Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

Lời mở đầu Trong những năm qua, Nước ta đã thực hiện vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trrường. Môi trường kinh tế cạnh trang đã tạo ra triển vọng và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngân hàng nói riêng. Sau khi hệ thống ngân hàng được tổ chức lại, trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định 53/HĐBT, các ngân hàng thương mại đã được tách ra với tư cách là đơn vị kinh doanh tiền tệ mà mục tiêu chủ yếu của nó là tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng đồng thờ

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cơ chế thị trường với đầy dẫy những rủi ro bất trắc lại đặt các doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp ngân hàng) trước những thử thách khốc liệt, ngiệt ngã bởi sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Rủi do luôn là canh bệnh bẩm sinh vốn có của nền kinh tế thị trường. Gắn liền với khả năng thu lợi nhuận cao thì bao giờ cũng xuất hiện những tiềm tàng khả năng rủi ro lớn đối với nó. Đáng chú ý là trong lĩnh vực kính doanh tiền tệ khả năng rủi ro đối với các doanh nghiệp ngân hàng là con số cộng khả năng rủi ro các doanh nghiệp trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Bởi vì trong điều kiện cơ chế thị trường, nguồn vốn vay ngân hàng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ của các doanh nghiệp bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của họ. Như vậy, bất kỳ sự rủi ro nào dù lớn hay nhỏ, xảy ra ở bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào có quan hệ giao dịch tín dụng với ngân hàng cũng đều gây ra rủi ro cho ngân hàng. Điều đó cho thấy rủi ro và vấn đề phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng bao giờ cũng là một vấn đề được quan tâm hàng đầu vì nó có liên quan và tác động trực tiếp đến sự sống còn của các ngân hàng. ở nước ta vấn đề rủi ro tín dụng và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại đã được đề cập đến từ mấy năm nay nhưng chủ yếu mới trên phương diện lý luận. Cần có sự tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn của các ngân hàng. Nhận thức được mối nguy hiểm và hậu quả không lường trước được do các rủi ro tín dụng ngân hàng gây ra, cùng với những kiến thức và bài học thu được trong đợt thực tập tại ngân hàng công thương hoàn kiếm, em xin mạnh dạn chọn đề tài "Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở ngân hàng công thương hoàn kiếm" để nghiên cứu. Tuy nhiên, với thời gian và trình độ có hạn, kinh nghiệm thực tiến chưa nhiều nên bản luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Mong có được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc. Hoàn thành bản luận văn này em xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cán bộ ngân hàng công thương hoàn kiếm, đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh tín dụng. Em xin được bầy tỏ lòng biết ơn đối với thầy Trần Đăng Khâm là người trực tiếp hướng dẫn em trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. Chương I Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng I- Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1/ Khái niệm về Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại xuất hiện trước khi có chủ nghĩa tư bản, nó được hình thành từ những thương nhân làm nghề kinh doanh tiền tệ. tính chất vô danh của đồng tiền khiến cho những người kinh doanh tiền tệ có thể chuyển từ việc chỉ giữ hộ tiền (vàng) sang đổi hộ tiền, vận chuyển hộ tiền và dần dần khi họ tích luỹ được một số vốn nhất định họ sẽ tiến hành cho vay lấy lãi. Lúc này việc giữ hộ tiền thu lệ phí chuyển sang hoạt động huy động vốn phải trả lãi để khuyến khích, động viên số vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Đồng thời họ tiến hành nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng. Khi cả ba nghiêp vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán) được hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện. Như vậy có thể nói Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế mà hoạt động thường xuyên của nó là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện một số dịch vụ thanh toán cho khách hàng . 2- Vai trò của Ngân hàng thương mại . Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ .Tiền vừa là nguyên liệu vừa là giá trị phản ánh hiệu quả kinh doanh của ngân hàng .Dưới nền kinh tế chỉ huy ,mọi hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả ,các ngân hàng thương mại đứng ngoài sản xuất ,tác động của ngân hàng tới nền sản xuất là rất yếu .Đã xuất hiện nhiều căn bệnh hiểm nghèo do hậu quả hoạt động của ngân hàng không tốt gây ra như :khủng hoảng, lạm phát ... Mặc dù vậy ,ngân hàng vẫn giữ vai trò rất to lớn trong nền kinh tế thị trường .Cụ thể là: 2.1.Ngân hàng tạo ra tín dụng giúp cho nhà kinh doanh có điều kiện mở rộng sản xuất . Ngân hàng thương mại là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá ,thực hiện các nghiệp vụ của mình về tiền tệ tín dụng .Ngân hàng thương mại là nơi tích tụ và tập trung vốn ,nơi khơi dậy và thu hút mọi tiềm năng của xã hội, phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội, làm cho sản phẩm xã hội tăng lên .Do vậy giữa các ngân hàng và các nghành kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với nhau .Trên cơ sở nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời chưa sử dụng phát sinh trong nền kinh tế mà ngân hàng huy động được ,ngân hàng tiến hành phân phối cho nhu cầu của nền kinh tế ,đáp ứng nhu cầu về vốn để mở rộng quá trình tái sản xuất .Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá luôn phải nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Phần lớn các doanh nghiệp khi mở rông sản xuất bao giờ cũng thiếu vốn. Ngân hàng là thị trường vốn bảo đảm cung cấp đầy đủ nhu cầu của doanh nghiệp. Ngoài việc bổ sung vốn lưu động, ngân hàng còn cho vay đầu tư dài hạn, giúp cho họ hiện đại hoá các qui trình công nghệ. Như vậy ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. 2.2- Ngân hàng giúp cho các tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý doanh nghiệp có hiệu quả. Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Chúng ta biết rằng giá cả của hàng hoá cho vay chính là lãi suất tín dụng. Qua lãi suất tín dụng, ngân hàng thúc đẩy các đơn vị phải hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay của vốn, giảm chi phí, tăng khả năng sinh lời để có thể trả lãi vay ngân hàng mà đơn vị vẫn có lãi. Mặt khác qua việc thẩm định ngân hàng chỉ quyết định cho vay đối với những đơn vị có khả năng hoàn trả cả vốn và lãi, đơn vị nào hoạt động có hiệu quả thì cho vay nhiều và ngược lại. Như vậy một đơn vị muốn vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh trước hết phải xắp xếp tổ chức sản xuất kinh doanh tốt mới lấy được lòng tin của ngân hàng. 2.3- Ngân hàng khích lệ sự tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và dân cư. Lãi xuất khích lệ các tổ chức kinh tế cũng như dân cư gửi tiền vào ngân hàng. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn có lợi nhuận lớn phải tiết kiệm tối đa chi phí mới đảm bảo trả được lãi vay ngân hàng. Như vậy lãi xuất tiền gửi và lãi xuất cho vay đóng vai trò quan trọng trong tiết kiệm đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng. 2.4- Ngân hàng giúp cho nền kinh tế phân bổ vốn giữa các vùng trong một quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Gữa các vùng trên lãnh thổ một quốc gia thường có sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều mà nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Nơi tài nguyên nghèo, địa hình hiểm trở xa xôi, khí hậu không thuận lợi để phát triển kinh tế thì nguồn vốn huy động tại chỗ ở địa phương từ sự tiết kiệm của dân cư và các tổ chức kinh tế không được bao nhiêu để dùng vào đầu tư. Các ngân hàng thương mại thường được tổ chức theo hệ thống, trong đó Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại trung ương sẽ đứng ra điều hoà vốn từ nơi thừa (huy động mà không sử dụng hết) đến nơi thiếu đảm bảo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng, xoá dần sự khác biệt giữa các vùng trên lãnh thổ về kinh tế và xã hội. 2.5- Ngân hàng góp phần chống lạm phát và là một trong những công cụ quản lý Nhà nước có hiệu quả tạo nên sự công bằng và ổn định. Có hai con đường dẫn đến lạm phát, trong đó có một con đường qua lạm phát tín dụng. Ngân hàng với các biện phảp của mình đã ngăn chặn lượng tiền thừa vào lưu thông ,góp phần chống lạm phát .Ngân hàng với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng ,thông qua các nghiệp vụ của mình đã kiểm soát bằng tiền hoạt động của nền kinh tế. Ngân hàng xác định được hướng đầu tư vốn ,có biện pháp xử lý những biến động không hợp lý trong nền kinh tế, kiểm soát quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội. Ngoài ra, ngân hàng là cơ quan quản lý tiền tệ nên thông qua nghiệp vụ của mình ,điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền. 2.6-Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa trong nước và thế giới bên ngoài tạo nên môi trường quyết định phát triển ngoại thương, công nghiệp và các ngành có liên quan . Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng nhường bước cho kinh tế mở. Vì vậy tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất nhập khẩu hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tóm lại, trong nền kinh tế hiện đại do áp dụng những thành quả khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ tin học, không gian và thời gian đã thay đổi. Vốn cho sản xuất ở mỗi nước không còn khả năng tự lực cánh sinh mà còn phải có sự hoà nhập với thị trường vốn thế giới. Ngân hàng thương mại chính là cầu nối cho thị trường trong và ngoài nước. Như vậy nó không chỉ là "Bà đỡ" cho sản xuất hàng hoá mà nó còn chính là trái tim luôn cung cấp máu cho mọi tế bào của đời sống kinh tế. 3- Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại . 3.1- Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Đây là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng thương mại đã thực hiện được một phần chức năng tạo tiền. Nếu tín dụng ngân hàng không tạo được tiền để mở ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp hoạt động sản xuất không thực hiện được và nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận và các nguồn khác sẽ bị hạn chế. Hơn thế nữa các đơn vị sản xuất có thể gánh chịu tình trạnh ứ đọng vốn, vốn luân chuyển không được sử dụng trong những giai đoạn cụ thể của quá trình sản xuất, nhưng trong các thời kỳ cao điểm mang tính thời vụ của một doanh nghiệp lại không đủ vốn để thúc đẩy nhu cầu sản xuất kinh doanh. Sự ra đời của Ngân hàng thương mại đã tạo ra bước phát triển về chất trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Nếu như trước đây các tổ chức kinh doanh tiền tệ giữ tiền và gửi tiền để rồi cho vay ra cũng chính những đồng tiền ấy thì kể từ khi ngân hàng ra đời việc cho vay không nhất thiết là tiền, vàng, bạc mà họ nhận được từ người gửi. Ngân hàng thương mại hoạt động bằng cách "đi vay để cho vay" khoản chênh lệch lãi xuất, sau khi đã trừ đi những chi phí khác là lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân với các lãi xuất khác nhau như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm... Ngoài ra khi cần thêm vốn ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi hay vay vốn của ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức tín dụng khác. 3.2- Nghiệp vụ đầu tư tín dụng. Nghiệp vụ đầu tư tín dụng cho khách hàng là nghiêp vụ kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vốn mà Ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay suất phát từ nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi nhuận nhiều hơn, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của nề kinh tế. nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. vì vậy trong quyết định số 198/NH-QĐ ngày 16/9/1998 của thống đốc ngân hàng nhà nước đã ghi 3 nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng thương mại là "vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn đã kỹ; vốn vay phải sử dụng đúng mục đích có kết quả; vốn vay phải đảm bảo bằng hàng hoá có gía trị tương đương". 