ lệ dựphòng là 20% (nhóm 2 theo Quyết Định số 488/2000/QĐ-NHNN ngày 27 tháng 11 năm 2000 (đã bịQuyết Định 493 thay thế) và nhóm 3 theo Quyết Định 493). Theo Quyết Định 488, số tiền dự phòng của tổ chức tín dụng X cho khoản nợ này bằng 100 triệu x 20% = 20 triệu đồng. Theo Quyết Định 493, từng giá trị được tính như sau:
A = 100 triệu
C = 120 triệu x 50% (giả sử 50% là tỷ lệ phần trăm theo quy định đối với loại tài sản bảo đảm có liên quan) = 60 triệu
r = 20%
Do đó, số tiền dự phòng cụ thể sẽ bằng (100 triệu - 60 triệu) x 20% = 8 triệu. Trong ví dụ trên, nếu giá trị tài sản bảo đảm của khách hàng Y lớn đủ để C lớn hơn A (ví dụ giá trị tài sản bảo đảm bằng 240 triệu, C = 240 triệu x 50% = 120 triệu, và do đó A trừ C là một giá trị âm), thì theo công thức tính số tiền dự phòng của Quyết Định 493, số tiền này là bằng 0 có nghĩa là tổ chức tín dụng X không phải trích lập dự phòng cho khoản nợ của khách hàng Y.
Cần lưu ý giá trị tài sản bảo đảm "ghi trên hợp đồng bảo đảm" sẽ là căn cứ để tính số tiền dự phòng cụ thể cho phần lớn các loại tài sản bảo đảm (về cơ bản trừ vàng và các loại chứng khoán). Vì giá trịtài sản bảo đảm ghi trên hợp đồng không được dùng để xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng không trả được nợ, nên trên thực tế các ngân hàng thường quy định giá trị danh nghĩa trong hợp đồng bảo đảm.
Với cách tính số tiền dự phòng cụ thể như trên, có lẽ các tổ chức tín dụng cần lưu ý việc định giá tài sản bảo đảm ngay tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm cũng như tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm bổ sung trong trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản hình thành trong tương lai. Khi thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, chúng tôi không rõ là liệu giá trị dự toán của tài sản tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm gốc có được chấp nhận dùng để tính dự phòng nếu bên vay không trả được nợ trước thời điểm tài sản bảo đảm hình thành. Ngoài ra, đối với việc cầm cố, thế chấp những tài sản "biến đổi", ví dụ như tài khoản, hàng hoá sản xuất và lưu thông của bên bảo đảm thì không rõ giá trị những tài sản này được ghi trong hợp đồng ra sao.
Sử dụng Dự phòng: Dự phòng rủi ro được sử dụng trong trường hợp khách hàng bị giải thể, phá sản hoặc chết hoặc mất tích. Dự phòng cũng được dùng để xử lý rủi ro ngay khi các khoản nợ được xếp vào nhóm 5. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro được thực hiện theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ trước, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mại tài sản không đủ bù đắp thì mới được sử dụng dự phòng chung
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH DẦU KHÍ
1) Thực trạng hoạt động tín dụng tại công ty tài chính dầu khí:
1.1) Khái quát về công ty tài chính dầu khí:
1.1.1) Sự hình thành và phát triển của công ty tài chính dầu khí:
Công ty Tài chính trong Tập đoàn kinh doanh là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường và là bước phát triển cao hơn của Tập đoàn kinh doanh, làm tăng hiệu quả huy động vốn cho Tập đoàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong Tập đoàn và phát huy triệt để sức mạnh của Tập đoàn trên thị trường tài chính.
Xuất phát từ ý tưởng đó, mô hình Công ty tài chính trong Tổng công ty được nghiên cứu từ những năm 90 của thế kỷ XX và Công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước đầu tiên được thành lập tại Việt Nam vào năm 1998 và đến năm 2000- Công ty tài chính Nhà nước cuối cùng được thành lập là PVFC- hình thành nhóm Công ty tài chính thuộc Tổng công ty Nhà nước gồm 5 Công ty có vốn điều lệ 305 tỷ VNĐ, gồm:
- Công ty tài chính Dệt may được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 1998, trụ sở chính tại TP. HCM, vốn điều lệ khi thành lập là 30 tỷ VNĐ.
- Công ty tài chính Cao su thuộc Tổng công ty Cao su được NHNN Việt Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 1998, trụ sở chính tại Hà Nội, vốn điều lệ khi thành lập là 70 tỷ VNĐ.
- Công ty Bưu điện thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông được NHNN Việt Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 1998, trụ sở chính tại Hà Nội, vốn điều lệ khi thành lập là 70 tỷ VNĐ.
- Công ty Tài chính Tàu thuỷ thuộc Tổng công ty Tàu thuỷ được NHNNN Việt Nam cấp giấy phép hoạt động từ năm 2000, trụ sở chính tại Hà Nội, vốn điều lệ khi thành lập là 70 tỷ VNĐ.
- Thực hiện chủ trương xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt nam thành tập đoàn kinh tế mạnh, bằng Quyết định số 04/2000/QĐ - VPCP, Chính phủ đã cho phép Tổng công ty Dầu khí Việt nam thành lập Công ty Tài chính Dầu khí - định chế tài chính 100% vốn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, doanh nghiệp thành viên hạch toán kinh tế độc lập nhằm đảm bảo nhu cầu vốn tín dụng đầu tư phát triển của Tổng công ty và các đơn vị thành viên với chức năng của một tổ chức tín dụng phi Ngân hàng tại Tổng công ty Dầu khí Việt nam để thực hiện mọi dịch vụ liên quan đến việc quản lý sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, các đơn vị, tổ chức và cá nhân trong Tổng công ty trên nguyên tắc sinh lời.
Với mục đích nói trên, Công ty Tài chính Dầu khí đã ra đời và đã đặt được những dấu mốc quan trọng trên bước đi ban đầu của mình:
19/6/2000: Bằng quyết định số 903/QĐ - HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dầu khí Việt nam, Công ty Tài chính Dầu khí được chính thức thành lập.
30/9/2000: Công ty Tài chính Dầu khí chính thức đặt trụ sở đầu tiên với đầy đủ trang thiết bị và bộ máy hoạt động tại 34B Hàn Thuyên - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
12/10/2000: Bằng quyết định số 4098/QĐ – HĐQT của Hội đồng quản trị Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty được ban hành.
25/10/2000: Thống đốc NHNN chính thức cấp giấy phép số 12/GP - NHNN cho phép Công ty hoạt động và phê chuẩn điều lệ hoạt động của Công ty.
