Lời nói đầu
Với chức năng là trung gian chu chuyển vốn, là cầu nối giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại nước ta đã đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 15 năm qua và cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Nhưng các Ngân hàng thương mại gặp rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, nhất là hiện nay, khi mà có sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng khác.Các rủi ro có nhiều hình thức. Một trong những rủi ro là ngân hàng gặp phải các kh
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hạn chế nợ khó đòi tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oản nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấu ( bad debt).
Trong thời gian thức tập tại Sở giao dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, được sợ hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo, sự quan tâm, giúp đỡ của cán bộ, nhân viên tại Sở, đặc biệt là các cán bộ trong phòng kinh doanh, em đã nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hạn chế nợ khó đòi tại Sở giao dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam”.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về nợ khó đòi tại Sở giao dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam.
Chương II: Nợ khó đòi và việc xử lý nợ khó đòi tại Sở giao dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hạn chế nợ khó đòi Sở giao dịch I- Ngân Hàng Công Thương Việt Nam.
Trong đề tài, hạn chế nợ khó đòi gồm ngăn ngừa và xử lý nợ khó đòi. Riêng đối với việc xử lý nợ khó đòi, đề tài đi sâu, chủ yếu xử lý các khoản nợ khó đòi có tài sản đảm bảo. Bởi vì theo các tài liệu hiện tại của Sở, tuy rằng các khoản vay không có taì sản đảm bảo chiếm tỷ lệ lớn ( hơn 86% dư nợ cho vay) nhưng các khoản vay này phần lớn không có nợ khó đòi.
Mục lục
chương I
lý luận chung về nợ khó đòi tại ngân hàng thương mại
I. Khái quát về tín dụng ngân hàng.
I.1. Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Đặc trưng của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và một bên là các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và cá nhân bằng cách ngân hàng huy động vốn từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cung cấp cho bên kia trong một khoảng thời gian nhất định. Đến thời hạn nào đó do hai bên thoả thuận, ngân hàng sẽ nhận được vốn và một phần tăng thêm gọi là phần lời và được tính theo lãi suất. Tín dụng ngân hàng có ba đặc trưng sau:
1/. Sự tin tưởng, tín nhiệm giữa khách hàng và ngân hàng: Phải có sự tin tưởng này thì quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Nghĩa là nguời đi vay – người được ngân hàng cấp vốn phải có uy tín, làm ăn có hiệu quả. Tất nhiên để có sự tin tưởng này, ngân hàng phải thực hiện việc điều tra , phân tích khách hàng, nhất là những khách hàng mới có quan hệ tín dụng lần đầu.
2/. Tính thời hạn: Thời hạn tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm luân chuyển vốn của đối tượng vay, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào thời hạn huy động vốn của ngân hàng. Tính thời hạn đã thúc đẩy người vay có trách nhiệm, lo lắng, quan tâm tới đồng vốn mà họ vay để sao cho có thể trả cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn.
3/. Tính hoàn trả: Ngân hàng đặc biệt quan tâm tới tính này. Muốn vậy, trước khi cho vay, ngân hàng cần xem xét, kiểm tra, đánh giá về khách hàng xem có đủ điều kiện để cho vay hay không. Ngoài ra còn có những kiến thức tổng hợp về tình hình xã hội để tham mưu, tư vấn cho khách hàng về hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để từ đó giúp ngân àng hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra với đồng vốn cho vay của mình.
Ba nguyên tắc tín dụng cơ bản.
1/. Khoản vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Người vay phải có kế hoạch cụ thể, có đơn xin vay gửi tới ngân hàng. Trong đơn xin vay phải nói rõ số lượng vốn vay, thời gian vay và mục đích sử dụng vốn. Mục đích vay có ảnh hưởng lớn tới chất lượng khoản vay. Hầu như bất kỳ ngân hàng nào cũng thích cấp một khoản tín dụng đúng đắn. Ngân hàng luôn luôn thích cho vay để doanh nghiệp mua sắm các thiết bị cho doanh nghiệp hơn là để mau một chiếc ô tô mới, đắt tiền cho lãnh dạo soanh nghiệp.
2/. Phải có tài sản đảm bảo: Khách hàng muốn được ngân hàng cấp một khoản tín dụng trong một thời gian nào đó, anh ta phải có tài sản gì đó có giá trị tương đương với khoản tín dụng làm tài sản đảm bảo. Khách hàng giao quền sở hữu tài sản đó cho ngân hàng để trong trường hợp xấu nhất – trường hợp mà khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ thanh lý tài sản này để thu hồi vốn. Tài sản đảm bảo có thể gồm bất động sản, động sản, biên nhận ký gửi hàng hoá, các khoản phải thu, nhà máy, trang thiết bị, các vận đơn có thể bán được, các cổ phiếu , trái phiếu. Yêu cầu cơ bản của tài sản đảm bảo là thuộc quyền sở hữu của đối tượng vay và có thể bán được.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, để thu hút khách hàng, không nhất thiết khách hàng phải có tài sản đảm bảo ngân hàng mới cho vay. Một dự án cho vay có cơ sở vững chắc để thực hiện có hiệu quả là điều kiện quan trọng đối với quyết định cho vay của ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay khi phương án kinh doanh có hiệu quả, có khả năng thu được nợ.
Bất cứ lúc nào thì cho vay có tài sản đảm bảo là nguyên tắc hoàn toàn hợp lý, cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng đối phó với những tổn thất khi xuất hiện nợ quá hạn khó đòi hoặc khách hàng không có khả năng thanh toán.
3./ Vốn vay phải được hoàn trả đúng thời hạn.
C.Mác viết: " Đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc điểm là sé quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị đồng thời lại lớn lên thêm trong quá trình vận động.". Nguyên tắc này đảm bảo thực chất của tín dụng. Quan hệ tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau, có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất dịnh . Tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Doanh nghiệp khi vay vốn phải cam kết trả đủ vốn và lãi sau một thời gian nhất định ghi trong khế ước vay nợ. Hơn nữa , chất xúc tác của hoạt động cho vay là lãi suất. Thông thường, lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất tiền vay, lãi suất tiền vay nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp. Đồng thời lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Điều này đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, lợi nhuận của ngân hàng và thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Thêm vào đó ngân hàng cũng rất quan tâm đến thời điểm trả nợ của khách hàng vì có ảnh hưởng tới khả năng thanh toán, tình hình cơ cấu nguồn vốn cũng như tài sản của ngân hàng.
Các khoản vay của ngân hàng có thể được hoàn trả một lần hay trả góp. Những khoản cho vay trả một lần thường được quan niệm như những khoản cho vay: nghĩa là hợp đồng yêu cầu hoàn trả toàn bộ một lần vào thời gian gia hạn cuối cùng. Cho vay trả góp thì việc hoàn trả theo định kỳ. Việc trả nợ như vâỵ sẽ không trở thành một gánh nặng cho doanh nghiệp.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
Cũng như các doanh ngiệp khác , trong cơ chế thị trường, hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết quả một vài người thắng và nhiều kẻ bại. Cạnh tranh là quá trình diễn ra liên tục, các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng, ngược lại, điều đó cũng thể hiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro, thất bại. NHTM trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh và hoạt động của nó luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra với bất cứ loại hình hoạt động nào của NHTM như rủi ro về tín dụng, thanh toán, chuyển hoán vốn, lãi suất, hối đoái...Trong đó, rủi ro kinh doanh tín dụng là rủi ro mà hậu quả có thể tác động lớn đến các hoạt động kinh doanh khác, thậm chí đe doạ sự tồn tại của NHTM. Rủi ro trong hoạt động tín dụng NHTM xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho bên đối tác không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng vào thời điểm đáo hạn. Nói cách khác, rủi ro tín dụng là rủ ro mà gắn liền với khả năng không thu được nợ đến hạn từ khách hàng của NHTM. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách hàng không có khả năng trả ngay hay hết khả năng trả, thì ngân hàng sẽ gặp một trong ba rủi ro là đọng vốn, khó đòi vốn hoặc xấu nhất là mất vốn.
Từ phân tích trên, ta nhận thấy, rủi ro trong kinh doanh tín dụng xuất phát từ các khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn. Vì vậy, muốn giảm rủi ro tín dụng, trước hết phải phòng ngừa, hạn chế khả năng xuất hiện nợ quá hạn, nợ khó đòi. Vấn đề này sẽ được trình bày ở phần sau.
Nợ khó đòi trong hoạt động tín dụng.
Nợ khó đòi là gì?.
Mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với việc người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc vá lãi đúng thời hạn. Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi việc lúc nào cũng diễn ra một cách trôi chảy mà có nhiều trường hợp người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với chủ nợ do các nguyên nhân khách quan hay chủ quan gây ra. Đó là các trường hợp khi đến hạn hoàn trả vốn vay, người đi vay không thể thực hiện được việc trả nợ cho ngân hàng, dẫn đến các khoản nợ quá hạn. Sau đó, ngân hàng có thể tiến hành gia hạn cho khoản nợ đó tuỳ vào mỗi trường hợp .
Theo luật ngân hàng hiện nay, tất cả các khoản nợ đã quá hạn trên 360 ngày đều được coi là nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấu (bad dept), kể cả một số trường hợp " dễ đòi" mà sở dĩ khách hàng chậm trả một năm chỉ vì đồng vốn đang phát huy tác dụng sinh lời mà anh ta chưa muốn thu hồi đẻ trả nợ; dư nợ tiền cho vay tuy chưa quá hạn nhưng đã xác định được là bị mất vì người vay chết, mất tích, doanh nghiệp phá sản, giải thể, bị khách hàng lừa đảo… hay một bộ phận của khoản nợ quá hạn mà ngân hàng phải trả thay cho khách hàng trong các khoản bảo lãnh mở thế chấp hàng hoá trả chậm, đều được coi là nợ khó đòi.
Nợ khó đòi là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo. Trước hết, nó vi phạm đặc trưng thứ nhất là tính thời hạn, hai là tính hoàn trả đầy đủ, gây nên sự đổ vỡ lòng tin của ngân hàng đối với người nhận tín dụng.
Các đối tượng mắc nợ khó đòi thường là các đơn vị vay vốn làm ăn bị thua lỗ nặng, có nguy cơ bị phá sản hay đã phá sản, đối tượng được coi là mất tích…
Các nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi.
I.2.2.1. Các dấu hiệu của khoản vay có thể dẫn đến nợ khó đòi.
Khi tiến hành cấp tín dụng, các NHTM đều mong muốn khoản tín dụng được hoàn trả lại đúng thời hạn và đầy đủ như đã thoả thận. Chính vì thế, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, NHTM thực hiện việc theo dõi, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay của họ. Nếu phát hiện thấy có biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích hoặc có sự cố khác thường có thể dẫn tới việc không hoàn trả được vốn vay của khách hàng. Trước hết để đánh giá khoản vay có thể bị quá hạn không , sau đó xem liệu có thể trở thành khó đòi không , để từ đó, ngân hàng tìm cách ngăn ngừa , can thiệp kịp thời. Muốn vậy, phải nhận biết được đâu là dấu hiệu của nợ quá hạn khó đòi.
Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp bất trắc. Tuy nhiên, chúng ta không có một mô hình nào để nhận biết. Tuy vậy, trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, một số dấu hiệu sau đây có thể đáng tin cậy để dự đoán một khoản nợ sẽ trở thành khó đòi.
- Khoản nợ đã gia hạn nhiều lần.
- Khách hàng không những đã mắc nợ quá hạn (nợ quá hạn thông thường, nợ quá hạn có vấn đề) mà còn có đặc điểm sau đây:
+ Đề án kinh tế để làm cơ sở vay có dấu hiệu đến ngõ cụt, sản phẩm đã bão hoà.
+ Thu nhập chững lại hay giảm sút mạnh.
+ Trì hoãn nộp các báo cáo tài chính cho ngân hàng, có biểu hiện thiếu thiện chí trong mối quan hệ với ngân hàng.
+ Sử dụng vốn sai mục đích, phung phí hay mức độ rủi ro cao (theo kiểu " năm ăn, năm thua").
+ Vốn bị trì trệ, số vong quay đồng vốn giảm rõ rệt so với đề án đã lập để vay tiền.
+ Số dư tiền gửi giảm nghiêm trong thậm chí âm.
+ Bị bạn hàng lừa đảo, hay bạn hàng bị phá sản không thể giải quyết được khoản phải thu.
+ Bị kiện tụng trong lĩnh vực kinh tế.
+ Bị truy tố vì làm ăn phi pháp có nguy cơ hải bồi thường một số tiền lớn.
+Hoạt động sản xuất kinh doanh đang gặp khó khăn to lớn do ngành nghề không còn được xã hội chấp nhận nữa hoặc do bị báo chí tung tin xấu về tình hình tài chính…khiến cổ phiếu bị giảm giá nghiêm trọng.
+ Ban lãnh đạo bị thay đổi bất thương một cách tiêu cực.
- Khách hàng tuy chưa mắc nợ quá hạn song vì những lý do sau đây cũng có thể là dấu hiệu của nợ khó đòi.
+ Do thiên tai gây ra như bị bão lụt, hoả hoạn khiến tài sản bị thiệt hại nặng nề.
+ Do địch hoạ gây ra như trộm cướp, tham ô, phá hoại…
+ Đứng trước tình thế bị phá sản không thể cưỡng nổi.
