Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực Đống Đa

Trang 2 3 6 27 33 53 58 67 Mục Lục Lời mở đầu Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng 1.1. Tín dụng. 1.2. Rủi ro tín dụng và biện pháp quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa 2.1. Khái quát chung về tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa. 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng và những rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa Chương 3: M

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột số giải pháp và kiến nghị nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa 3.1. Định hướng hoạt động của Chi nhánh NHCT Đống Đa trong thời gian tới 3.2. Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa 3.3. Một số kiến nghị Kết luận + 666 Lời mở đầu Nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đang trên đà phát triển một cách mạnh mẽ, chúng ta đang có rất nhiều điều kiện thuận lợi dể tiến lên một nước công nghiệp tiến tiến. Đồng thời đó là một môi trường cạnh tranh rất khắc nghiệt. Đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường phải có một khả năng tài chính vững mạnh và trong sạch. Vấn đề vốn đầu tư trong nên kinh tế hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng và nhạy cảm. Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải có lượng vốn lớn đầu tư vào nền kinh tế. Do đó vai trò tín dụng ngân hàng trong hoạt động kinh tế là hết sức quan trọng. Trong vòng quay của nền kinh tế, ngành ngân hàng luôn có ảnh hưởng to lớn trong hoạt động kinh doanh. Để dáp ứng nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế về vấn đề vốn đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng cho phù hợp, hiệu quả cao, rủi ro thấp nhất có thể. Trước tình hình hội nhập của toàn bộ nên kinh tế, cũng như của ngành ngân hàng nói riêng, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống Ngân hàng Công thương và Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực Đống Đa là phải hạn chế thấp nhất rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Nhận thức được sự quan trọng của vấn đề này, tôi đã lụă chọn đề tài: “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực Đống Đa”. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để góp phàn làm cho đề tài này đựơc hoàn chỉnh hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn! Chương 1 Một số vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng 1.1. Tín dụng. 1.1.1. Khái niệm. Tín dụng là giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng và các dịnh chế tài chính khác với bên đi vay là cá nhân, doanh nghiệp…Trong đó quyền cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc lẫn lãi cho bên cho vay khi đén hạn thanh toán. Bên cạnh đó quan hệ tín dụng cũng cần được hiểu là quan hệ hai chiều, và ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Nghiệp vụ kinh doanh tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận nhằm bù đắp những chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh, trong đó có chi phí bù đăp rủi ro tín dụng, và các chi phí khác. 1.1.2. Đặc điểm của tín dụng. - Những hình thức trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm cho vay và cho thuê . Tài sản giao dịch trong cho vay là bằng tiền và tài sản trong cho thuê là bất động sản và động sản. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. - Lòng tin: Quan hệ tín dụng được hình thành trên cơ sở niềm tin rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn. - Về mặt pháp lý, những văn bản xác dịnh quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…đó là những văn bản pháp lý nhằm ràng buộc những trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên cho vay và đi vay. - Tính hoàn trả: Người đi vay thông thường phải thanh toán phần lãi ngoài vốn gỗc, vì vậy người đi vay phải thanh toán nhiều hơn so với lúc đầu vay. - Tính thời hạn: Là khoảng thời gian mà người đi vay phải hoàn trả đúng hạn. 1.1.3. Vai trò của tín dụng. - Thứ nhất, tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình tái sản xuất đồng thời góp phần đầu tư vào phát triển kinh tế. Nhu cầu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, bên cạnh đó quan hệ mua bán chịu luôn tồn tại trên thị trường, do đó với hoạt động tín dụng đã góp phần vào quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế được diễn ra nhanh hơn, giúp cho người cần vốn có thể tìm được vốn nhanh hơn, hiệu quả hơn để có thể duy trì hoạt động sản xuẩt kinh doanh được liên tục và giúp cho người thừa vốn có thể bảo quản an toàn, đồng thời kinh doanh kiếm lời. Trong nền sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn cho doanh nghiệp, đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội. - Thứ hai, tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Bản chất đặc trưng hoạt động ngân hàng là huy động vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phân tán trong nền kinh tế, trong xã hội để thực hiện cho vay tới các đơn vị kinh tế co nhu cầu vốn phục vụ cho qua trình sản xuất kinh doanh. Đầu tư tập trung là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hạn chế sự lãng phí vốn, tiết kiệm mọi nguồn lực như thời gian, chi phí huy động vốn cho sản xuất… - Thứ ba, tín dụng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ. Tín dụng đã tham gia trực tiếp vào quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, đặc biệt những ngành kinh tế trọng điểm trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế. Hoạt động tín dụng luôn chịu sự chi phối trực tiếp của chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ, vì vậy đã góp phần vào việc đẩy nhanh qua trình lưu chuyển tiền tệ trong nên kinh tế thị trường, hạn chế thấp nhất sự ứ đọng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh vòng quay của vốn. -Thứ tư, tín dụng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế Với sự tài trợ tín dụng của ngân hàng, mỗi doanh nghiệp phải thực hiện một chế độ hạch toán kinh tế và các định chế tài chính khác một cách minh bạch và hiệu quả hơn. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng các hợp đồng tín dụng, phải thực hiện thanh toán lãi và nợ vay đúng hạn, cũng như việc chấp hành các quy định ràng buộc trách nhiệm nghĩa vụ khác ghi trong hợp đồng như là về vấn đề tài chính… Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn vay của ngân hàng phải quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. - Thứ năm, tín dụng tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của đát nước yêu cầu các doanh nghiệp phải mở rộng mối quan hệ kinh tế không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn phả mơ rộng ra phạm vi khu vực và thế giới. Tín dụng đã trở thành cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với thế giới và khu vực. Đối với nước ta, một nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng nhất là trong công tác xuất nhập khẩu, trong công cuộc quảng bá thương hiệu NGƯờI Việt trên thế giới. Tín dụng ngày nay là một công cụ để giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước có đủ năng lực để tham gia vào thị trường thế giới như tài trợ việc mua bán chịu hàng hóa, mở rộng sản xuất , nang cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu về quy mô và chất lượng của thị trường thế giới. - Thứ sáu, tín dụng là công cụ tài trợ vốn cho các ngành kinh tế kém phát triển và các ngành kinh tế trọng điểm. Với công cụ tín dụng, Chính phủ sẽ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài, mức vốn lớn. Ngoài ra, Chính phủ còn tập tung vốn tín dụng vào việc phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, để tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Điều này được thể hiện rõ trong chính