5/2/2001: Lễ khai trương Công ty Tài chính Dầu khí đã được Tổng công ty Dầu khí Việt nam tổ chức trọng thể tại Hà Nội đánh dấu sự hội nhập chính thức của Công ty vào cộng đồng các đơn vị trong Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, vào cộng đồng các định chế tài chính trong nước và quốc tế. ------------------------------------------------------------------------ "Vì sự phát triển vững mạnh của tập đoàn Dầu khí Việt Nam" là phương châm trong mọi hành động của PVFC.
PVFC luôn luôn xác định việc thu xếp vốn tín dụng cho các dự án của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên là nhiệm vụ chính trị hàng đầu.
Phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu các loại hình kinh doanh và dịch vụ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đưa loại hình kinh doanh này trở thành một thế mạnh của Tổng Công ty sau 2005.
Xây dựng PVFC trở thành một thành viên quan trọng của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với phong cách hoạt động tiên tiến, văn hoá, tri thức và hiệu quả cao, một tổ chức chính trị, chuyên môn, quản lý trong sạch, vững mạnh, toàn diện.
1.1.2) Cơ cấu tổ chức:
1.1.3) Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của công ty tài chính dầu khí:
Với phương châm hoạt động "chất lượng tăng trưởng bền vững - hiệu quả - an toàn", PVFC đã hoàn thành vượt mức, toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh qua các năm cả về số lượng và chất lượng như chỉ tiêu về tổng tài sản, tổng nguồn vốn, lợi nhuận ròng, ROA,ROE...Điều này đã tạo nền móng và cơ sở vững chắc cho việc thực hiện kế hoạch chiến lược 2008-2010 với mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, tăng cường năng lực tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế.
Bảng 2: Tài sản chủ yếu của công ty
đơn vị: đồng
STT
Tài sản
Giá trị sổ sách thời điểm 31/12/2007
Giá trị xác định lại thời điểm 31/12/2007
1
Tiền gửi tại các TCTD trong và ngoài nước
9.521.760.802.745
9.532.741.757.736
-
Bằng VND
Trong đó:
+ Tiền gửi không kỳ hạn
+ Tiền gửi có kỳ hạn
5.773.659.525.086
27.683.728.192
5.745.975.796.894
5.773.659.525.086
27.683.728.192
5.745.975.796.894
-
Bằng ngoại tệ
Trong đó:
+ EUR
+ USD
3.748.101.277.659
22.024.588
3.748.079.253.071
3.759.082.232.650
23.191.191
3.759.059.041.459
2
Chứng khoán đầu tư
970.895.616.825
1.258.828.247.600
-
Chứng khoán sẵn sàng để bán
Ttrong đó:
+ Trái phiếu
+ Cổ phiếu
972.191.276.883
607.801.409.342
364.389.867.541
1.258.828.247.600
616.881.034.000
641.947.213.600
-
Dự phòng giảm giá chứng khoán
(1.295.660.058)
3
Cho vay
5.350.341.838.634
5.352.474.471.554
-
Cho vay và ứng trước các TCTD khác
1.621.386.925.000
1.621.715.925.000
-
Cho vay và ứng trước các tổ chức kinh tế, cá nhân
3.444.311.616.039
3.445.586.208.355
STT Tài sản Giá trị sổ sách thời điểm 31/12/2006 Giá trị xác định lại thời điểm 31/12/2006
-
Cho vay khách hàng từ nguồn vốn ủy thác
284.643.297.595
285.172.338.199
4
Đầu tư dài hạn
1.912.237.270.820
2.695.768.350.643
-
Vốn uỷ thác đầu tư có chỉ định mục đích
862.958.679.090
862.958.679.090
-
Vốn đầu tư trực tiếp của PVFC và vốn uỷ thác đầu tư khác.
1.049.278.591.730
1.832.809.671.553
5
Tài sản cố định
20.001.090.030
20.464.648.904
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của PVFC các năm 2005-2007:
đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng tài sản
6.828.142
18.143.649
41.916.027
Vốn chủ sở hữu
359.674
1.134.859
3.515.642
Doanh thu
429.127
1.023.421
3.024.869
Chi phí
400.263
897.119
2.443.589
Lợi nhuận trước thuế
28.864
126.302
681.280
Thuế TNDN phải nộp
10.512
34.095
218.758
LN thực hiện sau thuế
18.352
92.207
462.522
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Tổng tài sản (%)
0,42
0,70
1,6
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu (%)
8,03
11,13
19,37
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Doanh thu (%)
6,73
12,34
22,5
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu (%)
5,10
8,12
13,2
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005-2007
Dựa vào bảng số liệu ta có thể thấy rằng PVFC có doanh thu ngày càng tăng qua các năm. Nếu năm 2005 chỉ là 429,127 tỷ thì đến năm 2006 là 1023,421 tỷ, tăng hơn gấp đôi và đến năm 2007 con số này là 3024,869 tỷ đồng, một con số rất ấn tượng. Lợi nhuận sau thuế của công ty tăng đáng kể qua các năm, năm 2005 là 18,352 tỷ đồng thì đến năm 2006 là 92,207 tỷ và năm 2007 là 462,522 tỷ đồng. Tính ra từ năm 2005 đến năm 2007, lợi nhuận sau thuế đã tăng gấp 25 lần.
Các chỉ tiêu tài chính khác: tỷ suất lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản tăng từ 0,42 năm 2005 lên 0,7 năm 2006 và đạt 1,6 năm 2007. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế/Vốn chủ sở hữu của năm 2007 là 19,37 tăng 1,74 lần so với năm 2006 và tăng 2,41 lần so vơi năm 2005. Hai chỉ tiêu tài chính còn lại cũng có những sự tăng trưởng đáng kể, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế/doanh thu năm 2005 là 6,73 thì đến năm 2006 là 12,34, tương ứng với mức tăng tương đối 83.35%, đến năm 2007 thì chỉ tiêu này đạt 22,5 tăng tương ứng 82,3% so với năm 2006. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu năm 2007 đạt 13,2 tăng 1,62 lần so với năm 2006 và tăng 2,58 lần so với năm 2005. Qua đó ta có thể thấy được những bước phát triển thần tốc của PVFC trong quá trình phấn đấu trở thành tập đoàn công ty tài chính lớn mạnh nhất của cả nước.
