A. LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỉ 21 cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, cùng với nó thì khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt trực tiếp, các yếu tố thông tin tri thức có vai trò hàng đầu. Điều này tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia như duy trì tốc độ tăng trưởng cao, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đặc biệt là nguồn lực con người, giải quyết tốt vấn đề xã hội, tạo nhiều công ăn việc làm cải thiện đời sống lao động. Nhưng để tận dụng tối đa
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1523 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp góp phần sử dụng đầy đủ & hợp lý nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ hội đó thì các quốc gia phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cư cấu đầu tư, phải dựa vào nguồn lực con người nhanh chóng tri thức hoá người lao động để tăng độ thích nghi và tăng khả năng cạnh tranh quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện mới, sự phát triển của một quốc gia còn phụ thuộc vào nguồn lực con người ( trí tuệ và tay nghề ) là chủ yếu thay vì dựa vào nguồn tài nguyên vốn có như trước đây .
Là một trong những nghành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhất là khi nước ta đi lên từ công nghiệp lạc hậu. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay dưới tác động của cách mạng khoa học kĩ thuật của kinh tế tri thức nông nghiệp càng có một vị trí xứng đáng trong cơ cấu nền kinh tế góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đât nước .
Việc làm là một trong những vấn đề mà toàn xã hội đang quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện nông thôn Việt Nam nơi có nguồn lao động dồi dào về số lượng nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế so với yêu cầu công việc và càng thấp hơn so với các nước trong khu vực .Với quy mô dân số là 82,38 triệu người (01/07/2004) trong đó có 61,27 triệu dân sống ở nông thôn chiếm 14% dân số cả nước. Việt Nam không chỉ là một quốc gia có quy mô lớn đứng thứ 13 trên thế giới mà còn là một quốc gia có nhiều thế mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp do đó việc sử dụng đầy đủ và ngày càng hợp lí nguồn lực trong nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội đất nước nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng.
Với sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Trần Quốc Khánh. Em đã chọn và hoàn thành đề tài này. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Trần Quốc Khánh. Đề tài này gồm 3 phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Phần II: Thực trạng sử dụng lao động nông nghiệp trong nông thôn.
Phần III: Giải pháp góp phần sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
Do trình độ và phương pháp tiếp cận còn nhiều hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót em mong nhận được sự đóng góp của thấy, cô để đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGUỒN LAO ĐỘNG TRONG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
1.Khái niệm nguồn lao động trong nông nghiệp nông thôn.
Ở Việt Nam hiện nay đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn lao động là bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những người trên độ tuổi lao động theo quy định của bộ luật lao động, nhưng thực tế vẫn tham gia lao động) và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do đang trong tình trạng thất ngiệp, đang đi học, đang đảm đương nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu việc làm trong thời điểm hiện tại, người trong tình trạng khác.
Nguồn lao động trong nông nghiệp nông thôn là tổng thể sức lao động tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp thuộc khu vực nông thôn bao gồm số lượng và chất lượng người lao động.
Số lượng lao động là toàn bộ những người có khả năng lao động, bao gồm những người nằm trong độ tuổi nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi và những người trên và dưới độ tuổi lao động nói trên tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp. Xét trên góc độ xã hội, đó là những người có khả năng lao động đang tham gia làm việc (có công ăn việc làm) và những người có khả năng làm việc nhưng chưa tham làm việc. Trong khu vực kinh tế trang trại, hộ nông dân nguồn lao động là bao gồm lao động thuê ngoài và lao động gia đình. Trong khu vực nhà nước (Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước) nguồn lao động bao gồm những người trong biên chế những người tuyển theo chế độ hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn . Trong khu vực tư nhân (xí nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn) nguồn lao động là những người được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn. Như vậy về mặt lượng thì nguồn lao động trong nông nghiệp khác ở chỗ nó không phải chỉ bao gồm những người trong độ tuổi mà bao gồm cả những người trên và dưới độ tuổi có khả năng và thực tế tham gia lao động.