+ Các dấu hiệu trên đây là biểu hiện những khó khăn to lớn về mặt tài chính từ phái người đi vay. Trong thực tế còn rất nhiều những dấu hiệu khác của một khoản nợ có thể trở thành khó đòi mà mỗi một khách hàng là một trường hợp. Tuy nhiên, các dấu hiệu trên là cơ bản nhất, chúng là cơ sở để ngân hàng tìm biện pháp điều chỉnh, ngăn ngừa kịp thời hay xử lý các khoản nợ quá hạn, khó đòi.
I.2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi.
* Từ phía khách hàng.
Nghuyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Nhìn chung, nguyên nhân này có thể được nắm bắt và các nhân hàng có thể có nhiều kinh nghiệm đối phó bằng cách tìm hiểu, nắm vững khách hàng trước, trong và sau khi cho vay, độ tin cậy trong quá trình quan hệ, mục đích sử dụng tiền vay, hiệu quả của đề án vay vốn…
- Rủi ro trong công việc kinh doanh của người đi vay.
Một quy trình tín dụng luôn bao gồm giai đoạn sử dụng tiền vay của người đi vay, rủi ro nào trong quá trình kinh doanh( có sự tham gia của vốn ngân hàng cấp) của doanh nghiệp cũng đều có ảnh hưởn đến việc trả nợ ngân hàng. Rủi ro này sẽ xảy ra nếu doanh nghiệp không thực hiện một cách khoa học trong việc tính toán, triển khai dự án đầu tư sản xuất; không tính toán chính xác các số liệu về thị trường. Tuy nhiên, mặc dù không mắc các lỗi trên nhưng công việc đầu tư vẫn chứa đựng khả nảng xảy ra rủi ro do những thay đổi bất ngờ, bất khả kháng mà nó gây tác động xấu đến công việc làm ăn, gây tổn thất lớn lao cho doanh nghiệp. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng ở các mức độ khác nhau.
Trên thị trường đầu vào, doanh nghiệp chịu rủi ro về vấn đề nguyên vật liệu: Ví như giá cả NVL tăng mạnh, tăng liên tục, tăng lâu dài sẽ ảnh hưởng to lớn tới giá thành công xưởng của sản phẩm. Nếu gí bán sản phẩm không đổi, nó sẽ làm cho thu nhập tạo ra trên một sản phẩm giảm mạnh hoặc âm, ảnh hưởng tới tổng lợi nhuận thu đựoc của dự án và do đó tác động tiêu cực đến khả năng thanh toán. Nếu để đảm bảo thu nhập của mình mà doanh nghiệp nâng giá bán sản phẩm lên thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, thậm chí không thể tiêu thụ được, thế là doanh nghiệp bị thua trên thị trường. Ví như NVL phù hợp với dây chuyền công nghệ sẵn có của doanh nghiệp bị thiếu nghiêm trọng , doanh nghiệp phải sử dụng NVL khác để thay thế mà thực ra nó không thích nghi với dây chuyền công nghệ. Để khắc phục, doanh nghiệp phải thực hiện gia công, chhế biến lại NVL hoặc thay thế, sửa đổi dây chuyền công nghệ, điều đó làm cho chi phí sản xuất tăng vọt dẫn đến kết quả tương tự như trên. Nếu các hiện tượng này diễn ra một cách thường xuyên, liên tục hay không liên tục, lâu dài thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn vô cùng to lớn mà hậu quả nhẹ thì thua lỗ, nặng thì đình trệ, đóng cửa sản xuất, thậm chí bị phá sản. Đó là nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi.
Trên thị trường tiêu thụ doanh nghiệp chịu rủi ro về vấn đề tiêu thụ hàng hoá: ví như kông nắm được nhu cầu thị trường mà sản xuất ồ ạt sản phẩm dẫn đến việc ế ẩm hay sản xuất ra hàng hoá mà chất lượng không được thị trường chấp nhận. Đối phó với hai trường hợp này thì doanh nghiệp hoặc phải hạ giá hoặc phải tốn kém thêm chi phí quảng cáo, bảo hành , quà tặng , bảo quản hay những chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong hai trường hợp này nếu doanh nghiệp giải quyết trong một sớm một chiều thì không sao nhưng nếu nó cứ diễn ra thường xuyên, lâu dài thì doanh nghiệp phải chuốc lấy nhiều hậu quả đáng kể trong kinh doanh. Hơn nữa, còn đổ vỡ lòng tin như vậy. Doanh nghiệp bị thua lỗ là không tránh khỏi và việc chậm trả nợ một năm là hoàn toàn có thể xảy ra đó là nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, khả năng thanh toán yếu kém.
Các nguồn thu của doanh nghiệp rất hạn chế nhưng đã mắc nhiều khoản nợ có hạn, hoặc khoản nợ đến hạn có khối lượng quá lớn như nợ ngân sách nợ công nhân viên chức, nợ người bán nợ ngân hàng nợ các đối tượng khác. Cơ cấu về vốn đầu tư của doanh nghiệp hoàn toàn không hợp lý : quy mô của doanh nghiệp hoàn toàn không thay đổi, thậm chí bị thu hẹp mà giá trị tài sản cố định tăng lên rất nhanh. Tất cả nguyên nhân trên gây khó khăn rất lớn cho công tác trả nợ cho doanh nghiệp tạo ra các khoản nợ quá hạn. Tình hình này ngày càng có xu hướng xấu đi thì phát sinh nợ khó đòi cũng là điều không thể tránh khỏi . Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi .
- Do ý muốn chủ quan của người đi vay không muốn trả nợ cho ngân hàng.
Nợ khó đòi sảy ra khi mà thời hạn đáo hạn đã quá 1 năm mà người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng. Việc chầy bửa này có thể xuất phát từ khả năng chi trả yếu kém, cũng có thể xuất phát từ ý định chủ quan của người đi vay không muốn trả nợ (dù có khả năng). Loại nguyên nhân này được xếp vào loại nguyên nhân rủi ro về tư cách đạo đức của ngưòi đi vay . Tư cách đạo đức của ngưòi lãnh đạo doanh nghiệp tưởng chừng ít có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và việc tài trợ vốn của ngân hàng, nhưng thực tế đây là nguyên nhân khá quan trọng gây nợ quá hạn, nợ khó đòi, rủi ro tín dụng. Đã có nhiều vụ đổ bể do lừa đảo gây ra .
- Một số nguyên nhân khác gây ra nợ khó đòi mà thuộc về phía khách hàng như việc khách hàng gặp ruỉ ro như thiên tai, địch hoạ, gây ra khiến khách hàng bị thiệt hại kinh tế lớn.
* Từ phía ngân hàng.
- Nguyên nhân bao trùm từ phía ngân hàng chính là nhân tố chính sách cho vay của ngân hàng. Đó là việc mà chính sách cho vay không phù hợp với đặc điểm thực trạng nền kinh tế. Trải qua thực tế, kinh nghiệp cho thấy, Nếu ngân hàng có một chính sách cho vay đúng đắn được soạn thảo bởi hội đồng quản trị thì có hiêụ quả hơn nhiều so với việc trao quyền quyết định cho giám đốc chi nhánh. Chính sách cho vay ở đây phải được hiểu theo nghĩa đầy đủ bao gồm định hướng cho vay, chính sách về tín dụng ngắn, trung thực, dài hạn; các quy định về đảm bảo cho vay, về nhóm đối tượng khách hàng mà ngâng hàng quan tâm, về ngành nghề được ưu tiên… Chính sách cho vay của một ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đó .Chính sách cho vay đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng khi thực hiện nghĩa vụ của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngược lại, một chính sách không đúng sẽ tạo định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẽ hở cho ngưòi sử dụng vốn. Đó là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi
- Ngân hàng không chú trọng vào mục tiêu của các khoản vay, tính toán sai lệch hiệu quả đầu tư của dự án xin vay, dẫn đến các quyết định sai lầm trong việc cho vay.
- Ngân hàng đánh giá chưa đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc chủ quan , tin tưởng vào khách quen mà coi nhẹ khâu kiểm tra nhất là kiểm tra tài chính .
- Cán bộ tín dụng được đào tạo chưa đầy đủ không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang thực hiện, trong khi ngân hàng không có đủ các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích .
- Ngân hàng thiếu hạn mức tín dụng cho từng khách hang, từng nhóm, từng đối tượng khách hàng.
* Các nguyên nhân khác.
Một số nguyên nhân khác như rủi ro hoàn cảnh kinh tế xã hội trong nước, nhân tố chính sách của nhà nước, nhân tố quốc gia, nhân tố môi trường, các nhân tố khác .
Phân loại nợ khó đòi.
Chúng ta bàn về nợ khó đòi với mục đích để xử lý nó thì cách phân loại nợ khó đòi tốt nhất là theo mức độ khó thu hồi của khoản nợ đó. Theo mức độ khó đòi tăng dần, có thể phân thành:
1/. Nợ khó đòi mà đơn thuần chỉ là đã quá hạn quá một năm.
Doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng trả nợ trong tương lai không xa. Sở dĩ doanh nghiệp phải nợ quá hạn lâu như vậy là vì khoản vay mà doanh nghiệp đã vay của ngân hàng đang phát huy tác dụng. Khoản vay này đang được đầu tư cho một dự án mà có thể thu hồi được trong tương lai gần, cho nên doanh nghiệp chưa muốn thu hồi vốn để trả nợ cho ngân hàng. Từ sự phân tích như vậy, ta thấy rằng luật ngân hàng quy định khoản vay cứ quá hạn qúa một năm được coi là nợ khó đòi là chưa chính xác. Bởi vì khoản nợ này hoàn toàn không khó đòi.
2/. Nợ khó đòi mà tài sản đảm bảo còn nguyên gí trị.
Khoản nợ này có thể thu hồi được bằng cách thanh lý tài sản đảm bảo mà thanh lý như thế nào ta sẽ trình bày ở phần sau.
3/. Nợ khó đòi mà không có tài sản đảm bảo.
Trong thực tế có nhiều trường hợp mà người đi vay không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo. Đối tượng khách hàng này hoặc là các doanh nghiệp lớn, làm ăn phát đạt, có uy tín trên thương trường
Hoặc được người thứ ba có uy tín đứng ra đảm baỏ với ngân hàng rằng sẽ thanh toán hộ người đi vay trong trường hợp anh ta không trả được nợ. Với các trường hợp này, ngân hàng có thể cho vay theo hình thức tín chấp hoặc bảo lãnh. Với hình thức cho vay như vậy, rõ ràng là với hình thức thứ nhất – hình thức tín chấp, nếu mà khách hàng đổ bể, thì ngân hàng sẽ mất trắng, còn với hình thức thứ hai – hình thức bảo lãnh thì sẽ bổ lên đầu người đứng ra bảo lãnh, song, nếu người bảo lãnh mà phá sản, thì nhân hàng cũng sẽ mất trắng.
4.Nợ khó đòi mà coi như mất trắng.
Khoản nợ xấu nhất này chính là trường hợp xấu nhất xảy ra ở hai loại nợ khó đòi ngay trên. Tức là người đi vay không những không có tài sản đảm bảo mà còn bị phá sản, đột nhiên mất tích, bị truy tố vì tội hình sự...hoặc người đứng ra đảm bảo cho khoản vay cũng mắc phải một trong các trường hợp tương tự.
Theo mục đích của đề tài thì ta phân loại như vậy. Nhưng trong thực tế, người ta thường phân nợ khó đòi thành hai loại như sau:
1.Nợ khó đòi có tài sản đảm bảo.
Đây là các khoản nợ thực hiện theo đúng nguyên tắc cơ bản của hoạt động tín dụng: Một khoản vay được đảm bảo bằng một tài sản ngang giá trị. Về vấn đề tài sản đảm bảo sẽ được nói rõ hơn ở phần sau.
2.Nợ khó đòi không có tài sản đảm bảo.
Đây là các khoản nợ không thực hiện đúng theo nguyên tắc cơ bản của hoạt động tín dụng. Có sự phá vỡ nguyên tắc này là phụ thuộc vào điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn và đành chấp nhận mạo hiểm.
I.2.4. Thiệt hại do nợ khó đòi gây ra cho ngân hàng và nền kinh tế
Rủi ro trong hoạt động tin dụng là khả năng xuất hiện các biến cố không lường trước được do chủ quan hay khách quan, khiến cho người đi vay không thực hiện được cam kết, nghĩa vụ trả nợ của mình với ngân hàng.Nếu rủi ro nhỏ, quy mô của khoản nợ khó đòi khó xử lý nằm trong phạm vi quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng thì việc xử lý nó tương đối dẽ dàng và nợ khó đòi khi này không gây thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Nhưng khi rủi ro đó lớn, khoản nợ khó đòi nhiều, nhất là các khoản nợ khó đòi có nguy cơ mất trắng, vượt quá khả năng xử lý của ngân hàng thì vấn đề sẽ phức tạp, gây hậu quả khó lường, không những cho chính ngân hàng đó mà còn cho cả các ngân hàng và các doanh nghiệp có liên quan, ảnh hưởng tói quyền lợi người gửi ttiền tại ngân hàng và thậm chí, ảnh hưởng tới cả nền kinh tế. Lịch sử hoạt động của các ngân hàng trên thế giới đã chứng kiến không ít các trường hợp mà các ngân hàng lớn bị phá sản và hậu quả của nó thậm chí không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà còn lan ra nhiều nước trong khu vực và thậm chí toàn châu lục.