1.2) Thực trạng huy động tín dụng của công ty tài chính dầu khí:
1.2.1) Tình hình huy động vốn:
Bảng 4: Nguồn vốn huy động của PVFC liên tục tăng qua các năm:
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng vốn huy động
26340
100
32980
100
44345
100
1.Theo loại hình huy động
Tiền gửi của các tổ chức
9800
37,21
11,8
35,79
13
29,31
Tiền gửi của khách hàng
540
2,05
680
2,06
785
1,77
Nguồn vốn uỷ thác
14080
53,45
18200
55,18
28,35
63,93
Phát hành giấy tờ có giá
1320
5,01
1400
4,24
1800
4,06
Các khoản phải trả khác
600
2,28
900
2,73
410
1,93
2.Theo loại tiền
Bằng VNĐ
22400
85,04
28900
87,63
38240
86,23
Bằng ngoại tệ
3940
14,96
4080
12,37
6105
13,77
3.Theo kỳ hạn
Có kỳ hạn
19700
74,6
24320
73,74
27325
61,62
Không kỳ hạn
6700
25,4
8660
26,26
17020
38,38
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005-2007
Dựa vào số liệu có được ta nhận thấy rằng: dựa vào theo thành phần PVFC có 2 nguồn huy động vốn chủ yếu là tiền gửi của các tổ chức tín dụng và nguồn vốn uỷ thác, chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động được. Điều cần lưu ý ở đây đó là trong khi nguồn vốn uỷ thác tăng đềy hàng năm cả về số lượng (14080 Ò 18200 Ò 28350) và tỷ trọng (53,45% Ò 55,18% Ò 63,93%) thì tiền gửi của các tổ chức lại chỉ tăng về số lượng (9800 Ò 11800 Ò 1300) nhưng lại giảm về tỷ trọng (37,21 Ò 35,7 Ò 29,31), điều này cho thấy sự ưu tiên phát triển hình thức huy động vốn của PVFC. Đồng VNĐ chiếm ưu thế vượt trội so với đồng ngoại tệ và có xu hướng tăng mạnh trong tương lai. Vốn huy động ngắn hạn và dài hạn đều có xu hướng tăng trong giai đoạn này.
1.2.2) Tình hình sử dụng vốn:
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng nguồn vốn hiệu quả là vấn đề mang tính sống còn của một cô._.Mức rủi ro
Mô tả nội dung
1. Tín dụng ít rủi ro
Khả năng thực hiện các nghĩa vụ khách hàng là chắc chắn, đảm bảo việc trả nợ như thỏa thuận, có thể có một số khía cạnh yếu, rủi ro nhỏ.
2. Tín dụng rủi ro trung bình
Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng là vững chắc, rủi ro chấp nhận được nhưng có một số khía cạnh yếu kém có thể gây rủi ro, cần chú ý giám sát.
3.Tín dụng trên mức rủi ro trung bình
Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng ở mức mạo hiểm do có những yếu kém lớn: các yếu kém này có dấu hiệu và khả năng khắc phục được. Cần tăng việc giám sát để đảm bảo tình huống không xấu đi.
4.Tín dụng rủi ro cao
Khách hàng đang trong tình trạng xấu kéo dài. Công ty cố gắng cải thiện hoặc từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ.
5.Tín dụng khó đòi lãi
Khách hàng có rủi ro cao, có thể bị thất thoát tài sản song có thể hy vọng lấy được tài sản gốc.
6.Tín dụng khó đòi gốc và lãi
Khách hàng có rủi ro rất cao, có thể mất cả vốn lẫn lãi và các khoản chi phí sau khi đã nổ lực áp dụng các biện pháp để hạn chế.
- Xếp hạng chất lượng TSĐB.
Có thể có nhiều khách hàng sau khi xếp hạng rủi ro đều ở cùng một mức giống nhau nhưng công ty có thể thực hiện quyết định cho vay và giám sát khác nhau căn cứ vào chất lượng của TSĐB - nguồn trả nợ thứ 2 của khách hàng.
Bảng 13: Hệ thống xếp hạng chất lượng TSĐB.
Xếp hạng TSĐB
Giá trị có thể phát mại của TSĐB tính bằng số % giá trị khoản vay.
A
140%
B
110%
C
80%
D
50%
E
20%
F
0%
- Giám sát xử lý nợ xấu
RRTD là không thể tránh khỏi trong quá trình hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và các công ty tài chính nói riêng. Xử lý nợ xấu là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại.
Để có thể xử lý nợ xấu có hiệu quả thì điều trước tiên là cần phải phát hiện ra càng sớm càng tốt các khoản nợ có vấn đề, các khoản nợ này cần phải có giải pháp khắc phục ngay. Ngoài ra, cần phải xây dựng chính sách và thủ tục xử lý nợ xấu có hiệu quả. Các thủ tục chính bao gồm :
Khi một khoản nợ được xác định là Nợ xấu, ngay lập tức được chuyển sang bộ phận Xử lý nợ xấu. Tại thời điểm này, tài liệu về nợ phải được hoàn thiện với những chứng cớ về tình trạng và nguyên nhân xuống hạng của Nợ xấu. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng có khoản nợ được chuyển sang bộ phận xử lý nợ xấu phải có nhiệm vụ thông báo cho cán bộ thuộc bộ phận nợ xấu những thông tin cần thiết. Việc chuyên giao này cần được phê duyệt thông qua Lãnh đạo phụ trách bộ phận nợ xấu.
Cán bộ thuộc bộ phận xử lý nợ xấu cần phải tiến hành ngay việc rà soát nợ xấu mới phát sinh. Thu thập thông tin cập nhật để đánh giá lại tình trạng của khác hàng và hoàn thiện việc rà soát nợ xấu bao gồm :
Rà soát toàn bộ tài liệu có liên quan đến khoản vay và tài sản đảm bảo, kiểm tra và đánh giá lại tài sản làm đảm bảo.
Kiểm tra lại khả năng và thiện ý của khách hàng, của người bảo lãnh, trong việc thực hiện trách nhiệm trả nợ.
Đánh giá lại khả năng tài chính theo tính hình mới.
Đánh giá khả năng thứ tự ưu tiên của các chủ nợ, bao gồm các tổ chức khác hoặc người cho vay khác, nếu cần thiết.
Ghi chép những chi tiết có liên quan về lịch sử của khách hàng và vị thế hiện hành của khách hàng.