Về chất lượng của nguồn lao động bao gồm cả thể lực và trí lực của người lao động. Điều này được biểu hiện ở trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ khéo léo, lành nghề, trình độ chính trị, trình độ quản lý và kỹ thuật của người lao động.
Số lượng và chất lượng nguồn lao động trong nông nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ở các nước đang phát triển thì số lượng nguồn lao động nông nghiệp rất lớn nhưng chất lượng nguồn lao động lại rất thấp. Trong khi đó ở các nước đang phát triển số lượng nguồn lao động rất ít nhưng chất lượng nguồn lao động lại rất cao. Vì vậy xu hướng biến đổi của nguồn lao động trong nông nghiệp là giảm dần về số lượng đồng thời nâng cao dần chất lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
2. Vai trò của nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
Từ xa xưa lao động đã được coi là hoạt động có mục đích của con người, thông qua công cụ lao động con người tác động đến đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật chất cần thiết cho nhu cầu của con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở cho sự tiến bộ kinh tế, văn hoá, xã hội. Suy cho cùng thì mọi hoạt động lao động của con người cũng đều nhằm một mục đích cuối cùng là phục vụ cho lợi ích của chính bản thân người lao động. Như vậy con người là mục tiêu của sự phát triển và đồng thời lao động là động lực cho sự phát triển đó.
Nguồn nhân lực nông thôn với tư cách là lực lượng quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất xã hội nông thôn, nó có vai trò quyết định đối với mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội của nông thôn trong mối quan hệ phát triển chung của đất nước. Trong bất kỳ một quá trình sản xuất nào từ công nghiệp, nông nghiệp, đến dịch vụ thương mại đều cần phải có lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Quá trình sản xuất không thể được tiến hành nếu thiếu một trong những yếu tố là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tuy nhiên nếu không có hoạt động lao động của con người thì tư liệu sản xuất cũng không thể phát huy được tác dụng. Và như vậy lao động của con người là nhân tố quyết định của một quá trình sản xuất trong đó bao gồm cả nông nghiệp ở nông thôn.
3. Đặc điểm nguồn lao động nông nghiệp nông thôn.
3.1. Lao động trong nông nghiệp nông thôn mang tính thời vụ.
Tính thời vụ của lao động nông nghiệp do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp quyết định. Quá trình sản xuất nông nghiệp bao gồm cả quá trình sản xuất tự nhiên và quá trình tái sản xuất kinh tế, thời gian lao động và thời gian sản xuất đan xen vào nhau xong lại không hoàn toàn trùng khớp với nhau. Tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được nên trong quá trình sản xuất chúng ta chỉ tìm cách hạn chế nó. Bên cạnh đó do sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi loại cây trồng lại xó sự thích ứng nhất định với điều kiện đó dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Sản phẩm của ngành nông nghiệp là nguồn thức ăn cơ bản cho con người và vật nuôi. Như vậy tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp có tác động lớn đối với nông dân, nó chi phối thời gian lao động và sản xuất của lao động nông thôn. Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động nhưng cũng có những lúc lao động lại nhàn rỗi không có việc làm dẫn đến tình hình phức tạp trong quá trình sử dụng yếu tố nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn.
3.2. Lao động trong nông nghiệp nông thôn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Khác với lao động trong các ngành sản xuất khác, lao động trong nông nghiệp nhất là lao động trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản thì chủ yếu hoạt động ngoài trời, chịu tác động trực tiếp của điều kiện tự nhiên như: mưa, nắng, gió, bão, lũ lụt…Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi thì cây trồng và vật nuôi phát triển tốt , người lao động cũng vì thế mà bớt đi phần gánh nặng lo âu. Song nếu điều kiện tư nhiên không thuận lợi thì sẽ gây khó khăn trong sản xuất, thậm chí người nông dân có thể mất trắng. Vì vậy cần phải có những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, tăng thời gian làm việc và năng suất lao động trong công tác tổ chức và sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn.