3.3- Nghiệp vụ thanh toán Việc đưa ra một cơ chế thanh toán hay nói cách khác sự vận động vốn là một trong những chức năng quan trọng do các ngân hàng thương mại thực hiện . nó càng trở nên quan trọng khi có được sự tín nhiệm trong việc sử dụng séc và thẻ tín dụng. Phần lớn séc trong nước được thanh toán bù trừ thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán mà còn quản lý các phương tiện thanh toán một cách có hiệu quả. Hiện nay ở nhiều nước ngân hàng đã và đang trang bị hệ thống máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác nhằm làm cho quá trình thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao . 3.4-Tham gia vào hoạt động thị trường hối đoái . Các Ngân hàng thương mại có nhiều khách hàng tham gia xuất nhập khẩu, có thu chi ngoại tệ nhiều .Trong sự phát triển của mình , các ngân hàng đã hình thành và phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế .Các nghiệp vụ này là động lực phát triển sản xuất kinh doanh , xuất nhập khẩu của các đơn vị kinh tế .Xét về mặt ngân hàng, việc mua bán ngoại tệ cũng như việc cho vay ngoại tệ đem lại lợi nhuận trên cơ sở mua vào với giá thấp , bán ra với giá cao hơn, hoặc do sự biến động của tỷ giá ngoại tệ nên việc mua bán ngoại tệ không thông qua đồng bản tệ hay kinh doanh chênh lệch giá cũng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. 3.5- Tham gia vào hoạt động trên thị trường chứng khoán. Ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán là thực hiện các nghiệp vụ tài chính. Trên thị trường chứng khoán, ngân hàng thương mại có thể xuất hiện với tư cách người mua bán chứng khoán ,người môi giới và bảo lãnh chứng khoán cho các chủ đầu tư, trong đó chức năng người môi giới chứng khoán của ngân hàng trên thị trường chứng khoán là chức năng quan trọng nhất. 3.6- Thực hiện các dịch vụ đối với khách hàng . Hoạt động dịch vụ của Ngân hàng thương mại ngày càng đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng .Vì vậy các ngân hàng ngày càng đa dạng hoá các dịch vụ của mình đối với khách hàng nhằm nâng cao lợi nhuận .Một số dịch vụ của Ngân hàng thương mại như :nhận bảo quản tài sản cho cá nhân , dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bảo quản vật có giá , quản lý chứng từ có giá , tư vấn cung cấp thông tin về kinh tế cho khách hàng ... Với những hoạt động này , Ngân hàng thương mại xứng đáng đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế và trở thành trung tâm của đời sống kinh tế. II- Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng . 1/ Khái niệm về rủi ro. Mọi hoạt động của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội , đều hướng tới một mục đích nào đó .Song có những trường hợp mục đích đó không đạt được do trong quá trình hoạt động gặp phải rủi ro . Vậy rủi ro là gì ? Đã có nhiều định nghĩa về rủi ro như :"Rủi ro là bất trắc gây mất mát , thiệt hại ", "rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đơị "...Nhưng nói chung mọi định nghĩa đều đi đến sự khẳng định là rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và đem lại những hậu quả xấu . Rủi ro có thể gặp bất cứ lúc nào , ngoài ý thức của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống , nhất là trong lĩnh vực linh tế. Trong kinh tế , rủi ro được coi là những tổn thất mà các doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh . Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ -tín dụng các ngân hàng cũng phải chấp nhận điều đó . Nhưng thực tế đã chứng minh rằng không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro nhiêù như kinh doanh tiền tệ . Rủi ro trong kinh doanh tín dụng là những tổn thất xảy ra trong quá trình ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tín dụng của mình, vì tín dụng là việc " một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho người khác ,dùng chữ kí cam kết cho người này như bảo lãnh , bảo đảm hay bảo chứng mà có thu tiền " Như vậy tín dụng dựa vào lòng tin về sự hoàn trả số nợ vay vào một thời điểm xác định trong tương lai . Cơ sở của quan hệ tín dụng dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa sự chuỷen giao quyền sử dụng vốn và lòng tin , lòng tin này xuất phát từ hai phía, hai chủ thể tín dụng: Người cung cấp tín dụng và khách hàng. Khả năng kinh tế, khả năng kỹ thuật, uy tín của mỗi chủ thể là cơ sở để tạo ra lòng tin giữa họ song tín dụng luôn chứa đựng yếu tố thời gian và trong tương lai "số phận" của khoản tín dụng sẽ như thế nào? đó là một điều mà không ai có thể khẳng định chắc chắn được, nghĩa là rủi ro đang chờ đón họ. Rủi ro không loại trừ bất kỳ một loại tín dụng nào, song tín dụng ngân hàng có khả năng gặp phải nhiều trở ngại, rủi ro hơn so với tín dụng thương mại. Bởi vì xem xét rủi ro trong tín dụng thương mại chúng ta nhận thấy rủi ro được giới hạn trong phạm vi hàng hoá, có nghĩa là người ta sẽ không mua hàng hoá nếu xét thấy khả năng không bán được và như vậy sẽ không phát sinh quan hệ tín dụng và không có rủi ro. Còn nếu xem xét rủi ro trong tín dụng ngân hàng thi tình hình lại khác hẳn. Tín dụng ngân hàng là tín dụng bằng tiền, có phạm vi rộng rãi hầu như không giới hạn. Do vậy nhận thức đúng đắn và đầy đủ về rủi ro trong kinh doanh tín dụng là một vấn đề cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng có được những giải pháp hạn chế rủi ro có hiệu quả, giúp ngân hàng đạt được mục tiêu của quá trình kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. 2- Các loại rủi ro chủ yếu mà ngân hàng thương mại thường gặp. Chúng ta đều biết rằng hoạt động của ngân hàng là loại hình hoạt động rất cần sự cận trọng song vẫn thường gặp phải rủi ro. Một ngân hàng thành công trong hoạt động của nó không chỉ có những cán bộ chuyên môn giỏi mà cần phải am hiểu nhiều lĩnh vực và đặc biệt phải có phẩm chất đạo đức tốt , có tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên vẫn phải khẳng định rằng kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất, trong đó tập trung vào 5 loại rủi ro sau: 2.1- Rủi ro thuần tuý. Đó là các rủi ro do tác động của thiên nhiên mang lại như: Thiên tai, hoả hoạn, động đất, hoặc những rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham nhũng... Làm thiệt hại hoặc gây thất thoát tài sản của ngân hàng. 2.2- Rủi ro lãi suất: loại này xảy ra khi có sự thay đổi lãi suất trực tiếp tác động tới lợi nhuận của nhà ngân hàng. Ví dụ, khi lãi suất tiền vay giảm trong khi lãi suất trả cho tiền gửi hoặc trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của nhà ngân hàng. Những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm giảm chi phí cho nguồn vốn cao hơn thu nhập sử dụng vốn dẫn đến kinh doanh của ngân hàng bị lỗ. 2.3- Rủi ro tín dụng. Đó là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được các khoản vay chủ yếu do tình trạng nợ khó đòi và nợ không có khả năng thu hồi. Chúng bao gồm tất cả các khoản cho vay của ngân hàng, các khoản đầu tư chứng khoán, tín dụng tài trợ... đến kỳ hạn mà khách hàng, người phát hành không thanh toán hoặc trả nợ được cho ngân hàng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Bởi vậy việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của chính các ngân hàng, hơn 2/3 số tài sản có của ngân hàng là các món nợ cho vay và đầu tư chứng khoán, đem lại thu nhập chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thêm vào đó các hoạt động ngoại bảng tổng kết tài sản như: Các giao dịch trên thị trường hối đoái, các hợp đồng trao đổi, bảo lãnh tín dụng, tín dụng tài trợ... đều rất dễ bị rủi ro, thua lỗ và mất mát. Nếu các món vay hoặc chứng khoán đến kỳ hạn mà không được hoàn trả ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn laĩ. Nếu giá trị số thiệt hại quá lớn, vượt quá số vốn tự có của ngân hàng thì chắc chắn ngân hàng sẽ không hoạt động được nữa và lâm vào tình trạng khủng hoảng, có nguy cơ bị phá sản. 2.4- Rủi ro hối đoái. Đây là loại rủi ro do biến động của thị trường ngoại hối gây ra. hiện nay các ngân hàng thương mại thường có xu hướng hoạt động đa năng thực hienẹ cả nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ do đó khi có sự biến động về tỷ giá hối đoái thì thường phải chịu ảnh hưởng ở một mức độ nào đó (nếu sự biến động đó nằm ngoài dự kiến của ngân hàng) Nhất là với các Ngân hàng thương mại Việt Nam, hiện nay mới đang trong thời kỳ sơ khai, còn nhiều bỡ ngỡ, kinh nghiệm còn hạn chế do đó vẫn đề rủi ro hối đoái đang được các ngân hàng quan tâm một cách thích đáng. 2.5- Rủi ro nguồn vốn Thể hiện trên 2 phương diện: Rủi ro do bị đọng vốn và rủi ro thiếu vốn khả dụng. * Rủi ro bị đọng vốn: là trường hợp ngân hàng huy động vốn mà không cho vay ra được xảy ra tình trạng mất cân đối giữa việc huy động và sử dụng vốn. Rủi ro này xảy ra có thể do tác động của lãi suất, của công cụ hạn mức tín dụng hoặc do chất lượng kinh doanh của bản thân ngân hàng. * Rủi ro thiếu vốn khả dụng xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu thanh toán của khách hàng. Nó xuất phát từ chức năng chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và gnuồn vốn của ngân hàng. Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động. Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, nếu khả năng thanh toán của ngân hàng kém, ngân hàng lại càng khó lòng huy động được một nguồn vốn dồi dào, từ đó phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, Ngân hàng càng có nguy cơ rủi ro, vỡ nợ. Vì thế loại rủi ro này rất nguy hiểm đối với nhà quản lý ngân hàng. Với loại rủi ro này, Ngân hàng luôn đề phòng bằng việc tính toán, duy trì một hệ thống vốn khả dụng phù hợp với ngân hàng mình. Hệ số này được xây dựng trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình nguồn vốn và sử dụng vốn theo tính chất khả chi và khả dụng thực sự của chúng. Chẳng hạn tiền gửi có kỳ hạn thường ổn định hơn tiền gửi không kỳ hạn; tiền gửi giữa các ngân hàng thường bấp bênh hơn tiền gửi của khách hàng.... Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính của nhà ngân hàng và nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro tín dụng cũng luôn thường trực và khi đã xảy ra thì sức công phá của nó cũng rất nghiêm trọng, nó có thể biến Ngân hàng từ trạng thái phát dạt đến nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy nghiên cứu về rủi ro tín dụng và tìm ra các giải pháp cho nó luôn là một đề tài không bao giờ cũ đối với các nhà phân tích, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Đối với Việt Nam nói chung và ngân hàng công thương Hoàn Kiếm nói riêng thì hơn bao giờ hết, vấn đề này lại càng trở lên nóng hổi và bức thiết. Sở dĩ có điều này vì dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn qua liên tục tăng nhưng con số đó chưa đủ để làm cơ sở yên tâm vào sự lớn mạnh cuả các Ngân hàng này. Vấn đề ở chỗ số vốn cho vay đó có hoạt động hiệu quả hay không và có thực hiện đúng mục đích hay không. Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước vì vậy nhu cầu về vốn là rất lớn. Lý do đó đòi hỏi không chỉ có giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu mà còn phải xem xét thực trạng các nguồn vốn vay đang hoạt động ra sao và có an toàn không. 