Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả & mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

Lời cảm ơn Trải qua bốn năm học tập và nghiên cứu dưới mái trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà nội, một thời gian học hỏi nghiệp vụ thực tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I Hà nội, em đã được trang bị những kiến thức và kinh nghiệm bước đầu, chuẩn bị hành trang cho mình bước vào một giai đoạn mới của cuộc sống. Trong quá trình đó, em có được sự quan tâm dạy dỗ và chỉ bảo tận tình của các thầy, các cô, được sống và hoà mình vào tập thể lớp, cùng các bạn trải qua n

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả & mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững vui buồn, khó khăn của cuộc sống sinh viên. Và thành quả đầu tiên là bản chuyên đề thực tập tốt nghiệp, mang tên: “Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển Nông thôn I” Thành quả đó có được trước hết phải kể đến công lao của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thảo, là giáo viên hướng dẫn, đã tận tình hướng dẫn và khuyến khích, giúp đỡ em trong quá trình hình thành ý tưởng, thu thập tài liệu và phát triển thành chuyên đề. Cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn I, trụ sở tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Hà nội, đặc biệt là cô Lưu Thị Mấu _ trưởng phòng Kế hoạch Kinh doanh_ là người đã tận tình giúp đỡ em về kiến thức thực tế và nghiệp vụ, các anh chị trong tổ thanh toán quốc tế cùng tất cả các cán bộ công nhân viên trong Sở I. Và xin gửi lời cảm ơn đến tập thể lớp Ngân hàng 40 B cùng tất cả các bạn bè đã cùng mình trải qua 4 năm dưới mái trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội và sự thông cảm, giúp đỡ và chia sẻ.. Một lần nữa, xin gửi đến cô giáo Nguyễn Thị Thu Thảo, quý thầy cô, các nhân viên Sở I cùng các bạn bè lời chúc sức khoẻ và may mắn. Lê Thị Thu Hà Lời mở đầu Hội nhập và mở cửa là xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới hiện nay, tạo ra cơ hội và thách thức cho từng quốc gia, từng doanh nghiệp, từng cá nhân đơn lẻ nếu muốn tồn tại và phát triển. Nhận thức rõ ràng về xu thế đó, Việt nam đã không bỏ lỡ cơ hội, thực hiện đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, mở cửa với thế giới theo nguyên tắc đa phương hoá quan hệ, đa dạng hoá thành phần, các bên cùng có lợi, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đó, hoạt động giao lưu kinh tế giữa Việt nam và phần còn lại của thế giới ngày càng phát triển, và sẽ phát triển hơn nữa trong tương lai, khi lộ trình AFTA hoàn tất, Hiệp định thương mại Việt nam _ Hoa kì chính thức đi vào hoạt động cũng như sự tham gia đầy đủ của Việt nam trong tổ chức Thương mại thế giới WTO. Đáp ứng động thái đó, đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp Việt nam, các Ngân hàng phải hoàn thiện mình để tham gia vào sân chơi kinh tế ngày càng rộng lớn hơn. Đó là yêu cầu về hàng hoá, dịch vụ và thanh toán. Muốn vậy, các Ngân hàng phục vụ cho khách hàng trong thanh toán quốc tế phải đặt ra cho mình những mục tiêu mới sao cho thực hiện được phương châm “Ngân hàng là bạn đồng hành của khách hàng”, cùng khách hàng vươn xa hơn và cao hơn trong thời kì mới. Vai trò của thanh toán đối với ngoại thương là rất quan trọng, và đó là nền tảng cho sự chú trọng hoàn thiện và mở rộng nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các Ngân hàng thương mại. Trong các phương thức đang được sử dụng hiện nay, tín dụng chứng từ là một phương thức có nhiều ưu điểm, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng doanh số thanh toán, và trong tương lai, phương thức này sẽ còn phát huy tác dụng của mình. Với suy nghĩ như vậy, em đã lựa chọn nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu về phương thức tín dụng chứng từ, hiệu quả sử dụng cũng như khả năng tiếp cận thị trường cho hoạt động này tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn I. Tuy với Sở I, đây là một nghiệp vụ tương đối mới mẻ, được triển khai trong mới hơn 4 năm gần đây, nhưng với quyết tâm và nỗ lực của mình, Sở bước đầu đã tạo lập cho mình một chỗ đứng trên thị trường thanh toán trên địa bàn. Trong hoàn cảnh đó, Sở giao dịch I có những khó khăn và thuận lợi riêng, tuy nhiên cần khẳng định, đây là bước phát triển tất yếu để Sở I trở thành một Ngân hàng thương mại theo đúng nghĩa của nó, phục vụ mọi yêu cầu của khách hàng về vốn và thanh toán. Suốt thời gian thực tập tại Sở, em đã được hướng dẫn về nghiệp vụ thực tế, và cùng với những kiến thức đã được trang bị tại trường đại học, em hy vọng bản chuyên đề thực tập của mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện và mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I, bằng cách cùng ngân hàng nhận thức những gì làm được, chưa làm được, và đưa ra một số các giải pháp để xem xét thực hiện trong thời gian tới. Với mong muốn đó, bài viết sẽ gồm 3 phần như sau: Chương I : Lý luận chung về thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ. Chương II: Tình hình hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I. Chương III: Đề xuất một số các giải pháp và kiến