Như vậy, nợ khó đòi, tuỳ theo quy mô và mức độ khó đòi, sẽ tác động xấu đến hoạt động của doanh nghiệp, các tổ chức khác có liên quan, thậm chí cho oàn bộ nền kinh tế với mức độ nhiều ít khác nhau.
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng luôn thực hiện cấp tín dụng trên cơ sở ba nguyên tắc chính: Vốn vay phải được trả cả gốc và lãi đúng thời hạn; vốn vay phải được sủ dụng đúng mục đích; vốn vay phải có tài sản nào đó có giá trị tương đương làm đảm bảo. Trong đó nguyên tắc thứ nhất dược coi là quan trọng hàng đầu, được đặt ra để đảm bảo vốn kinh doanh được an toàn và hiệu quả. Nợ khó đòi trong kinh doanh tín dụng đã vi phạm nghiêm trong nguyên tắc này, nó trực tiếp gây ra rủi ro ứ đọng vốn, ứ đọng lâu dài, thậm chí mất vốn và do đó ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán của ngân hàng.
Đối với bản thân ngân hàng, bất ký khoản nợ khó đòi nào cũng dẫn đến rủi ro ứ đọng vốn lâu dài hoặc xấu nhất là mất vốn.
Thời hạn của các khoản tín dụng cấp cho khách hang luôn được xác định rõ trong hợp động tín dụng, đó chính là thời gian của một vòng quay vốn tín dụng đối với ngân hàng. Các khoản nợ khó đòi, trước hết làm cho ngân hàng không thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn đặt ra trong hợp đồng. Và nếu các khoản tín dụng đó có thể thu hồi được sau một thời gian nữa thì điều đó cũng làm cho thời gian của một vòng quay vốn tín dụng thực tế lớn hơn vòng quay tín dụng đã thoả thuận. Đó là chưa kể đến việc khộng thể thu hồi được một phần hay toàn bộ khoản nợ. Như vậy, nợ khó đòi nói riêng, nợ quá hạn nói chung đã làm giảm ttóc độ chu chuyển vốn tín dụng của ngân hàng dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tín dụng. Từ đó làm giảm khả năng thanh toán, thậm chí mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
NHTM hoạt động theo nguyên tắc "đi vay để cho vay", nghĩa là thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được trong nền kinh tế, nên ngân hàng phải có trách nhiệm nghiên cưú tiến trình cho vay để có thể đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã định với các chủ nợ của mình. Các khoản nợ khó đòi, một mặt làm kéo dài các khoản tín dụng về thời hạn, mặt khác có khả năng dẫn đến việc ứ đọng vốn lâu dài thậm chí mất vốn. Điều đó đã đẩy ngân hàng vào tình thế: đến hạn phải trả cho người gửi tiền nhưng không thực hiện được vì một trong các nguyên nhân là chưa thu được nợ từ người đi vay. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thanh toán của ngân hàng khiến ngân hàng bị mất khả năng thanh toán tạm thời thậm chí lâu dài. Đồng thời làm giảm uy tín của ngân hàng với mức độ nghiêm trọng nào đó, có thể dẫn đến hiện tượng những người gửi tiền đồng loạt đòi rút tiền, đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản.
Các khoản nợ khó đòi luôn chứa đựng khả năng không thu hồi được vốn vay (một phần hoặc toàn bộ), đặt ngân hàng trước tình trạng mất vốn. Nếu sự mất vốn đó nằm trong giới hạn bù đắp được của quỹ dự phòng thì chí ít cũng làm giảm vốn hoạt động cử ngân hàng, giảmlợi nhuận từ hoạt động tín dụng và làm giảm hiệu quả hoạt đông kinh doanh của ngân hàng. Còn nếu khoản nợ khó đòi bị mất đó là quá lớn, vượt quá khả năng tự bù đắp của ngân hàng ( vốn tự có khoảng từ 8% đến 10% trên tổng số vốn kinh doanh) thì thật nguy hiểm, có thể đẩy ngân hàng vào tình trạng điêu đứng hay thậm chí phá sản.
Trên giác độ vĩ mô, nợ khó đòi thực sự làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng giảm đi sự tích cực của nó đối với nền kinh tế. Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng có ý nghĩa cung cấp thêm vốn cần thiết cho nền kinh tế để sản xuất và kinh doanh, để mở rộng quy mô sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo ra nhiều sản phẩm mới cho xã hội, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người sử dụng vốn vay, đồng thời tăng tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Bởi vì nếu không có ngân hàng thực hiện việc này thì nguồn vốn trên ứ đọng rải rác trong nền kinh tế. Vì vậy, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi đã xác định đuợc rằng đồng vốn cho vay sẽ được đầu tư có hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế – xã hội trên cơ sở thu hồi đuợc vốn và lãi từ người đi vay sau một quá trình sử dụng vốn nhất định. Nợ khó đòi chứng tỏ người đi vay đã không thực hiện được hiệu quả đầu tư như đã dặt ra khi nhận vốn tín dụng từ ngân hàng. Trong một số trường hợp, nợ khó đòi gây mất vốn hoặc ứ đọng vốn lâu dài do công việc làm ăn của người đi vay thua lỗ khó cứu vãn, hẳn đã đi ngược lại với mong muốn tích cực của việc đầu tư tín dụng. Điều đó chứng tỏ, nợ khó đòi đã cản trở ngân hàng thực hiện tốt chức năng của mình đó là trung gian cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Hơn nữa, việc mất vốn, ứ đọng vốn lâu dài do nợ khó đòi gây ra có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng. Sự sụp đổ của một ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng có tác động rất mạnh, đe doạ sự tồn tại của các ngân hàng khác. Nhiều khi có thể kéo theo sự sụp đổ dây chuyền của nhiều ngân hàng trong cùng một hệ thống. Sự sụp đổ này sẽ làm rối loạn lưu thông tiền tệ trong nước, làm giảm giá đồng nội tệ, dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh, gây khủng hoảng kinh tế. Sự tác động này không chỉ có ảnh hưởng mạnh mẽ trong phạm vi một quốc gia mà nó có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước có liên quan, ảnh hưởng đến tài chính thế giới.
MộT Số BIệN PHáP HạN CHế Nợ KHó ĐòI TRONG KINH DOANH TíN DụNG.
Biện pháp ngăn ngừa nợ khó đòi.
Trên cơ sở các nghiên cứu về nợ khó đòi, ta nhận thấy khả năng xảy ra nợ khó đòi đối với một khoản vay luôn tồn tại kể từ khi tiền vay được phát ra đến khi thu hồi hết nợ. Để đảm bảo an toàn vốn vay, đảm bảo khả năng thu hồi được nợ và lãi đúng hạn thì trước tiên, ngân hàng phải thực hiện những biện pháp để khắc phục yếu kém thuộc về bản thân; phát hiện, loại trừ những khả năng phát sinh nợ khó đòi từ phía khách hàng và từ các phía khác. Tức là. trước hết phải phòng xa.
Phân tích, đánh giá khách hàng.
Trước khi phát tiền vay, ngân hàng cần phải có, hiểu rõ về khách hàng vì khách hàng là người chịu trách nhiệm sử dụng và hoàn trả vốn vay, là người quyết định cuối cùng về hiệu quả của khoản vay.Vì vậy, đánh giá khách hàng là một biện pháp quan trọng nhằm phòng ngừa nợ khó đòi trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Qua đánh giá khách , ngân hàng thấy được khả năng tài chính hiện tại, tiềm năng trong tương lai. Khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng. Có thể nói, việc phân tích, đánh giá khách hàng có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó tạo lập cơ sở ban đầu để ngân hàng làm căn cứ đưa ra những quyết định trong kinh doanh của mình. Khi thu thập thông tin phục vụ cho công tác nghiên cứu, phân tích về khách hàng, ngân hàng cần chú ý các nội dung sau:
- Tư cách pháp nhân của khách hàng.
Theo luật quy định, một đơn vị có tư cách pháp nhân mới có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế. Đối với các hợp đồng tín dụng cũng vậy, ngân hàng chỉ ký kết với các đơn vị có đủ tư cách pháp nhân. Một đơn vị có tư cách pháp nhân phải được cơ quan có thẩm quyền cấp đầy đủ các giấy tờ sau:
+ Quyết định thành lập.
+ Quyết định tổ chức.
+ Giấy phép kinh doanh.
Quyết định thành lập củ._.a đơn vị cho phép ngân hàng khẳng định được tư cách của đơn vị và hoạt động của doanh nghiệp là phù hợp với luật định. Đây là cơ sở đầu tiên để ngân hàng lựa chọn khách hàng để đầu tư vốn. Doanh nghiệp hoạt động đúng luật định thì vốn ngân hàng bỏ vào sẽ an toàn hơn.
Quyết định tổ chức của đơn vị cho ta biết về người lãnh đạo doanh nghiệp, trình độ kinh tế, kỹ thuật, quản lý của anh ta. Một doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ thì vai trò của người lãnh đạo cũng rất quan trọng. Có thể nói, người lãnh đạo đóng vai trò to lớn trong sự thành bại của đơn vị. Vì vậy, khi đánh giá khách hàng, ngân hàng cần quan tâm, xem xét liệu người lãnh đạo với trình độ chuyên môn va phẩm chất đạo đức như vậy thì có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của mình, đảm bảo khả năng hoàn trả khoản vay đầy đủ, đúng hạn hay không.
Giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp chứng minh doanh nghiệp đang hoạt động theo đúng lĩnh vực mà được pháp luật cho phép. Ngân hàng chỉ cho vay với những đối tượng phục vụ cho quá trình sản xuất theo đúng luật định. Còn nếu khách hàng vay vốn đầu tư cho những mặt hàng không thuộc phạm vi chức năng của mình thì ngân hàng sẽ không cho vay vì rủi ro quá cao và không đúng pháp luật.
- Tình hình sản xuất kinh doanh.
Ngân hàng thực hiện việc phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hai chỉ tiêu là doanh thu và kết quả kinh doanh.
Doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ hàng hoá. Doanh thu của doang nghiệp càng lớn, doanh nghiệp càng có điều kiện tăng thu nhập, mở rộng sản xuất, có điều kiện để trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi phân tích doanh thu của doanh nghiệp, ngân hàng cần xem xét rằng doanh thu tăng lên là do nguyên nhân gì, vì trong một số trường hợp, doanh thu tăng lên chưa chắc đã chứng tỏ rằng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt lên.
Kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, đáng giá toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được tính bằng chênh lệch giữa giá bán và giá thành sản xuất sản phẩm. Kết quả này càng cao chứng tỏ hoạt động của doanh nghiệp càng có hiệu quả, khoản vay đạt được mục tiêu đề ra, khoản vay càng có điều kiện để được hoàn trả đúng hạn.
- Tình hình tài chính.
Trên cơ sở báo cáo tài chính của doanh nghiệp lập tại thời điểm gần nhất, ngân hàng tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp để từ đó có thể đánh giá ảnh hưởng của nó đến mức đọ rủi ro của khoản vay sau này. Phân tích tài chính của doanh nghiệp giúp ngân hàng thấy được doang nghiệp thừa hay thiếu vốn, vốn của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào, khả năng tiềm tàng nằm ở đâu để từ đó có những quyết định đúng đắn đối với khoản tín dụng phát ra. Sử dụng các chỉ tiêu sau:
+ Tỷ số giữa vốn tự có trên vốn sử dụng: Phân tích chỉ tiêu này để hạn chế không cho những doanh nghiệp có tỷ trọng vốn tự có thấp vay.
+ Chênh lệch các khoản phải trả, phải thu: Phân tích chỉ tiêu này để đánh giá ảnh hưởng của nó đến khả năng hoàn trả khoản vay đúng hạn của khách hàng.
+ Khả năng thanh toán của đơn vị: Có ảnh hưởng rất lớn tới mức rủi ro của một khoản vay.Một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt là có đủ khả năng trả các khoản nợ khi đến hạn. Thường các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, có thể tự cân đối các khoản nợ đến hạn và ngược lại một doanh nghiệp có tình hình tài chính tồi thì không thể tự cân đối mà thường kéo dài thời hạn vay hoặc vay nơi này để trả nơi khác gây nợ nần dây dưa và đến một lúc nào đó doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán; cho vay trường hợp này, khoản tín dụng của ngân hàng sẽ gặp rủi ro cao. Các chỉ tiêu để phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngắn hạn vă khă năng thanh toán cuối cùng.
Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá khách hàng ở các mặt đã trình bày ở trên, ngân hàng sẽ xếp laọi khách hàng và có chính sách cho vay phù hợp với từng loại. Tuy nhiên, đánh giá khách hang thôi chưa đủ, ngân hàng vẫn phải tiếp tục đánh giá dự án mà được tài trợ bởi khoản vay của ngân hàng để quyết định có cho vay hay không .
Phân tích dự án vay vốn của khách hàng.
Khi phân tích dự án vay vốn của khách hàng, ngân hàng cần phân tích các yếu tố sau:
- Phân tích tính pháp lý của dự án.