3- Rủi ro tín dụng 3.1- Thực trạng về rủi ro tín dụng ở các Ngân hàng thương mại. Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng là một khả năng có thể xảy ra khi khách hàng của ngân hàng không dáp ứng được nghĩa vụ trả nợ theo những thoả thuận. Rủi ro càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của Ngân hàng càng thấp. - Thời kỳ trước tháng 12/1986: Hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập chung mang tính chất phục vụ là chủ yếu. Vì thế vấn đề rủi ro ngân hàng không đặt ra xem xét. - Thời kỳ 1987-1990 : Hệ thống ngân hàng bước đầu chuyển động trong cơ chế thị trường và đã vấp phải vô vàn rủi ro. Đối với hệ thống ngân hàng chuyên doanh thì hàng ngàn tỷ đồng nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Đối với hệ thống tổ chức tiền tệ tín dụng ngoài quốc doanh: Ra đời hàng loạt và cuối năm 1988. Đến năm 1990 sau cơn lãi suất cao, 12 ngân hàng cổ phần, gần 500 quỹ tín dụng đô thị, hơn 7000 HTX tín dụng lâm vào tình trạng vỡ nợ không có khả năng thanh toán gây nỗi thất vọng kinh hoàng cho dân chúng mà dư âm còn cho tới nay. - Thời kỳ 10/1990 đến nay: Là thời kỳ thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng. Tuy nhiên rủi ro ngân hàng và nguy cơ rủi ro vẫn ở mức cao. Trong các năm 1995, 1996 phần lớn các ngân hàng thương mại quốc doanh đều lỗ. Chỉ số nợ quá hạn tính chung cho cả 4 ngân hàng là 19,5% so với tổng dư nợ. Theo số liệu của uỷ ban thanh toán công nợ quốc gia đến 31/12/1997 tổng số nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh là 2433 tỷ đồng đến nay mới thu hồi được khoảng 500 tỷ, số còn lại khó có khả năng thu hồi chưa kể số nợ quá hạn mới phát sinh từ đó đến nay. Các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng gặp nhiều khó khăn trong việc huy động và cho vay vốn, phần lớn hoạt động cầm chừng, phải gửi vốn vào ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay lại. Như vậy điểm qua hoạt động cho vay của hệ thống các ngana hàng thương mại trong giai đoạn vừa qua chúng ta thấy có 3 vấn đề nan giải nhất sau đây: - Hiện tượng nợ quá hạn ở nhiều ngân hàng có su hướng tăng lên. Vấn đề đáng lo ngại hiện nay của nhiều ngân hàng là chất lượng hoạt động tín dụng. Tình trạng nợ quá hạn trở nên phổ biến, tỷ trọng nợ quá hạn cao, có su hướng ra tăng. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước thì hầu hết các ngân hàng đều có nợ quá hạn. Trong toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại chỉ tính riêng nợ quá hạn khó đòi đã tới con số hàng ngàn tỷ đồng. Năm 2000 so với 1999, dư nợ quá hạn của các Ngân hàng thương mại quốc doanh tăng 1,18% nhưng do dư nợ tín dụng tăng nên xét về số tuyệt đối thì số nợ tín dụng của năm 2000 sẽ tăng hơn mức dư nợ quá hạn của năm 1999 không phải là 1,18% nữa mà là 1,4%. Điều này cho thấy mức độ thiệt hại có thể xảy ra càng lớn bởi lẽ dư nợ tín dụng tăng lênchủ yếu nhờ vào nguồn vốn tín dụng tăng còn số vốn tự có của các ngana hàng thường tăng lên với một tốc độ chậm chạp, vì thế tỷ lệ rủi ro so với vốn tụ có cũng theo su hướng tăng lên ,làm lung lay nền tảng của các Ngân hàng thương mại . Cũng như vậy ,các Ngân hàng thương mại cổ phần đang phải đối đầu với tỷ lệ nợ quá hạn thường ở mức 5% trên tổng dư nợ ,nhiều ngân hàng tỷ lệ nợ quá hạn còn chiếm trên 20 % tổng dư nợ một con số nếu không có biện pháp ngăn ngừa kịp thời sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng khó lường. - Ta biết rằng trong kinh doanh ngân hàng thì nợ quá hạn là một điều không thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường. Sẽ chẳng có gì phải bàn cãi nếu như con số nợ quá hạn chỉ đơn thuần theo đúng nghĩa của nó là nợ quá hạn. Song vấn đề không chỉ dừng lại ở đó vì trong số nợ quá hạn trên 12 tháng thì nợ khó đòi , nợ không có khả năng thu hồi chiếm tỷ trọng rất lớn. Khi phân tích chất lượng tín dụng, điều làm người ta lo lắng không phải đơn giản chỉ là sự chậm trễ, sai hẹn trong việc trả nợ của khách hàng, mặc dù sự chậm trễ ấy có ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng , mà cái chính là khả năng không thu hồi của số nợ đó. Chính vì thế mà trong nợ quá hạn người ta còn chia ra nợ quá hạn trên một năm , nợ khó đòi , nợ không có khả năng thu hồi ...và cũng theo trật tự đó sự lo lắng ngày càng tăng lên gấp bội còn niềm hy vọng thì giảm dần. Thực tế những năm gần đây số nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nợ quá hạn ,thường trên 50% ,ở một số Ngân hàng thương mại cổ phần tình hình còn đáng sợ hơn nhiều: 80%-90% thậm chí 100%. Một con số làm kinh hoàng cho tất cả những ai hiểu về hoạt động ngân hàng. -Tuy nhiên bên cạnh hai loại rủi ro tín dụng trên mà ta cho râừng có vấn đề đáng lo ngại thì một loại rủi ro được gọi là rủi ro tiềm ẩn cũng là vấn đề cần quan tâm . Đó là loại rủi ro tiềm ẩn trong số dư nợ không có vấn đề. Nếu tách hết số dư nợ quá hạn ra khỏi tổng dư nợ, ta còn lại dư nợ bình thường, hay dư nợ không có vấn đề gì đáng lo ngại song ở một số ngân hàng số dư này vẫn buộc các nhà ngân hàng phải quan tâm bởi trong số dư nợ tưởng chừng như bình thường đó lại ẩn chứa nhiều vấn đề không bình thường, không đúng qui chế pháp luật như: Số dư nợ đã được gia hạn nhiều lần, đảo nợ nhiều lần là những con số đáng kể đối với các nhà ngân hàng. Về bản chất nó đã khó có khả năng thu hồi ngay từ khi cho vay . Dẫu biết rằng trong hoạt động tín dụng ngân hàng ở bất kì cơ chế nào cũng đều phát sinh nợ quá hạn là vấn đề bình thường. Trong nợ quá hạn , có một bộ phận khó thu hồi hoặc không thu được là rủi ro trong kinh doanh tín dụng của nhà ngân hàng. Đó cũng là lẽ tất nhiên như sự rủi ro của mọi ngành nghề kinh doanh khác. Thế nhưng nếu xét thực tế ở Việt Nam hiện nay,tỷ lệ dư nợ quá hạn bình quân toàn quốc khoảng 4% so với tổng dư nợ , cá biệt có một số ngân hàng ở mức trên 10%. Trong khi thông lệ quốc tế chỉ cho phép ở mức 1-2%. Quả là vấn đề nợ quá hạn ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam quá nguy hiểm , cần phải được xem xét cẩn thận. Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng chung nợ quá hạn cao như vậy? 3.2- Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng . 3.2.1. Nguyên nhân khách quan. *Môi trường pháp lý kinh tế . Cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên trong thừi gian qua (chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai...) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các Ngân hàng thương mại còn đang phải khắc phục hậu quả. Môi trường pháp lý kinh doanh ngân hàng chưa đầy đủ, chưa đồng bộ , thể hiện ở việc ban hành và hướng dẫn thực hiện các qui định, thông tư hướng dẫn chưa thống nhất giữa các ngành liên quan để khi thực hiện tại ngân hàng cơ sở có lúc bị vi phạm. * Hiệu lực quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chưa cao. Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa cao, chưa nhất quán trong việc thực thi những vấn đề có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhiều lúc còn sơ hở, nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ năng lực quản lý , qui mô hoạt động quá lớn so với khả năng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, làm nảy sinh những điều kiện dẫn đến rủi ro . *Trường hợp một số doanh nghiệp và nhà sản xuất gặp khó khăn: hàng hoá vật tư tồn đọng, thua lỗ, mất khả năng thanh toán nên phát sinh nợ quá hạn và nợ khó đòi. Một số khách h._.àng vay vốn là những phần tử xấu có hành vi lừa đảo,chụp giựt, dùng giấy tờ giả mạo để thế chấp vay vốn rồi bỏ trốn ...,khá nhiều khách hàng sử dung tiền vay không đúng mục đích, không trả nợ ngân hàng đúng hạn (vòngđầu trả nợ nghiêm chỉnh nhưng vòng sau lại mang tiền đi chơi hụi , đánh đề , buôn lậu dẫn đến tình trạng không đủ khả năng trả nợ tiền vay). Trường hợp phổ biến là các doanh nghiệp nhà nước do vốn tự có thấp, nhưng lại "mạnh mẽ " trong việc xây dựng và mua sắm tài sản cố định, không những sử dụng hết vốn tự có , mà còn sử dụng thêm khối lượng vốn tín dụng ngắn hạn để phục vụ sản xuất kinh doanh vào mua sắmtài sản cố định . Tình trạng này kéo dài cùng với các hành vi tiêu cực khác trong quản lý của bản thân doanh nghiệp làm cho tình hình tài chính của đơn vị đã khó khăn lại càng khó khăn hơn dẫn đến tình trạng nợ quá hạn triền miên,nếu không có biện pháp khắc phục hữu hiệu thì một bộ phận không nhỏ vốn vay của ngân hàng không thu hồi được. Liên hiệp dâu tơ tằm, xí nghiệp liên hợp dệt Nam Định là những ví dụ điển hình về việc sử dụng hàng trăm tỷ đồng vốn vay ngắn hạn vào mục đích trên. ở trường hợp khác, một số doanh nghiệp (bao gồm cả quốc doanh và ngoài quốc doanh ) vay vốn ngân hàng để kinh doanh, đánglẽ ra sau khi bán hàng phải trả nợ ngân hàng lại dùng vào việc khác (Kinh doanh bất động sản, chơi đề, chơi hụi ...) Ví dụ như công ty TAMEXCO (quận Tân Bình TPHCM) v.v.. Dẫn đến thua lỗ và không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. 3.2.2- nguyên nhân chủ quan. Trong số các rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại thì trên 80% xảy ra là do nguyên nhân chủ quan, chủ yếu là: * Hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay. mặc dù biết rằng nếu cho vay sẽ có nhiều rủi ro, nhiều điều khoản bất lợi và có sự vi phạm các nguyên tắc tín dụng lành mạnh nhưng do yếu thế khi giao dịch với các đối tượng có nhiều quyền thế chịu ảnh hưởng thân quen hoặc tránh va chạm đến lợi ích cá nhân nên một số lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng của ngân hàng vẫn giải quyết cho vay. Đáng chú ý là nhiều đối tượng xin vay vốn nhưng không phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, không tạo ra của cải vật chất, ngoài chế độ quy định miễn sao thu hồi được gốc và lãi. Cơ chế thị trường tỏ ra linh hoạt nhưng nó cũng có những mặt trái nhất định, nhất là ở những nơi như thành phố, thị xã có nhiều Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoạt động. Hơn nữa đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh lại đang thực hiện chế độ khoán tài chính không cho vay thì không có lãi và không có thu nhập. Vì vậy nhiều nơi lợi dụng cơ chế đó đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, có những nơi cho vay chỉ cần có tài sản thế chấp, có nơi cho vay buôn bán bất động sản nhà cửa đất đai và số tiền cho vay không phải là nhỏ. Người vay nếu là doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh lại được sự giúp đỡ tận tình của ngân hàng và nếu cuộc mua bán "thông đồng bén giọt" lợi nhuận tạo ra cho cả hai bên rất nhanh chóng, nhưng nếu không thành công có sự trục trặc hoặc do sự giả mạo của giấy tờ thì ngân hàng không biết đến bao giờ mới đòi hết nợ. Vừa qua liên hiệp dâu tơ tằm Việt Nam lại được khoanh nợ gần 300 tỷ đồng trong vòng 5 năm do sử dụng vốn sai mục đích lấy vốn ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định. Một nguyên nhân nữa là do tình trạng đảo nợ, cho vay món mới để thu hồi món cũ vì còn có khoản lãi cộng vào, do nợ quá hạn phát sinh không thu được. Việc cho vay này vừa giữ được khách hàng lại vừa đạt các chỉ tiêu cho vay thu nợ, thu lãi. Trường hợp này Ngân hàng ăn thâm cả vào vốn. Như vậy trong cơ chế thị trường đầy khắc nghiệt, buộc các ngân hàng phải chủ động linh hoạt tìm khách hàng nhưng để cho vay được mà hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay quả là vấn đề mạo hiểm. Vì vậy các Ngân hàng thương mại cần phải xem xét lại chính sách khách hàng nếu không muốn tăng các khoản nợ khó đòi. *Thông tin không cân xứng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC ) mặc dù đã ra đời và hoạt động được vài năm trở lại đây nhưng nhìn chung sự đóng góp của