sách, chiến lược phát triển đất nước từng thời kỳ. - Thứ bảy, tín dụng góp phần điều chính cơ cấu kinh tế, chính sách kinh tế, hạn chế lạm phát. Ngân hàng tạo ra các nguồn vốn chủ yếu từ việc huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, sau đó đầu tư vào nền kinh tế, vào các công trình trọng điểm trong chính sách phát triển đất nước mà Chính phủ đã đề ra. Bên cạnh đó vẫn đảm bảo đựơc không ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình giá cả và lưu thông tiền tệ quốc gia. Ngược lại, Nhà nước sử dụng biện pháp khác, ví dụ như phát hành tiền giấy để tạo nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, sẽ gây ra sự mất cân đối trong lưu thông, trong quan hệ hàng hoá - tiền tệ, làm tăng lạm phát… Kết quả là ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 1.2. Rủi ro tín dụng và biện pháp quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại 1.2.1. Hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Sau khi đất nước tiến hành chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường và có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, hệ thống ngân hàng được phân chia thành hai cấp. Ngân hàng Nhà nước được đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô, còn các NHTM thực hiên nhiệm vụ kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tiền tệ trong đó có hoạt động kinh doanh tín dụng. NHTM được hoạt động độc lập trển cơ sở lỗ lãi tự chịu trách nhiệm. Nguồn vốn kinh doanh hiện nay không còn do Nhà nước cấp mà phải tự huy động từ những nguồn nhàn rỗi trong xã hội, thực hiên các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận bù đắp các chi phí đầu vào, trên nguyên tắc phù hợp với các chế độ, chính sách kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. 1.2.2. Rủi ro tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh tín dụng của NHTM 1.2.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng, hay có thể hiểu là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng tín dụng. Xét về khía cạnh của ngân hàng, thi rủi ro tín dụng đồng nghĩa với thu nhập dự tính của ngân hàng từ các tài sản có sinh lời không được hoàn trả đày đủ cả về mặt số lượng và thời hạn. Do quan hệ tín dụng được hiểu theo hai chiều là đi vay và cho vay, vì vây, cũng cần phải hiểu rủi ro tín dụng theo hai chiều đó là rủi ro trong cho vay và rủi ro trong hoạt động đi vay. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu càu cấp thiết về nguòn vốn đàu tư càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao. Nguồn thu nhập chính của các NHTM là từ lãi suất mà người vay sẽ thanh toán cho ngân hàng, phần khác là từ hoạt động trao đổi các món vay hoặc từ việc bảo đảm và cung cấp các dịch vụ tương tự. Nguồn thu nhập này phụ thuộc chủ yếu vào doanh số và lãi suất cho vay. Tuy nhiên không có gi đảm bảo chắc chắn rằng tiền vay và tiền lãi sẽ được người vay hoàn trả đúng hạn và đầy đủ. Sự mất mát vốn vay và thu nhập này do nhiều nguyên nhân khác nhau, đó chính là những rủi ro mà ngân hàng thường gặp khi cho vay. Những rủi ro này là một nhân tố quan trọng có thể quyết định sự tồn tại của cả một ngân hàng. Vì vậy, mục tiêu chính của các nhà quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các mức rủi ro có thể chấp nhận được. Trong điều kiện cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng gia tăng và bị áp lực từ nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình trạng rủi ro và đặc biệ là rủi ro tín dụng của ngân hàng đang được hết sức chú trọng. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Để có thể đánh giá được đúng mức độ rủi ro tín dụng của các NHTM cần phải dựa trên một số chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu: Tổng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có Dư nợ tín dụng Tổng tài sản có Đây là chỉ số tổng quan về quy mô hoạt động của ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng của một đồn tài sản có. Có thể đánh giá kèm với chỉ tiêu: Dư nợ tín dụng Tổng nguồn vốn huy động Từ đó có thể đánh giá được, rằng hiệu quả sử dụng vốn nói chung của ngân hàng và hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng chỉ có thể xảy ra khi bản thân ngân hàng cho vay quá nhiều so với tiêu chuẩn an toàn của Ngân hàng Nhà nước, so với quy mô vốn huy động. Hiện nay, các ngân hàng thường cho vay với tỷ lệ chiếm khoảng trên 70% trong toàn bộ danh mục tài sản có. Nếu cho vay qua mức sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản, khả năng quản lý của ngân hàng, khi đó khả năng xảy ra rủi ro tín dụng sẽ rất lớn. - Chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Nợ quá hạn Tổng dư nợ Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt, nhưng ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này vượt quá tiêu chuẩn chung của ngành thì là xấu. Để có thể đánh giá được một cách chính xác hơn về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng ta cần phải đánh giá kèm theo chỉ tiêu vòng quay của các khoản nợ quá hạn này, khả năng giải quyết các khoản nợ quá hạn. Bởi vì, tỷ lệ nợ quá hạn cao mà khả năng giải quyết nợ quá hạn hay vòng quay của các khoản nợ quá hạn cao thì khả năng ngân hàng gặp rủi ro tín dụng sẽ sất thấp. Và ngược lại, ngân hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng. - Chỉ tiêu: Nợ khó đòi trên tổng nợ quá hạn Nợ quá hạn khó đòi Tổng nợ qua hạn Tỷ lệ này đánh giá các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, được xác định là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này cao chứng tỏ khả năng thu hồi vốn thấp, nguy cơ mất vồn cao, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp. - Chỉ tiêu: Mức độ chênh lệch thời lượng của tài sản có vời tài sản nợ Chỉ tiêu này phản ánh nếu kế hoạch huy động vốn và sư dụng vốn không có sự nhất quán thì sẽ dẫn đến nguy cơ xả ra rủi ro tín dụng rất cao và kho đó mức độ ảnh hưởng là toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của sự chênh lệch của thời lượng có thể dựa vào công thức sau: DE = DA - DL Trong đó: + DA = - DA. A . Di 1+i DL = - DL . L . Di 1+i Với: * i : lãi suất * DA, DL : là thời lượng của toàn bộ tài sản có và tài sản nợ * A, L : là giá trị của tài sản có và tài sản nợ Trong trường hợp DE < 0, chứng tỏ rằng ngân hàng gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh, trong đó có cả rủi ro tín dụng. 1.2.2.3 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. a. Nhóm nguyên nhân chung a.1. Môi trường kinh tế có những biến động đối nghịch với mục tiêu phát triển của mỗi ngân hàng . - Nền kinh tế suy thoái và được thể hiện qua các chỉ số kinh tế vĩ mố sau: lạm phát tăng trong nhiều kỳ liên tiếp, sự biến động của đồng nội tệ, lãi suất thị trường tăng… Lạm phát tăng cao trong nhiều kỳ liên tiếp. Khi đó chỉ số giá cúa các loại hàng hoá trên thị trường tăng theo. Điều này đồng nghĩa rằng chi phí sản xuất đầu vào tăng, và sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động tiêu thụ trên thị trường của người đi vay. Doanh số giảm sẽ kéo theo lợi nhuận giảm theo. Kết quả là ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của người di vay đối vói ngân hàng Khi có sự biến động của tỷ giá thì cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, ví dụ như trong trường hợp cho vay các doanh nghiệp nhập khẩu, nếu tỷ giá tăng sẽ dẫn tới trường hợp thua lỗ do chi phí đầu vào tăng, qua đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng. a.2. Xuất phát từ ảnh hưởng của văn hoá xã hội. Đó là ảnh hưởng của việc thay đổi tập quán tiêu dùng trong xã hội, nhất là trong giai đoạn chuyển giao của nền kinh tế nước ta. Đó là sự thay đổi cách suy nghĩ của cả một xã hội về thói quen tiêu dùng, nếu doanh nghiệp nào không có sự nắm bắt kịp thời mức độ thay đổi đó sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình, thậm chí có thể dẫn tới phá sản, điều đó sẽ trực tiếp, hoặc gián tiếp gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động cho vay. Đây thực sự là vấn đề đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có hoạt động marketing một cách có hiệu quả.trong giai đoạn canh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế. a.3. ảnh hưởng của nhân tố công nghệ. Yếu tố công nghệ hiện nay đang là yếu tố rất quan trọng quyết định đến sức cạnh tranh trên thị trường cuả mỗi ngân hàng. Trên thực tế, sự thay đổi của công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng và tới cả quá trình cấp tín dụng. Qua đó nhằm khai thác triệt để “vốn thời gian”, kéo dài cánh tay hoạt động của ngân hàng và luôn giữ vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Góp phần làm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. a.4. ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự giám sát chặt chẽ của luật pháp. Môi trường pháp lý sẽ mang đén cho ngân hàng một loạt các cơ hội mới cũng như thách thức mới. Điều này được thể hiện rõ trong hoạt động tín dụng, như việc rỡ bỏ các hạn chế trong cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, còn sự nới lỏng trong quản lý của luật pháp cũng có thể đặt ngân hàng trước những nguy cơ cạnh tranh mới, như việc cho phép thành lập các ngân hàng nước ngoài sẽ đặt các ngân hàng của nước đó vào tình thế cạnh tranh gay gắt hơn và chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ trong từng thời kỳ Sự thiếu chính xác trong dự đoán môi trường luật pháp trong hoạt động tín dụng cũng đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro, như dự đoán sai khu vực kinh tế được ưu tiêu đầu tư, hay bị hạn chế,… dẫn đến tình trạng sai lầm trong chính sách huy động vốn và trong chính sách cho vay. Môi trường chính trị pháp luật này không chỉ bó gọn trong phạm vi Luật các tổ chức tín dụng, mà còn liên quan tới Luật dân sự, Luật Doanh nghiệp… và cũng không chỉ bó gọn trong phạm vi một quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế nhất là trong điệu kiện kinh tế hội nhập như hiện nay. Đồng nghĩa với đó là rủi ro sẽ không còn là ở mỗi ngành ngân hàng mà lan tới tầm quốc gia, khu vực. a.5. Môi trường địa lí Các vùng địa lí khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau như tài nguyên, giao thông, địa hình, tập quán, cách thức giao tiếp, nhu cầu về hàng hoá dịch vụ nói chung và sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng nói riêng. Chính những điều kiện đó hình thành các tụ điểm dân cư, trung tâm thương mại, du lịch hoặc trung tâm sản xuất… Rủi ro trong hoạt động tín dụng do môi trường địa lí mang đến rất khó có thể nắm bắt, dự đoán và nếu có thể dự đoán dược thì cũng sẽ bị tổn thất rất cao như sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự khan hiếm nguồn tài nguyên… Những doanh nghiệp hoạt động trong những khu vực này luôn chịu sự cạnh tranh gay gắt, những nguy cơ rủi ro rất cao. b. Nguyên nhân từ phía người vay b.1. Đối với nhóm khách hàng cá nhân (trong cho vay tiêu dùng) Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài chính vô cùng quan trọng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ… Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay tiêu dùng đó là: + Do tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, hoặc mâu thuẫn trong gia đình +Người vay bị thât nghiệp tạm thời, hoặc lâu dài ảnh hưởng đến thu nhập + Do người đi vay hoạch định ngân sách không chính xác, hoặc có thể do người đi vẳy dụng tiền vay sai mục đích, hoặc chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh… dẫn đến trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Trong tương lai nhu cầu vay tiêu dùng trong dân cư có khả năng tăng mạnh, do mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy, bản thân các ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng thích hợp để hạn chế rủi ro trong cho vay, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng. b.2. Đối với khách hàng là doanh nghiệp. Những nguyên nhân có thể gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là: + Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc sử dụng vốn vay vào việc sản xuất kinh doanh các loại mặt hàng bị pháp luật cấm. + Không đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng vốn, lãng phí, tham ô, tham nhũng. + Doanh nghiệp gặp phải các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình, đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh xảy ra do tính khả thi của dự án còn thấp, không khoa học, không tiếp cận được thị trường. Do chưa đánh giá được chính xác nhu cầu thị trường, hay đánh giá sai lầm về khả năng tiêu thụ của thị trường. Dẫn đến tình trạng sản phẩm tồn kho quá nhiều so với nhu cầu. Cần quan tâm đến công tác nghiên cứu thị trường nhất là công tác Marketing doanh nghiệp. - Doanh nghiệp bị thiệt hại trên thị trường đầu vào. Đây là thị trường cung cấp các nguồn lực cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, dịch vụ, thiết bị công nghệ…Do không có kế hoạch trước những biến động của thị trường như tình trạng tăng giá nguyên vật liệu không thể kiểm soát, trực tiếp sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Nếu doanh nghiệp tăng giá sản phẩm lên thì sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm chậm lại, tình hình luân chuyển vốn chậm, ảnh hưởng tơi khả năng thanh toán nợ ngân hàng của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá hoặc không tăng giá thì sẽ làm giảm lợi nhuận và khả năng tái sản xuất của doanh nghiệp trong tương lai, thậm chí có thể bị thua lỗ. Ngoài ra, còn do chất lượng của nguyên vật liệu không đảm bảo ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, có thể làm giảm uy tín thương hiệu sản phẩm trên thị trường, làm giảm khả năng cạnh tranh. Do đó bản thân mỗi doanh nghiệp cần phải có chính sách dự trữ nguyên vật liệu để đề phòng trường hợp tăng giá gây thiệt hại cho quá trình sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ cao. - Do doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình sản xuất như tình hình năng suất lao động giảm sút, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ tay nghề của công nhân còn thấp kém. Do cơ cấu chi phí cố định chiếm tỷ trọng lớn, gây ra hiện tượng lãng phí ứ đọng vốn. Cũng có thể là do trình độ quản lý doanh nghiệp của ban giám đốc còn yếu, không hiệu quả, không động viên được đội ngũ nhân viên hoạt động hăng say, không có chế độ lương bổng khuyến khích, chính sách quản lý thiếu chiều sâu. - Rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong tình hình tài chính. Do doanh nghiệp có hệ số nợ cao đó là kết quả của quá trình tăng trưởng quá nóng hoặc quá chậm, do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài, không có biện pháp thu hồi nợ, làm hạn chế khả năng quay vòng của các khoản phải thu. Với khả năng tài chính vững mạnh, trong sạch sẽ như là cái móng vững chắc cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và tạo dựng lòng tin đối với Ngân hàng. - Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng có thể gặp rủi ro trên thị trường đầu ra. Do khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn thấp, chất lượng kém, mẫu mã không bắt mắt. Và áp lực của cạnh tranh bắt buộc doanh nghiệp phải hạ thấp giá thành một cách đồng loạt, điều nảy ảnh hưởng đến thu nhâp của doanh nghiệp. Hơn nữa, chính sự thiếu quan tâm, đầu tư vào công tác phân tích, phán đoán, dự báo thị trường làm giảm khả năng tham gia thị trường, hoặc sản xuất quá lớn so với nhu cầu, dẫn tới tình trạng ứ đọng hàng hoá, hạn chế khả năng quay vòng của hàng tồn kho. Hệ thống mạng lưới đại lý, cửa