+ Các chiến lược áp dụng khi xử lý nợ xấu:
Chiến lược duy trì áp dụng khi có chiến lược tiếp tục duy trì mối quan hệ tín dụng giữa công ty với khách hàng. Các khách hàng được tiếp tục duy trì có thể có cơ hội để cơ cấu lại hoặc thương thảo lại, tùy thuộc vào khả năng trả nợ và khả năng tồn tại của hoạt động kinh doanh của khách hàng. Nhóm khách hàng này có thể bao gồm khách hàng là doanh nghiệp mà có khả năng tồn tại hoặc các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tiền mặt, nhưng có khả năng tồn tại và có cơ hội để cấu trúc lại nợ hoặc thu hồi nợ.
Chiến lược rút lui được sử dụng đối với các khoản vay không có khả năng hoàn trả và cần được thanh lý hoặc xóa nợ. Đối với các trường hợp này, PVFC cần thu thập hoặc thu nợ bắt buộc thông qua các thủ tục pháp lý, hoặc thông qua quy trình không chính thức khác để nhằm duy trì kỹ luật tín dụng. Khi có kết luận rằng các khoản vay không thể phục hồi được hoặc không thể tiếp tục duy trì mà không làm phương hại đến vị thế công ty thì các hành động quyết liệt là cần thiết. Khi đó, việc phát mãi tài sản thế chấp, thu hồi các khoản công nợ của khách hàng sẽ được sử dụng.
- Phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng RRTD hợp lý, khoa học.
Hiện nay, PVFC vẫn đang thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493 của NHNN. Tuy nhiên, để lập Báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kế toán quốc tế theo khuyến nghị của cơ quan kiểm toán độc lập, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập cũng như tiến trình cổ phần hóa thì PVFC cần phải xây dựng cho được một phương pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng theo chuẩn mực quốc tế hoặc gần với chuẩn mực quốc tế. Trước mắt, phương pháp phân loại nợ được sử dụng cho mục đích quản trị nội bộ trong hệ thống PVFC vì nó cho phép đánh giá được chính xác hơn chất lượng của danh mục tín dụng cũng như ước tính được mức trích lập dự phòng chính xác trên cơ sở đánh giá khả năng thu hồi nợ vay thực tế từ mỗi khách hàng vay.
Phân loại nợ:
Nợ được phân loại dựa trên hai tiêu chí: tình hình thanh toán nợ và tình hình tài chính của khách hàng.
Tình hình thanh toán nợ của khách hàng được đánh giá trên cơ sở xem xét những dấu hiệu xấu liên quan đến khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của khách hàng như: trả nợ không đúng hạn, gia hạn nợ, cơ cấu thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn ... Tình hình thanh toán nợ được đánh giá là tốt, trung bình và xấu.
Tình hình tài chính: được đánh giá qua việc phân tích các thông tin tài chính và kết quả kinh doanh của khách hàng vay. Việc đánh giá tình hình tài chính được dựa trên việc xem xét tổng hợp các chỉ số tài chính trong mối liên hệ với môi trường kinh doanh, đặc điểm ngành nghề kinh tế có xu hướng phát triển trong tương lai.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thanh toán nợ và tình hình tài chính của khách hàng vay, nợ được phân thanh 5 nhóm như sau:
Tình hình tài chính
Tình hình thanh toán nợ
Tốt
Trung bình
Xấu
Rất tốt
Đạt tiêu chuẩn
Cần lưu ý
Dưới chuẩn
Trung bình khá
Cần lưu ý
Dưới chuẩn
Dưới chuẩn
Trung bình
Dưới chuẩn
Dưới chuẩn
Có vấn đề
Trung bình yếu
Dưới chuẩn
Có vấn đề
Không thu hồi được
Xấu
Có vấn đề
Không thu hồi được
Không thu hồi được
Nhóm 1-Đạt tiêu chuẩn: không có những điểm yếu có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ theo như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Cơ cấu khoản vay tốt nên việc thu hồi nợ được thực hiện kịp thời và đầy đủ xét trên mọi phương tiện.
Nhóm 2-Cần lưu ý: Không có những điểm yếu tố rõ ràng nhưng có biểu hiện rủi ro ở mức độ cao hơn mức độ rủi ro bình thường.
Nhóm 3-Dưới chuẩn: Những điểm yếu tín dụng rõ ràng, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ. Khoản cho vay không được bảo đảm bằng tình hình tài chính hoặc khả năng thanh toán khả quan của khách hàng.
Nhóm 4-Có vấn đề: Các khoản cho vay được xếp loại “có vấn đề” là các khoản cho vay có đầy đủ các điểm yếu của một khoản cho vay “Dưới chuẩn”. Thêm vào dó, khoản cho vay này còn có những điểm yếu làm cho khả năng hoàn trả toàn bộ khoản vay, dựa trên các điều kiện hiện tại, là không chắc chắn.
Nhóm 5-Không thể thu hồi được: Là những khoản cho vay rất khó có khả năng thu hồi và giá trị thực hiện quá nhỏ đến mức khả năng tiếp tục được ghi nhân là tài sản không được đảm bảo. Điều này không có nghĩa là các khoản cho vay này hoàn toàn bị mất.
Trích lập dự phòng.
Việc trích lập DPRRTD sẽ giúp công ty chủ động trong công tác xử lý khi có rủi ro xảy ra góp phần nâng cao năng lực tài chính. Tuy nhiên, việc trích lập và sử dụng dự phòng cần có những quy định cụ thể vì việc trích lập quá ít hoặc quá nhiều đều không tốt đối với chính bản thân ngân hàng.
Hiện nay, các tổ chức tín dụng Việt Nam thực hiện việc trích lập, sử dụng dự phòng RRTD theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Nhóm nợ
Tỷ lệ trích lập
Nhóm 1
0%
Nhóm 2
5%
Nhóm 3
20%
Nhóm 4
50%
Nhóm 5
100%
Thêm vào đó, các tổ chức tín dụng còn trích lập và duy trì một khoản dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
2.2.5) Thực hiện phân tán và tối thiểu hóa rủi ro tín dụng
Trong theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu, cần chú trọng đa dạng hóa danh mục cho vay của công ty. Các DN thuộc cùng ngành, cùng qui mô, vùng lãnh thổ, cùng điều kiện kinh doanh... có thể có tương quan RRTD cao. RRTD cùng lúc xảy ra với nhiều khách hàng là việc công ty hết sức tránh. Tỷ trọng danh mục cho vay cần chỉ ra tỷ suất sinh lời chấp nhận được thì xác định tỷ trọng đầu tư vào mỗi ngành kinh tế, mỗi vùng, quy mô hay thành phần kinh tế...để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu.