Đây là bước đầu tiên, cần thiết trong công việc phân tích dự án. Một dự án có tính khả thi rất cao nhưng phông đủ tính pháp lý thì chắc chắn ngân hàng không thực hiện khoản cho vay. Một dự án có tính pháp lý phải thoả mãn:
+ Mục đích đầu tư của dự án phải phù hợp mục đích hoạt động của doanh nghiệp mà cơ quan thẩm quyền đã phê duyệt.
+ Dự án phải được phê duyệt bởi cơ quan có thẩm quyền.
- Phân tích tính khả thi của dự án.
Ngân hàng phải xem xét, nghiên cứu điều kiện cần và đủ để cho một dự án được thực thi, đó là: NVL, nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm...
+ Phân tích NVL: NVL trong dự án có thông dụng, dễ kiếm không, từ đâu, có tính ổn định cao không, nguồn cung cấp, giá cả, chất lượng..., tất cả đều có ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tác động đến khả năng trả nợ ngân hàng.
+ Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Sản phẩm của dự án có thị trường tiêu thụ không; khối lượng, chất lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả sản phảm của dự án có phù hợp với thị trường hay không ; nhu cầu hiện tại và tương lai của thị trường đối với sản phẩm. Việc nghiên cứu thị trường rất có ý nghĩa khi đánh giá khả năng thực thi của dự án cũng như khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Phân tích hiệu quả kinh tế do dự án đem lại: Chỉ tiêu này cho biết, để thu được một đồng lợi nhuận, doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Chỉ tiêu này phải đảm bảo lớn hơn mức lãi suất cho vay. Vì vậy, đây là chỉ tiêu quan trọng để ngân hàng quyết định có cho vay hay không.
+ Phân tích giá thành sản phẩm: Phân tích toàn bộ chi phí bỏ ra trong toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, biểu hiện mọi kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, nếu giá thành sản phẩm của dự án thấp so với sản phẩm cùng loại khác thì nghĩa là dự án đã tận dụng một cách có hiệu quả mọi tiềm năng của doanh nghiệp. Đánh giá về gia thành sản phẩm cần xem xéy xem tổng giá thành và các chi phí cấu thành nên gía thành có hợp lý không, chênh lệch giá bán và giá thành có cao không...
+ Phân tích khả năng đáp ứng về vốn cho dự án.
- Phân tích nguồn trả nợ của dự án: Từ đâu, có ổn định, thời điểm khách hàng thu có trùng thời điểm trả nợ ngân hàng không.
Tóm lại, phân tích khách hàng và dự án đã giúp ngân hàng có bức tranh toàn cảnh về tình hình "sức khoẻ" hiện tại của doanh nghiệp, khả năng thực thi, hiệu quả đầu tư có thể đạt được của dự án, để từ đó ra những quyết định cho vay đúng đắn nhất, phòng ngừa nợ quá hạn xảy ra. Đó là việc phòng xa cho nợ khó đòi.
Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng.
- Kiểm tra việc chấp hành kế hoạch dư nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn: Trong quá trình kiểm tra cần đi vào xem xét có phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, những biện pháp để tăng nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế trên địa bàn.
- Kiểm tra hồ sơ cho vay: Cần phải đánh giá chính xác về tính hợp pháp và hợp lệ của hồ sơ xin vay. Đặc biệt là tính pháp lý và tính thực tiễn từ những tài liệu trong hồ sơ như đơn xin vay, phương án sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, hợp đồng mua bán vật tư, bản tính toán hiệu quả vay vốn, hồ sơ đảm bảo nợ vay, giấy phép kinh doanh, giá trị tài sản đảm bảo, tờ trình của cán bộ tín dụng, ý kiến của trưởng phòng và giải quyết cho vay của lãnh đạo.
- Kiểm tra về một số các chỉ tiêu như thời hạn cho vay, gia hạn nợ, mức tín dụng đựơc cấp: Khi kiểm tra thời hạn cho vay, cần xem xét kỹ cơ sở xác định thời hạn cho vay, việc tính toán thời hạn cho vay cụ thể phù hợp với sự luân chuyển vốn của đối tượng vay. Về gia hạn nợ phải đẩm bảo quy trình. Đặc biệt là hướng khắc phục, giải quyết khoản nợ đó sau khi gia hạn. Về mức tín dụng được cấp, cần phải làm rõ cơ sở xác định thông qua việc xem xét nhu cầu vay, khả năng đáp ứng của ngân hàng, giá trị tài sản đảm bảo.
- Kiểm tra về việc bảo quản tài sản đảm bảo: Cần xem xét mối tương quan về mặt giá trị tài sản đảm bảo với số vốn cho vay, việc quyết toán hợp đồng tín dụng, thanh lý tài sản đảm bảo.
- Kiểm soát về an toàn vốn.
Nâng cao chất lượng công tác tín dụng.
Các tổ chức tín dụng khi cho bất cứ doanh nghiệp nào vay thì đều cần phải có thông tin về doanh nghiệp đó. Các thông tin mà cá tổ chức tín dụng cần quan tâm là các hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp, kết quả sản xuất kinh doanh và đặc biệt quan trọng là lịch sử vay vốn của doanh nghiệp để từ đó đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm có chủ trương xây dựng hệ thống tông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng CIC của ngành ngân hàng.
Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của cac ngân hàng.Tuy nhiên, do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin. Việc thu thập và cập nhật các thông tin biến đọng của CIC thực hiện vẫn chưa có nhiều hiệu quả, các số liệu cập nhật chưa kịp thời, độ tin cậy còn thấp khiến cho các ngân hàng thường ít sử dụng.
Một số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạnh trên là: thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cung cấp. Thông tin này thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đày đủ Pháp lệnh về kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời diểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một khách hàng mà có khi còn bí mật thông tin về khách hàng mà mình biết để đảm bảo quyền lợi của riêng mình.Vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho nhân hàng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của doanh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các ngân hàng thương mại Việt Nam còn cao. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sáchvà biện pháp tích cực để sớm nâng cao chất lượng công tác tín dụng phục vụ cho hoạt động cho vay của các ngân hàng. Cần bắt buộc các ngân hàng và các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt dộng hệ thống CIC coi như là quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Phân tích khả năng mở rộng hay thu hẹp tín dụng từng thời kỳ.
Mỗi thời kỳ, đất nước có thực trạng kinh tế - xã hội khác nhau.Với mỗi thực trạng lại có mức độ cần thiết đến vốn tín dụng với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Ngân hàng cần nắm được thực trạng đó để quết định xem quy mô tín dụng mà nền kinh tế đang cần và dự báo về sự biến đổi quy mô đó để từ đó ra quyết định mở rộng hay thu hẹp tín dụng sao cho phù hợp.
Tất cả các biện pháp đã trình bày ở trên có tác dụng to lớn trong việc phòng ngừa, không cho nợ quá hạn, khó đòi xảy ra. Tuy nhiên, thực tế muôn hình muôn vẻ, ngân hàng đã phòng ngừa rất tốt nhưng nợ khó đòi vẫn xảy ra. Và rất ít ngân hàng tránh được rủi ro này. Ta phải làm gì để xử lý, thu hồi vốn trong trường hợp này, đó là mục đích của phần trình bày tiếp ngay sau đây.
Biện pháp xử lý nợ khó đòi - xử lý nợ khó đòi có tài sản đảm bảo.
Như chúng ta đã biết, phần lớn các khoản vay được đảm bảo bởi một tài sản nào đó ngang giá trị gọi là tài sản đảm bảo. Một số khoản vay khác được đảm bảo bằng việc bảo lãnh bằng uy tín của ai đó hoặc bằng hình thức tín chấp. Trường hợp này thường ít xảy ra nợ khó đòi, do vậy, chủ yếu ta bàn về các khoản nợ khó đòi có tài sản đảm bảo. Vì thế, xử lý nợ khó đòi chính là xử lý tài sản đảm bảo mà đặc biệt là các tài sản thế chấp. Muốn xử lý tài sản đảm bảo một cách có hiệu quả, ta cần hiểu thật rõ về vấn đề này.
Tài sản đảm bảo là gì?
Tài sản đảm bảo là tài sản được người đi vay dùng để đảm bảo cho khoản vay của mình tại ngân hàng, bằng cách thoả thuận rằng, nếu mà khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ có quyền xử lý tài sản đó để thu hồi vốn và lãi tiền vay.
Như vậy, muốn làm vật đảm bảo, trước hết, khách hàng phải có quyền sở hữu tài sản đó. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể là cá nhân, pháp nhân hay các chủ thể khác. Và, khách hàng phải chứng minh được quyền sở hữu của mình bằng các giấy tờ sở hữu hợp pháp. Nhưng không phải bất cứ tài sản nào cũng được đem đi làm tài sản đảm bảo mà phải bao gồm các điều kiện sau đây:
- Được pháp luật cho phép mua bán, chuyển nhượng hợp pháp trên thị trường. Gía cả tương đối ổn định, thời gian sử dụng còn lại pải phù hợp thời hạn thế chấp.
- Phải phát mại được.
- Phải được bảo hiểm nếu pháp luật quy dịnh.
Việc đảm bảo như là một công cụ để chuyển về mặt pháp lý quyền sở hữu tài sản cho người nhận đảm bảo, làm vật đảm bảo cho khoản nợ. Nếu khoản nợ được trả theo thoả thuận (kể cả quá hạn) thì cam kết đảm bảo sẽ hết hiệu lực. Khi khoản vay không được thanh toán và người vay không thực hiện nghiã vụ trả nợ của mình thì trong một số trường hợp, nếu ngân hàng và khách hàng khâng tự giải quyết thì toà án sẽ can thiệp và xử lý theo pháp luật.
Ngoài ra, người đi vay phải có trách nhiệm giữ tài sản đảm bảo trong tình trạng tốt, không sử dụng nó cho mục đích phi pháp, không thay đổi hay làm giảm giá trị của nó và chịu mọi chi phí liên quan đến bảo quản, phát mại, đánh giá, địng giá trong trường hợp khoản vay phải xử lý bằng tài sản đảm bảo.
Vai trò của tài sản đảm bảo.
- Tài sản đảm bảo đảm bảo rằng sẽ có một nguồn khác nữa để trả cho ngân hàng một khi bên vay mất khả năng trả nợ.
- Khách hàng trao cho ngân hàng tài sản đảm bảo thì trao cho ngân hàng quyền trở thành chủ nợ ưu tiên, tức là ưu tiên đối với vật đảm bảo và giá trị của nó. Do vậy, tài sản đảm bảo làm giảm rủi ro tín dụng và tạo tâm lý an tâm cho ngân hàng.
Tuy nhiên, không vì thế mà ngân hàng chủ quan, quá tin tưởng vào tài sản đảm bảo .
Các hình thức đảm bảo.
- Căn cứ vào tính chất của tài sản (hai loại):
+ Đảm bảo toàn bộ tài sản tức là tất cả tài sản, kể cả vật phụ, đều thuộc vào tài sản đảm bảo.
+ Đảm bảo một phần tài sản: tuỳ theo thoả thuận.
- Căn cứ vào nội dung pháp lý (hai loại):
+ Đảm bảo pháp lý: Khách hàng vay vốn chuyển quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng. Khi cần, ngân hàng có quyền bán tài sản.
+ Đảm bảo công bằng: Ngân hàng chỉ nắm giữ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữư làm đảm bảo mà không nắm quyền sở hữu. Cho nên, ngân hàng không thể tự ý thanh lý hki cần mà phải nhờ đến toà án. đây là trường hợp hay gặp trong thực tế.
- Căn cứ vào số lần đảm bảo (hai loại):
+ Đảm bảo thứ nhất: Không phải lần đầu tiên đem đi đảm bảo mà là đảm bảo cho món nợ thứ nhất.
+ Đảm bảo thứ hai: Dùng chênh lệch giữa giá trị tài sản và giá trị món nợ thứ nhất để làm đảm bảo cho món nợ thư hai.
Quy trình cho vay có đảm bảo rong tín dụng ngân hàng.
- Định giá tài sản đảm bảo: Sau khi tất cả các điều kiện vay vốn đã đầy đủ, phù hợp, nhân viên tín dụng bắt đầu tiến hành giám định về hồ sơ của tài sản và định giá tài sản đảm bảo.
+ Xem xét sự đúng đắn về quyền sở hữu của khách hàng với tài sản đảm bảo, tài sản đó có được đem đi để đảm bảo cho một khoản vay hay không. Ngoài ra, ngân hàng phải xem xem tài sản đó có bán được hay không.
+ Định giá tài sản đảm bảo: Phải sát với thị trường. Bởi vì, nếu định giá cao hơn giá thị trường thì có nguy cơ không thu hòi đủ vốn và lãi và các chi phí khác. Còn nếu định giá thấp hơn giá thị trường thì thiệt thòi cho khách hàng và từ đó ảnh hưởng không tốt đến đến việc cạnh tranh, thu hút khách hàng.
+ Bố trí nhân sự trong việc định giá tài sản: Đây là một vấn đề phức tạp, cần phải được chuyên môn hoá. Đối với những tài sản có giá trị lớn, thì cần thiết phải nhờ tới các công ty chuyên về định giá tài sản.
- Xác định mức cho vay dựa vào tài sản đảm bảo: Tuỳ thuộc vào sự biến động giá cả tài sản đảm bảo trên thị trường mà xác định mức cho vay sao cho hợp lý (khoảng 50% - 80%giá trị tài sản đảm bảo).
- Ký kết hợp đồng và quản lý tài sản đảm bảo.