nó chưa được là bao. Điều đó được biểu hiện qua con số nợ quá hạn, cụ thể là nợ không có khả năng thanh toán giảm không đáng kể. Các ngân hàng còn thiếu những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng. Việc người đi vay kinh doanh thua lỗ đèu có dấu hiệu báo trước, ngân hàng không thu được nợ là do ngân hàng không nhận được những thông tin đó cho nên không có sự theo dõi giám sát chặt chẽ . Nếu có giám sát chặt chẽ thì sẽ không có chuyện xảy ra như vụ án Trần Xuân Hoa : toàn bộ kho hàng thế chấp được xuất kho mang bán mà ngân hàng không hay biết, cũng không có chuyện trong gần 2 năm một công ty có tới 47 lần vay với 47 hồ sơ nhà đất khác nhau trong đó có tới 40 hồ sơ giả dùng làm tài sản thế chấp mà vẫn vay được chót lọt. *Chủ quan trong cho vay . Cẩn trọng bao giờ cũng là nguyên tắc hàng đầu đối với việc cho vay. Tuy nhiên ở một số Ngân hàng thương mại Việt Nam đã coi nhẹ nguyên tắc này. Các ngân hàng cho rằngđó là những khách hàng đã quen thuộc nên khong cần giám sát chặt chẽ, giải quyết cho vay chỉ cần dựa vào những thông tin cung cấp qua tờ trình thay cho những số liệu đáng tin cậy. Chỉ vài năm trước đây, khi thấy rằng ngành tơ tằm đang trên đà phát triển ,ngân hàng đã không chần chừ quyết định cho liên hiệp dâu tơ tằm vay hàng trăm tỷ đồng và sau đó ngân hàng đã không tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ số tiền cho vay nên không hề biết rằng phần lớn số vốn vay đó được dùng vào xây dựng các nhà nghỉ, khách sạn để đến bây giờ khi khách sạn không còn được mùa nữa thì hàng trăm tỷ đồng của ngân hàng có nguy cơ không đòi được. * Cho vay ưu đãi quá nhiều. Một phần không nhỏ trong con số nợ quá hạn ở các Ngân hàng thương mại còn do nhiều nguyên nhân khác như : các ngân hàng cho vay nội bộ quá nhiều, người được vay là các thành viên trong ban quản trị điều hành, và thường là những khoản tiền lớn không lành mạnh, thiếu công bằng. * Quá tin tưởng vào vật thế chấp. Có một thực tế ở các ngân hàng là : vật thế chấp được coi là vật đảm bảo an toàn nhất khi xét duyệt cho vay. Các ngân hàng đã có vật thế chấp thì rất yên tâm và htiếu sự giám sát chặt chẽ với các khoản cho vay, trong khi tài sản thế chấp có thể bị đánh giá sai lệch về giá trị . Trong thực tế thường xảy ra nghịch lý : doanh nghiệp đã mạnh thì tài sản thế chấp lại rất ngon lành trong khi đó những doanh nghiệp yếu cần tài sản thế chấp thì tài sản thế chấp của họ thậm chí chẳng có gì mà thế chấp . Mặt khác , trong một số trường hợp khách hàng cố tình lừa gạt ngân hàng để vay tiền thì tài sản thế chấp chỉ là đồ giả như vụ Dương Thuý Hiền -Giám đóc công ty TNHH Tuyết Thu ở Nam Hà, trong vòng 2 năm đã dùng 47 hồ sơ nhà đất để thế chấp vay hơn 10 tỷ đồng , nhưng truy xét ra chỉ có 2 hồ sơ trong só 47 hồ sơ đó là thật. Với những trướng hợp như vậy lấy gì để thu nợ , phát mại đây? *Đội ngũ cán bộ ngân hàng thiếu trình độ và năng lực phẩm chất. Có thể nói đây là nguyên nhân lớn trong số các nguyên nhân đem đến rủi ro tín dụng cho nhà ngân hàng. Đội ngũ cán bộ trong ngành ngân hàng vừa thiếu lại vừa thừa. Thiếu những người cán bộ thực sự có trình độ và năng lực phẩm chất , còn thừa nhiều những cán bộ không có chuyên môn, thiếu năng lực cho nên không có khả năng phân tích và sử lý tình huống để bảo vệ các khoản cho vay . Một số khác đạo đức kém , tự động cắt bỏ các chỉ tiêu cho vay để thu được lợi ích cá nhân. Những con sâu mọt ấy đã làm thất thoát của đất nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng hàng trăm tỷ đồng. Bên cạnh một số cán bộ đã bị ra hầu toà nhưng vẫn còn nhiều con sâu mọt khác đang đua nhau đục khoét mà vẫn chưa bị lôi ra ánh sáng. 3.3- Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng 3.3.1. Nợ quá hạn Nợ quá hạn là dấu hiệu đầu tiên và dễ gây ra rủi ro cho nhà ngân hàng . Vì vậy nói đến ngân hàng , nói đến rủi ro tín dụng thì phải nói tới nợ quá hạn. Có thể hiểu nợ quá hạn là một khoản tín dụng được nhưng không thể thu hồi đúng thời hạn do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Như chúng ta đã biết, Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, là chiếc cầu giao lưu kinh tế nối bên thừ vốn với bến thiếu vốn tạo điều kiện cho sản xuất và tái sản xuất diến ra trôi chảy, chính vì vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng trực tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng và khách hàng. Song xét tầm vĩ mô, nó còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Do đó nếu nợ quá hạn xảy ra sẽ gây ra khó khăn cho hoạt động của ngân hàng, khách hàng và rộng hơn nền kinh tế sẽ thiếu vốn trong một phạm vi thời gian nhất định, nếu nợ quá hạn xảy ra ở quy mô lớn và việc thu hồi gặp khó khăn có thể sẽ gây áp lực đến lạm phats, làm giá cả tăng, nền kinh tế bất ổn. 3.3.1.1- các loại nợ quá hạn. Dựa vào khả năng có thể thu hồi chúng ta chia nợ quá hạn thành: a) Nợ quá hạn có khả năng thu hồi. Trước khi thực hiện một mục đích kinh doanh nào đó, các cá nhân, doanh nghiệp thường xây dựng một kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó các vấn đề liên quan được xem xét cẩn thận đó là chi phí, thu nhập... khi ngân hàng xem xét thấy kế hoạch là khả thi, Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho khách hàng. Song trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình khách hàng có gặp những khó khăn nhất thời thì cũng là điều dễ hiểu trong trường hợp này khách hàng thường xin ra hạn nợ vì chưa có khả năng chi trả. Món tín dụng này được con là một món nợ quá hạn có khả năng thanh toán vì trong thực tế khách hàng gặp phải sự bất thuận lợi trong kinh doanh do thời điểm tung hàng ra bán không phù hợp với tính thời vụ khiến hàng bị tồn kho; hàng đã bán được song bên mua còn chậm thanh toán... trong khi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt, không có biến động lớn. Sau khi khách hàng (doanh nghiệp) thu hồi đwocj nợ hoặc bán được hàng sẽ thanh toán cho ngân hàng. Như vậy, Món nợ quá hạn này còn có khả năng thu hồi. b) Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Loại này thường có ở các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, quản lý yếu kém, vi phạm nguyên tắc chế độ tài chính, sử dụng vốn tín dụng sai mục đích, tham ô cố ý làm trái... một số khác do sự thay đổi của cơ chế chính sách, thiên tai bão lụt... các doanh nghiệp đến kỳ hạn trả nợ nhưng không có khả năng thanh toán với ngân hàng, phải xin ra hạn hoặc tìm cách "đảo nợ". Khả năng thu hồi vốn của ngân hàng trong những trường hợp này là rất hiếm. 3.3.1.2- Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. - Các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn... đây chính là rủi ro mà cả bên ngân hàng cũng như khách hàng không thể lường trước được đối với khoản tín dụng của mình, khi rủi ro xảy ra, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp cú sốc, đối với khách hàng "mạnh" thì cũng phải có thời gian để ổn định sản xuất kinh doanh mới có khả năng trả nợ ngân hàng còn với khách hàng "yếu" thì khoản tín dụng trên lâm vào tình trạng xấu, khách hàng rất có thể chậm trả và thậm chí không có khả năng trả nợ gây ra gánh nặng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. - Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích: Việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích cũng thường xảy ra. Một số trường hợp gặp thuận lợi, kinh doanh có lãi song một số do sử dụng sai mục đích đã tự gây ra những khó khăn tài chính cho mình đó là những khách hàng ham lợi lớn, sau khi vay đượcvốn ngân hàng thì chuyển hướng kinh doanh sản xuất, hay khi vốn vay hết vòng nhưng chưa đến thời hạn trả nợ đem sử dụng vào mục đích kinh doanh khác nhưng kinh doanh thua lỗ hoặc đến kỳ hạn trả nợ chưa thu hồi được vốn khiến các khoản tín dụng Ngân hàng không được trả nợ đúng hạn. - Về phía ngân hàng, khi cho vay cán bộ tín dụng đã vi phạm các nguyên tắc tín dụng: + Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích hiệu quả + Vốn vay phải có vật tư, hàng hoá tương đương bảo đảm. + Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc, lãi đúng thời hạn. Đây là 3 nguyên tắc quan trọng cần linh hoạt áp dụng song vì quá lạm dụng sự linh hoạt này mà gây ra "trục trặc" đối với vốn tín dụng của ngân hàng. - Đánh giá phương án kinh doanh của khách hàng không tốt: Đây là cơ sở để khách hàng có thể lợi dụng mà vay quá khối lượng tín dụng cần thiết cho phương án kinh doanh của mình để sử dụng sai mục đích hay vì hạn chế trong lĩnh vực thẩm định dự án của khách hàng mà ngân hàng không phát hiện được những lỗi trong dự án để kịp thời góp ý với khách hàng có hướng điều chỉnh cho dự án. Do đó khi dự án đi vào hoạt động gặp những trục trặc khiến cho khách hàng lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, khả năng trả nợ kém, phát sinh nợ quá hạn và tồi tệ hơn gây ra khó đòi, không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. - Định kỳ hạn nợ không phù hợp: Do ít hiểu biết về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, về ciệc chu chuyển vật tư hàng hoá, tiền vốn của đơn vị ... mà người cán bộ tín dụng định kỳ hạn nợ không hợp lý. Nếu kỳ hạn nợ nhỏ hơn thời gian 1 vòng quay của vốn khiến khách hàng không có khả năng trả nợ đungs hạn gây ra nợ quá hạn hoặc định kỳ hạn lớn hơn thời gian quay vòng của vốn, khi kết thúc vòng quay vốn, khách hàng thu được vốn và lãi song do chưa đến kỳ hạn trả, họ lại đầu tư vào vòng quay khách hay mục đích khách khiến đến hạn nợ khách hàng cũng chưa có khả năng thanh toán. * Đối với ngân hàng nợ quá hạn xảy ra sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn hiệu quả đồng vốn tín dụng. Trong trường hợp nghiêm trọng như khách hàng khôgn thể trả nợ, khách hàng bị phá sản thì ngân hàng có thể bị mất trắng khoản tín dụng đó. Nợ quá hạn sẽ làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng, ảnh hưởng đến việc điều hoà vốn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. nếu tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ cao để dẫn tới mất khả năng thanh toán của ngân hàng và nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới xụp đổ, phá sản của ngana hàng đó. Do ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động của nó mang tính rộng khắp với mạng lưới chằng chịt các mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, Ngân hàng khác nên sự đổ vỡ của một ngân hàng tất yếu sẽ tác động tiêu cực đến cả hệ thống ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế xã hội. * Đối với xã hội nợ quá hạn ở mức độ thấp sẽ không gây những tác động lớn song nếu nợ quá hạn cao sẽ dẫn tới sự khan hiếm vốn một cách giả tạo gây áp lực đối với lạm phát. Sự lưu thông của vốn tín dụng bị tắc nghẽn khiến vốn tín dụng không tiếp tục đến được nơi cần vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh gây sự đình đốn, rối loạn trong sản xuất ảnh hưởng tới kinh tế xã hội nói chung và các cơ sở, đơn vị sản xuất kinh doanh nói riêng. 