hàng tiêu thụ không được đặt đúng vùng thị trường, sản phẩm không tới được tay người tiêu dùng. Nhất là sắp tới sẽ có sự tham gia mạnh mẽ của các ngân hàng nước ngoài do xu thế hội nhập hoá nền kinh tế, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chính sách nghiên cứu thị trường hợp lý hơn, hiệu quả hơn. - Rủi ro tín dụng còn liên quan tới đạo đức của người sử dụng vốn vay ngân hàng. Họ sử dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt vốn tín dụng của ngân hàng thông qua việc tạo ra những dự án ảo. Những trường hợp như thế này hiện nay đang tồn tại rất nhiều, đòi hỏi phải nâng cao công tác thẩm định khách hàng nhằm hạn chế rủi ro. c. Về phía ngân hàng Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, từ môi trường khách quan có thể gây ra tình trạng rủi ro tín dụng, còn có những nguyên nhân chủ quan từ phía các ngân hàng: + Do chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp với đặc điểm, thực trạng của nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ. Chính sách tín dụng được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung trong cho vay, chế độ tín dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, về loại khách hàng và ngành nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho vay…quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận, tăng trưởng, bỏ qua sư an toàn trong hoạt động kinh doanh. Một chính sách không đầy đủ đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn để gian lận chiếm đoạt vốn bất hợp pháp… cuối cùng là không đem lại hiệu quả kinh tế, nguy cơ rủi ro cao. + Khâu phân tích thẩm định còn yếu đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra rủi ro tín dụng. Do cán bộ tín dụng năng lực thấp, chưa được đào tạo đầy đủ, ít kinh nghiệm trong ngành nghề mà mình tài trợ, ngoài ra cũng có thể do vấn đề đạo đức không tốt của cán bộ thẩm định như không trung thực, thiếu trách nhiệm, cấu kết với người đi vay để chiếm đoạt vốn của ngân hàng. + Nguyên nhân thứ ba là do ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiên không đầy đủ khâu bảo đảm tín dụng. Như cán bộ thẩm định đánh giá sai giá trị tài sản đảm bảo bao gồm cả giá trị hiện tại và trong tương lai, hoặc lại quá tin tưởng vào tài sản đảm bảo coi đó là “bùa hộ mệnh” cho công tác thu hồi vốn sau này, mà coi nhẹ công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện dự án, phòng ngừa rủi ro, không có những biện pháp kịp thời nhằm hạn chế khoản vay có thể dẫn tới nợ quá hạn. + Các ngân hàng thường đứng trước một mâu thuẫn đòi hỏi sự linh hoạt trong quá trình giải quyết, đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời hạn chế rủi ro tín dụng. Nhiều ngân hàng ra sức tăng mức dư nợ tín dụng mà bỏ qua hoặc hạ thấp những tiêu chuẩn cho vay. Hay nói một cách khác là ngân hàng chỉ chạy theo số lượng tín dụng mà không coi trọng chất lượng tín dụng, do đó rất nguy hiểm đối với công tác tín dụng của ngân hàng. Để tăng lợi nhuận, ngân hàng cần phải có những biện pháp hạn chế những chi phí không hợp lý nhưng các ngân hàng đã không xác định rõ những chi phí nào đối với mình là không hợp lý và đã loại bỏ những chi phí hợp lý khác làm giảm thấp chất lượng nghiệp vụ, gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh. + Một yếu tố luôn ảnh hưởng tới khâu thẩm định của cán bộ tín dụng đó là chất lượng và số lượng thông tin. Bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng luôn trong tình trạng thông tin không cân xứng, cho nên đòi hỏi công tác thẩm định phải sàng lọc thông tin một cách kỹ càng, chính xác, tránh bỏ sót những dự án hiệu quả cao và tránh nhận những dự án không có hiệu quả hay hiệu quả thấp. Các ngân hàng chưa được cung cấp đầy đủ và chính xác, mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng CIC đã được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa cập nhật. Trong nhiều trường hợp ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin về quan hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác nên có thể phán quyết sai lầm khi cho vay. + Do ngân hàng không thực hiên tốt công tác giám sát tín dụng. Bởi vì, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng hạn chế, thiếu thực tế, chỉ dựa trên giấy tờ, số liệu báo cáo của khách hàng. Thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm soát lấy lệ, hời hợt, chỉ mang tính hình thức, không phản ánh đúng sự thật do chịu áp lực từ cấp trên, từ chính quyền địa phương. Một hệ thống kiểm soát lỏng lẻo dễ dẫn đến tình trạng thất thoát vốn, giảm thấp hiệu quả hoạt động kinh doanh. + Ngoài các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trên, Ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro tín dụng do cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu vực, một ngành cho nên đã hạn chế sự linh hoạt của ngân hàng trước những biến động của thị trường cạnh tranh, gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có thể do công tác thiết kế sản phẩm tín dụng không phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của người vay, hoặc do vẫn còn nặng tính chất quan liêu, quan cách trong hoạt động giao dịch với khách hàng, hoặc có thể do cán bộ ngân hàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông đồng với khách hàng, nhận hối lộ, cố tình làm sai nguyên tắc. d. Nguyên nhân rủi ro tín dụng từ phía các TSBĐ tín dụng. + Sự sụt giảm giá trị của TSBĐ, có thể là do biến động của tình hình giá cả thị trường. Đây là tác động mang tầm vĩ mô, mà bản thân các cán bộ thẩm định cần phải đánh giá chính xác giá trị của TSĐB qua các thời kỳ biến động khác nhau, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng cấp tín dụng vượt mức so với quy định an toàn trong việc cấp tín dụng. Sự sụt giảm giá trị của TSĐB là do sự hao mòn trong quá trình người vay sử dụng TSĐB. Các tài sản nói chung luôn chịu tác động của thời gian, của môi trường sản xuất, đòi hỏi công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ để hạn chế người vay sử dụng tài sản sai mục đích hoặc sử dụng vượt quá hạn mức cho phép. Đó cũng là một hình thức mà các ngân hàng chiếm đoạt “vốn”, vốn ở đây là giá trị của máy và thời gian kinh tế của máy sau này. + Ngân hàng gặp rủi ro trong quá trình nắm giữ và xử lý TSĐB. Do người vay cầm cố tài sản cho người khác, hoặc có thể do người vay cố tình gây khó khăn trong công tác phát mại TSĐB, khiến cho ngân hàng không thể thu hồi vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của toàn bộ ngân hàng. Khi đó rủi ro không còn trong phạm vi một khoản vay mà lan rộng ra phạm vi của cả bộ máy hoạt động kinh doanh. + Đối với các trường hợp đối nhân (bảo lãnh): Ngân hàng có thể gặp rủi ro khi người đựoc bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thanh toán do gặp khó khăn về vấn đề tài chính. Gây ra sự ứ đọng vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rộng hơn đó là nguy cơ rủi ro cao. + Ngoài ra còn có nguyên nhân là do sự không đồng bộ vế các văn bản pháp lý có liên quan đến TSĐB, gây khó khăn cho ngân hàng trong trường hợp phát mại TSĐB và xử lý sự cố, qua đó hạn chế vị thế pháp lý của ngân hàng rong xử lý tài sản. 1.2.