3.3. Lao đông nông nghiệp nông thôn thường xuyên tiếp xúc với cơ thể sống.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sống, cây trồng và vật nuôi, chúng phát sinh phát triển theo quy luật sinh học. Do là những cơ thể sống nên chúng rất nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch của sản phẩm cuối cùng. Là cơ thể sống nên ở chúng cũng hội tụ đầy đủ những yếu tố sinh học, chúng mang trong mình những vácxin phòng bệnh mà con người có thể khai thác được đồng thời cũng chứa đựng cả những mầm bệnh gây hại có thể lây truyền trực tiếp từ vật nuôi sang người. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Chúng là đối tượng của sản xuất nông nghiệp, của lao động nông nghiệp. Vì vậy trong quá trình sản xuất nông nghiệp con người phải có sự hiểu biết về quy luật phát triển của sinh vật, phải gắn bó chăm sóc tìm hiểu về cây trồng vật nuôi để một mặt tạo điều kiện cho cây trồng vật nuôi phát triển tốt mặt khác con người cũng hạn chế được dịch bệnh lây lan.
3.4. Lao dông trong nông nghiệp nông thôn có kết cấu phức tạp không đồng nhất.
Bản thân nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Hiểu theo nghĩa hẹp thì nông nghiệp chỉ bao hàm ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi, và ngành dịch vụ. Còn hiểu theo nghĩa rộng thì nông nghiệp còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản. Tính chất phức tạp trong ngành nông nghiệp đã tạo nên tính chất phức tạp của lao động nông nghiệp, nông thôn. Lao động trong nông nghiệp có rất nhiều loại khác nhau, có lao động thường xuyên, lao động thời vụ, có lao động trong độ tuổi quy định (lao động chính) và lao động ngoài độ tuổi lao động (lao động phụ), có lao động giản đơn và lao động phức tạp.v.v.. đối với các trang trại và hộ nông dân còn có lao động gia đình và lao động thuê ngoài. Một lao động nông nghiệp có thể làm nhiều công việc khác nhau nên đóng vai trò của nhiều loại lao động khác nhau. Ở mỗi một đơn vị sản xuất nông nghiệp khác nhau thì kết cấu lao động cũng khac nhau. Tính phức tạp của lao động dòi hỏi phải tìm ra các hình thức tổ chức, quản lý để sử dụng lao động một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhât.
3.5. Lao đông nông nghiệp nông thôn thuộc loại lao động tất yếu của xã hội.
Lao động trong nông nghiệp thuộc loại lao động tất yếu của xã hội nên diễn ra một xu hướng có tính quy luật là không ngừng thu hẹp về số lượng và nâng cao dần về chất lượng. Trong thời đại khoa hoc- công nghệ phát triển làm cho năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động nông nghiệp trong xã hôi nhất là lao đông nông nghiệp khu vực nông thôn được giải phòng ngày càng nhiều. Số lao động này được bổ xung dịch chuyển cho các ngành kinh tế khác trước hết là ngành công nghiệp với lao động trẻ, khoẻ, có trình độ văn hoá kỹ thuật. Tuy nhiên tỷ trọng nguồn lao động của ngành nông nghiệp trong toàn bộ lực lượng lao động của xã hôi vẫn chiếm tới gần 70% toàn bộ lực lượng lao động xã hội.
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn.
4.1. Nhân tố về thị trường.
Sự phát triển của nền kinh tế kéo theo sự phát triển sôi động của thị trường lao động. Trình độ của nền kinh tế là cơ sở để xác định mức tiền lương tiền công cho người lao động, đó là khoản thu nhập mà người lao động nhận được sau khi đã hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phần tiền lương đó góp phần cải thiện mức sống và nâng cao dân trí của các tầng lớp dân cư cũng như người lao động. Trả công cho người lao động là một biện pháp rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình họ nhưng nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần làm việc của người lao động, đến tái sản xuất mở rộng nói chung. Khi thu nhập của người lao động được nâng cao họ có điều kiện cải thiện chế độ dinh dưỡng, cải thiện tình hình tài chính để trả cho các dịch vụ giáo dục và đào tạo, chăm sóc, y tế. Do đó mà sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, các mối quan hệ của dân cư và nguồn nhân lực được nâng cao và suy cho cùng là nguồn nhân lực được cải thiện về mặt chất lượng. Điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Cung cầu về lao động nông nghiệp ở khu vực nông thôn là rất phực tạp. Thời kì chính vụ thì nhu cầu lao động là rất lớn, mức cung lao động thường ngày không đủ đáp ứng cho nhu cầu lao động lúc mùa vụ khẩn trương. Thậm chí có những thời điểm khu vực nông thôn phải thuê thêm những lao động ở khu vực khác để sản xuất cho kịp thời vụ hoặc không lại bỏ trống không sản xuất .Trong khi đó vào thời kỳ nông nhàn lại nảy sinh tình trạng dư thừa lao động, người nông dân không có việc làm lại đổ xô đi tìm công việc ở các khu vực khác gây ra sự xáo trộn về cung cầu trên thị trường lao động nông thôn. Sự mất cân bằng về cung cầu lao động nông nghiệp gây ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng lao động nông nghiệp ở nông thôn, khi cần có người lao động thì thị trường lao động không đáp ứng đủ và kịp thời. Điều này đòi hỏi trong quá trình sử dụng lao động nông nghiệp nông thôn cần phải chú ý đến thời gian làm việc của người lao động, cần tạo ra những công việc mới trong những lúc nông nhàn tránh tình trạng quá nhiều lao động nông nghiệp chuyển sang làm ở khu vực khác gây thiếu hụt lao động trong lúc thời vụ.
4.2 Nhận tổ thuộc về bản thân người lao động.
Đó chính là tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Trong những năm gần đây yêu cầu về lao động nông nghiệp nông thôn không đơn thuần chỉ là có sức khỏe, dẻo dai mà cần phải có trình độ, không chỉ đòi hỏi về mặt số lượng mà còn yêu cầu cả về mặt chất lượng. Thực tế cho thấy dinh dưỡng là rất cần thiết cho con người, gồm rất nhiều yếu tố từ lương thực, thực phẩm mà cơ thể cần hấp thụ để duy trì một sức khỏe tốt cho các lứa tuổi khác nhau. Thiếu dinh dưỡng dẫn đến thể lực ốm yếu, khả năng miễn dịch kém, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm, suy giảm nghiêm trọng khả năng làm việc gây ảnh hưởng xấu đến quá trình sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài vấn đề dinh dưỡng thì vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn lao động. Thông qua chăm sóc sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ trẻ em, tư vấn về dinh dưỡng, phòng bệnh tật…tạo ra khả năng đảm bảo cho nguồn nhân lực tương lai có thể lực và tinh thần khoẻ mạnh. Áp dụng những tiến bộ khoa học y tế vào dự phòng chữa bệnh cho người dân sẽ góp phần nâng cao tuổi thọ sức khoẻ dân cư và nguồn lao động. Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
Một vấn đề nữa mà bản thân người lao động phải có đó là trình độ chuyên môn kỹ thuật. Và giáo dục- đào tạo là một trong những nhân tố quyết định đến trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Mức độ phát triển của giáo dục đào tạo càng cao thì quy mô nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật càng mở rộng bởi vì giáo dục- đào tạo là nguồn gốc cơ bản để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của nền kinh tế. Sự phát của hệ thống giáo dục- đào tạo cũng làm tăng khả năng nâng cao chất lượng theo chiều sâu của nguồn nhân lực. Điều này được thể hiện ở chỗ một trong những tiêu chí của phát triển giáo dục đào tạo là nâng cao chất lượng đầu ra cho học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phải nắm vững kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Và trong một nền giáo dục đào tạo có trình độ phát triển cao thì chất lượng đầu ra được đảm bảo sẽ đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và của xã hội. Đây chính là một yêu cầu bức xúc đang đặt ra cho nguồn nhân lực nước ta. Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế mở thì kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Sức canh tranh sẽ quay quanh tâm điểm là hàm lượng khoa học và công nghệ, chất xám quyết định giá trị sản phẩm. Người lao động càng có trình độ chuyên môn cao bao nhiêu thì cơ hội việc làm càng lớn bấy nhiêu. Đội ngũ nhân lực có trình độ là nền tảng để đảm bảo cho thực hiện sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao, là cơ sở để nâng cao năng suất lao động. Nói chung bản thân người lao động có tác động mạnh đến việc bố trí và sử dụng lao động trong nông nghiệp, nông thôn.