Sau khi đã thỏa thuận mức cho vay, các điều kiện tín dụng, khách hàng phải lập giấy đảm bảo tài sản, đồng thời chuyển giao giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng. Tuy nhiên, tuỳ theo loại đảm bảo và quy định cụ thể của pháp luật mà làm thủ tục hành chính cho thích hợp. Theo quy định của pháp luật hiện hành, giấy đảm bảo tài sản nhất thiết phải có xác nhận của có quan công chứng Nhà nước.
Sau khi khách hàng đã thanh toán nợ, cả vốn gốc và lãi thì ngân hàng lập hồ sơ để giải toả tài sản đảm bảo. Giấy đề nghị giải quyết tài sản đảm bảo phải chuyển đến cơ quan thích hợp (cơ quan công chứng Nhà nước, cơ quan quản lý tài sản). Và ngân hàng trả lại giấy tơ sở hữu tài sản cho khách hàng. Còn nếu khách hàngkhông thanh toán được nợ thì chúng ta phải xét tới các nội dung sau đây:
Thời điểm phát sinh việc xử lý tài sản đảm bảo.
Như chúng ta đã biết, xử ly tài sản đảm bảo là biện pháp quan trọng để thu hồi nợ khó để thu hồi nợ kho đòi.Tuy nhiên, khi nào thì phát sinh việc xử lý?. Không phải là, khi phát sinh nợ khó đòi đơn thuần là quá hạn quá một năm thì ngân hàng lập tức xử lý tài sản đảm bảo, mà ngân hàng vẫn tiếp tục xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và cho gia hạn thêm nếu xét thấy khách hàng vẫn còn khả năng thanh toán. Bởi vì ngân hàng rõ ràng mục đích không phải là bắt nợ khách hàng mà luôn cố gắng hết sức để giúp khách hàng trả nợ. Như vậy, ở một số trường hợp, ngân hàng có thể cấp thêm vốn cho khách hàng để tiếp tục sản xuất kinh doanh nếu dự án còn khả thi và nguyên nhân không trả được nợ là do khách hàng thiếu vốn kinh doanh. Nhưng nếu giải pháp này gặp trở ngại là do sự tranh chấp giữa các chủ nợ của người vay thì ngân hàng phải nhanh chóng xiết nợ để xác định quyền sở hữu và quyền định đoạt của mình đôí với tài sản đảm bảo để tránh sự cố xấu xảy ra. Tuy nhiên, ngân hàng không nên phát mại ngay mà nên cho đơn vị đó thuê lại với điều kiện phải trả nợ ngân hàng trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Khi mà khách hàng thực sự không trả được nợ do dự án hết hi vọng phát đạt thì ngân hàng mới bắt đầu việc phát mại - xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi vốn.
Phương thức xử lý.
- Đối với tài sản thông thường: Ngân hàng có thể có các phương pháp như yêu cầu bán đấu giá tài sản đảm bảo.
Với những tài sản có giá trị nhỏ, ngân hàng có thể trực tiếp quản lý.Khi đó, ngân hàng quyết định đứng ra phát mại để xử lý tài sản đó. Ngân hàng được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán được, sau khi trừ đi chi phí bảo quản và các chi phí khác.
Với những tài sản có giá tri lớn, theo quy định của pháp luật, sẽ do cơ quan trung gian đứng ra xử lý, khi đó ngân hàng làm đơn lên cơ quan xử lý trên để đòi xử lý bồi thường. Ngoài ra, ngân hàng có thể áp dụng các hình thức khác nhau như: Để bên đảm bảo tự đứng ra bán tài sản, hai bên cùng bán tài sản, uỷ quyền cho tổ chức tín dụng khác đứng ra thực hiện...
- Đối với tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất: Khi đên hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ, khách hàng không trả được nợ mà ngân hàng buộc pải xử lý thì quyền sử dụng đất sẽ được xử lý bằng cách đem bán.
- Chấm dứt việc đảm bảo bằng tài sản đảm bảo: Khi mà nghĩa vụ được đảm bảo bằng tài sản đảm bảo đã được thực hiện, việc việc đảm bảo được huỷ bỏ hay được thay thế băng biện pháp đảm bảo khác hoặc trường hợp tài sản đảm bảo đã được xử lý. Khi việc đảm bảo này kết thúc, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhân việc giải trừ đảm bảo.
Quan điểm về xử lý tài sản đảm bảo.
- Các giải pháp cần có tính dân chủ và xã hội hoá cao; cần có sự thống nhất từ luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện; cần thu hút được sự hợp tác có trách nhiệm cao của các cơ quan pháp luật, sự thống nhất, quyết tâm của các doanh nghiệp, các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các nhóm khách hàng cũng như của nhân dân. Bỏ quan niệm cục bộ, thiếu trách nhiệm, các giải pháp phải củng cố, tăng cường lòng tin của quần chúng đối với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
- Các giải pháp cần được xác định phạm vi, mục tiêu lâu dài để áp dụng và động viên, thu hút sự tham gia xử lý ở phạm vi rộng.
- Các giải pháp phải mang tính đa dạng, có khả năng kết nối liên hoàn, tôn trọng quyền lựa chọn của các bên và xử lý được nhiều tình huống.
- Các giải pháp phải mang tính tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, đặc biệt là của Ngân hàng Nhà nước, quy định các điều kiện đảm bảo an toàn và ổn định toàn hệ thống; khung giám sát và luật lệ cần được củng cố lại, giảm dần công cụ quản lý trực tiếp thay bằng các công cụ gián tiếp theo tiến trình phát triển năng lực, uy tín của các đảm bảo tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ khó đòi.
- Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng:
+ Chất lượng nhân sự: Nhân sự, ở đâu, lúc nào cũng là điều quan trọng, quyết định sự thành bại của công việc. Như vậy chất lượng cán bộ tín dụng là điều đầu tiên mà ngân hàng phải nghĩ đến nếu muốn công tác tín dụng nói chung, việc xử lý tài sản đảm bảo nói riêng có kết quả tốt thì đội ngũ cán bộ phải có kinh nghiệm, có trình độ, có kiến thức thực tế để giúp cho việc thẩm định dự án đàu tư có hiệu quả tránh việc thẩm định sai dẫn đén phải phát mại tài sản để thu hồi nợ; có khả năng chuyên sâu trong từng lĩnh vực của nền kinh tế, phân tích được tình hình biến động của thị trường sẽ giúp giúp việc định gía tài sản đảm bảo được đúng, tránh việc không thể thu được đủ vốn (do định giá cao) hoặc thiệt thòi cho khách hàng (do định giá thấp); có đạo đức tốt, trong sáng, nhiệt tình trong công việc sẽ tránh được tình trạng cấu kết với khách hàng để lừa đảo ngân hàng thông qua việc nhận tài sản thế chấp không có gía trị hoặc giá trị thấp khiến cho việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn...
+ Công tác quản lý, tổ chức kiểm soát hoạt động ngân hàng: Công tác quản lý, tổ chức được tiến hành chặt chẽ, có trình tự và thường xuyên sẽ khuyến khích các hoạt động thẩm định được diễn ra lành mạnh, ngược lại, sẽ tạo khe hở cho một số cán bộ tín dụng lợi dụng gây thiệt hại cho ngân hàng gây thiệt hại cho ngân hàng. Công tác tổ chức, kiểm soát tốt sẽ giúp cho ngân hàng nắm rõ được thông tin về các khoản vay, thực trạng về tài sản đảm bảo, tránh tình trạng khách hàng sử dụng tài sản đảm bảo sai mục đích.
- Các nhân tố thuộc về phía khách hàng.
+ Đạo đức khách hàng: đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nếu việc phát mại tài sản đảm bảo được khách hàng hợp tác để đưa ra biện pháp xử lý phù hợp quy định thì việc này sẽ diễn ra thuận lợi. Nhưng khi mà khách hàng gây khó dễ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong công tác xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ khó đòi. Có rất nhiều vấn đề đạo đức khách hàng như: lợi dụng các kẽ hở, các mâu thuẫn của luật, của các quy định khác đẻ cố tình chây ỳ; lừa đảo ngân hàng...
+ Tài sản đảm bảo của khách hàng: Nếu tài sản đảm bảo còn trong tình trạng tốt, có thể dễ dàng bán được trên thị trường thì việc xử lý nó thật là dễ dàng bằng những thao tác nghiệp vụ cơ bản. Nhưng nếu mà tài sản đảm bảo lại là những sản phẩm không đồng bộ, xuống giá nghiêm trọng thì nếu thanh lý có được đi chăng nữa thì cũng đủ để bù đắp của nguồn vốn vay nhất là các tài sản đảm bảo được hình thành từ chính nguồn vốn vay ngân hàng đó, thậm chí không thể thanh lý được dẫn đến việc không thể thu hồi được nợ dù chỉ một xu. Như vậy, tình trạng tài sản đảm bảo có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác thu hồi nợ khó đòi của ngân hàng.
- Các yếu tố khác: Ngoài các yếu tố thuộc về ngân hàng và khách hàng như trên, còn có các yếu tố khách quan khác cũng ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo.
+ Yếu tố thuộc về môi trường kinh tế: Các yếu tố này dù cho thay đổi theo hướng nào cũng có tác động đến hoạt động của ngân hàng nói chung, đến việc xử lý tài sản đảm bảo nói riêng. Các chính sách kinh tế của Nhà nước, việc phát triển kinh tế theo từng lĩnh vực, khuyến khích việc mở rộng các ngành nghề kinh tế, cơ chế, chính sách kinh tế trong từng thời kỳ...tất cả đều có mức độ ảnh hưởng nhất định. Ngoài ra, các vấn đề như thị hiếu, nhu cầu của dân chúng (xuất phát từ kinh tế) sẽ tác động đến thị trường tài sản đảm bảo như thị trường bất động sản, thị trường đất đai, thị trường máy móc, thiết bị...sẽ tác động đến việc phát mãi tài sản của ngân hàng được thuận lợi hay khó khăn.
+ Yếu tố thuộc về môi trường chính trị: Môi trường chính trị ổn định hay không ổn định sẽ khiến các doanh nghiệp mạnh dạn hay không mạnh dạn trong đầu tư, nâng cao hay giảm sút hiệu quả kinh doanh, trả được nợ hay không trả được nợ ngân hàng khiến ngân hàng không phải xử lý hay buộc phải xử lý tài sản đảm bảo; sẽ tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho việc ban hành các văn bản pháp luật, tạo điều kiện cho việc xử lý tài sản đảm bảo dễ dàng hay khó khăn.
Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý ổn định hay không ổn định sẽ thuận tiện hay không thuận tiện cho việc kinh doanh. Các văn bản pháp luật, các quy định về đảm bảo, công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo. Các quy trình và thủ tục xử lý tài sản đảm bảo đơn giản sẽ giúp các ngân hàng rất nhiều trong việc phát mãi tài sản đảm bảo, tránh được các chi phí phát sinh và việc kéo dài thời gian thực hiện.
CHƯƠNG II:
THựC TrạNG Nợ KHó ĐòI Và VIệC HạN CHế Nợ KHó ĐòI TạI Sở GIAO DICH I - NGÂN HàNG CÔNG THƯƠNG VIệT NAM
Khái quát về Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam (SGD I - NHCTVN).
Lịch sử hình thành và phát triển của SGD I - NHCTVN.
- Từ 1988 Trở về trước là Ngân hàng Hoàn Kiếm.
- Từ 1988 đến nay có thể phân thành ba giai đoạn chủ yếu:
+ Giai đoạn 1: Từ 1988 - 1/4/1993, là Ngân hàng công thương Hà Nội. Giai đoạn này, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, kinh doanh đối nội là chủ yếu, kinh doanh đối ngoại chưa pát triển. Đội ngũ cán bộ được đào tạo theo cơ chế cũ, đông về số lượng, song yếu về chất lượng, nhất là kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Quy mô hoạt động còn khiêm tốn: tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/93 đạt 522 tỷ VND, tổng dư nợ đạt 323 tỷ VND.
+ Giai đoạn 2: Từ 1/4/93 - 31/12/98, được sát nhập với Ngân hàng Công thương Trung ương và có tên gọi là Hội sở NHCT Việt Nam. Giai đoạn này, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường; sản phẩm dịch vụ ngân hàng khá phong phú, ngoài cho vay ngắn hạn, trung dài hạn, còn có nhiều loại cho vay mới được ra đời như cho vay tài trợ uỷ thác, cho vay thanh toán công nợ, đồng tài trợ, trrả thay bảo lãnh…; kinh doanh đối ngoại có điều kiện phát triển mạnh; đội ngũ cán bộ được đào tạo lại và thích ứng dần với hoạt động kinh doanh trong có chế mới.
+ Giai đoạn 3: Từ 1/1/99 đến nay, Hội sở NHCT Việt Nam được tách ra theo quyết định số134/QĐHĐT-NHCTVN và mang tên SGD I - NHCTVN, đơn vị hạch toán phụ thuộc vào NHCTVN (VIET IN COMBANK), có trụ sở đóng tại số 10 Lê Lai - Hà Nội.
Là đại diện theo uỷ quyền của NHCTVN, SGD I có quyền tự chủ kinh doanh theo các nhiệm vụ được NHCTVN giao, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCTVN. Bên cạnh việc thực hiện đầy đủ chức năng của một chi nhánh, SGD I có đủ tư cách hoạt động như một ngân hàng thương mại, là đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong thanh toán ngoại tệ theo uỷ quyền của NHCTVN, là nơi thử nghiệm và thực hiện các cơ chế chính sách, hệ thống công nghệ ngân hàng mới để rút kinh nghiệm để chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống. Khách hàng chính của Sở là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch và các khách hàng là các cá nhân khác.