Các biện pháp đa dạng hóa:
+ Đa dạng hóa phương thức cho vay như cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay đồng tài trợ, tín dụng quay vòng, tín dụng trực tiếp từng lần, tín dụng thuê mua, cho vay ủy thác, cho vay dự án đầu tư, cho vay tiêu dùng dựa trên bảng lương của người xin vay...
+ Đa dạng hóa khách hàng: Để phân tán rủi ro và đạt được mục tiêu lợi nhuận, các tổ chức tín dụng nên mở rộng cho vay đối với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đặc biệt đối với PVFC, cần mở rộng cho vay đối với các DNNQD hoạt động tốt nhưng không đủ vốn và các chọn lọc những DNNN có dự án xin vay khả thi, hạn chế cho vay đối với các DNNN hoạt động không hiệu quả hay bù lỗ như hiện nay.
Đa dạng hóa sản phẩm của công ty: PVFC cần phải thiết lập bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường để phát triển các sản phẩm mới phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng và cạnh tranh với các tổ chức khác, nâng cao thị phần tín dụng của mình. Đây cũng là một phương thức để san sẻ và giảm thiểu rủi ro.
Xây dựng danh mục đầu tư hợp lý.
Một trong những phương pháp được căn cứ để kiểm soát rủi ro là đa dạng hóa đầu tư. Theo đó, việc đầu tư được thực hiện qua nhiều loại tài sản khác nhau tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng rủi ro trên toàn bộ danh mục sẽ được giảm.
Lựa chọn đơn lẻ
Sơ đồ 3.3 : Xây dựng danh mục đầu tư bằng quá trình phân bổ tài sản.Cổ phiếu
Lợi suất và rủi ro thực hiện theo thời gian
Danh mục
Lợi suất mong đợi
Thái độ đối với rủi ro
CP nước ngoài
Tiền mặt
BĐS
Trỏi phiếu
Cỏc loại tài sản
Kết quả đầu tư
Lập danh mục tài sản
Tăng cường cho vay theo hợp đồng tài trợ.
Quy chế ‘đồng tài trợ của các TCTD” được Thống đốc NHNN Việt
Nam ban hành theo quyết định số 286/2002/QĐ-NHNN ngày 3/4/2002. Mỗi tổ chức tín dụng thường có thế mạnh riêng của mình, vì vậy thực hiện đồng tài trợ sẽ giúp cho các tổ chức bổ sung cho nhau về các thế mạnh, hạn chế nhược điểm, có cơ hội học hỏi lẫn nhau, phối hợp trong hoạt động thẩm định dự án và giám sát sử dụng vốn vay giúp giảm thiểu khả năng xảy ra RRTD và khi xảy ra tổn thất thì tổn thất được san sẻ. Khi thực hiện đồng tài trợ, các tổ chức cần nắm rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình và tổ chức bạn để phân chia trách nhiệm của từng thành viên.
Liên kết đồng bộ các tổ chức tín dụng.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO cam kết lộ trình mở cửa ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng. Vì vậy, các tổ chức tín dụng trong nước sẽ đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các tổ chức nước ngoài. Thêm vào đó, khi nền kinh tế phát triển theo cơ chế mở cửa thì các tổ chức kinh tế cũng theo đó mở rộng bất cứ ngành nghề sản xuất kinh doanh nào. Vì không đủ tiềm lực tài chính các DN đó sẽ xin vay vốn bằng mọi cách kể cả một dự án vay vốn tại nhiều tổ chức khác nhau. Bởi vậy, đã đến lúc các tổ chức tín dụng nên có biện pháp cùng nhau xây dựng mối liên hệ thông tin.
2.2.6) Kết hợp hoạt động tín dụng và bảo hiểm tín dụng.
Trong hệ thống các tổ chức tài chính, công ty tài chính và bảo hiểm là hai định chế quan trọng và to lớn. Hoạt động của các công ty bảo hiểm có nhiều khía cạnh khác biệt so với các loại hình kinh doanh khác không chỉ việc chấp nhận rủi ro về phần mình từ các chủ thể kinh doanh khác, mà còn ở khả năng đánh giá khách quan và quản lý rủi ro. Công ty tài chính trong quá trình hoạt động buộc phải chấp nhận nhiều loại rủi ro. Việc xây dựng mối quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa công ty tài chính và công ty bảo hiểm sao cho một phần rủi ro của công ty tài chính được chuyển sang nhà bảo hiểm, có lợi không chỉ cho công ty mà còn cho nhà bảo hiểm. Công ty tài chính thì có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào việc trực tiếp cung cấp dịch vụ ngân hàng, tạo khả năng hoạt động theo một cơ chế linh hoạt hơn trong việc xác định chiến lược và cân đối lợi ích giữa “rủi ro và thu nhập”. Công ty bảo hiểm thông qua việc gánh lấy một phần rủi ro của công ty tài chính sẽ đảm bảo tính bền vững, độ tin cậy của công ty. Đến lượt mình, các công ty bảo hiểm có vai trò không nhỏ trong việc mở rộng và đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Quá trình quản lý rủi ro phức tạp, nhiều cấp độ có thể được đơn giản hóa nhiều lần thông qua việc chuyển một bộ phận rủi ro mang tính kinh tế và phi kinh tế sang công ty bảo hiểm. Các chuyên gia của công ty bảo hiểm có nhiều điều kiện hơn trong chuyên môn hóa đánh giá khách quan rủi ro và xây dựng chiến lược quản trị rủi ro. Nhờ vậy, tính bến vững, độ tin cậy của công ty tài chính được tăng cường và có tác động tích cực đến việc nâng cao uy tín, thương hiệu công ty. Tín dụng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu và tạo nhiều thu nhập cho công ty tài chính. Trong khi đó, chất lượng tài sản có của công ty tài chính gắn chặt với nhiều nhân tố kinh doanh của người vay, đó là các yếu tố cấu thành RRTD. Việc chuyển một phần rủi ro này cho nhà bảo hiểm đảm bảo độ tin cậy của người vay cao hơn, tạo tiền đề giảm thiểu RRTD cho công ty tài chính và nâng cao chất lượng tài sản có của công ty. Các công ty tài chính có thể sử dụng các loại hình bảo hiểm sau để nâng cao chất lượng quản trị RRTD: bảo hiểm tài sản (trong đó, có bảo hiểm tài sản đảm bảo), bảo hiểm các chu kỳ sản xuất, bảo hiểm trách nhiệm các loại (trong đó có trách nhiệm đối với người thứ 3 khi không hoàn thanh nghĩa vụ theo hợp đồng), bảo hiểm nhân thọ của chủ thể vay vốn, bảo hiểm mùa vụ của các cây công nghiệp, bảo hiểm hàng hóa khi vận chuyển...