4.3. Nhân tố thuộc về chính sách.
Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc huy động và sử dụng nguồn lao động. Thông qua việc ban hành chính sách Nhà nước sẽ tiến hành điều tiết nguồn lao động nông thôn như một số chính sách khuyến khích tạo động lực đối với người sử dụng lao động. Chính sách phát triển nguồn nhân lực, quản lý kinh doanh, hỗ trợ đào tạo người sử dụng lao động về chuyên môn và trình độ quản lý dần đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Chính sách khuyến khích người sử dụng lao động áp dụng công nghệ mới, chính sách hỗ trợ người sử dụng nhiều lao động. Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động đầu tư vào vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng khó khăn (cho thuê giá thấp hoặc mượn đất đai, vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, miễn giảm thuế ba năm đầu mới thành lập doanh nghiệp…). Chính sách khuyến khích và hỗ trợ trực tiếp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (trợ giúp đầu tư, vay vốn thông qua hình thức vay vốn bảo hành tín dụng, cho phép xuất khẩu trực tiếp, giảm thuế đất hoặc mượn đất, hình thành các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn…). Những chính sách này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sử dụng lao động bố trí hợp lý nhất và phát huy hiệu quả tối ưu trong việc sử dụng lao động nông nghiệp sẵn có ở khu vực nông thôn.
4.4. Nhóm nhân tố về trình độ tổ chức quản lý của các cơ sở nông nghiệp vùng nông thôn.
Trong quá trình tổ chức và sử dụng lao động đòi hỏi người sử dụng lao động phải có trình độ cao trong công tác tổ chức và quản lý lao động. Việc xác định nhu cầu lao động, tuyển dụng hay thuê mướn lao động, việc lựa chọn hình thức tổ chức lao động đều cần có quy trình kỹ năng nhất định. Trong sản xuất nông nghiệp, với những loại công việc khác nhau lại có những yêu cầu về chất lượng lao động khác nhau, đòi hỏi người sử dụng lao động nông nghiệp phải biết bố trí lao động sao cho hợp lý. Những công việc áp dụng công nghệ mới sẽ cần những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Một số công việc như phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, bón phân thì cần người lao động phải được qua một lớp huấn luyện. Một số công việc lại đòi hỏi phải có những kỹ năng nhất định như điều khiển một số loại máy móc, chăm sóc từng loại cây, từng loại gia súc theo đúng quy định sinh trưởng và phát triển, việc sử dụng máy tính…Nếu cơ sở nông nghiệp không có đủ các loại lao động trên thì cần phải tuyển thêm lao động. Việc thuê mướn hay tuyển lao động cũng đòi hỏi người sử dụng lao động có những hiểu biết nhất định. Trước hết phải có kiến thức để tính toán đến nhu cầu tuyển dụng. Người sử dụng cần có những hiểu biết về luật lao động như độ tuổi lao động đặc biệt là độ tuổi lao động của trẻ em, quy định về mức tiền lương tối thiểu, mức bảo hiểm xã hội, trợ cấp, vấn đề an toàn lao động trong quá trình sử dụng lao động. Như vậy trình độ tổ chức quản lý của các cơ sở nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng lao động nông nghiệp, nông thôn.