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng. Trong quá trình hoạt động kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro, và thường có một vài dấu hiệu để nhận biết rủi ro tín dụng. Có dấu hiệu thì biểu hiện mờ nhạt, có dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có biện pháp để nhận ra những dấu hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế, xử lý chúng. Nhưng cần phải chú, vì các dấu hiệu này đôi khi chỉ được nhận ra trong cả một quá trình chứ không hẳn là một thời điểm. Do vậy cán bộ tín dụng cần phải nhân biết chúng một cách có hệ thống. Vậy dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng có thể bao gồm các nhóm sau: Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên đến mối quan hệ khách hàng và ngân hàng * Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản khách hàng ._.qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng gồm: - Khó khăn trong thanh toán lương, sự biến động của số dư các tài khoản, đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi - Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản - Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu đông từ nhiều nguồn khác nhau * Các hoạt động cho vay - Mức độ vay thường xuyên gia tăng, thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn - Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi - Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến * Phương thức tài chính - Sử dụng nhiều nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài hạn. - Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả - Giảm các khoản phải trả, tăng các khoản phải thu - Có biểu hiện giảm vốn điều lệ Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng - Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị và ban điều hành. Hệ thống quản trị và ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, về công tác quản trị, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán. - Được hoạch định bởi ban giám đốc điều hành ít kinh nghiệm, hay ban quản trị tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật, thiếu quan tâm tới lợi ích của các cổ đông, các chủ nợ - Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên, việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ - Lập kế hoạch, xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng giải quyết đối với những thay đổi Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới chính sách ưu tiên trong kinh doanh. - Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn, khách hàng bị ấn tượng bởi một khách hàng có tên tuổi mà có thể sau này trở nên lệ thuộc, ban giám đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt hợp đồng lớn. - Sự cấp bách không thích hợp như do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản phẩm dịch vụ ra quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc. Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại - Khó khăn trong phát triển sản phẩm, cường độ đổi mới sản phẩm giảm dần. Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế - Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất, thị hiếu của người tiêu dùng, cập nhật kỹ thuật mới, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh - Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước, đặc biệt là chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động - Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán - Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính, hoặc chậm trễ, trì hoãn + Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ kéo dài + Khả năng tiền mặt giảm + Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp + Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng + Tăng giá trị quảng cáo thông qua việc tính lại tài sản… Trên đây là những dấu hiệu nhận biết rằng khả năng xảy ra rủi ro tín dụng, do đó cần phải đặc biệt chú ý trong việc quản lý hoạt động tín dụng. 1.2.3. Các biện pháp quản trị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM 1.2.3.1. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro Đây là điều kiện tiên quyết trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường bién động phức tạp, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chiến lược rõ ràng trong việc quản trị rủi ro tín dụng, bời vì đó là “kim chỉ nang” cho hoạt động tín dụng. Một chiến lược rõ ràng, chính xác trong dự báo đảm bảo cho bản thân các ngân hàng có thể linh hoạt trong phòng ngừa và xử lý những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Nó góp phần định hướng cho các hoạt động tín dụng trong tương lai nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cao. Nhất là trong điệu kiện hội nhập của nền kinh tế với khu vực và thế giới. Chiến lược này có thời hạn trong thời gian dài, nó quyết định đến sự tồn tại của cả ngân hàng, bởi vì hoạt động tín dụng chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động ngân hàng. 1.2.3.2. Xây dựng chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của ngân hàng phải thực hiện ba mục tiêu cơ bản: Lợi nhuận, an toàn và lành mạnh. Một chính sách tín dụng hợp lý phải được xây dựng dưa trên những căn cứ sau: - Nguồn vón của ngân hàng, bao gồm cả vốn huy động, và vốn chủ sở hữu. Dựa vào quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư , loại hình cho vay phù hợp - Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, điều này ảnh hưởng đến nhu cầu tín dụng của thị trường. Do đó ngân hàng cần phải có sự phù hợp thống nhẩt đối với các điểu chỉnh vĩ mô của Chính phủ. - Thị trường mục tiêu của ngân hàng, nguồn lực vật chất và trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên là nhân tố tác động đến khả năng hoạt động của ngân hàng trên những khu vực thị trường nhất định. Chính những nhân tố này sẽ phát huy lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường - Căn cứ vào những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là những phân tích mang tính chất kỹ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ngoài nước, điển hình lã những phân tích dự báo về tình hình tài chính tiền tề như lãi suất, lạm phát, ngoại tệ… 1.2.3.3. Thực hiện tốt công tác phân tích tín dụng và xác định mức độ rủi ro tín dụng. Thực hiên phân tích tín dụng một cách đầy đủ và toàn diện nhằm đánh giá khách hàng và tính hiệu quả của dự án trước khi cho khách hàng vay. Việc phân tích, thẩm định tín dụng được thực hiện trong và sau khi cho vay. Đó là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi khoản vay nhằm đảm bảo tính chính xác, tính kinh tế của đồng vốn tín dụng đến được đúng đối tượng sử dụng vốn hiệu quả. Quá trình này chỉ chấm dứt khi khoản vay được hoàn trả đúng thời han và đầy đủ. Công tác này có vai trò quyết định trong việc khoản vay có sinh lòi hay không, qua dố đảm bảo chu kỳ đồng vốn của ngân hàng từ huy động đến cho vay đến thu nợ, hoặc có đảm bảo được mục đích kinh doanh của ngân hàng hay không. Không chỉ có tác dụng trong công tác cấp vốn của ngân hàng mà còn góp phần vào công tác quảng bá thương hiệu của bản thân ngân hàng, được thể hiện qua thủ tục cho vay không rườm rà, thái độ phục vụ tận tình, trách nhiệm cho dù có vay được vốn hay không. 1.2.3.4. Thực hiện đầy đủ khâu đảm bảo tín dụng Các yêu cầu TSĐB của ngân hàng với mục đich nhằm hạn chế rủi ro trong trường hợp khách hàng không thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng vay vốn về việc thanh toán gốc và lãi khi đến hạn. Tuy nhiên việc thực hiên hình thức bảo đảm tiền vay nào là phụ thuộc vào tình hình của khách hàng, và của bản thân ngân hàng cho vay. Để hạn chế rủi ro tín dụng thì khâu đảm bảo tín dụng cần phải lưu ý những vấn đề sau: - Đối với cho vay có bảo đảm tiền vay bằng tài sản + Cần đánh giá chính xác tính sở hữu tài sản, có trong tình trạng tranh chấp hay không? + Đánh giá tính thị trường của tài sản hiện tại và tương lai, xác định rõ mức độ hao mòn của tài sản trong thời hạn đảm bảo. + Trình tự thủ tục tiến hành phải phù hợp với quy định của pháp luật và của ngành. - Đối với cho vay có bảo lãnh + Đánh giá năng lực pháp lý, năng lực tài chính và ý thức sẵn sàng thanh toán của jgưòi bảo lãnh. + Đảm bảo quy đinh về thủ tục bảo lãnh. 1.2.3,5. Thực hiện tốt quy trình giám sát tín dụng Cán bộ tín dụng phải theo sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích không và để kiểm tra việc bảo quản vật tư hàng hóa hìNh thành từ vốn vay, tình hình TSĐB, tiến độ thực hiện dự án… có thực hiện đúng theo hợp đồng haykhông.Hơn nữa, mục đích của việc giám sát tín dụng làđể phát hiện ra những rủI ro tiềm ẩn, giúp cho ngân hàng phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có vấn đề, qua đó có thể hạn chế được những rủi ro không cần thiết. 