3.3.2- Một số dấu hiệu khác. Rủi ro tín dụng thường ẩn chứa trong “những món vay có vấn đề “ được thể hiện bằng nhiều dấu hiệu ,nhưng không có một mô hình nhất định nào có thể mô tả chính xác ,đầy đủ những dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng sẽ xảy ra trong tương lai .Tuy nhiên ,trải qua quá trình thực tiễn hoạt động tín dụng ,người ta đa thống kê dược một số dấu hiệu để chỉ ra những khó khăn về tài chính của người vay và nó có vai trò cảnh báo đối với cán bộ tín dụng ,đó là: -Việc trì hoan nộp các báo cáo tài chính của người vay Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình hình tài chính của người vay ,thông qua đó dự báo về khả năng hoàn trả các khoản nợ của họ Việc trì hoan nộp các báo cáo tài chính có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chúng ta phải xem xét đến nguyên nhân chính đó là do tình hình hoạt động kinh doanh của người vay đa có dấu hiệu không bình thường nên họ không muốn để cho ngân hàng biết sớm tình hình tài chính đang sút kém của họ. - Mối quan hệ giữa ngân hàng và người vay thay đổi Đó là sự chậm chễ trong việc dàn xếp các cuộc viếng thăm của ngân hàng đối với doanh nghiệp, nhằm giúp cho ngân hàng kiểm tra ,giám sát những nghia vụ của người vay đối với khoản vay. Vấn đề này biểu hiện bởi sự giảm sút bầu không khí không tin cậy và hợp tác giữa cán bộ ngân hàng và người vay vốn có từ lâu nay. - Hàng tồn kho của người vay tăng lên quá mức bình thường, các khoản công nợ cũng gia tăng - Chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút ,khách hàng của họ không còn tín nhiệm như trước nữa dẫn đến phải bán hàng với thời hạn trả tiền laau hơn, hoặc bán cho cả khách hàng yếu kém về tài chính,có khả năng thanh toán thấp - Hoản trả nợ vay không đúng hạn hoặc lai vay không thanh toán đúng kỳ hạn - Thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh Vấn đề này được biểu hiện qua một số hình thức như:Thu hẹp qui mô sản xuất và chủng loại sản phẩm ,công nhân nghỉ việc,bán bớt tài sản hoặc một số vụ việc như sa thải những can bộ chủ chốt trong doanh nghiệp - Các thảm hoạ về thiên nhiên như bao lụt, hoả hoạn ,cháy rừng..v.v. Khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có vấn đề được nhận ra, biện pháp đầu tiên mà các cán bộ tín dụng ngân hàng phải làm là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề. Dĩ nhiên để hoàn tất công việc này đòi hỏi phải có thêm thông tin và sự cộng tác của người vay, thông tin thường lấy được từ các báo cáo tài chính,báo cáo hoạt động kinh doanh của người vay.Các biện pháp saua đó sẽ tuỳ thuộc vào sự nghiêm trọng của tình hình mà xử lý. 3.4- Tác hại của rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng nói chung và nợ quá hạn nói riêng xảy ra trong kinh doanh của ngân hàng thương mại tuỳ theo mức độ mà có ảnh hưởng ít hay nhiều tới bản thân Ngân hàng hay khách hàng của họ. Có thể khái quát trên hai phương diện: a) Đối với nền kinh tế: Ngân hàn thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư cách là một trung tâm của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên với các tổ chức kinh tế, do đó khi Ngân hàng gặp phải những rủi ro thì tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Gặp rủi ro làm lợi nhuận trong kinh doanh Ngân hàng giảm, thậm chí Ngân hàng phải lấy vốn tự có ra để bù đắp, có thể dẫn đến Ngân hàng thiếu vốn khả dụng hoặc mất khả năng thanh toán làm giảm lòng tin của khách hàng vào ngân hàng. mặt khác, các ngân hàng thương mại thường có quan hệ chặt chẽ với nhau, khi một Ngân hàng gặp rủi ro có nguy cơ phá sản tất yếu sẽ kéo theo tình trạng khủng hoảng của toàn bộ hệ thống các ngân hàng khác theo kiểu phản ứng dây chuyền gây ra tình trạng mất ổn định trên thị trườngtiền tệ tín dụng. tình trạng này có thể gây nên sự mất ổn định của nền kinh tế, giá trị đồng tiền giảm gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong sản xuất, tiêu thụ hàng hoá... b) Đối với bản thân ngân hàng. Rủi ro xảy ra tác động trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng. Khi rủi ro ở mức nhỏ thì ngân hàng chỉ phải bù đắp bằng lợi nhuận kinh doanh, bằng vốn tụ có nên ngân hàng chỉ bị giảm lợi nhuận kinh doanh hoặc thua lỗ. Song nếu rủi ro gặp phải ở mức độ nghiêm trọng, nguồn vốn ngân hàng không đủ bù đắp thì tất yếu sẽ dẫn ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản. Như vậy rủi ro có thể làm đảo lộn thành quả hoạt động trong nhiều năm và thậm chí trở thành vấn đề sống còn của nhà ngân hàng. 3.5. Đo lường rủi ro . Như trên đa phân tích rủi ro tín dụng là những biến cố xảy ra ngoài mong đợi của các nhà kinh doanh ngân hàng ,chúng ta không thể loại bỏ rủi ro ra khỏi hoạt động kinh doanh nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó để có những giải pháp nhằm quản lý và ngăn ngừa được rủi ro và chấp nhận nó ở một mức độ hợp lý. Đo lường rủi ro là một trong những phương pháp để nghiên cứu rủi ro mà ngân hàng thương mại nào cũng áp dụng .Việc đo lường rủi ro ,đặc biệt là đo lường rủi ro tín dụng có một ý nghia rất lớn trong công tác quản lý kinh doanh của ngân hàng bởi vì nó là cơ sở để : - Các ngân hàng xây dựng chính sách tín dụng hợp lý. - Các ngân hàng xây dựng cơ cấu lai suất phù hợp cho từng thời kì. - Các ngân hàng xây dựng chiến lược quản lý các loại tài sản nợ và có. - Các ngân hàng xây dựng hệ số rủi ro cho từng loại tài sản có ,từng loại hình cho vay .v..v.. Thông thường trước khi tiến hành đo lường rủi ro ,các ngân hàng thương mại đều phải phân loại các món cho vay theo những tiêu thức khác nhau (phân loại theo loại hình doanh nghiệp vay vốn ,theo thị trường sản phẩm của doanh nghiệp vay vốn ,hình thức tài trợ, thời hạn vay ...) rồi sau đó mới áp dụng một trong những cách cơ bản để đo lường rủi ro được trình bày dưới đây: - Đo lường hay xác định số thiệt hại do rủi ro gây ra . Tổng giá trị tài sản Tổng giá trị tài sản ( bị thiệt hại do từng bị rủi ro kì báo cáo lần rủi ro trong kì Tổng giá trị tài sản Tỷ lệ % tài bị rủi ro trong kỳ sản bị rủi ro = x 100 Tổng giá trị các tài sản có sinh lai trong kì Đo lường khả năng bị rủi ro Số món vay bị rủi ro kỳ báo cáo P rủi ro = Tổng số món vay trong kì báo cáo Tổng giá trị tài sản bị rủi ro kì báo cáo P rủi ro = Tổng giá trị các món vay trong kì báo cáo Chương II Thực trạng rủi ro tín dụng ở Ngân hàng công thương hoàn kiếm I- Tổng quan về ngân hàng công thương hoàn kiếm 1- Ngân hàng công thương hoàn kiếm ra đời trên cơ sở Ngân hàng nhà nước quận Hoàn Kiếm . Trước 03/1988, tức là trước nghị định 53/HĐBT về đổi mới hoạt động ngân hàng thì nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là vừa phục vụ , vừa kinh doanh tiền tệ tín dụng và thanh toán trên địa bàn quận. Ngân hàng hoạt động trong cơ chế tập trung bao cấp của nhà nước. Sau nghị định 53/HĐBT, ngành ngân hàng nước ta đã chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, và từ đây Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trở thành một Ngân hàng thương mại trực thuộc hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. 2. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm có địa bàn hoạt động chính tại quận Hoàn Kiếm -một trung tâm mại lớn của thủ đô Hà Nội. Nơi đây bao gồm 18 phường với dân số khoảng hơn 19 vạn người. Nằm giữa trung tâm kinh tế văn hoá của cả nước, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm có thuận lợi về nhiều mặt song không tránh khỏi sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng quốc doanh khác, các ngân hàng cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trên địa bàn quận còn có Hội sở chính của Ngân hàng công thương Việt Nam nên các cơ quan xí nghiệp lớn của các Bộ, Sở và các doanh nghiệp có tầm cỡ khác thường mở tài khoản và giao dịch trực tiếp với Hội sở chính. Do đó khách hàng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm chỉ có một số đơn vị kinh tế quốc doanh, còn chủ yếu là các đối tượng khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã chú trọng và tìm mọi biện pháp nhằm thu hút và lôi kéo khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước về mở tài khoản tiền gửi và giao dịch với ngân hàng. Hiện nay, công ty Thăng Long, Tổng công ty than Việt Nam, Tổng công ty lương thực Miền Bắc...là những đơn vị lớn, thường xuyên giao dịch, vay vón của ngân hàng. 3. Do đặc điểm địa bàn hoạt động như vậy nên các khoản cho vay chủ yếu của ngân hàng là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thậm chí có những năm (ví dụ năm 1998, 1999 ) dư nợ ngoài quốc doanh lên đến 96-97% tổng dư nợ cho vay. Mặc dù vậy, ngoài quốc doanh vẫn là khu vực nhiều rủi ro hơn nên ngân hàng luôn tìm cách thu hút khách hàng là các doanh nghiệp lớn về phía mình. Năm 2000, 2001 Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã rất thành công, kéo được nhiều khách hàng quốc doanh lớn như: Tổng công ty xây dựng Sông Đà, Công ty dịch vụ khách sạn Hồ Tây, Tổng công ty lắp máy Việt Nam, Tổng công ty rau quả Việt Nam... làm cho tỷ trọng cho vay khu vực quốc doanh tăng nhanh đến trên 70% tổng dư nợ. 2- Số lượng khách hàng có quan hệ vay vốn. - Kinh tế quốc doanh - Kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì số doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH cũng chỉ chiếm một phần nhỏ, còn lại là tư nhân và hộ cá thể (chiếm 90 - 95% trong tổng số). Với cơ cấu khách hàng mà đại đa số là kinh tế ngoài quốc doanh, còn khu vực kinh tế quốc doanh chỉ chiếm vị trí thứ yếu như vậy đã tác động lớn tới hoạt động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. trong những năm qua Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã phải trăn trở vật lộn để tìm ra con đường thích hợp, mang lại chất lượng, hiệu quả, an toàn cho hoạt động tín dụng của họ; tìm kiếm, lôi kéo thêm những khách hàngthuộc khối kinh tế quốc doanh đồng thời sàng lọc, giám sát và có quy định chặt chẽ với khách hàng vay vốn là tư nhân, hộ cá thể, HTX... Bởi vì qua nghiên cứu từ thực tế những năm trước cho thấy: - Số lượng khách hàng vay vốn có hệ thống sổ sách kế toán (doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) vốn dĩ đã ít, lại có quy mô nhỏ, vốn tự có thấp để hoạt động sản xuất kinh doanh được các đơn vị này phải dựa vào phần lớn vốn vay của ngân hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp này đã số hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đây là lĩnh vực rất nhậy cảm với nhu cầu thị trường do đó chịu ảnh hưởng nhiều của biến động về môi trường kinh doanh. Với năng lực tài chính nghèo nàn, thêm vào đó năng lực quản lý kinh doanh còn non lớt yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tế nên các doanh nghiệp rất khó có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao. - Số lượng khách hàng vay vốn của Ngân hàng không phải là đơn vị hạch toán kế toán lại chiếm đa số (tư nhân và hộ các thể chiếm 82% năm 1999; 80% năm 2000 và 75% năm 2001). loại hình kinh doanh này rất phức tạp, khó có thể dự đoán được tình hình tài chính của họ nên việc cho vay với các khách hàng thuộc đối tượng này là phức tạp, mạo hiểm đòi hỏi cán bộ tín dụng phải linh hoạt nhạy bén, có phương pháp hữu hiệu đối với từng khách hàng cụ thể. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn phức tạp, còn có nhiều sai sót cũng như thất bại song không thể không công nhận răng trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có những chuyển biến tích cực nhanh nhạy với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành Ngân hàn nói riêng. thông qua việc mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã đẩy mạnh công tác huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất lưu thông và kinh doanh dịch vụ trên địa bàn quận ngày một tốt hơn. II- Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 1- Tình hình huy động vốn. Xuất phát từ nguyên tắc của Ngân hàng là "đi vay để cho vay", công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm luôn được quan tâm đúng mức, chỉ đạo kịp thời, chính xác, nhịp nhàng ăn khớp với sự biến động về cho vay. Qua phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong 3 năm 1999, 2000, 2001 ta thấy rằng với hệ thống huy động vốn bao gồm 10 quỹ tiết kiệm, 3 phòng giao dịch và một trụ sở chính, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã rất năng động trong việc huy động vốn. Biểu hiện cụ thể là: - Nguồn vốn huy động bình quân tăng nhanh trong 3 năm. năm 2000 nguồn vốn tăng so với 1999 là 29268 triệu, năm 2001 tăng so với 2000 là 15949 triệu. Trên thực tế nguồn vốn huy động của ngân hàng không những đáp ứng kịp thời tiến độ cho vay và thanh toán giao dịch của Ngân hàng đang trên đà phát triển mà còn có một khối lượng lớn vốn dư thừa nhằm bổ sung cho nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Việt Nam dưới hình thức cho vay điều hoà vốn. - Cơ cấu nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm sau so với năm trước tỏ ra hợp lý hơn, cho phép ngân hàng hạ lãi suất đầu vào xuống mức thấp nhất có thể được và chủ động trong việc sử dụng vốn. Ngân hàng huy động vốn chủ yếu bằng cách nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức, cá nhân và dân cư (thường phần này chiếm 80 - 90% vốn huy động), tiền gửi của khách hàng để giao dịch ngày một tăng lên, chứng tỏ dân cư ngày càng hiểu biết và tin tưởng vào ngân hàng hơn (tiền gửi của khách hàng đã tăng từ 13% năm 1999 lên đến 38% năm 2001 tức là tăng gần 3 lần). Thông thường kỳ phiếu ngân hàng có mức lãi suất huy động cao hơn so với lãi suất tiền gửi ngân hàng lên huy động bằng kỳ phiếu chỉ áp dụng trong những trường hợp ngân hàng có nhu cầu cấp bách về vốn. Thực tế nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn huy động: Năm 1999 là 0,3% đến năm 2000 chỉ còn 0,18%. Nhưng năm 2001 nguồn tiền huy động bằng kỳ phiếu đã tăng lên nhiều đạt 0,78% (vì năm 2000 nợ quá hạn của ngân hàng rất lớn không đòi được làm cho quỹ tiền cho vay giảm nhiều trong khi đó ngân hàng lại cần có tiền để vực mình lên do đó phải phát hành kỳ phiếu với tổng số lượng tiền lớn ). Sở dĩ có được nguồn vốn huy động lớn như trên một phần do vị trí địa bàn hoạt động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm mang laị. Quận Hoàn Kiếm là nơi đông đúc dân cư, phần nhiều làm nghề buôn bán do đó các hộ hầu hết thuộc loại kinh tế trung bình và giàu có, ít có hộ nghèo tạo điều kiện dễ dàng trong việc huy động vốn cũng như cho vay. Tính đến thời điểm cuối năm 2001, dư có huy động của chi nhánh đạt khoảng gần 600 tỷ đồng, tính trung bình là 500 tỷ. Trong đó, nguồn huy động của dân cư lên đến gần 300 tỷ, còn lại là từ các nguồn khác. Rõ ràng nguồn đầu vào của chi nhánh là rất lớn so với các ngân hàng khác đến nỗi hầu như Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm không bao giờ sử dụng hết phải điều chuyển vốn về NHCT TW chứ không rơi vào tình trạng khó khăn như nhiều ngân hàng thiếu vốn cho vay. 2- Tình hình sử dụng vốn. Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn, đầu tư vốn đã huy động được vào đâu cho có hiệu quả là vấn đề mang tính sống còn đem lại lợi nhuận chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thời gian qua Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmđã áp dụng nhiều hình thức cho vay đa dạng và phong phú như cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, cho vay vốn đặc biệt, cho vay tài trợ uỷ thác các dự án (dự án RAP, EC, KFW ...) nhằm khai thác triệt để nhu cầu tín dụng của khách hàng của mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt trong chiến lược kinh doanh tín dụng của mình, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã rất chú trọng đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh - một hướng phát triển hoàn toàn đúng đắn, biểu hiện sự phù hợp giữa điều kiện thực tế của ngân hàng với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng việc thực hiện tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nưóc ta nói chung là rất phức tạp. Để thành công trong lĩnh vực này yêu cầu đầu tiên là ông chủ ngân hàng phải có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực quản lý kinh doanh giỏi và phải có trong tay đội ngũ cán bộ tín dụng lành nghề, có tư cách đạo đức tốt. Thực tế về sự đổ vỡ ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 2000 đã phản ững rõ ._.ối với ngân hàng là một bài toán không có lời giản chính xác. Khi mà ngân hàng luôn tồn tại trong vòng xoáy của đồng tiền, của các quy luật thị trường và quy luật xã hội thì việc đảm bảo cho ngân hàng tồn tại trước sóng gió thị trường là điều cần thiết. Làm thế nào để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả? Tiền gốc và tiền lãi đwocj trả đúng hạn. đó chính là nội dung sẽ được đề cập trong chương này. Tuy nhiên, bài viết chỉ điểm và nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm mà thôi. Cụ thể bao gồm các giải pháp sau: 1- Tổ chức hợp lý và khoa học quy trình cho vay. Bất cứ một công trình quản lý tín dụng nào cũng đều có 3 giai đọan: Giai đoạn thẩm định dự án; giai đoạn giám sát khách hàng vay vốn và giai đoạn thu nợ. * Giai đoạn thẩm định dự án: Là giai đoạn khởi đầu có tính chất quyết định đối với sự an toàn của khoản tiền vay. Mức độ rủi ro của khoản vốn cho vay phụ thuộc vào việc xem xét hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, đánh giá tính khả thi của dự án mà từ đó đưa ra quyết định có cho khách hàng vay hay không? Dân gian có câu "Vạn sự khởi đầu nan" Quả đúng như vậy. Nếu trong quá trình thẩm định dự án cho vay mà ngân hàng mắc sai lầm thì hậu quả của nó là không lường được. Trong thực tế các doanh nghiệp vì muốn vay được tiền của ngân hàng nên họ luôn có hành động "đẹp" hồ sơ xin vay của mình bằng mọi cách, họ có thể dùng mọi thủ đoạn như khai khống hồ sơ, mua chuộc các cán bộ công chứng nhằm hợp thức hoá các giấy tờ, không chỉ có vậy do sự sơ hở trong pháp luật, các doanh nghiệp còn dùng một vật thế chấp để làm mấy bộ hồ sơ xin vay. Như vậy nếu không tỉnh táo thì liệu dự án cho vay của ngân hàng có thu hồi lại được không? * Quá trình giám sát người vay: Xem xét người vay sử dụng đồng tiền vay như thế nào có tính chất quyết định giúp Ngân hàng lượng định các rủi ro có thể xảy ra với mình. Việc giám sát có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như: Kiểm tra định kỳ báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kiểm tra về tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, kiểm tra về khả năng chi trả thanh topán của doanh nghiệp để từ đó ngân hàng có những giải pháp kịp thời ứng phó trước khi có rủi ro xảy ra. Nhưng trong thực tế, các ngân hàng hết sức lơi lỏng trong việc giám sát khách hàng họ cho vay để rồi "đem con bỏ chợ". Khi hậu quả xảy ra thì ngân hàng là nơi gánh chịu đầu tiên. * Quá trình thu nợ và thanh lý nợ: là khâu quan trọng quyết định tới sự tồn tại của ngân hàng. Ngân hàng có thể thu hồi nợ trước hạn nếu thấy các khoản nợ cso vấn đề, có nhiều khả năng dẫn đến tổn thất cho nhà ngân hàng hoặc ngân hàng sẽ áp dụng những định chế taì chính buộc doanh nghiệp phải thanh toán nợ đúng hạn. Từ sự phân tích ở trên, thấy rằng Ngân hàng cần phải làm chặt chẽ hơn nữa quá trình cho vay, cụ thể là: - Biện pháp 1: Trước khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải nắm đwocj hồ sơ của khách hàng một cách chi tiết như: Quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh, bảng cân đối kế toán tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của một vài năm trước... Ngân hàng phải điều tra tại doanh nghiệp cũng như qua các nguồn tin khác như trung tâm phòng choóng rủi ro (CIC), các Ngân hàng bạn, khách hàng tiêu thụ của người vay tiền... Phải biết khách hàng vay tiền để làm gì? làm thế nào để một đồng tiền vay có thể tạo ratra tại doanh nghiệp cũng như qua các nguồn tin khác như trung tâm phòng choóng rủi ro (CIC), các Ngân hàng bạn, khách hàng tiêu thụ của người vay tiền... Phải biết khách hàng vay tiền để làm gì? làm thế nào để một đồng tiền vay có thể tạo ra hơn một đồng để trả vốn và lãi cho Ngân hàng và còn tạo lợi nhuận cho người vay. - Biện pháp 2: Khi món tiền cho vay đã được thực hiện thì buộc Ngân hàng theo nguyên tắc quản lý tiền vay mà thuực hiẹn giám sát quá trình cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng cần phải phân công trách nhiệm cụ thể đối với từng cán bộ tín dụng, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của họ trong công việc được những chính sách hợp lí trong việc nâng cao tinh thần của cán bộ tín dụng có như vậy quá trình giám sát khách hàng vay mới được thực hiện một cách triệt để. - Biện pháp 3: Trên cơ sở chu kì hoạt động của doanh nghiệp, Ngân hàng nên chia nhỏ kì hạn cho vay. Trong mỗi thời kì người cán bộ tín dụng phải bán sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp, phân tích mọi thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để có biện pháp xử lý nợ một cách linh hoạt, kịp thời, hạn chế mức tối đa thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. 2. Các giải pháp an toàn đối với nợ quá hạn. Tín dụng là một nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa quan trọng tới sự phát triển và tồn tại của Ngân hàng vẫn phải là "hiện thực khả thi và hiệu quả". Trong đó nhiệm vụ bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro là vấn đề then chốt được đặt ra. Trong thời gian qua, bên cạnh những chuỷen biến tích cực trong hoạt động kinh doanh tín dụng thì hiện tượng nợ quá hanj tại nhiều Ngân hàng có xu hướng gia tăng, đó chính là tiếng chuông báo động cho các Ngân hàng vì vậy cần phải có những giải pháp nhằm hạn chế bớt rủi ro tín dụng Ngân hàng mà cụ thể là vấn đề nợ quá hạn. 2.1 Các biện pháp ngăn ngừa các khoản cho vay dẫn tới nợ quá hạn. * Trên góc độ nhà Ngân hàng, hầu hết họ mong muốn các khoản tài sản thế chấp được phát mại để mà trả nợ hay được các công ty bảo hiểm, người bảo lãnh thanh toán hộ. Do vậy để lượng định các rủi ro này thì phải nắm được các dấu hiệu chỉ ra sự khó khăn về tài chinhs của khách hàng. Những dấu hiệu này là cơ sở để Ngân hàng tìm biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến khoản nợ quá hạn có thể gây rủi ro cho nhà Ngân hàng. Các dấu hiệu này là: - Các doanh nghiệp chậm trễ trong việc nộp các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình. - Doanh nghiệp có những biểu hiện trốn tránh hoặc thoái thác khi Ngân hàng tới kiểm tra hoạt động của họ. - Số dư tiền gửi giảm sút, xuất hiẹn séc rút quá số dư hoặc séc thanh toán bị trả lại. - Có sự gia tăng các khoản nợ chưa thanh toán. - Hoàn trả vay Ngân hàng chậm hoặc quá kì hạn, không đầy đủ như cam kết. - Các thảm hoạ xảy ra như bão lụt, hoả hoạn, mất trộm, tham ô... * Khi phát hiện các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ không được hoàn trả đối với Ngân hàng thì tốt nhất là tìm biện pháp điều chỉnh kịp thời để bảo vệ lợi ích của nhà Ngân hàng. Có thể áp dụng một số biện pháp sau: - Gia tăng khối lượng khoản cho vay đối với các doanh nghiệp có phương án phục hồi sản xuất có tinhs khả thi cao. Giải pháp này chỉ thực sự cso hiệu quả khi mà cả Ngân hàng và doanh nghiệp cùng nỗ lực vực doanh nghiệp đi lên vì nều không có sự gia tăng các khoản cho vay của Ngân hàng thì món nợ của doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán và khi đó rủi ro của Ngân hàng càng lớn. - Ngân hàng có thể kêu gọi người bảo lãnh cho doanh nghiệp như các cổ đông chủ chốt, người cung ứng hay tiêu thụ sản phẩm hoặc một vài người cho vay dài hạn. - Đề nghị người vay giảm bớt kế hoạch phát triển dài hạn để tăng cường vốn cho kinh doanh. - Cán bộ Ngân hàng có thể khuyên hoặc cố vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới . Việc làm này không chỉ giúp cho doanh nghiệp có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng mà còn tăng them sự thân thiết trong quan hệ Ngân hàng - khách hàng. Đây là một nguyên tắc tương đối quan trọng trong hệ thống nguyên tắc quản lý tiền vay. Những biện pháp này có thể gây thêm chi phí cho Ngân hàng nhưng thiết nghĩ nếu so chi phí này với khoản tín dụng mà không có khả năng thanh toán thì cũng chỉ là "Muối bỏ biển" mà thôi. Do vậy Ngân hàng cần phải nhanh nhạy hơn nữa trong việc phát hiện các khoản nợ quá hạn và linh hoạt hơn nữa trong việc ngăn ngừa các khoản cho vay có mầm mống dẫn tới quá hạn. 2.2 Biện pháp xử lý các khoản nợ quá hạn của NHTM. Đối với các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi , đã từ lâu các Ngân hàng thường sử dụng một trong hai phương pháp sau đó là : - Phương pháp khai thác - Phương pháp thanh lý Việc áp dụng phương pháp nào là phụ thuộc vào khả năng chi trả của khách hàng, thái độ của khách hàng với các khoản đi vay, thái độ của các chủ nợ khác và chi phí cho việc thu hồi nợ. * Biện pháp khai thác : ở các nước kinh tế thị trường phát triển, môi trường pháp lý gần như đã hoàn thiện nên hầu hết các khoản nợ khó đòi của Ngân hàng đều áp dụng biện pháp khai thác. Nghĩa là, người vay được phép tự khắc phục các khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ cho Ngân hàng càng nhanh càng tốt. Dĩ nhiên người vay phải thành khẩn thái độ với các khoản vay và chi trả là thoả đáng. áp dụng biện pháp khai thác để xử lý các khoản nợ khó đòi giống như một chương trình phục hồi mà ngân hàng áp đặt lên người vay, với sự thoả thuận và cộng tác của họ. Các biện pháp cụ thể có thể là: - Ngân hàng hướng dẫn người vay trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo lợi nhuận, ngân hàng có thể gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng để giảm quy mô hoàn trả trước mắt, có thể tìm giải pháp cho vay, tiếp vốn để gia tăng sức mạnh tài chính của khách hàng, khôi phục lại sản xuất kinh doanh. - Ngân hàng đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân quỹ, khuyên bán bớt tài sản có giá trị, giảm lượng hàng tồn kho hoặc thanh lý bớt tài sản không sử dụng. * biện pháp thanh lý: Trogn trường hợp thấy rõ việc tổ chức khai thác là không tiện lợi, không có hy vọng thu hồi được nợthì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý khoản cho vay khó đòi. Biện pháp thanh lý được thực hiện khi người vay không sẵn lòng chi trả, có hành động lẩn trốn, lừa đảo, tình trạng tài chính là vô vọng. - Nếu khoản cho vay có tài sản bảo đảo hoặc thế chấp, ngân hàng cùng chuyên gia tư vấn pháp luật, nhân viên thanh lý thực hiện bán đấu giá các tài sản đó theo pháp luật hiện hành. - Nếu là các khoản cho vay không có thế chấp, bảo đảm thì ngân hàng phải chờ đợi sự phán quyết của toà án kinh tế mới có biện pháp thu hồi vốn như bán tài sản của người vay. Nếu người vay không có tài sản thì kết quả đòi nợ vô hiệu hoá và người vay phải thúan dân sự. như vậy, để có thể phát huy cao hơn nữa hiệu quả của những biện pháp này thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại và các cơ quan chức năng khác như (Toà án, Viện kiểm soát...) thực hiện nghiêm túc chỉ thị 235/TTG ngày 11/5/1999 về đẩy mạng thanh toán nợ và sử lý nợ giai đoạn II. 3- Thế chấp không phải là chỗ dựa vững chắc cho khoản tiền vay Thế chấp tài sản là một công cụ quan trọng trong quản lý tiền vay của Ngân hàng. Tài sản thế chấp là cơ sở giúp cho ngân hàng có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách hàng không có khả năng trả nợ, giúp ngân hàng giảm mức tối đa sự thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Chúng ta không phủ nhận vai trò trợ giúp đắc lực của tài sản thế chấp đối với ngân hàng nhưng cũng không vì thế mà chúng ta lại tuyệt đối hoá vai trò của nó trong cơ chế tín dụng hiện nay. Mục đích của tín dụng cho vay không phải là thu nợ mà giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội và cho chính bản thân ngân hàng. Một khi đã phải mang tài sản thế chấp ra phát mãi thì mọi chuyện đã rõ ràng: sản xuất kinh doanh thua lỗ, vốn đã mất và quan hệ giữa ngân hàng và khách hàngđã chấm dứt. Mặt khác, không phải tài sản thế chấp nào cũng có thể bán một cách dễ dàng để ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách nhanh chóng, đặc biệt khi đó là tài sản thế chấp của doanh nghiệp nhà nước. Ai cũng biết rằng, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Bởi vậy toàn bộ tài sản, nhà xưởng đều thuộc sở hữu nhà nước. Việc luật cho phép các doanh nghiệp nhà nước được đem tài sản thế chấp để vay vốn nếu theo nghĩa bình đẳng trong quan hệ dân sự thì chẳng có gì phải bàn. Nhưng nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, mất khả nưng thanh toán các khoản nợ thì có nhiều điều phải nói đến. Đó là khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ,theo hợp đồng vay vốn ngân hàng sẽ phát mại tài sản để thu hồi vốn. Nếu đó là ngân hàng quốc doanh thì thực chất việc phát mại tài sản chỉ là việc chuyển tài sản "từ túi này sang túi khác". Nếu là ngân hàng thương mại cổ phần thì đó là việc chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. Như vậy tài sản thế chấp đã rơi vào vòng luẩn quẩn không lối ra. Do đó, hiện nay ngân hàng nhà nước đã ban hành văn bản hướng dẫn cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước không bắt buộc phải có tài sản thế chấp khi vay. Tuy tài sản thế chấp còn có một số hạn chế nhất định song ngân hàng vẫn cần phải thực hiện một cachs nghiêm túc các thủ tục về thế chấp trong quá trình cho vay. Giải pháp này gắn liền với việc nâng cao năng lực công táo và phẩm chất đạo đức của người cán bộ tín dụng, tránh tình trạng đánh giá quá cao giá trị của tài sản thế chấp khiến cho việc phát mại tài sản khi có rủi ro xảy ra sẽ không bù đắp được thiệt hại của ngân hàng. Mặt khác, không phải khách hàng nào cũng đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, ngân hàng hãy "trông mặt mà bắt hình dong". Tất nhiên "trông mặt" bao hàm nhiều vấn đề như bề dầy kinh nghiệm trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, như khả năng quản lý, hiệu quả kinh tế của dự án đang có nhu cầu vay vốn. Tất cả những điều đó sẽ cho chúng ta thấy được một chân dung khách hàng khá hoàn chỉnh, giúp ta có cách xử lý đúng đắn với mức độ rủi ro thấp nhất. Vậy vấn đề chính trong giải quyết cho vay không phải ở chỗ khách hàng có tài sản thế chấp hay không mà quan trọng hơn doanh nghiệp đó là ai và hiệu quả sử dụng vốn như thế nào. 4- Nhân tố con người. Vai trò quyết định của con người trong công cuộc cải cách và đổi mới, hoàn thiện hệ thống ngân hàng là không thể phủ nhận được. Bởi vì dù có hàng ngàn, hàng vạn những định chế kỳ diệu nhưng khi thiếu đi yếu tố con người, thiếu đi những cán bộ thẳng thắn, trung thực, có trình độ thì kết quả cũng chỉ là con số không. Thực tế đẫ cho thấy rằng nếu một ngân hàng nào có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, sáng tạo trong công việc, có tinh thần tập thể vì lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng đó chắc chắn có thể đứng vững và phát triển trước những sóng gió của thị trường. Thật may mắn trong ngành ngân hàng Việt nam có đa số cán bộ ngân hàng là tốt, sứng đáng với truyền thống của ngành, sứng đáng với lời dạy của bác Hồ. Chúng ta đã có những cán bộ khước từ hối lộ hàng chục ngàn USD của doanh nghiệp nhằm lung lạc và mua chuộc cán bộ tín dụng để rút tiền vay. Nhiều cán bộ kho quỹ trả lại tiền thừa, phát hiện ngoại tệ giả. Tuy nhiên chuyện "con sâu làm giàu nồi canh" không phải là không có trong ngành ngân hàng. Những cán bộ tín dụng tha hoá về đạo đức, hoa mắt trước sự lôi cuốn của đồng tiền đã tạo nên cơ hội cho doanh nghiệp lũng đoạn nhà ngân hàng. Không chỉ có vậy các cán bộ tín dụng còn gian dối trong việc thẩm định tình hình tài chính của khách hàng, đánh giá sai về tài sản thế chấp, lơ là đi sự giám sát của mình đối với doanh nghiệp để rồi khi doanh nghiệp chốn nợ thì ngân hàng lĩnh toàn bộ rủi ro. Bên cạnh đó năng lực hoạt động của cán bộ tín dụng còn hạn chế do đội ngũ cán bộ được đào tạo có trình độ đại học còn rất ít, các cán bộ ngân hàng chưa ý thức được quyền lợi sát sườn của họ đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng. đây là một bài học có thực đã xảy ra ở ngân hàng cổ phần Gia Định. Từ chủ tịch hội đồng quản trị đến phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ... đã thông đồng với nhau sử dụng chứng từ giả, sổ sách giả để chiếm đoạt 14 tỷ đồng từ số vốn huy động trong dân là 72 tỷ và 97 lượng vàng. Nếu vẫn còn tồn tại những con người như vậy thì hỏi liệu ngân hàng có thể phát triển trong cơ chế đầy dẫy những khó khăn như ngày hôm nay không? Do vậy cán bộ tín dụng cần phải được giao trách nhiệm cụ thể gắn nghĩa vụ của họ với lợi ích khi hoàn thành công việc. Mặt khác công việc của một cán bộ tín dụng đòi hỏi không chỉ có kiến thức chuyên sâu về kinh doanh tín dụng mà còn phải hiểu biết nhiều lĩnh vực để phân tích và phán đoán chính xác, đưa ra quyết định phù hợp. đòi hỏi thì cao, trách nhiệm nặng nề nhưng quyền lợi của họ như thế nào thì còn ít được quan tâm tới, không công bằng so với các công việc khác. Chính vì điều này đã tạo một ý nghĩ chốn tránh nhiệm vụ. Nếu làm tốt thì hưởng chung còn khi làm giở thì một mình phải gánh chịu. điều này làm cho nhiều cán bộ tín dụng không giám mạnh dạn đưa ra quyết định cho vay. Thiết nghĩ ngân hàng cần phải có chính sách khen thưởng thoả đáng với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời cũng có biện pháp kỷ luật đối với những người vi phạm gây thiệt hại cho ngân hàng. Bên cạnh đó cần tăng cường đào tạo để nâng cao hơn nữa kiến thức của cán bộ ngân hàng giúp cho họ tinh thông nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn trong công việc. II- Một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng (Chính phủ, ngân hàng nhà nước, cơ quan pháp luật...) 1- Hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng. Để giảm bớt rủi ro đối với hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường nên hình thành các quỹ bảo hiểm: Quỹ bảo hiểm tài sản thế chấp, Quỹ bảo hiểm tín dụng. Thu nhập của quỹ là một tỷ lệ nhất định của phần vốn được bảo hiểm và đảm bảo đủ để bảo toàn, tăng trưởng quỹ nhằm bù đắp cho những rủi ro mất mát có thể sảy ra cho cả người cho vay và người vay. 2- Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) Thông tin tín dụng là yếu tố quan trọng trong quản lý tín dụng, nhờ có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng càng chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro càng lớn do chúng ta tránh được việc lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trong thực tế trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Việt Nam ra đời cách đây 4 năm đã thực sự phần nào trở thành một người bạn đáng tin cậy đối với ngân hàng. CIC đã được triển khai ở tất cả các địa phương và bước đàu thu được thông tin của 77000 doanh nghiệp, đây là doanh nghiệp có mức nợ gần 50 triệu đồng. Trung tâm CIC đã phát huy vai trò của mình trong việc cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hết sức quý báu, giúp cho các tổ chức tín dụng tránh được rủi ro trong việc thiếu thông tin. Tuy nhiên, do mới ra đời nên CIC vẫn còn chưa đi vào nề nếp từ khâu cập nhật số liệu đến khâu cung cấp thông tin, chưa có những chế tài trong việc xử lý cung cấp những thông tin sai lệch dẫn đến rủi ro. Nhằm giúp cho ngân hàng tránh được thất bại trong việc đánh giá,xem xét và quản lý tài sản thế chấp thì CIC ngoài việc cung cấp các thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng vay còn phải là nơi đăng kí pháp định tài sản thế chấp của ngân hàng thương mại. Ta hãy xét ví dụ sau: Ngân hàng A cấp tài khoản cho vay 100 triệu cho khách hàng X với tài sản thế chấp trị giá 400 triệu. Ngân hàng A trong quá trình thẩm định cho vay của mình sẽ được CIC cung cấp những thông tin về khách hàng X như: Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng và quyền sở hữu của khách hàng X đối với tìa sản thế chấp như