PHẦN II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG NÔNG THÔN.
Quy mô và cơ cấu nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn.
1.1. Quy mô nguồn lao đông nông nghiệp, nông thôn.
Số lượng nguồn lực con người phản ánh qua quy mô dân số, lực lượng lao động và tốc độ gia tăng dân số trong một thời kỳ nhất định. Theo số liệu thống kê thì tốc độ tăng dân số thực tế qua các năm từ 1930-2001 mỗi năm tăng bình quân 2,13%. Trong 20 năm gần đây, số dân mỗi năm tăng tương đương dân số của một tỉnh trung bình, lực lượng lao động tăng bình quân 3%/ năm. Trên thực tế, quy mô nguồn lao động nước ta còn lớn hơn mức gia tăng của dân số bởi số người ra khỏi độ tuổi lao động trong năm vẫn có nhu cầu việc làm. Theo dự báo, những năm đầu của thế kỷ XXI tốc độ tăng lao động vẫn ở mức 3%/năm, vì trước năm 1996 tốc độ tăng dân số nước ta là trên 2%/năm, mà quy mô nguồn lao động phụ thuộc vào quy mô dân số trước đó 18 năm. Với quy mô và dân số đó thì lao động ở nông thôn vẫn còn chiếm tuyệt đại đa số về mặt số lượng, trong khi đó tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn lại nhanh hơn so với khu vực thành thị. Hiện nay có vào khoảng gần 70% lao đông nông thôn làm nông nghiệp còn 20% làm trong các ngành phi nông nghiệp, hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động bình quân cho một lao động nông thôn là rất thấp, vài năm gần đây có sự tăng tương đối năm 2001 la 74,37%, năm 2002 là 75,41%, và năm 2003 là 77,66%. Trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đất nước xu hướng chung có tính quy luật là tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần. Tuy vậy trong những năm gần đây tốc độ giảm vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra, đến năm 2004 dân số nông thôn vẫn còn chiếm 74,2% so với tổng dân số của cả nước, tốc độ tăng dân số ở nông thôn hàng năm giảm dần, năm 1990 là 1,8% nhưng đến năm 2002 giảm xuống còn 0,83%. Lao đông trong độ tuổi lao động khu vực nông thôn vì thế cũng có một tỷ lệ tương tự.
Bảng 1: Nguồn nhân lực tính theo dân số ở nông thôn và thành thị thời kỳ 1990 – 2004
Năm
Số lượng (triệu người)
Tỷ trọng ( % )
Thành thị
Nông thôn
Thành thị
Nông thôn
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
12.9
13.2
13.6
14.0
14.4
14.9
15.4
16.8
17.8
18.1
18.8
19.5
20
20.5
21.1
53.1
54.0
54.9
55.7
56.4
57.1
57.7
57.5
58.0
58.5
58.9
59.2
57.7
60.2
61.27
19.5
19.64
19.85
20.09
20.34
20.69
21.07
22.61
23.18
23.63
24.23
24.78
25.1
25.4
25.63
80.45
80.36
80.15
79.91
79.66
79.31
78.93
77.39
76.82
76.82
76.37
75.77
74.9
77.6
74.37
( Nguồn : Niêm giám thống kê các năm của tổng cục thống kê )
Qua đây có thể thấy lao động nông thôn trong toàn bộ lao động xã hội trong giai đoạn từ 1990- 2004 có xu hướng giảm dần từ 80,45% xuống còn 74,37%, cho dù tốc độ giảm có chậm chạp. Tỷ trọng lao động nông thôn giảm nhưng số lượng vẫn có xu hướng gia tăng từ 53,1 triệu người năm 1990 lên đến 61,27 triệu người năm 2004. Điều này cho thấy sự gia tăng dân số trong nông nghiệp nông thôn đang là yếu tố chính bổ xung lực lượng lao động hàng năm cho xã hội. Theo đó tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp giảm từ 69,8% năm 1996 xuống còn 62,61% năm 2000 tức là giảm 7,19%, bình quân mỗi năm giảm 1,44%. Rõ ràng rằng lao động làm nông nghiệp trong khu vực nông thôn đã có xu hướng giảm trong những năm qua.