Ngày nay, SGD I - NHCTVN có hoạt động kinh doanh phát triển mạnh, đông đều trên tất cả các mặt nghiệp vụ, đặc biệt Sở đã áp dụng giao dịch tức thời trên máy tính tại tất cả các điểm huy động vốn. Không ngừng mở rộng mạng lưới kinh doanh, phát triển các loại hình dich vụ mới - năm 2001, Sở đã tổ chức cho phòng giao dịch số 1 và tổ nghiệp vụ ảo hiểm đi vào hoạt động. Đến cuối năm 2001, nguồn vốn huy động tang 275 lần, chiếm 20% tổng vốn huy động của toàn hệ thốn ngân hàng Công thương, và dư nợ cho vay tăng 40 lần so với 1998.
Vai trò của SGD I - NHCTVN.
- Nhận tiền gửi tiêt kiệm, tiền gửi thanh toán cuă các tổ chức kinh tế, dân cư trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại tệ.
- Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các hình thức huy động vốn khác phục vụ quá trình phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Cho vay ngắn, trung, dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối với các tỏ chức kinh tế, các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế tín dụng của Ngân hàng Nhà Nước và quy định của NHCTVN.
- Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá khác.
- Thực hiện thanh toán quốc tế như: thanh toán nhờ thu, thanh toán L/C, bảo lãnh thanh toán, kinh doanh ngoại tệ.
- Thực hiện các dịch vụ ngân hàng như: thanh toán, chuyển tiền trong và ngoài nước, chi trả kiều hối…
- Thực hiền chế độ an toàn kho quỹ; bảo quản tiền mặt, ngân phiếu thanh toán và các ấn chỉ quan trọng; đảm bảo chi trả tiền mặt, ngân phiếu thanh toán một cách chính xác, kịp thời.
- Thực hiện các nghiệp vụ tư vấn về tiền tệ, quản lý tiền vốn, các dự án đầu tư phát triển theo yêu cầu của khách hàng.
- Theo dõi, kiểm tra kho ấn chỉ của NHCTVN, đảm bảo xuất kho ấn chỉ quan trọng cho các chi nhánh NHCT phía Bắc.
- Thực hiện một số các nghiịep vụ khác do NHCTVN giao.
Cơ cấu tổ chức của SGD-NHCTVN.
Ban lãnh đạo gồm một giám đốc và ba phó giám đốc.
- Có 9 phòng nghiệp vụ.
- Có một phòng giao dịch.
- Có một tổ nghiệp vụ bảo hiểm - đây là sản phẩm mới của Sở và đã đi vào hoạt động từ tháng 5/2001.
- Tổng số cán bộ của Sở là 260 người.
Phòng cân đối tổng hợp.
- Với 41 cán bộ trong đó có một truởng phòng, 2 phó phòng, 6 trưởng quỹ tiết kiệm phụ trách hai mảng là nguồn vốn và cân đối tổng hợp.
- Như vậy, phòng thực hiện hai nhiệm vụ chủ yêú:
+ Cân đối tổng hợp nguồn vốn kinh doanh, lập các báo cá._.ở hữu, tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản”. Nhưng thực tế, các ngân hàng lại chưa nắm được danh mục các tài sản theo quy định phải đăng ký quyền sở hữu và cơ quan chức năng cấp chứng nhận quyền sở hữu đó. Điều này khiến một số cơ quan chức năng khi sở đến đăng ký đã không nhận làm mà lý do là chưa được cơ quan cấp trên hướng dẫn.
-Luật các tổ chức tín dụng mục 2, khoản 2, điều 54 quy đinh : “Bán tài sản cầm cố để thu nợ, chuyển nhượng, bán tài sản thế chấp để thu hồi vốn trong một thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật. Như vậy luật quy định không rõ ràng. Ta hiểu rằng thu hồinợ bằng thu hồi vốn và lãi. Nhưng quy định như trên sẽ dẫn đến việc người vay viện luật mà chỉ trả vốn, không trả lãi.
-Bộ luật dân sự quy định sự khác nhau giữa đảm bào và cầm cố là tài sản dùng làm đảm bảo thực hiện hợp đồng là bất động sản hay động sản. Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/90 của hội đồng bộ trưởng lại quy định sự khác nhau đó là do ai nắm giữ tài sản đó, chủ nợ nắm giữ là cầm cố còn bên nợ nắmgiữ là tài sản đảm bảo.
Trên đây là thực trạng về sở GDI-NHCTVN, thực trạng nợ khó đòi, nợ quá hạn tại sở và những vướng mắc và hạn chế chung khiến cho sở còn nhiều bất cập trong công tác nợ khó đòi. Cần tìm ra những giải pháp tốt để giúp sở đạt kết quả tốt trong công tác hạn chế nợ khó đòi nói riêng và thực hiện “an toàn, phát triển, hiệu quả” theo đúng định hướng Ngân hàng công thương Việt Nam đã đặt ra- nói chung. Đó chính là nội dung chương III sau đây :
Chương III
Giải pháp hạn chế nợ khó đòi tại SGDI-NHCTVN.
Việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi nợ khó đòi tại Sở GDI-NHCTVN nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung đang có rất nhiều khó khăn. Không phải mãi tận bây giờ, ngành ngân hàng mới đặt ra nhiệm vụ là phải tập trung xử lý nợ khó đòi mà thời gian qua, ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã quan tâm rất nhiều đến việc này. Sở GDI-NHCTVN đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể cho mục tiêu giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3,2% năm 2002 nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, củng cố hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, đã thu được một kết quả nhất định, nhưng vẫn còn chưa đạt yêu cầu. Trong thời gian thực tập tại SGDI-NHCTVN, sau khi đã tìm hiểu thực trạng, em mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình, em mong rằng các ý kiến đó sẽ mang tính xây dựng, góp một phần vào đó giúp SGDI-NHCTVN nói riêng và ngân hàng thương mại nói chung trong việc hạn chế việc nợ khó đòi.
Định hướng của SGDI-NHCTVN về hạn chế nợ khó đòi.
Ngân hàng công thương Việt Nam là một trong những ngân hàng thưng mại lớn, ngân hàng thương mại quốc doanh, hoạt động của ngân hàng có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Là một chi nhánh của Ngân hàng công thương Việt Nam, SGDI phải thực hiện theo các phương hướng và nhiệm vụ mà Ngân hàng công thương Việt Nam giao cho. Vì thế trách nhiệm của sở trong thời gian tới là phải đảm bảo vốn cho nền kinh tế, cho đầu tư phát triển cho xuất khẩu, cho phát triển nông nghiệp nông thôn; phải mạnh dạn huy động vốn, nhất là vốn chung, dài hạn; cải tiến thủ tục, gắn việc cho vay vào phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả; mở rộng thêm hình thức cho vay hợp vốn để có doanh nghiệp vay được vốn phát triển sản xuất kinh doanh
-Sở giáo dục I tập trung kiện toàn lại toàn bộ công tác cho vay, chú trọng vào khâu thẩm định dự án đánh giá khách hàng cho thật chính xác; rút kinh nghiệm cho dự án vay vốn Đài Loan để ngăn ngừa, cho nợ quá hạn xảy ra ở mức độ thấp nhất.
-Sở tập trung giải quyết nợ quá hạn bằng mọi biện pháp, tích cực thu hồi nợ quá hạn để tránh trường hợp xảy ra trường hợp nợ khó đòi. Đối với nợ quá hạn có tài sản đảm bảo, có đầy đủ giấy tờ hợp pháp do ngân hàng gửi thì có thể xử lý bằng bán, cho thuê hoặc chuyển cho các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh nhận tài sản trả nợ dần. Đối với tài sản đảm bảo chưa đủ giấy tờ hợp pháp thì làm việc với các cơ quan chức năng để nhanh chóng hoàn thành thủ tục pháp lý, trình lên ngân hàng nhà nước xin ý kiến để xử lý tài sản đảm bảo đó. Đối với nợ quá hạn do yếu tố khách quan, được đồng ý cho giảm nợ thì xin ý kiến chỉ đạo của ngân hàng nhà nước về nguồn bù đắp để giải quyết.
-Trong quá trình xử lý tài sản đảm bảo, Sở vừa thực hiện theo các quy định của Ngân hàng công thương Việt Nam vừa áp dụng một cách thích hợp các giải pháp của mình cho phù hợp từng khoản cho vay, từng đối tượng.
-Thực hiện xử lý tài sản đảm bảo theo các văn bản do chính phủ đã ban hành. Nghị định số 165/199/NĐ-CP về giao dịch đảm bảo, NĐ 178 về bảo đảm tiền vay về tổ chức tín dụng trong nước và NĐ 08/2000/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm.
-Phấn đấu 2002 giải quyết được nợ khó đòi từ nguồn vốn vay Đài Loan, giảm tỷ trọng nợ quá hạn xuống còn 3,2%
Giải pháp của Sở giáo dục I- Ngân hàng công thương Việt Nam về hạn chế nợ khó đòi.
Nâng cao trình độ cán bộ nhất là trong công tác xử lý tài sản đảm bảo
-Thực hiện các lớp tập huấn, các c uộc hội thảo về kinh nghiệm đối phó với khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và cách xử lý nợ khó đòi giữa các ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam và ngân hàng nước ngoài, để từ đó học hỏi tiếp thu một cách có chọn lọc những kinh nghiệm để áp dụng vào thực tế tại Sở.
-Sở giáo dục I- Ngân hàng công thương Việt Nam thực hiện bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, khả năng nắm bắt và hiểu biết về pháp luật, cơ chế, chính sách, văn bản có liên quan cho đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng để họ có đủ khả năng phòng ngừa và hạn chế hiệu quả nợ quá hạn, nợ khó đòi.
-Sở sắp xếp đội ngũ cán bộ một cách chuyên môn hoá để họ nắm bắt được tình hình thị trường, hiểu sâu, hiểu rõ hơn về công việc mình làm tạo điều kiện hạn chế sự xảy ra của nợ quá hạn cũng như làm công tác xử lý nợ khó đòi cho tốt.
Cần phân tích đánh giá khách hàng cũng như dự án
Dự án mà sẽ được đầu tư bằng khoản tín dụng do Sở cấp một cách chính xác; xem khách hàng là người có đáng tin cậy hay không, dự án có thực sự có hiệu quả hay không. Phải chú ý đến hiệu quả dự án hơn là chú ý đến tài sản đảm bảo.
Cần một khung giá giao động hợp lý
Giúp định giá tài sản đảm bảo tránh định giá cao quá gây thiệt hại khi xử lý hay thấp quá làm thiệt thòi cho khách hàng.
Sở cần đưa ra một niên độ giao động thích hợp về giá để áp dụng cho việc định giá tài sản đảm bảo giúp cho cán bộ ngân hàng được linh hoạt trong quá trình xét duyệt cho vay. Hiện tại, để định giá tài sản trong việc xét duyệt cho vay, Sở đang áp dụng một khung giá chưa có độ giao động hợp lý làm cho nhiều khi giá trị tài sản tại thời điểm định giá khác xa so với lúc phát mại đặc biệt là các tài sản có sự biến động lớn như nhà đất, công trình… vì thế, khiến Sở gặp nhiều khó khăn khi phải phát mại tài sản để thu hồi nợ. Việc đưa ra biên độ giao động giá sẽ khác nhau đối với mỗi loại tài sản, tuỳ thuộc vào sự nhạy cảm của giá tài sản với thị trường, nhiều hay ít để đưa ra biên độ giao động là lớn hay nhỏ. Một biên độ giá như vậy sẽ giúp cho giá trị định giá của các tài sản không quá cao và cũng không quá thấp so với giá thị trường tại thời điểm định giá cũng như thời điểm phát mãi, giảm bớt rủi ro không thu hồi đủ vốn cho Sở.
Sở chú trọng hơn nữa đến công ty mua bán được do chính Sở thành lập
Theo luật các tổ chức tín dụng (01/10/98), các ngân hàng không trực tiếp kinh doanh bất động sản. Nhưng thực tế, những tài sản đảm bảo hoặc những tài sản có được do thu nợ, siết nợ, gán nợ…rất cần được khai thác vì chúng có thể được khai thác cho thuê, bán lại hoặc liên doanh liên kết; nhất là những bất động sản có giá trị lớn như máy móc, thiết bị, người mua đứt cả không phải là dễ. Muốn giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả, phải cần đến công ty mua bán nợ (trực thuộc Sở) mà hoạt động của nó giúp Sở đẩy nhanh quá trình khai thác, giải quyết các tài sản đảm bảo để thu hồi vốn, giúp cho việc làm lành mạnh hoá dư nợ tín dụng của Sở bằng cách đứng ra mua lại các tài sản đảm bảo và thực hiện các phương án khai thác sao có hiệu quả nhất, trên cơ sở nhất, Sở sẽ cấp khoản tín dụng mới, tạo nguồn, tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục.