Loại hình bảo hiểm tín dụng có hai hình thức là:
(1) yêu cầu khách hàng tự bảo hiểm đề phòng bất trắc. Khoản tín dụng trong trường hợp này coi như được bảo hiểm gián tiếp. Để sử dụng tốt hình thức này ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay đối với đối tượng xin vay đã mua bảo hiểm.
(2) Công ty trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp cho các sản phẩm tín dụng của mình.
ở trên thế giới hoạt động liên kết giữa bảo hiểm và công ty tài chính đã rất phổ biến, tuy nhiên, ở Việt Nam hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ. Các công ty tài chính Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận với công ty bảo hiểm quốc tế AIA và công ty Prodential về cung cấp dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm. Do vậy PVFC có thể tiếp tục mối quan hệ này để có thể bổ sung một biện pháp hiệu quả nữa cho quản trị RRTD.
2.2.7) Sử dụng công cụ tài chính phái sinh
Hiện nay, bên cạnh các biện pháp truyền thống, các tổ chức tín dụng trên thế giới còn sử dụng phổ biến các công cụ phái sinh, chuyển giao RRTD nhằm hạn chế RRTD. Tín dụng phái sinh phát triển mạnh mẽ ở các thị trường tài chính lớn như Mỹ, Anh, Canada, Đức.... Các tổ chức tín dụng Việt Nam đến nay vẫn chưa thực sự áp dụng công cụ tài chính phái sinh này nhưng với xu thế hội nhập mạnh mẽ và công cuộc hiện đại hóa các tổ chức tín dụng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các công ty tài chính trong đó có công ty tài chính dầu khí sẽ sớm sử dụng các công cụ này.
Tín dụng phái sinh là hợp đồng song phương cho phép những người tham gia thị trường chuyển đổi RRTD của khoản vay và các tài sản khác từ bên mình (gọi là bên mua sự bảo vệ) sang bên khác (gọi là bên bán sự bảo vệ). Các tổ chức cho vay có thể sử dụng tín dụng phái sinh để giảm RRTD (trường hợp là người mua sự bảo vệ) hoặc thu được lợi nhuận lớn hơn (trường hợp là người bán sự bảo vệ). Khoản thanh toán được xác định trong hợp đồng tín dụng phái sinh dựa trên sự xuất hiện của sự kiện tín dụng đối với một thực thể liên quan. Có 3 sự kiện tín dụng cơ bản là phá sản, không trả được nợ và tái cơ cấu nợ.
- Hoán đổi tổng thu nhập (Total Return Swaps - TRS).
Sự hoán đổi này trao đổi các khoản thanh toán của hai bên bằng số chênh lệch ròng của các khoản thanh toán tương ứng. Người “bán” khoản vay - người phải trả tổng thu nhập (total return payer) chi trả dựa vào thu nhập có từ việc nắm giữ một khoản nợ có nhiều rủi ro hoặc một danh mục các khoản nợ có nhiều rủi ro. Tổng thu nhập của một khoản nợ có nhiều rủi ro bằng tổng thu nhập lãi suất và những thay đổi về giá trị thị trường của khoản nợ đó. Rủi ro của những khoản thu nhập này được đo bằng độ biến động của chúng. Bên đối tác trong hợp đồng hoàn đổi tổng thu nhập - người thụ hưởng tổng thu nhập (total return receiver), trả tiền dựa vào các khoản thu nhập của một trái phiếu không có rủi ro vỡ nợ (ví dụ, trái phiếu Chính phủ) trừ đi khoản đền bù nhận được do phải chịu rủi ro của bên phải trả tổng thu nhập. Kết quả của sự hoán đổi này là người phải trả tổng thu nhập được hưởng dòng thu nhập từ trái phiếu không có rủi ro và người thụ hưởng tổng thu nhập được hưởng dòng thu nhập tương xứng với việc nắm giữ khoản nợ đầy rủi ro.
Sơ đồ: Hoán đổi tổng thu nhập.
Người phải trả tổng thu nhập (công ty bảo hiểm, nhà đầu tư)
Người thụ hưởng tổng thu nhập
Tổng lợi tức của tài sản
Tỷ lệ tham chiếu+mức chênh lệch
Trong TRS, một bên nhận tổng thu nhập từ một tài sản liên quan được xác định trong hợp đồng, còn bên kia nhận được luồng tiền theo tỷ lệ thả nỗi hoặc cố định định kỳ. Luồng tiền này không liên quan đến giá trị tín dụng hay khả năng được nợ của tài sản tham chiếu, đặc biệt trong đó khoản thanh toán dựa trên cùng lượng giá trị danh nghĩa. Hoạt động này cho phép công ty giữ lại toàn bộ tài sản của mình, nhưng vẫn duy trì mức độ RRTD mong muốn.
Giả sử một tổ chức cho vay (người thụ hưởng) nắm giữ một khoản vay được xếp hạng tín dụng A, có lãi suất thả nỗi được trả 2% nhiều hơn so với mức lãi suất tham chiếu. Nếu lãi suất tham khảo là 8% thì người vay phải trả một mức lãi suất là 10% trong thời kỳ đó. Một dự giáng hạng mức độ tín nhiệm đối với người vay này mà làm giá của khoản nợ đó giảm đi 5% có nghĩa là mức tổng thu nhập bằng 5%. Người thụ hưởng sẽ được trả 5% trong thời kỳ đó. Người phải trả sẽ được nhận 8% lãi suất tham chiếu trừ đi một khoản chênh lệch, ví dụ là 0,25%, tổng cộng là 7,75% cho thời kỳ này. Các khoản thanh toán thực tế bằng số tiền ròng (sau khi đã bù trừ) các khoản tiền trên, do đó, người phải trả nhận được 2,75%. Kết hợp khoản thu này với 2% có được từ việc nắm giữ các khoản nợ đầy rủi ro này, người này được hưởng một khoản lợi tức cuối cùng là 4,75%. Điều này hấp dẫn đối với người thụ hưởng là khả năng được hưởng dòng thu nhập của khoản nợ mà không cần phải đầu tư để có được khoản nợ này.