1.2. Cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm cho cơ cấu nguồn lao động nước ta có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp có xu hướng giảm dần, lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng, và dịch vụ tăng mặc dù tốc độ còn chậm. Nếu như trước đây lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới 73% và lao động hoạt động trong công nghiệp, dịch vụ mới chỉ chiếm 27% thì hiện nay cơ cấu này có sự chuyển biến như sau:
Bảng 2: Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động. (Đơn vị: %)
Ngành
Kế hoạch
2001 – 2005
Thực hiện
Ước thực hiện
2001
2002
2003
2004
2005
Ngành nông – lâm - nghiệp
56 – 57
60.57
60.67
59.04
59.29
57.44
CN& XD
20 – 21
14.41
15.13
16.41
17.69
18.79
Thương mại và Dịch vụ
22 – 23
25.05
24.2
24.55
24.02
23.78
( Nguồn : Nguyễn Hữu Dũng Về nhiệm vụ phát triển việc làm giai đoạn 2006 – 2010 Tạp trí chính trị số 4 – 2004 )
Tuy nhiên so với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà đại hội Đảng lần thứ IX đề ra ( nông-lâm-ngư nghiệp là 20-21%, công nghiệp và xây dựng là 38-39%, ngành dịch vụ là 41-42% ) thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá chậm dẫn đến khoảng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Nhưng điều đáng lưu ý hơn là cơ cấu lao động được đào tạo giữa các ngành, các khu vực sản xuất, các vùng rất bất hợp lý. Nông thôn chiếm gần 75% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao động được đào tạo cả nước đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp thì số lao động được đào tạo mới chỉ chiếm 7%. Trong bản thân ngành nông nghiệp cũng có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Ngành trồng trọt chiếm tỷ trọng lớn còn chăn nuôi chậm phát triển và chiếm tỷ trọng thấp. Năm 2000 tỷ trọng giá trị sản sản xuất ngành trồng trọt chiếm 76,8% và tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 19.7% và dịch vụ chiếm 2,5% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tính theo giá hiện hành. Không chỉ vậy mà trong bản thân ngành trồng trọt và chăn nuôi cũng thể hiện sự mất cân đối nghiêm trọng. Hiện nay tỷ trọng giá trị sản xuất cây lương thực chiếm 63,92%, cây công nghiệp chiếm 18,92%, cây ăn quả chiếm 9,14% và cây rau đậu chiếm 9,02%. Như vậy cần phải có biện pháp cân đối lại cơ cấu nông nghiệp để từ đó xác định cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn một cách hợp lý.
Bảng 3: Cơ cấu lao động của khu vực nông thôn phân theo 3 nhóm ngành. (Đơn vị: % so với tổng số lao động 15 tuối trở nên đang làm việc tại khu vực nông thôn.)
Năm
Tổng số
Cơ cấu lao động theo ngành ( % )
Nông nghiệp
CN & XD
Dịch vụ
1996
1998
1999
2000
2001
2002
2004
100
100
100
100
100
100
100
81.64
75.68
77.62
76.66
76.53
75.57
74.44
6.83
8.45
8.15
8.86
10.36
10.9
10.68
11.53
15.81
14.22
14.48
13.1
13.53
14.87
( Nguồn : Thống kê lao động - việc làm 1996 – 2004 Bộ lao đông thương binh xã hội )
Từ năm 1996- 2004 đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Năm 1996 lao động trong nông nghiệp chiếm 81,64% so với tổng số lao động trong khi đó lao đông ngành công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm có 6,83% và lao động dịch vụ chiếm 11,53%. Các con số này có sự thay đổi đáng kể đến năm 2004 thì tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống còn 74,44% cùng với đó là sự tăng lên của tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 10,68% và ngành dịch vụ là 14,87% ( thể hiện trong bảng 3).