*Chú ý đến cách tổ chức công ty
-Vốn hoạt động: Xuất phát từ chức năng của công ty là khai thác các bất động sản, tài sản mà Sở nắm giữ thông qua siết nợ, gán nợ, mua được bằng phát mãi, khách hàng giao để trừ nợ… nên nhu cầu vốn của công ty là phục vụ côngtác quản lý và kinh doanh tiếp thị. Lượng vốn này do Sở cung cấp.
-Tổ chức cán bộ: các thành viên chủ chốt của công ty nhất là Ban giám đốc là cán bộ của Sở, được Sở cử và làm việc theo chế độ chuyên trách. Nhân viên khác tuyển từ bên ngoài.
-Quan hệ giữa Sở và công ty: Trên cơ sở hợp đồng liên doanh liên kết. Ngân hàng góp tài sản, công ty chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng và khai thác.
-Nguồn thu của công ty: Nguồn thu chính chủ yếu của công ty là việc bán tài sản, cho thuê từ việc được chia do đem tài sản đi liên doanh liên kết khai thác. Nguồn thu này sẽ được chia cho Sở một tỷ lệ nào đó đã thoả thuận để vừađảm bảo cho Sở thu hồi vốn vừa trang trải chi phí hoạt động của công ty .
-Về thuế: Công ty kinh doanh không vì lợi nhuận nên sẽ được miễn VAT và đượcgiảm thuế thu nhập doanh nghiệp.
Cần một chế độ tài chính phù hợp để giải quyết các chi phí phát sinh trong công tác cho vay có đảm bảo nhất là đảm bảo bằng tài sản đảm bảo
Chi phí này gồm rất nhiều khoản: Ngoài chi phí thẩm định, đánh giá do khách hàng chịu còn các chi phí cho cán bộ quản lý tài sản đó, chi phí phát sinh khi xử lý tài sản nếu phải nhờ đến toà án…Sở hiện tại chưa thực sự có quy định rõ ràng về hạch toán chi phí này. Thời gian tới, Sở cần giải quyết tốt vấn đề này tạo điều kiện cho việc xử lý tài sản đảm bảo đúng quy định, tránh khó khăn cho cán bộ làm công tác thu nợ khi phải xử lý tài sản đảm bảo.
Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng nhất là trách nhiệm đối với tài sản đảm bảo mà anh ta quản lý.
Nếu khoản vay gặp phải sự cố chủ quan gây ra như định giá tài sản đảm bảo không đúng giá trị thực tế, tài sản đảm bảo không đủ “Tư cách” hoặc khoản vay vượt quá tỷ lệ quy định tính trên giá trị tài sản đảm bảo thì trước hết phải quy trách nhiệm cho cán bộ thực hiện công việc này. Còn nếu gặp phải sự cố khách quan, sở nên hạch toán vào kết quả kinh doanh, và coi đó là rủi ro trong kinh doanh tín dụng.
Lựa chọn tài sản phù hợp hơn nữa đối với từng hình thức đảm bảo cụ thể.
Với loại tài sản có gía trị lâu dài tức là không bị mất giá do thời gian, với các loại tài sản ít mất giá trị sử dụng như đất đai, nhà cửa Giấy tờ có giá thì khi cho vay nên làm giấy chuyển giao giấy tờ về Quyền sở hữu hay quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng. Khi mà người vay không trả được nợ thì đương nhiên tài sản là của Sở mà không cần phải phát mại tài sản để thu hồi nợ. Cách này áp dụng cho các tài sản có giá trị ngang giá trị tiền vay cộng với lãi. Ưu điểm rõ rệt nhất của nó là tránh được thủ tục phiền hà trong việc phát mãi tài sản đảm bảo và sự liên két trách nhiệm với hành vi của con nợ khi anh ta có hành vi gây ra trách nhiệm dân sự hoặc hình sự.
Với tài sản có giá trị hao mòn theo thời gian, khó tiêu thụ như máy móc,thiết bị lại phải khác. Để đảm bảo cần thiết phải đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo mà mức độ thường xuyên của nó phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể để đối phó kịp thời khi có dấu hiệu khả nghi xuất hiện vào thời điểm trả nợ, khách hàng không trả nợ được, sở sẽ giải quyết bằng cách phát mãi tài sản đảm bảo, nếu doanh nghiệp bị phá sản, phải trả hết số nợ do tài sản đảm bảo chưa đủ để trả nợ trước khi trả các món nợ khác. Người có đảm bảo tài sản được ưu tiên đòi nợ hơn các chủ nợ khác.
Cần coi tài sản đảm bảo là một bộ phận cấu thành nguyên tắc tín dụng nên thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chú ý hơn nữa đến công tác quản lý, điều hành việc xử lý.
-Coi trọng tài sản đảm bảo, xem nó như một bộ phận cấu thành nguyên tắc tín dụng cũng là chủ trương của ngân hàng nhà nước, nó tạo sự bình đẳng giữa ngân hàng và khách hàng do đó hạn chế được quan niệm không đúng coi tài sản đảm bảo là điều kiện tiên quyết thì xem xét cho vay; tạo điều kiện cho ngân hàng lựa chọn khách hàng sao cho có uy tín, hoạt động có hiệu quả, có khả năng trả nợ để cho vay ; lựa chon được biện pháp bảo đảm phù hợp với cả hai bên và lựa chọn tài sản đảm bảo. Đó là nhân tố quan trọng giúp giảm bớt tồn đọng tài sản cần phải xử lý.
-Đối với tài sản đảm bảo thuộc diện sẽ phát mãi cần thường xuyên bảo quản, bảo dưỡng, tránh việc sau khi tòa án quyết định phát mãi thì tài sản đã cũ kỹ, hỏng hóc, giảm giá khiến ngân hàng không thể thanh lý được.
-Sở đề ra kế hoạch từng người, từng việc để nâng cao trách nhiệm, hiệu quả.
Đối với vấn đề phát mãi tài sản.
-Nếu người vay đã tìm mọi nguồn thu từ kết quả sản xuất kinh doanh và nguồn thu khác mà vẫn không trả hết nợ, phải phát mãi tài sản từ sở tạo điều kiện cho họ tự bán tài sản nhằm thu đựơc giá trị sát thực và tránh cho sở những chi phí phát sinh.
-Đồng thời sở phát triển dịch vụ thuê và cho thuê đối với tài sản đảm bảo vì người vay vẫn giữ nguyên quyền sở hữu tài sản được cấp vốn và giữ đến khi chính thức không trả được nợ.
-Đối với tài sản là máy móc, thiết bị không đồng bộ, sở liên kết với đối tác cung cấp sản phẩm để từ đó phối hợp với khách hàng để giải quyết những khó khăn có thể.
Chú ý phân loại tài sản và lập quỹ dự phòng.
Những kiến nghị về vấn đề hạn chế nợ khó đòi tại Sở giáo dục I- Ngân hàng công thương Việt Nam.
Kiến nghị với nhà nước.
Cần hoàn thiện cơ chế đảm bảo tiền vay.
Vấn đề này nên theo hướng không quy định đảm bảo, cầm cố, bảo lãnh là một điều kiện bắt buộc phải thực hiện để vay vốn hoặc được miễn thực hiện mà chỉ nên quy định có tính khuôn khổ pháp luật, tách bạch ra tin dụng chính sách và tín dụng thương mại. Với tín dụng thương mại, cần đưa ra nhiều biện pháp đảm bảo tiền vay một cách phong phú, đa đạng, trên cơ sở đó, các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng, lựa chọn dự án để quyết định hay không quyết định cho vay và cho vay có đảm bảo hay không cần tài sản đảm bảo; và áp dụng với mọi chủ thể kinh tế mà không phân biệt đối xử. Với tín dụng chính xác thì do chính phủ chỉ định cho vay và không cần đến tài sản làm đảm bảo, nhưng khi bị tổn thất có các nguyên nhân khách quan gây ra thì chínhphủ phải có trách nhiệm xử lý. Với cơ chế như vậy, sẽ khắc phục được một số tồn tại:
-Nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ngân hàng và khách hàng trong việc quyết định cho vay và trả nợ. Nhà nước không can thiệp quá sâu vào quyết định của các bên
-Xoá bỏ cơ chế “xin cho” đảm bảo
-Ngân hàng sẽ lựa chọn được khách hàng có uy tín để cho vay, lựa chọn được biện pháp đảm bảo phù hợp, lựa chọn được tài sản làm đảm bảo. Từ đó sẽ giảm việc cho vay bị động, phụ thuộc, giảm việc nhận bất cứ tài sản đảm bảo nào nên sẽ giảm được tồn đọng tài sản cần xử lý.
Cần đưa ra giải pháp về định giá tài sản đảm bảo.
-Thành lập một tổ chức chuyên môn về định giá tài sản đảm bảo
-Đưa ra một khung giá mở, tạo điều kiện cho các ngân hàng linh hoạt hơn trong việc định giá, không đi quá xa so với quy định của ngân hàng và cũng không cố định vào khung giá đó, tránh tình trạng giá theo khung giá của nhà nước quá thấp so với giá thị trường nhất là thị trường bất động sản. Nhà nước cần thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để tránh tình trạng hiêủ lầm giữa khách hàng và ngân hàng và tránh tình trạng cùngmột tài sản đảm bảo nhưng lại được đánh giá khác nhau với các ngân hàng khác nhau.
Đơn giản hoá thủ tục đảm bảo
-Theo quy định thì tài sản định giá từ 50 triệu trở lên thì phải qua công chứng, nhưng thủ tục về công chứng chưa có sự thống nhất về quy trình. Bộ tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các mẫu giấy tờ để công chứng đến nay vẫn chưa có mẫu hợp đồng đảm bảo. các ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần…đều có mẫu riêng.
-Các giấy tờ về sở hữu thường xử dụng đất có nhiều loại nhưng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để kiểm tra các thông tin của tài liệu công chứng khiến thủ tục công chứng rắc rối và mất nhiều thời gian. Vì thế chính phủ cần cải tiến hệ thống liên quan đến giấy tờ sở hữu tạo điều kiện cho việc công chứng.
-Khi cần thiết phải xử lý tài sản đảm bảo, thật là vô lý khi mà ngân hàng phải khởi kiện mới được phát mãi. Đáng lý ra sau khi được xác nhận của công chứng, các tài sản đảm bảo đều hợp lệ, hợp pháp thì ngân hàng xuất trình đủ hồ sơ vay, hồ sơ đảm bảo và tái công chứng là có thể tiến hành phát mãi.
-Cần thống nhất việc công chứng trong cả nước và giao toàn bộ việc xác nhận công chứng cho phòng công chứng.
-Cơ quan tư pháp cần quy định rõ loại giấy tờ nào cần thiết cho hợp đồng công chứng về cầm đảm bảo bảo lãnh
-Quy định về trách nhiệm thực hiện việc đăng ký các giao dịch đảm bảo đối với từng cơ quan có thẩm quyền. Các cơ quan này chịu trách nhiệm về thủ tục đăngký, nộp vào hệ thống dữ liệu quốc gia làm cơ sở cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho công tác đảm bảo, tránh tình trạng không có chứng nhận sở hữu, nhiều tài liệu sở hữu khác nhau tài liệu giả… việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn nhiều bất cập, các cơ quan nhà nước cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo tính pháp lý của khoản vay đảm bảo.
-Quy định thuận lợi hơn về thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất cho người mua tài sản đảm bảo, nhất là đối với các loại giấy tờ cụ thể chứng minh về việc mua tài sản đảm bảo cầm cố để làm cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, sang tên.
Cần quy định mức cho vay với các loại tài sản đảm bảo phù hợp hơn nữa.
Nhẽ ra, chính phủ không cần can thiệp vào mức cho vay, không cần quy định mức cho vay tối đa đối với từngloại tài sản cụ thể (hiện nay mức tối đa là 70% giá trị tài sản đảm bảo). Ví như, những tài sản đảm bảo như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, sổ lương… thì có thể cho vay đến 90%, 95% hay thậm chí 100% giá trị. Ngược lại có những tài sản mà giá cả biến động mạnh như bất động sản, động sản, máy móc… thì mức cho vay có thể chỉ 50% hay 40% thậm chí còn thấphơn nữa. Vì thế, chính phủ cần để cho ngân hàng tự quyết định .
Cần một chính về xử lý tài sản đảm bảo để hạn chế những bất cập, giúp ngân hàng khi phát mại tài sản
*Cần một cơ chế xử lý tài sản đảm bảo
-Quy định nhiều hình thức xử lý tài sản đảm bảo
+Bên thế chấp tự bán tài sản
+Cả hai bên cùng bán tài sản
+Giao cho ngân hàng bán tài sản
+Gán nợ hoặc thoả thuận bằng phương thức khác
-Nâng cao quyền hạn của ngân hàng trong việc bán tài sản đảm bảo trong một số trường hợp:
+Bên thế chấp vắng mặt không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, không có người thừa kế hoặc người thừa kế không thực hiện nghĩa vụ đó.
+Sau một thời gian quy định, tài sản không được xử lý như thoả thuận
-Đề ra nhiều phương thức bán tài sản để vận dụng linh hoạt vào từng trường hợp:
+Bán trực tiếp cho người có nhu cầu
+Bán đấu giá thông qua trung tâm hoặc thành lập ra doanh nghiệp chuyên thực hiện nhiệm vụ này.
+Ngân hàng được tự tổ chức bán đấu giá tài sản ở những nơi thuận lợi để thu nợ một cách nhanh nhất.