1.2.3.6. Xử lý hiệu quả nợ quá hạn. Để có thể xử lý được nợ quá hạn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng, bản thân các ngân hàng aần phải ý thức được rằng những khoản nợ quá hạn là những khoản nợ vay có vấn đề,cho nên phải có quyết định kịp thời, `oặc là tiÅp tục gia hạn nợ nếu đánh giá người vay vẫn còn khả năng trả nợ Nhưn' như thế này khả năng rủi r/ tín dụng vẫn cồn rất cao$ hoặc là thanh ,ý, thu hồi kUoản nợ trước hạn. Đây là những quyết định rất quan trọng, nó cho thấy ngân hàng có thể bị rủi ro hay không. Việc tiến hành xử lý hay không thì phảh tiến hành qua nhữne khâu sau: + Phải có hành động ngăn ngừa các khoản vay có k(ả năng quá hạn như lập kế hoạch gặp khách hàng, gặp gỡ khách hàng, lập phương án ngăn ngừa rủi ro và +iểm tra các phương áf khẳc `hục. + Nếu ngăn ngừa không thành công ngân hàng thực `iện các bhện pháp thông qua bộ phận truy hồi tài sản vưi phương án cụ thể hoặc là khai thác, hoặc là th`nh lý. 1.2.3.7. Phân tán rủi ro tín dụng. Đây là động tác mà mỗi ngân hàng bắt buộc phải duy trì trong suốt cả quá trình quản lý tín dụng. Yêu cầu các ngân hàng phải tôn trọng các giới hạn trong cho vay (Ê 15% VTC), dựa trên những đánh giá về TSĐB (Ê 70% g)á trị TSĐB), thực hiện đồng bộ với chỉ tiêu an toàj vốn tối thhểu prong hoạt động kinh doanh và yêu cầu khách hàfg phải mua bảo hiểm cho các tài sản Hình thành từ vốn vay và TSĐB. Không nên tập trung cho vay quá nhiều vàm một loại đối tượng, một ngành, một địa bàn, cần phải đa dạng hoá danh mục cho vay nhằm mục đích đa dạng hoá rủi ro, tăng cường khả năng xử lý linh hoạt các tình huống có thể xảy ra. Đồng thời cũng cần phải sử dụng nghiệp vụ cho vay hợp vốn nhằm mục đích san sẻ rủi ro cho các đơn vị khác. 1.2.3.8. Sử dụng các công cụ ngoại bảng Đây là biện pháp hạn chế rủi ro rất hữu hiệu của ngân hàng, nó không những có thể hạn chế được rủi ro mà còn có thể mang lại được lợi nhuận cho ngân hàng. Đòi hỏi sử dụng côn cụ thị trường phái sinh phải có hệ thống, bao gồm các công cụ quyền chọn, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi. Trên cơ sở các hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh, mỗi ngân hàng cần phải đưa ra các chính sách sử dụng các công cụ phái sinh dựa trên những phân tích đánh giá về tình hình biến động của thị trường tiền tệ. Đây là biện pháp quản lý cấp cao trong hoạt động ngân hàng. Hiện nay xu hướng giải quyết rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng bằng cácăn công cụ phái sinh đang ngày càng phổ biến, và rất hiệu quả. Nhưng nó cũng có tính hai mặt, nếu dự đoân phân tích sai về thị trường sẽ dẫn tới rủi ro cao hơn vừa cả rủi ro về tín dụng mà còn rủi ro trong khả năng thanh toán các khoản lỗ do kinh doanh các công cụ này gây ra. Tóm lại, trên đây là những khái quát về rủi ro tín dụng. Có thể nói rằng tín dụng là một hoạt động rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhưng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, nó không chi gây thiệt hại, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội. Xuất phát từ những phân tích, đánh giá về bản chất, dấu hiệu, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, các ngân hàng sẽ lựa chọn các hiải pháp thích hợp để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thành công rủi ro. Để có thể đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa, thì chúng ta cần phải hiểu rõ hơn về thực trang rủi ro tín dụng tại Chi nhánh. Chương 2 Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa 2.1. Khái quá4 chung về tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đ`. Trải qua nhiều năm xây dứng và phát triển, hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa là một trong những chi nhánh có quy mô lớl và uy tín #ủa Quận Đống Đa và của thành phố Hà Nội. Thành tựu đáng tự hào của chi nhánh là đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùnc lao động thời kỳ đổi mới, có thể nói rằng đó là vinh dự không phải ngân hàng nào cũng có thể có được. Năm 2004 hoạt động kinh doanh dịch vụ của Chi nhánh NHCT Đống Đa tiếp tục duy trì được sự ổn định và phát triển, mặc dù có nhiều khó khăn và trở ngại trong cạnh tranh về hoạt động huy động vốn và cho vay giữa các ngân hàng trên địa bàn. Nhưng bằng phong cách phục vụ nhiệt tình, chu đáo với nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn, đầu tư cho vay có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho sản xuất kinh doanh, giúp các doanh nghiệp tạo thêm việc làm cho người lao động. Trong năm qua Chi nhánh đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch NHCT Việt Nam giao. Tốc đọ huy động vốn tăng trưởng 14%, tóc độ cho vay nền kinh tế tăng trưởng 9%, kết quả trên đã góp phần vào thành tích chung của toàn hệ thống và đóng góp không nhỏ vào công cuôc phát triển kinh tế trên địa bàn thủ đô. 2.1.1. Hoạt động huy động vốn Được đánh giá là một trong những ngân hàng có quy mô lớn trong mạng lưới chi nhánh của Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Với hệ thống mạng lưới rộng trên địa bàn, năm 2004 Chi nhánh đã có nhiều biện pháp để giữ vững và tăng trưởng nguồn vốn huy động, tổ chức phục vụ tốt công tác huY động tiền gửi dân cư, huy động kỳ phiếu, huy dộng tiết kiệm dự thưông tại 16 quỹ Tiết kiệm, phối hợp với các Ban dự án, Ban g)ải phóng mặt bằng của Quận để thu hút các khoảj tiền đềj bù tại các phường Ngã Tư Sở, Quốc Tử Giám, ô Chợ Dừa. Thường Xuyên có tổ thu tiền mặt tại Xế nghiệp bán lẻ xăng dầu và Chi nhánh Điện lực Đống Đa, thu lưu động tại những đơn vị có nhiều tiền mặt, tổ chức thu vào các ngày nfhỉ đối với các đơn vị có nguồn tiền mặt lớn. Đáp ứng kịp thời nhu cầu mở tài khoản của khách hàng. Ngoài ra Chi nhánh tiếp tục duy trì với khách hàng truyền thống và tích cực tìm kiếm khách hàng có nguồn tiền gửi lớn. Có thể thấy xu hướng tăng trưởng trong công tác huy động vốn của Chi nhánh NHCT Đống Đa qua các năm Bảng 01: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: tỷ đồng STT Năm 2002 2003 2004 I Tiền gửi dân cư 1520 1700 1743 1 Tiền gửi tiết kiệm 1360 1700 1543 - Loại không kỳ hạn 20 25 12 - Loại có kỳ hạn 1340 1675 1531 + dưới 12 tháng 734 871 842 + trên 12 tháng 606 884 689 2 Kỳ phiếu 160 200 II Tiền gửi của các tổ chức kinh tế 800 900 1400 - không kỳ hạn 570 600 800 - có kỳ hạn 230 300 600 Tổng (I + II) 2320 2600 3143 Dựa vào bảng, ta có thể thấy được vốn huy động của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đống Đa tăng trưởng cao và liên tục. Tốc độ tăng của năm 2003 là 12,1% và tiếp tục tăng lên vào năm 2004 với tốc độ tăng là 20,9%, đó là điều đáng khích lệ trong bối cảnh cạnh tranh của các ngân hàng khác trên địa bàn. Đây chính là cơ sở cho quá trình cấp tín dụng được diễn ra thuận lợi. Vốn huy động của ngân hàng chủ yếu từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Trong đó, tiền gửi dân cư là chủ yếu với 1520 tỷ đồng, chiếm 65,52% tổng vốn huy động, với 23,02% là bằng ngoại tệ. Nhưng vốn huy động từ dân cư có xu hướng giảm dần qua các năm, năm 2004 chỉ còn tăng 2,5%. Đó là điều mà bản thân ngân hàng cần phải có sự điều chỉnh về chính sách, chiến lược nhằm thu hút hơn nữa nguồn vốn nhàn rỗi từ trong dân, tạo niềm tin từ trong dân về mức độ an toàn và khả năng sinh lời của đồng tiền. Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế là 800, 900, 1400 qua các năm 2002, 2003, 2004 có thể thấy rằng tốc độ tăng của tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng cao hơn so với tiền gửi của dân cư, nhưng bản thân ngân hàng cần phải có biện pháp tăng cường khả năng thanh khoản của ngân hàng vì tiền gửi của các tổ chức kinh tế biến động rất mạnh, khi đó nguy cơ mất khả năng thanh khoản của loại nguồn vốn huy động này là rất cao. Như vậy qua việc phân tích ở trên ta thấy ngân hàng đã sử dụng các hình thức huy động vốn hiệu quả, góp phần làm tăng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng vay. Nhưng bên cạnh đó ngân hàng cần phải đảm bao được hệ số an toàn vốn tối thiểu theo quy định của NHNN, tránh tình trạng phát triển quá nóng của ngân hàng, cần có biện pháp duy trì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động trong dân cư 2.1.2. Hoạt động sử dụng vốn Tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh NHCT Đống Đa đươc thể hiện qua các năm như sau: Bảng 02: Tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: tỷ đồng Nội dung 2002 2003 2004 Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Só tiền Tỷ lệ 1. Tiền mặt và tiền gửi NHNN 18 0.91 18 0.64 15 0.48 2. Tín dụng thông thường 1670 84.51 2041 73.18 2203 70,47 - quốc doanh 1495 75.66 1523 54.61 1800 56.85 - ngoài quốc doanh 175 8.85 518 18.57 350 14.00 3. Sử dụng vốn khác 288 14.58 730 26.18 908 29.05 Tổng sử dụng vốn 1976 2789 3126 ( Nguồn số liệu: Báo cáo kế toán năm 2004 của Chi nhánh NHCT Đống Đa) Dựa vào bảng cân đối trên, ta thấy tình hình sử dụng vốn trong những năm gần đây Chi nhánh NHCT Đống Đa có sự chuyển biến rõ rệt. Điều này thể hiện rất rõ ở tốc độ tăng của hoạt động sử dụng vốn khác cụ thể trong đó là viêc ngân hàng thực hiên nghiệp vụ điều chuyển vốn trong hệ thống, để hạn chế vốn huy động thừa tại Chi nhánh. Mặc dù hoạt động tín dụng cũng có sự tăng trưởng, nhưng cũng phải đánh giá là trong khoản thời gian nay hoạt động tín dụng đang có dâu hiệu chững lại và suy giảm, dư nợ tín dụng không tăng nhưng tỷ trọng trong tổng tài sản lại giảm qua các năm từ tỷ trọng 84.51% năm 2002 xuống còn 70,47% năm 2004. Đó là một vấn đề đáng quan tâm của ngân hàng. Tiền mặt và tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước năm 2004 là 15 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,48% so với tổng tài sản có, và thấp hơn so với tỷ lệ 0,91 của năm 2002, và 0,64 của năm 2003, điều này có thể làm tăng khả năng sinh lời của Chi nhánh, nhưng cũng đặt ra yêu cầu đòi hỏi ngân hàng phải có biện pháp quản trị rủi ro thanh khoản hiệu quả, vì tỷ lệ này tương đối thấp sẽ gây rủi ro cho ngân hàng . 2.1.3. Hoạt động khác a. Hoạt động thanh toán Hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế của Chi nhánh NHCT Đống Đa ngày càng phát triển với các hình thức hoạt động như mua bán ngoại tệ, chi trả kiều hối, phát hành L/C, trong đó nổi bật là hoạt động thanh toán L/C. Năm 2004 thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt 2.708 triệu đồng. Hoạt động thanh toán của Chi nhánh được thể hiện rõ qua nguồn số liệu sau: Bảng 03: Hoạt động thanh toán của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Năm 2003 Năm 2004 Tăng, giảm Số tiền tỷ lệ số tiền tỷ lệ số tiền Tỷ lệ A. Tiền mặt 7320 19.46 6450 13.78 -870 -11.89 B. Không dùng tiền mặt 30300 80.54 40344 86.22 10044 33.15 1. Séc chuyển khoản 450 1.20 274 0.59 -176 -39.11 2. Séc bảo chi 280 0.744 200 0.43 -80 -28.57 3. Uỷ nhiệm chi 18500 49.18 24800 53.00 6300 34.05 4. Uỷ nhiệm thu 72 0.19 70 0.15 -2 -2.78 5. Các loại khác 11000 29.24 15000 32.06 4000 36.36 Tổng 37620 100 46794 100 9174 24.39 ( Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa qua các năm) Nhìn vào bảng, ta thấy hoạt động thanh toán của Ngân hàng có tốc độ tăng trưởng khá cao, 24,4%. Do tốc độ tăng của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực rất cao, 33,15%, đồng thời giảm các hoạt động thanh toán dùng tiền mặt. Đây là thành tích rất tốt của Chi nhánh, bởi vì khu vực hoạt động của Chi nhánh là một trong những khu vực kinh tế trọng điểm của Thủ đô, là nơi tập trung nhiều các doanh nghiệp, công ty lớn, các hoạt động thương mại dịch vụ diền ra đa dạng, phong phú. Đó là do bản thân ngân hàng đã tập trung đầu tư khoa học công nghệ vào quá trình hoạt động kinh doanh, với hệ thống thanh toán qua máy ATM trên đia bàn rất rộng lớn và tập trung ở những khu vực đông dân trong Quận. Ngoài ra ngân hàng còn có nhiều chính sách khuyến khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng nhằm đẩy nhanh tốc độ thanh toán. - Trong hoạt động thanh toán quốc tế : + Mở L/C nhập khẩu :351 món, trị giá 41.195.006 USD + Thanh toán L/C nhập khẩu : 440 món, trị giá 45.186.498 USD Do đặc điểm khách hàng của Chi nhánh chủ yếu là những đơn vị sản xuất, thường xuyên nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Vì vậy, nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại Chi nhánh chủ yếu phục vụ cho mở L/C nhập khẩu, thanh toán chuyển tiền và nhờ thu nhập khẩu. Chi nhánh thường xuyên khai thác ngoại tệ của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác cùng với sự hỗ trợ của Trung ương để đảm bảo nhu cầu thanh toán cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. - Về kinh doanh ngoại tệ + Doanh số mua : 57.817.873 USD + Doanh số bán : 57.683.860 USD - Về chi trả kiều hối + Doanh số chi trả kiều hối năm 2004 là 463 món, với trị giá 2.068.056 USD + Dịch vụ chi trả kiều hối được tổ chức, bố trí các bộ phận hợp lý nhằm đảm bảo an toàn, nhanh chóng và tiện lợi. b. Hoạt động bảo hiểm nhân thọ Trong năm 2004, Tổ nghiệp vụ bảo hiểm đã thực hiện được 11 hợp đồng, tổng số tiền hoa hồng và thưởng là 23.466.000 đồng Bên cạnh đó phòng đã phối hợp tốt với các phòng ban thực hiện tôt hoạt động Marketing tiếp thị khách hàng, giới thiệu sản phẩm. 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng và những rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa 2.2.1. Nguồn vốn hoạt động tín dụng Nguồn vốn huy động của ngân hàng là nguồn vốn chủ yếu ngân hàng sử dụng cho vay khách hàng. Đối tượng vay vốn của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh. Chi nhánh NHCT Đống Đa có tổng nguồn vốn tương đối cao so với các ngân hàng khác trong khu vực, đay là cơ sở vững chắc giúp ngân hàng nâng cao được hiệu quả của hoạt động tín dụng. Bảng 04: Tình hình nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Nội dung Năm 2003 Năm 2004 Tăng giảm Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Huy động bằng VND 2100 80.77 2633 83.77 533 25.38 Huy độngbằng ngoại tệ (quy đổi) 500 19.23 510 16.23 10 2 Trong đó: - Doanh nghiệp 25 0.96 27 0.86 2 8 - Dân cư 475 18.27 483 15.37 8 1.68 Tổng vốn huy động 2600 100 3143 100 543 20.88 (Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa năm 2004) Ta thấy trong năm 2004, nguồn vốn của ngân hàng có mức độ tăng trưỏng cao, đạt 3143 tỷ đồng, tăng 513 tỷ đồng so với năm 2003, tốc độ tăng là 28,88%. Trong đó, nguồn vốn huy động bằng VND đạt 2633 tỷ đồng, tăng 533 tỷ đồng, tốc độ tăng là 25.38% so với năm 2003. Ngoài ra, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ (quy đổi) trong năm 2004 đạt 510 tỷ đồng, tăng 10 tỷ đồng, tốc độ tăng là 2% so với năm 2003. Có thể đánh giá đây là thành tích rất tốt của Chi nhánh NHCT Đống Đa trong công tác huy động vốn của năm 2004 đáp ứng cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh. 2.2.2. Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng trong Chi nhánh NHCT Đống Đa luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của cả ngân hàng. Trong những năm vừa qua, nhận thức được tình hình biến động của nền kinh tế xã hội, sự thay đổi của của luật pháp nhằm đạt mục tiêu nước ta ra nhập WTO vào năm 2005. Do đó cơ hội trước mắt của Chi nhánh NHCT Đống Đa là rất lớn, nhưng rủi ro cũng lớn. Ngân hàng Công Thương Đống Đa đang từng bước thực hiện chiến lược hiện đại hoá và tăng trưởng hoạt động tín dụng trong thời gian tới trên nguyên tắc thận trọng, an toàn và hiệu quả. Đây là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu trong tổng thu nhập của ngân hàng. Điều này sẽ được chứng minh qua các số liệu sau đây: Bảng 05: Tình hình tài chính của Chi nhánh NHCT Đống Đa qua các năm Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Tăng giảm Số tiền Tỷ lệ Tổng thu nhập 180 225 45 25 Thu từ lãi hoạt động tiền gửi 40 55 15 37.5 Thu từ lãi tiền vay 137 165 28 20.44 Lãi khác 3 5 2 66.67 Tổng chi phí 142 165 23 16.20 Lãi tiền gửi 35 45 10 28.57 Lãi tiền vay tiêt kiệm 77 82 5 6.49 Chi khác 30 38 8 26.67 Lợi nhuận trước thuế 38 60 22 57.89 (Nguồn số liệu: Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT Đống Đa năm 2004) Bảng số liệu trên cho thấy thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng doanh thu của Chi nhánh năm 2004, cụ thể là chiếm 73,33% doanh thu hay góp phần làm cho tổng lợi nhuận trước thuế của ngân hàng tăng 22 tỷ đồng tức là tăng 57,89%. Số liệu này một lần nữa tái khẳng định vai trò của hoạt động tín dụng là rất quan trọng đối với hoạt động của Chi nhánh. Mục tiêu phấn đáu của Chi nhánh là tăng tổng dư nợ lên 2.200 tỷ đồng, trên cơ sở nguồn vốn huy động dồi dào. Có thể đánh giá khả năng phát triển của ngân hàng qua các số liệu sau đây. Bảng 05: Tình hình dư nợ tín dụng của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Nội dung Năm 2003 Năm 2004 Tăng giảm số tiền tỷ lệ Dư nợ 2020 2203 183 9,1 Cho vay các doanh nghiệp quốc doanh 1523 1853 277 21,67 Cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 497 350 -168 -29,58 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, dư nợ tín dụng của Chi nhánh đạt 2203 tỷ đồng, tăng 109 tỷ đồng, tốc độ tăng là 7,94%. Nhưng xét một cách tương đối thì dư nợ tín dụng của ngân hàng lại giảm, vì tỷ trọng của dư nợ trong tổng tài sản có năm 2004 (70,47%) thấp hơn so với năm 2003 (73,18%). Trong đó, ta thấy được ngân hàng chủ yếu cho vay các doanh nghiệp quốc doanh, dư nợ cho vay doanh nghiệp quốc doanh chiếm năm 2004 chiếm tỷ trọng 84,11% trong tổng dư nợ, cao hơn so với năm 2003 (75,4%). Góp phần vào quá trình cơ cấu lại các doanh nghiệp quốc doanh trước những yêu cầu của quá trình ra nhập vào WTO và khu vực mậu dich tự do ASEAN. Nhưng đây cũng là nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng đối với Chi nhánh trong tương lai nếu các doanh nghiệp nay không thể cạnh tranh trên thị trường, do từ trước đến nay họ chỉ dựa vào sự bảo hộ của Nhà nước. Hơn nữa thực tế đã cho thấy sức cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc doanh trên thị trường trong nước rất kém chứ chưa nói gì tới thị trường thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng, cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực trong những năm trước là do nền kinh tế đầu tư quá lớn vào các doanh nghiệp có quy mô lớn, nên khi xảy ra khủng hoảng thì các doanh nghiệp này khả năng thích ứng thấp hơn so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mà trong nền kinh tế Việt Nam các doanh nghiệp lớn thường là các doanh nghiệp quốc doanh, vì vậy ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù hợp, cân đối, tránh hiện tượng “ bỏ nhiều trứng vào cùng một giỏ”. Nhìn chung cơ cấu tín dụng phân theo kỳ hạn của Chi nhánh NHCT Đống Đa không có sự thay đổi lớn. Cơ cấu tín dụng phân theo kỳ hạn của năm 2004 như sau: Bảng 06: Cơ cấu dư nợ của Chi nhánh NHCT Đống Đa Đơn vị: Tỷ đồng Nội dung Năm 2003 Năm 2004 Tăng giảm Số tiền Tỷ lệ Dư nợ ngắn hạn 1231 1250 19 1.54 Dư nợ trung dài hạn 789 953 164 20.79 Tổng dư nợ 2020 2203 183 9.06 (Nguồn số liệu: Báo cáo kế toán năm 2004 của Chi nhánh NHCT Đống Đa) Chi nhánh đã đầu tư cho vay ngắn hạn rất có hiệu quả, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định và có hiệu quả, tạo việc làm cho người lao động, sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh trên thị trường như thuốc tân dược của Công ty Dược liệu TW1, sản phẩm của Công ty Cao Su Sao Vàng, các sản phẩm cáp điện của Công ty Cơ điện Trần Phú, Công ty Thượng Đình, Công ty Sơn tổng hợp Hà Nội, Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông. Dư nợ tín dụng của ngân hàng chiếm 58% trong tổng dư nợ, nhưng cũng không có sự thay đôi đáng kể, tổng dư nợ ngắn hạn của Chi nhánh chỉ tăng được 19 tỷ đồng, tương đương với tỷ lệ 1,54%. Nhưng ngược lại tốc độ tăng trưỏng của tín dụng trung dài hạn của ngân hàng rất cao, với 20,79% so với năm 2003 hay cụ thể là 164 tỷ đồng. Nguyên nhân là do trong năm 2004 Chi nhánh đã giải ngân cho một loạt dự án lớn như : Dự án nhập thiết bị để thi công nhà máy thuỷ điện A Vương của Công ty Lũng Lô trị giá 43,5 tỷ đồng; Tiếp tục giải ngân cho Tổng công ty XDCTGT 8 thi công đường vành đai III đoạn Mai Dịch- Pháp Vân trị giá 22,5 tỷ đồng; Dự án truyền hình Cáp của Công ty dịch vụ truyền hình cáp Hà Nội 22 tỷ đồng; Đầu tư dây truyền công nghệ cho Công ty Đống Đa sản xuất sản phẩm nhựa phục vụ cho ngành ô tô, xe máy trị giá 9,9 tỷ đồng. Đây là những khoản tín dụng lớn của ngân hàng, và mức độ rủi ro trong công tác thu hồi vốn rất cao, đòi hỏi ngân hàng phải tốn rất nhiều nguồn lực trong công tác quản lý vốn. Đánh giá một cách khách quan, tình hình hoạt động của Chi nhánh NHCT Đống Đa trong năm 2004 là tốt. Nhưng bên canh đó vẫn còn nhiều tồn tại vầ khó khăn như tình hình kinh tế thị trường biến động, giá cả không ổn định, mặt bằng giá cả trong nước vẫn còn rất cao, ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng và của và ảnh hưởng đến nhu cầu vay và khả năng trả nợ đối với Chi nhánh. 2.2.3. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa 2.2.3.1. Thực trạng rủi ro tín dụng a. Phân loại nợ quá hạn theo đối tượng cho vay Bản chất của hoạt động tín dụng là ứng trước cho người vay, bởi vậy rủi ro là thuộc tính vốn có của tín dụng. Rủi ro tín dụng xảy ra có nghĩa là khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn là thấp, hoặc có thể biểu hiện dưới dạng ngân hàng quá tập trung cho vay vào một hoặc một số khách hàng cụ thể. Công cụ đo lường phổ biến tình hình rủi ro tín dụng là chỉ tiêu nợ quá hạn. Khi mà tỷ lệ nợ quá hạn lên tới 5% so với tổng dư nợ thì chứng tỏ ngân hàng đang trong tình trạng nguy hiểm cao. ở nước ta, ngoài khái niệm nợ quá hạn còn có những khái niệm về nợ khó đòi, nợ khoanh, nợ chờ xử lý,…Để có thể đánh giá chính xác tình hình nợ quá hạn tại Chi nhánh NHCT Đống Đa ta cần phải phân tích số liệu sau: Dựa vào biểu đồ ta thấy, nợ quá hạn năm 2004 tăng thêm 4 tỷ đồng, với tốc dộ tăng 50%, đây là tốc độ tăng đáng báo động. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ của ngân hàng là 0,54%, vẫn nằm trong phạm vi cho phép, so với tình hình chung của ngành. Nhưng không thể chủ quan lơ là trong công tác quản trị nợ quá hạn, do mức độ nguy hiểm của nó. Nhưng đây cũng là thành tích rất tốt trong công tác cho vay và thu hồi nợ của ngân hàng khi duy trì được tỷ lệ nợ quá hạn thấp như vậy. Mục tiêu trong năm 2005, ngân hàng sẽ duy trì tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%. Đây là chỉ tiêu có thể thực hiện được trong khả năng của ngân hàng. Hiện tại khả năng bi rủi ro tín dụng của ngân hàng là rất thấp, nhưng vẫn có thể xảy ra rủi ro, nếu bản thân không có biện pháp hạn chế rủi ro hiệu quả. Với những nguyên nhân, dấu hiệu có thể dẫn đến rủi ro tín dụng như đã nêu ở Chương I, đòi hỏi bản thân ngân hàng phải có biện pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro thích hợp trong b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36927.doc
Tài liệu liên quan