2. Chất lượng nguồn lao động nông nghiệp nông thôn.
2.1. Về thể lực của người lao động.
Ngày nay tầm vóc và thể lực của người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ. Điều này đã góp phần nâng cao thể lực của nguồn lao động nước ta trong đó bao gồm cả lao động nông nghiệp nông thôn. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam đã tăng từ 1,56m năm 1994 lên 1,58m năm 2000. Tuổi thọ trung bình cũng tăng từ 65 tuổi năm 1989 lên 68,5 tuổi năm 2000. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9% năm 1995 xuống còn 33,1% năm 2000 và 30,1% năm 2002, nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức cao. Thực tế này cho thấy thể lực của người Việt Nam vẫn kém hơn nhiều so với 1 số nước trong khu vực và so với yêu cầu nguồn lực con người cần có ở nước ta. Hiện tại nước ta đang nằm trong số các nước có mưc sống thấp nhất thế giới, GDP tính theo đầu người vào năm 2001 là 410 USD. Theo số liệu thống kê năm 2002 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thì thu nhập bình quân đầu người của nước ta đứng thứ 165/208 nước và vùng lãnh thổ. Theo phân loại của Ngân hàng thế giới (WB) các nước có thu nhập thấp là dưới 745USD/người năm 2001. Trên thế giới các nước có thu nhập thấp như vậy có tổng số dân là 2,5 tỷ người, bình quân thu nhập đầu người năm 2001 của những nước này là 430 USD. Như vậy chỉ số này của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và thấp hơn 12 lần thu nhập bình quân đầu người cua thế giới (5150 USD).
Đến cuối năm 2003 Việt Nam vẫn còn 29% dân số sống dưới mức thu nhập 1$/ngày và 50% dân số sống dưới mức thu nhập 2$/ngày, 12% hộ nghèo và chỉ có 55% dân số nông thôn có nước sạch. GDP bình quân đầu người của khu vực nông thôn thấp, ở 20% số hộ có thu nhập cao nhất năm 2002 cũng mới đạt trên 10 triệu đồng/nhân khẩu/ năm (kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002: Tổng cục thống kê). Mức thu nhập thấp như vậy mà tốc độ tăng dân số còn cao, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khoẻ của dân cư nông thôn lại thấp nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao mức sống, phát triển giáo dục, đào tạo và cải thiện sức khoẻ dân cư và người lao động nông thôn. Thêm vào đó điều kiện lao động trong nhiều vùng, nhiều ngành sản xuất còn kém, thậm chí có nơi còn rất khắc nghiệt, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, nắng mưa thất thường, các yếu tố sản xuất nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần như thuốc trừ sâu, chất bảo vệ thực vật…Tất cả những điều này cho thấy chất lượng lao động nói chung và lao động nông nghiệp nông thôn nói riêng về mặt thể lực, sức khoẻ cũng như điều kiện lao động không đảm bảo, cần phải được cải thiên căn bản. Nói cách khác thu nhập thấp, đời sống khó khăn, dinh dưỡng thiếu, thể lực hạn chế là trạng thái chung của nguồn lao động nước ta mà trong đó có cả lao động nông nghiệp, nông thôn.
2.2. Về trí lực.
Sức mạnh trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của nguồn lao động đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hoá lao động hiện nay. Trình độ trí tuệ thể hiện ở năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số: trình độ văn hoá, dân trí, học vấn trung bình của một người dân, số lao động đã qua đạo, chất lượng đào tạo, mức độ lành nghề của lao động. Từ xa xưa người Việt Nam vốn có tư chất thông minh, sáng tạo, có khả năng vận dụng và thích nghi nhanh, đó là ưu thế nổi trội của lao động Việt Nam có thể theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, nhiều nhà đầu tư nước ngoài thì người lao động Việt Nam nhanh nhậy hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Theo số liệu thống kê của UN._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0167.doc