+Thu nợ bằng chính tài sản đảm bảo nếu ngân hàng thấy rằng tài sản đó là cần thiết để dùng vào kinh doanh , khai thác, cho thuê…
*Cần giảm thuế hoặc miễn thuế khi phát mãi tài sản
Nhà nước cần giảm hoặc miễn thuế doanh thu từ việc bán tài sản đảm bảo để trả nợ ngân hàng. Lý do vì bên có tài sản bị lâm vào tình thế buộc phải bán để trả nợ chứ không phải bán vì mục đích kinh doanh. Nếu ngân hàng thay mặt bên đảm bảo bán tài sản có nghĩa là thay mặt chủ sở hữu bán tài sản mà tài sản chưa được chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng nên không thể coi việc bán tài sản là hoạt động kinh doanh bán tài sản. Như vậy, cả ngân hàng và bên chủ tài sản không phải nộp thuế tín dụng ngân hàng trong trường hợp bán tài sản đảm bảo
*Nhà nước cần làm gì để giúp ngân hàng phát mãi tài sản bằng cách đấu giá.
-Lập trung tâm bán đấu giá trong cả nước nhất là nguồn sử dụngđất.
-Giảm tỷ lệ phí bán đấu giá đối với tài sản có giá trị cao
-Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, pháp lý tạo điều kiện dễ dàng cho việc mua bán,chuyển nhượng tài sản
*Trường hợp bên vay bị phá sản, nhà nước cần:
-Nếu tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất. Bên ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi tiền vay. Nhưng hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc này, việc thực hiện bán đấu giá thông qua trung tâm bán đấu giá nhưng đây không là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó cần một quy định cụ thể về cơ quan thực hiện đăng ký đảm bảo, giải trừ đảm bảo và cho phép đấu giá và quyền sử dụng đất.
-Ngân hàng gặp khó khăn khi mà giá cả tài sản bị giảm so với trước đây-khi đem ra đảm bảo, nhất là với tài sản là đất đai, công trình trên đất… về việc này nhà nước cần quy định khung giá đất địa phương sát với thực tế trong từng thời kỳ và quy định thống nhất căn cứ để định giá quyền sử dụng đất đem thế chấp tránh việc phát mại tài sản không đủ bù cho quyền vay và khoản lãi.
-Khi khách hàng của ngân hàng, doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và toà án đã ra quyết định và tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thì việc thu hồi nợ phải tuân theo trình tự phá sản doanh nghiệp. Sau khi nhận được quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ngân hàng muốn thanh toán nợ từ tài sản đảm bảo phải được sự đồng ý bằng văn bản của toà án khi toà án đã có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì tiền và tài sản trong đó có tài sản đảm bảo của doanh nghiệp được tổ thanh toán tài sản thuộc cơ quan thi hành án thanh toán theo thứ tự ưu tiên được quy định theo luật phá sản. Vì thế, nếu tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ ưu tiên, thì ngân hàng có thể không nhận được đủ tất cả các khoản nợ gồm tiền lãi và gốc từ tiền bán tài sản đảm bảo của doanh nghiệp
*Nhà nước cần quy định thật rõ ràng phải giải quyết như thế nào, trình tự ra sao khi bên đi vay dùng một tài sản để thế chấp vay tiền ở nhiều ngân hàng khác nhau: Hiện nay, chưa có luật nói về trật tự giải quyết các khoản nợ của con nợ khi tài sản thế chấp của anh ta bị xử lý mà tài sản đó được đem thế chấp để vay tiền ở hai hay nhiều ngân hàng khác nhau, dẫn đến việc tranh chấp giữa các tổ chức ngân hàngkhi tài sản đó bị xử lý. Nhà nước cần quy định ưu tiên cho những ngân hàng nhận đảm bảo trước. Nếu giá trị tài sản đảm bảo không đủ thì ngân hàng đảm bảo sau cùng sẽ bị thiệt thòi vì ngân hàng đó không thẩm định chính xác hoặc chủ quan trong vấn đề này, đương nhiên phải chịu sự rủi ro. Hiện nay khi mà điều kiện thông tin chưa kịp thời, đầy đủ, các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn hạn chế, nên chăng, nhà nước nên bỏ quy định có thể dùng một tài sản để đảm bảo cho nhiều khoản vay ở ngân hàng khác nhau. Để khắc phục, có thể dùng hình thức đồng tài trợ mà một ngân hàng làm đầu mối. Còn nếu vẫn để nguyên quy định này thì cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế và điều chỉnh lại cho đầy đủ, hợp với thực tế.
Toà án cần giúp ngân hàng trong việc phát mãi tài sản hơn nữa
-Nhà nước, cụ thể là toà án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể để việc công nhận xử lý tài sản đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng để xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ khó đòi
-Cần gộp tiền thi hành án vào ngân hàng để khấu trừ số nợ vay, ngân hàng sẽ báo cáo quá trình nộp tiền thi hành án đến khi giải quyết xong cho phòng thi hành án.
-Khi xảy ra việc tranh chấp hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng đảm bảo thì ngân hàng kiện ra toà án có thẩm quyền để xử lý và có biện pháp cưỡng chế thi hành án đã có hiệu lực.
-Khi bên vay có liên quan đến các vụ án hình sự thì cơ quan pháp luật cần tạo điều kiện cho ngân hàng phát mãi tài sản đảm bảo.
Kiến nghị với ngân hàng nhà nước (NHNN)
-Ngân hàng nhà nước cần xúc tiến việc thành lập công ty mua bán tài sản đảm bảo dựa trên kinh nghiệm học được ở nước ngoài và áp dụng một cách có chọn lọc vào hoạt động tín dụng ở nước ta theo sự uỷ quyền của Chính Phủ.
-Ngân hàng nhà nước cần sớm trình lên Chính phủ và Quốc hội về việc ban hành luật thế chấp tài sản và những văn bản hướng dẫn việc xác định quyền sở hữu tài sản đặc biệt là nhà cửa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cần nhanh chóng hoàn thành các giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo để tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng và khách hàng trong công tác tài sản đảm bảo.
-Ngân hàng nhà nước chủ động phối hợp với toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Viện kiểm soát nhân dân tối cao, Tổng cục địa chính để nghiên cứu soạn thảo, ban hành văn bản liên tịch nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo thuận lợi an toàn để hướng dẫn xử lý ngay các khó khăn ách tẵc trong việc giải toả, phát mãi tài sản đảm bảo ở ngân hàng thương mại nước ta hiện nay.
-Ngân hàng nhà nước cần sớm có cơ chế quy định về việc thiết lập quỹ bù đắp rủi ro quá hạn. Việc này có tác dụng bù đắp những phần vốn bị mất của nợ khó đòi khi bán tài sản đảm bảo mà không thu hồi đủ nợ :
+ Trích lập theo từng thời kỳ mức tỷ lệ thích hợp khác nhau thay vì trích lập từ đầu năm.
+ Trích lập theo giá trị từng nhóm tài sản mà đã được thông qua phân loại
+ Dựa vào số dư quỹ và bảng phân tích dư nợ quá hạn, nợ khó đòi
+ Xem xét tỷ lệ trích lập theo mối tương quan tỷ lệ quá hạn và số rủi ro có thể xảy ra cần xử lý. Đồng thời, phân loại thích hợp cho từng loại tài sản theo tính chất của chúng.
Kiến nghị với Ngân hàng công thương Việt Nam, SGDI-NHCTVN
1. Giải pháp ngăn ngừa nợ khó đòi: Cần chuyên môn hoá hoạt động đánh giá khách hàng.
Như đã trình bày ở phần “ Khái quát về Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam” của chương II, Sở gồm 9 phòng mà mỗi phòng có chức năng khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta không thấy phòng nào có chức năng chuyên về thẩm định đánh giá khách hàng trong khi đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để ngăn ngừa nợ khó đòi. Hoạt động này do một số nhân viên phòng kinh doanh đảm nhận. Rõ ràng, với thực tế như vậy, Sở khó có thể ngăn ngừa nợ khó đòi một cách hiệu quả. Vấn đề này, Sở đã lưu ý, xong vẫn còn chủ quan, tin tưởng vào một lực lượng vừa mỏng lại vừa ít chuyên môn hoá như vậy. Vì vậy, kiến nghị với Sở, với Ngân Hàng công thương Việt Nam, cần chuyên môn hoá việc thẩm định khách hàng.
Chuyên môn hoá hoạt động đánh giá khách hàng có thể thực hiện bằng cách thành lập thêm phòng đánh giá khách hàng và tuyển nhân viên được đào tạo đúng chuyên môn. Đánh giá khách hàng bao gồm đánh giá về bản thân anh ta và dự án mà anh ta muốn vay vốn để thực hiện nó. Rõ ràng, nếu bộ phận này đựơc thành lập sớm thì đã không để cho xảy ra tình huống xấu là cho vay vốn Đài Loan – những khoản cho vay để nhập máy móc Đài Loan ( Nơi mà chẳng có gì để chúng ta tin tưởng vào chất lượng máy móc ) và lại lấy chính giá trị máy móc làm đảm bảo ngoài vài trăm mét vuông đất có giá trị không đáng kể so với khoản vay, hậu quả gây ra một khối lượng lớn nợ khó đòi.
Có thể thực hiện bằng cách thành lập các công ty chuyên về thẩm định. Các công ty này có thể hoạt động như công ty mua bán nợ đã trình bày ở phần giải pháp ở Sở. Công ty này, ngoài việc thẩm định tất cả các khách hàng, dự án cho vay của Sở, của hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam còn tham gia cung cấp sản phẩm thẩm đinh cho các Ngân Hàng hay các tổ chức khác có nhu cầu. Biện pháp này khó thực hiện hơn nhưng một Ngân Hàng thương mại lớn như Ngân Hàng công thương Việt Nam thì có thừa khả năng thực hiện.
2. Giải pháp xử lý nợ khó đòi: Hoàn thiện một số tài sản thế chấp để thanh lý.
Một khối lượng rất lớn nợ khó đòi thuộc về dự án cho vay vốn để nhập máy móc từ Đài Loan. Sở dĩ các khoản vay này, như đã trình bày là do dây chuyền máy móc nhập về không đồng bộ, hỏng hóc nhiều nên không phát huy được tác dụng, không thể sử dụng để sản xuất được. Đài Loan hay Trung Quốc đại lục đi nữa, hàng của họ thường chất lượng khó đảm bảo so với của Nhật Bản, Hàn Quốc... rõ ràng các nhà thẩm định đã mắc lỗi lớn trong việc này. Nhưng đã xảy ra rồi chúng ta phải xử lý. Xử lý được các dây truyền máy móc này cách tốt nhất là nhập các linh kiện từ Nhật Bản hay Mỹ hay của một nước nào đó có tiếng là hàng tốt để bổ sung cho đồng bộ rồi mới đem rao bán. Người mua thường ngại mua phải hàng Trung Quốc, Đài Loan, nhất là hàng hoá là máy móc giá trị lớn mà hỏng hóc, không đồng bộ, không thể sản xuất được. Cần bổ sung linh kiện tốt để có thể bán được. Tuy rằng, khó có thể thu hồi đủ nợ nhưng vẫn có thể thu được 1 phần hơn là vứt xó, không ai mua, cuối cùng mất trắng.
3. Giải pháp xử lý nợ khó đòi: Cần mạnh rạn, quyết tâm xử lý rứt điểm và lên tiếng “cầu cưú” cơ quan chức năng. Với tài ssản thế chấp là nhà cửa, vật kiến trúc, các ngân hàng thường mắc phải vấn đề nhân đạo, không nỡ “ rỡ nhà hàng xóm về làm nhà mình”. Nhưng ở đây rỡ nhà hàng xóm không phải là ăn cắp mà là việc làm chính đáng. Xong không nên cứng rắn quá, nhiều khi phải hy sinh một phần để tối ưu đồng thời 2 mục đích.
Với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đât: thực tế thị trường nhà đất hiện tại thì việc bán quyền sử dụng đất không có nếu không muốn nói là “đấu cát đang đắt như tôm tươi”. Nhưng tại sao lại khó xử lý đối tượng này . Là vì giấy tờ đất cát đó chưa hợp lệ, Ngân Hàng công thương Việt Nam cần phải cầu cứu đến các cơ quan chức năng, cơ quan có trách nhiệm về nhà đất để hoàn thành hồ sơ giúp việc thanh lý được diễn ra nhanh chóng. Lời cầu cứu này củ a Ngân Hàng công thương Việt Nam – tổ chức lớn và có uy tín như vậy thì các cơ quan Nhà nước có chức năng chắc chắn sẽ xúc tiến giải quyết.
Đối với các khoản nợ khó đòi được đảm bảo theo hình thức cầm cố thì không bàn nữa vì về bản chất xử lý tài sản cầm cố cũng giống như tài sản thế chấp.
Kết luận
Sau khi nghiên cứu đề tài, suốt hơn 3 tháng thực tập tại Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam, em học hỏi được nhiều điều kể cả về thực tế lẫn kiến thức lý luận chung.
Có được kết quả đó, trước hết là nhờ sự quan tâm, hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo – TS. Phan Thu Hà và của các cô chú trong phòng kinh doanh của Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam.
Em xin cảm ơn cô giáo – TS. Phan Thu Hà, cảm ơn các cô chú công tác tại phòng kinh doanh Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam, cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân Hàng - Tài Chính.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0208.doc