Hoán đổi tổng thu nhập làm gia tăng tính chắc chắn của dòng tiền mặt. Chiến lược quản lý ngân hàng truyền thống cũng nhằm đạt mục tiêu này. Việc dự phòng vốn cho rủi ro tín dụng mà nhà đầu tư một số tài sản có vào các chứng khoán không có rủi ro vỡ nợ cũng đạt được một giới hạn thấp hơn đối với các khoản tổn thất do vỡ nợ. Một sự khác biệt quan trọng là chiến lược dự phòng vốn trên duy trì một kho các tài sản có tính lỏng cao, trong khi chiến lược sử dụng các hợp đồng phái sinh tín dụng cung cấp vừa đúng lúc các dòng tiền mặt khi các khoản tổn thất được phát hiện.
- Hoán đổi tín dụng (credit swaps).
So với hình thức hoán đổi tổng thu nhập, đặc điểm thanh toán bất ngờ của các hợp đồng hoán đổi tín dụng gần giống với đặc điểm thường gắn với các hợp đồng bảo hiểm. Như sơ đồ 2 cho thấy, người mua bảo hiểm đối với rủi ro tín dụng bằng cách chi trả các khoản thanh toán định kỳ theo một tỷ lệ % cố định của mệnh giá khoản tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng dự kiến xảy ra, ví dụ như người vay vỡ nợ, người bán bảo hiểm chi trả một khoản thanh toán để bù đắp cho phần tổng thất tín dụng đã được bảo hiểm. Ngược lại, người mua bảo hiểm không phải trả khoản tiền nào cả.
Sơ đồ : Hoán đổi tín dụng.
X%/năm
Người bán bảo hiểm
Người mua bảo hiểm
Có rủi ro tín dụng
Thanh toán
Không có rủi ro tín dụng
Không thanh toán
Giả sử rủi ro tín dụng được xác định là vỡ nợ, một hợp đồng hoán đổi tín dụng có thể được hình thành như sau. Như trường hợp trước, giả sử khoản nợ có lãi suất thả nỗi được xếp hạng tín phiếu hạng A trả 2% nhiều hơn so với mức lãi suất tham chiếu. Người nắm giữ khoản nợ này ký kết một hợp đồng hoán đổi tín dụng để bảo hiểm đối với rủi ro tổn thất tín dụng do người vay vỡ nợ. Người nắm giữ khoản nợ này là người mua bảo hiểm, ví dụ trả 0,1% mỗi kỳ cho người bán bảo hiểm. Nếu người vay bị vỡ nợ, người bán bảo hiểm phải trả một khoản thanh toán được xác định từ trước. Ngược lại, người bán bảo hiểm không phải trả bất kỳ một khoản tiền nào. Khoản thanh toán này bù đắp khoản tổn thất phát sinh do người vay vỡ nợ.
- Hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit Options).
Hợp đồng quyền chọn tín dụng là một công cụ bảo vệ công ty trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng của công ty giảm sút. Ví dụ, PVFC lo lắng về chất lượng tín dụng của một khoản cho vay 10 tỷ đồng mới thực hiện, PVFC có thể ký hợp đồng quyền tín dụng với một tổ chức kinh doanh quyền (option dealer). Hợp đồng này sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ khoản cho vay neeusnhw khoản cho vay này giảm giá đáng kể hoặc không thể được thanh toán. Nếu như khách hàng vay vốn trả nợ như kế hoạch, PVFC sẽ thu được những khoản thanh toán như dự tính và hợp đồng quyền sẽ không được sử dụng. Như vậy, PVFC sẽ mất toán bộ phí trả tiền trên hợp đồng quyền. PVFC cũng thực hiện các hợp đồng quyền tương tự để bảo vệ danh mục đầu tư trong trường hợp những tổ chức phát hành không thể hoàn thành trách nhiệm thanh toán hoặc trong những trường hợp giá trị thị trường của các chứng khoán giảm sút do chất lượng của tổ chức phát hành thay đổi.
Sơ đồ : Hợp đồng quyền chọn tín dụng.
PVFC
Tổ chức kinh doanh hợp đồng quyền tín dụng
Phí trả cho hợp đồng quyền chọn
Thực hiện thanh toán nếu chi phí tín dụng tăng quá mức thỏa thuận hay CLTD giảm dưới mức thỏa thuận.
Hợp đồng quyền tín dụng cũng có thể được sử dụng để bảo vệ PVFC trước rủi ro chi phí vốn tăng do chất lượng tín dụng của PVFC giảm. Ví dụ, khi PVFC lo ngại rằng xếp hạng tín dụng của nó sẽ có thể giảm trước khi PVFC phát hành các trái phiếu dài hạn để huy động thêm vốn, và do vậy công ty có thể bị ràng buộc phải trả một mức lãi suất huy động vốn cao hơn. Một giải pháp trong hoàn cảnh này là PVFC mua hợp đồng quyền bán với mức chênh lệch lãi suất cơ bản cam kết trong hợp đồng được xác định là mức phổ biến trên thị trường hiện tại áp dụng đối với mức rủi ro tín dụng hiện tại của công ty. Giống như các loại hợp đồng quyền chọn khác, hợp đồng quyền chọn rủi ro tín dụng cũng mang mức chênh lệch lãi suất cơ bản. Hợp đồng quyền chọn sẽ thanh toán toàn bộ phần chênh lệch lãi suất cơ bản thực tế (so với một chứng khoán không có rủi ro) vượt trên phần chênh lệch lãi suất cơ bản đã thỏa thuận. Chẳng hạn, PVFC dự tính chi phí vay vốn của nó sẽ cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ 5 năm là 1%. Do sự sụt giảm trong chất lượng tín dụng hay do tình trạng đình trệ của nền kinh tế, mức chênh lệch lãi suất cơ bản mà PVFC sẽ phải thanh toán có thể tăng tới 2% trên lãi suất trái phiếu chính phủ. Nếu điều này xảy ra, hợp đồng quyền bán sẽ trở nên có lợi vì nó giúp PVFC hạ thấp mức lãi suất phải thanh toán gần với mức chênh lệch 1% so với lãi suất của chứng khoán chính phủ.
2.2.8) Áp dụng nghiệp vụ mua bán các khoản tín dụng vào quản trị RRTD
Mua bán các khoản cho vay là một hình thức thay đổi chủ thể người cho vay trong mối quan hệ tín dụng. Trong đó, chủ thể cho vay sẽ bán khoản vay của mình (quyền đòi) cho một chủ thể khác với một chủ thể khác. Khi đó, người mua lại khoản vay sẽ trở thành chủ nợ mới đối với người đi vay. Mua bán các khoản cho vay có các dạng như bán khoản cho vay không truy đòi, bán các khoản cho vay có truy đòi. Mua bán các khoản cho vay mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong quản lý rủi ro. Đó là giải pháp nhằm hạn chế những hậu quả nặng nề có thể mang lại từ rủi ro khi cho vay tập trung, tạo vốn cho hoạt động kinh doanh, trợ giúp quản lý tài chính.