thế nào, đồng thời CIC sẽ cung cấp cho ngân hàng A giấy công nhận quyền chủ nợ cấp I (ghi rõ khách hàng X chưa thế chấp tài sản này ở bất kỳ một ngân hàng nào khác ). Làm xong những thủ tục này thì ngân hàngA sẽ cho khách hàng X vay tiền. Trường hợp khách hàng X lại đến vay của ngân hàng B một khoản tiền vay là 100 triệu đồng và cùng tài sản thế chấp thì CIC sẽ cung cấp cho ngân hàng B những thông tin tương tự như trên, ngân hàng B sẽ biết được rằng tài sản đó đã được thế chấp tại ngân hàng A do vậy ngân hàng B có thể chủ động xem xét các thông tin về ông X để rồi quyết định cho vay hay không. trường hợp B cho X vay và ông X bị phá sản thì ngân hàng A sẽ là người được trả gốc và lãi trước. Ngân hàng B chỉ được thu nợ trên phần còn lại. điều này làm cho các ngân hàng tỉnh táo và cẩn thận hơn trong việc ra quyết định cho vay. Mặt khác làm việc này còn ngăn chặn được tình trạng khách hàng dùng nhiều thủ đoạn để có chứng từ gốc đem thế chấp tài sản ở nhiều ngân hàng và tránh được những tranh chấp và trật tự thu nợ trên tài sản thế chấp. Về phía khách hàng điều này cũng giúp cho họ dễ dàng và thuận lợi trong việc dùng một tài sản thée chấp để đi vay nợ tại nhiều ngân hàng. Một việc khác nữa cũng cần nói tới là nó giúp cho việc thực hiện đồng tài trợ của nhiều ngân hàng đối với một khách hàng, giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro tín dụng. 3- Cần phải hoàn thiện văn bản pháp luật về tài sản thế chấp. Nhà nước cần tạo lập một môi trường pháp lý hoàn chỉnh hơn nhằm tạo ra sự an toàn pháp lý cho hệ thống tiền tệ. Chính do thiếu môi trường pháp lý an toàn đã khiến cho hoạt động tín dụng của ngân hàng hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước cần tiếp tục cho ra một số đạo luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng. (Thật hữu ích cho các ngân hàng hiện nay vì luật ngân hàng đã ra đời). Đặc biệt cần phải hoàn thiện tốt hơn luật thế chấp và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu các tài sản cố định thường được dùng để làm tài sản thế chấp. Mặt khác cũng phải có các quy định tạo sự dễ dàng hơn trong việc thanh lý các tài sản thế chấp của doanh nghiệp, tư nhân có nợ quá hạn không trả được. 4- Các biên pháp khác. Để mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng ngân hàng và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành và thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau đây: - Chính phủ cần có thái độ dứt khoát xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho dân sinh , tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng nâng cao được hiệu quả. đặc biệt tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phép thành lập công ty tư nhân, công ty TNHH, tránh thành lập tràn lan gây hậu quả xấu cho các đối tác cũng như trong xã hội. - Bộ tài chính cần tiếp tục cấp bổ xung mức vốn điều lệ đã được duyệt cho các doanh nghiệp để đảm bảo đủ số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. - Chính sách tín dụng cần được tiếp tục hoàn thiện đảm bảo vừa huy động được tiền gửi vào ngân hàng (đặc biệt nguồn vốn trung và dài hạn) vừa đảm bảo cho các ngân hàng thương mại kinh doanh có lãi, bảo toàn được vốn, khuyến khích được các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, kích thích mở rộng tín dụng trung và dài hạn để đổi mới kỹ thuật, hiện đại hoá công nghệ, tăng sức cạnh tranh nội địa. III- Một số kiến nghị với Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh. 1- Tăng cường tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ ngân hàng. Công tác kiểm soát nội bộ có vai trò quan trọng trong quản trị và điều hành của các ngân hàng trong điều kiện môi trường kinh doanh đa dạng phức tạp và cạnh tranh quyết liệt. Đặc biệt ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, gần 2 năm nay vụ án điều tra chưa kép lại , nó đã để lại một hậu quả vô cùng nặng nề cho ban lãnh đạo cũng như cán bộ công nhân viên của ngân hàng. Vì vậy phải tăng cường tổ chức hoạt động kiểm tra việc chấp hành các quy định, quy trình cho vay, thực hiện các thủ tục nghiệp vụ của các bộ phận và cán bộ ngân hàng. Làm tốt công tác này giúp cho việc phát hiện kịp thời những vi phạm và đề ra hưỡngử lý thích hợp, góp phần đảm bảo an toàn vốn vay. Cụ thể, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cần làm tốt các việc sau: - Bố trí những người có năng lực và có trách nhiệm để giám sát và kiểm tra hoạt động của ngân hàng thường xuyên, đặc biệt lựa chọn những nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn cao để kiểm soát công tác tín dụng. - Định kỳ kiểm tra việc chấp hành các quy chế kinh doanh, nhất là việc thực hiện qui trình cho vay và quản lý vốn vay. - Xử lý nghiêm túc, kịp thời những sai phạm, qui trách nhiệm đối với những cá nhân thực hiện sai qui chế dẫn đến thất thoát vốn ngân hàng. 2- Công tác tổ chức cán bộ. Đây là công tác quan trọng hàng đầu trong đó yếu tố con người quyết định sự thành bại của chi nhánh. Do đó cần phải tiếp tục kiện toàn bộ máy lãnh đạo cũng như đội ngũ nhân viên ngân hàng đảm bảo việc điều hành và hoạt động thống nhất, có hiệu quả. Tăng cường cán bộ có trình độ cho những khâu còn thiếu như phòng kinh doanh tín dụng và phòng thanh toán quốc tế... Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ thoái hoá, đảm bảo kỷ cương trong công tác điều hành, tránh tình trạng vô trách nhiệm trong công việc. Những cán bộ không đủ tiêu chuẩn cần phải loại ra khỏi dây chuyền cho vay không để họ tiếp tục có điều kiện gây thêm những hậu quả mới . 3- Công tác thu hồi nợ quá hạn. Cần phải tiếp tục theo dõi đôn đốc cán bộ thu nợ để thu hồi các khoản nợ quá hạn. Xem xét, phân tích những món nợ có khả năng thu hồi trước, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, kiên quyết bám sát con nợ, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện thu nợ của cán bộ tín dụng. Do đó cần phải tăng cường quan hệ với các cơ quan nội chính có liên quan như: UBND, Sở nhà đất Hà Nội, Công an, Viện kiểm sát, Toà án nhân dân... để nhờ họ giúp đỡ hoàn thiện hồ sơ giấy tờ và khi tiến hành phát mại tài sản thế chấp để thu nợ. Với các con nợ có thái độ chây ỳ, không có thiện chí trong việc trả nợ thì kiên quyết đưa ra cơ quan luật pháp để xử lý. 4- Chế độ khen thưởng với cán bộ tín dụng. Ngân hàng Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nên sớm có quy chế định mức công việc cho cán bộ tín dụng để trả lương kinh doanh tương ứng. Đây là yếu tố tác động lớn tới nợ quá hạn. Thật bất công nếu như trả lương kinh doanh như hiện nay, trách nhiệm và công việc của cán bộ tín dụng rất nặng nề, nhưng tiền lương vẫn giống như bất kỳ một bộ phận nào khác. Nếu muốn có chất lượng tín dụng tốt phải xem xét đến sự hợp lý giữa quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Bên cạnh đó, phải quy trách nhiệm vật chất chế tài đối với các cán bộ tín dụng cố tình vi phạm nguyên tắc chế độ tín dụng hiện hành dẫn đến tình trạng nợ quá hạn, nợ không có khả năng thu hồi. Nhìn một cách toàn diện ta thấy hoạt động tín dụng là nguồn cơ bản của thu nhập hoặc thua lỗ của một ngân hàng cho nên rủi ro tín dụng sẽ tạo khó khăn lớn nhất cho ngân hàng. Với ý nghĩa quan trọng đó của tín dụng không chỉ làm cho người cán bộ tín dụng thấy vinh dự, tự hào mà còn trao cho họ một trách nhiệm nặng nề bởi đánh giá rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp và đầy rẫy khó khăn. Công việc của một cán bộ tín dụng đòi hỏi họ không chỉ có kiến thức chuyên sâu, kinh nghiệm hoạt động mà có khả năng đánh giá, phán đoán chính xác. trong các báo cáo tổng kết hoạt động của ngân hàng thường xuyên nhắc nhở đến việc rà soát lại đôị ngũ cán bộ tín dụng có biện pháp kỷ luật thích đáng và kiên quyết đưa ra khỏi ngân hàng những cán bộ mất phẩm chất... nhưng chẳng mấy khi đề cập đến thành tích của họ. vì vậy thiết nghĩ Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng và các ngân hàng thương mại nước ta nói chung cần phải quan tâm hơn nữa đến quyền lợi và trách nhiệm của các cán bộ tín dụng. 5- Thực hiện nghiêm túc các qui chế tín dụng. Cần phải thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng đã được đề ra, tránh tư tưởng săn tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Trong mọi trường hợp không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để lôi kéo khách hàng, thực hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng và để món vay có thể hoàn trả cả trong trường hợp dự án kinh doanh thất bại thì phải thực hiện thế chấp đúng đắn, phù hợp với thực tế. Nhưng cũng phải cảnh tỉnh quan điểm cho rằng TSTC là tất cả, do đó hễ cứ có thế chấplà cho vay mà quên đi những vấn đề cơ bản của tín dụng. Để ngăn ngừa rủi ro từ phía khách hàng, Ngân hàng cần thực hiện việc lựa chọn khách hàng một cách đúng đắn hơn nữa, chỉ cho vay đối với những khách hàng có đầy đủ điều kiện tín dụng. Khi món tín dụng đã được cấp, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và người điều hành là phải thường xuyên giám sát hoạt động của người vay, phát hiện kịp thời những món vay có vấn đề đưa ra giải pháp hữu hiệu. Kết luận chung Kinh doanh tiền tệ tín dụng trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các Ngân hàng thương mại gặp phải rất nhiều khó khăn, rủi ro. Thực trạng đó là kết quả tổng hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng để có thể tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng phải biết vượt lên chính mình, đẩy lùi những vướng mắc tồn tại trong kinh doanh, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất bằng các biện pháp khác nhau. Song dù các giải pháp có hữu hiệu tới đâu chúng ta cũng chỉ có thể hạn chế rủi ro, chứ đặt vấn đề thủ tiêu rủi ro là hoàn toàn thiếu thực tế. Do vậy trong quá trình kinh tế đòi hỏi mỗi ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro ở một mức nhâts địng mà đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng ổn định và phát triển vững chắc. Trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam sẽ có rất nhiều chuyển kiến mạnh mẽ, khó khăn cũ có thể sẽ mất đi những tất yếu có những khó khăn mới nẩy sinh. Yêu cầu đặt ra là Ngân hàng nhà nước cũng như ngân hàng công thương Việt Nam cần có biện pháp chỉ đạo thích hợp và bản thân Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cũng cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn đang tồn tại và những khó khăn mới nẩy sinh. Nhất định với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ ngành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng sẽ vưngx bước di lên xứng đáng với vị trí của mình như Đại hội Đảng đã xác định "Ngân hàng là trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam". Hoàn thành bản chuyên đề này em xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các can sbộ Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, đặc biệt là các anh chị trong phòng kinh doanh tín dụng. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy giáo là người trực tiếp hướng dẫn em trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này. tài liệu tham khảo 1- Ngân hàng thương mại Edward W. Reed, PhD và Edward K.Gill, PhD 2- Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính FrederiC.S.Michkin 3- Hội thảo phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn Ngân hàng công thương Việt Nam 4- Tạp trí ngân hàng 5- Thời báo kinh tế 6- tạp chí nghiên cứu kinh tế 7- Các văn bản về thể lệ, chế độ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng công thương Việt Nam. 8- Các báo cáo tổng kết hoạt động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 1999 - 2000 - 2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0370.doc