Khi danh mục cho vay của công ty mất cân đối, công ty phải chuyển hướng đầu tư nhằm phân tán rủi ro. Việc bán các khoản nợ giúp công ty thực hiện được điều này. Một thuận lợi cho PVFC trong việc thực hiện mua bán các khoản nợ là Bộ tài chính đã thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC). Công ty này có trách nhiệm mua lại các khoản nợ xấu mà các tổ chức tín dụng không thể tự giải quyết. PVFC hoàn toàn có đủ điều kiện để thực nghiệp vụ mua bán nợ nhằm quản trị RRTD tốt hơn.
PVFC đã ký kết hợp đồng mua bán nợ với DATC vào ngày 10/11/1006 với trị giá hơn 31 tỷ đồng. Mua bán nợ là một giải pháp giúp các ngân hàng xử lý các khoản nợ của mình, giải quyết vốn tồn đọng. Tuy nhiên, muốn mua bán nợ đạt hiệu quả cả PVFC và công ty mua bán nợ phải đánh giá đúng khoản nợ, khả năng trả nợ. Điều này đòi hỏi công ty phải xây dựng bộ phận đánh giá và quản lý các khoản nợ để phối hợp với công ty mua bán nợ định giá đúng các khoản nợ.
2.2.9) Các biện pháp khác
- Hoàn thiện các hình thức bảo đảm tín dụng.
Bảo lãnh: Bảo lãnh giúp công ty yên tâm hơn về khoản vay, giảm thời gian, chi phí để tìm hiểu khách hàng. Tuy nhiên, rủi ro có thể xảy ra do chính người bảo lãnh, vì vậy công ty cần xác định tư cách của người bảo lãnh: có đủ tư cách pháp nhân, đủ điều kiện và khả năng thanh toán khoản vay được bảo lãnh.
Thế chấp: Tài sản thế chấp phải đảm bảo đủ các yêu cầu sau: Phải có đủ giấy tờ chứng minh thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đi vay, không thuộc loại pháp luật cấm buôn bán, chuyển nhượng, không phải là tài sản thế chấp ở tổ chức khác hay có tranh chấp. Tài sản phải có giá trị hành hóa khi phát mại. Khi xét đến giá trị của tài sản, công ty phải dự báo giá trị của nó tại thời điểm khoản vay hết hạn.
Cầm cố: Cầm cố tài sản là việc bên vay đưa tài sản của mình cho công ty giữ để đảm bảo cho việc trả nợ. Việc đánh giá và định giá tài sản cầm cố như tài sản thế chấp. Khác với thế chấp, tài sản cầm cố chỉ là động sản thuộc quyền sở hữu của bên vay và bán được trên thị trường, có thể là các chứng từ có giá.
Tín chấp: Đối với những khách hàng có quan hệ thường xuyên với PVFC, được PVFC xếp vào nhóm khách hàng có quan hệ tốt, hoạt động sản xuất kinh doanh được đánh giá tốt, có lãi và có khả năng thanh toán các khoản vay đúng hạn, có tiền gửi thường xuyên đủ khả năng trả nợ và lãi trong từng kỳ hạn thì công ty có thể cho vay theo phương thức tín chấp. Tuy nhiên, PVFC cần đánh giá kỹ khách hàng và các thông tin trong quá khứ và hiện tại về công ty để có quyết định đúng đắn.
- Hiện đại hóa PVFC:
Hiện đại hóa PVFC là tất yếu của hệ thống tổ chức tín dụng trong xu thế hội nhập ở nước ta hiện nay. PVFC cần nhanh chóng triển khai hệ thống hiện đại hóa để có sự liên kết thông tin giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống và khác hệ thống. Như thế, hoạt động ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng sẽ diễn ra thuận lợi, ít rủi ro hơn.
- Hoàn thiện bộ máy tổ chức:
Một ngân hàng với bộ máy tổ chức cồng kềnh, chồng chéo sẽ là nguồn gốc phát sinh RRTD. Vì vậy, PVFC cần cơ cấu lại bộ máy tổ chức theo hướng tách bạch các phòng chức năng, phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận cũng như thiết lập các nhóm hoặc phòng chuyên môn cho từng nghiệp vụ.
- Chứng khoán hóa các khoản vay:
Đây là một kỹ thuật tài chính mang lại nhiều lợi nhuận cho nhiều tổ chức tín dụng trên thế giới. Chứng khoán hóa các khoản vay được hiểu đơn giản là việc bán ra thị trường các chứng khoán phát hành dựa trên chính các khoản vay. Chứng khoán hóa các khoản vay giúp PVFC đa dạng hóa danh mục cho vay. Sở dĩ chứng khoán hóa nâng cao chất lượng tín dụng, giảm RRTD vì đòi hỏi ngày càng cao của nhà đầu tư vào chứng khoán đã tạo cơ chế chọn lọc tự động, đòi hỏi các khoản vay phải có chất lượng đáp ứng các yêu cầu về quy mô tín dụng, lãi suất, thời hạn...
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, ngành ngân hàng Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Một trong những thách thức đó là rủi ro tín dụng. Do vậy, việc nghiên cứu rủi ro tín dụng và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng có vai trò sống còn đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và công ty tài chính dầu khí nói riêng.
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu, khóa luận đề cập đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, khái quát các lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của các công ty tài chính. Tìm hiểu một số mô hình phân tích, đánh giá và đo lường rủi ro tín dụng.
Thứ hai, nghiên cứu và phân tích hoạt động tín dụng và thực trạng rủi ro tín dụng của PVFC trong giai đoạn 2005-2007 . Qua đó, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại PVFC.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng của PVFC, chuyên đề đã đề xuất một số giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng đối với PVFC.
Những giải pháp đề xuất trong khóa luận chỉ đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại PVFC nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung. Tuy vậy, những giải pháp này có thể phát huy tác dụng tích cực nếu có sự nổ lực phấn đấu của bản thân PVFC cũng như sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp liên quan trong quá trình thực hiện.
Rủi ro tín dụng là một vấn đề phức tạp và đa dạng, và do còn nhiều hạn chế về thời gian và hiểu biết nên khóa luận không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo và những người quan tâm để có thể hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin trân trọng cám ơn các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33179.doc