nghị, góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng doanh số thanh toán tín dụng chứng từ qua Sở Giao dịch I. Với hiểu biết và kinh nghiệm hạn chế, chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em chân thành chờ đợi những ý kiến xây dựng của quý thầy cô, cán bộ hướng dẫn thực tập và của các bạn để có thể hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Mục lục Chương I: Tổng quan về thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ Thanh toán quốc tế Khái niệm Tính tất yếu của thanh toán quốc tế Vai trò của thanh toán quốc tế đối với Ngân hàng thương mại Đối với khách hàng Đối với ngân hàng Mở rộng phạm vi hoạt động ngân hàng Tạo điều kiện cho các hoạt động khác Các điều kiện của thanh toán quốc tế Điều kiện về tiền tệ và bảo đảm hối đoái Điều kiện về địa điểm thanh toán Điều kiện về thời gian thanh toán Điều kiện về phương thức thanh toán 1.4.4.1 Phương thức chuyển tiền _ Remittance Phương thức ghi sổ_ Open account Phương thức nhờ thu _ Collection of Payment Phương thức tín dụng chứng từ_ Documentary of Credit Tín dụng chứng từ_ Phương thức quan trọng nhất trong thanh toán quốc tế Khái niệm Khái niệm theo UCP Trên phương diện tài chính ngân hàng 2.2 Các chủ thể tham gia 2.3 Thư tín dụng_công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ 2.4 Tính độc lập tương đối của thư tín dụng 2.5 Phân loại Thư tín dụng 2.6 Chứng từ trong giao dịch tín dụng chứng từ 2.7 Hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ 2.7.1 Khái niệm 2.7.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn I Vài nét về Sở giao dịch I và tổ thanh toán quốc tế Sở giao dịch I, lịch sử hình thành và khái quát hoạt động qua một số năm gần nhất. Tổ Thanh toán quốc tế 2.Quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ 2.1 Các văn bản quy định về thanh toán quốc tế và phương thức tíndụng chứng từ 2.2 Quy trình thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở I 2.2.1 Quy trình nghiệp vụ L/C nhập khẩu 2.2.1.1 Mở, kí quỹ và tu chỉnh L/C 2.2.1.2 Thanh toán L/C 2.2.1.3 Trường hợp huỷ bỏ L/C 2.2.2 Quy trình nghiệp vụ L/C xuất khẩu 2.2.2.1 Tiếp nhận và kiểm tra tại Sở giao dịch đầu mối 2.2.2.2 Kiểm tra, thông báo L/C tạichi nhánh 2.2.2.3 Tiếp nhận chứng từ và thanh toán 3. Phân tích tình hình hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở qua các năm gần đây 3.1 Khách hàng của Sở giao dịch I 3.2 Hoạt động thanh toán quốc tế và thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ 4. Những mặt đạt và chưa đạt trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch I 4.1 Những mặt đã đạt 4.2 Những mặt còn chưa đạt Chương III: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn I Định hướng cho hoạt động thanh toán quốc tế trong thời gian tới Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở I Nâng cao trình độ thanh toán viên ngân hàng Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và mở rộng mạng lưới kinh doanh của Sở Khai thác và đổi mới công nghệ ngân hàng Triển khai dịch vụ tư vấn và chăm sóc khách hàng Hoàn thiện chiến lược sản phẩm và chiến lược khách hàng trong cạnh tranh Một số kiến nghị Với khách hàng Với Tổng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Với Ngân hàng nhà nước Với Nhà nước 3..4.1 Về chính sách ngoại thương 3.4.2 Về luật quy định trong lãnh vực thanh toán quốc tế Chương I Tổng quan về thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ 1.Thanh toán quốc tế 1.1.Khái niệm: Thanh toán được hiểu theo nghĩa chung nhất là việc chi trả của một người cho một người khác đổi cho việc được sử dụng, sở hữu một hàng hoá, dịch vụ hay một quyền cụ thể nào đó. Một người mua một ngôi nhà, sẽ phải trả tiền cho chủ của ngôi nhà để được sở hữu nó. Một người đi máy bay từ New York đến Hà Nội phải trả tiền cho hãng hàng không phục vụ mình.. Tương tự như vậy, thanh toán chính là việc trả tiền, nối tiếp sau mỗi hành động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ..Như vậy, thanh toán chính là khâu kết thúc của mỗi quan hệ hàng tiền được xác lập trên cơ sở thoã mãn nhu cầu mỗi bên tham gia. Quan hệ H_T đựợc thể hiện ở hai vế: vế thứ nhất là việc chuyển hàng từ người bán sang cho người mua, và vế thứ hai, vế hoàn thiện cho mối quan hệ này,là việc người mua phải trả tiền cho người bán. Thanh toán nảy sinh do việc chuyển đổi quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá, dịch vụ, và đồng thời thanh toán cũng có tác động trở lại đến tính hiệu quả và tốc độ của việc mua bán. Thanh toán tốt sẽ giúp tạo lập mối quan hệ kinh tế uy tín và tin cậy, thúc đẩy các quan hệ kinh tế, tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá, cải thiện cuộc sống, giúp nhà kinh doanh nắm được cơ hội trên thương trường. Như vậy, có thể nói, thanh toán là hệ quả của việc mua bán hàng hoá, dịch vụ, nhưng thanh toán đồng thời cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ đó. Chính vì lý do đó, trong thanh toán, yêu cầu an toàn, chính xác, kịp thời luôn được coi trọng. Đó chính là hiệu quả của thanh toán nói chung. Tương tự như vậy, thanh toán quốc tế được hiểu là việc chi trả bằng tiền có liên quan đến các quan hệ hàng hoá, dịch vụ và các quan hệ khác giữa các cá nhân , tổ chức của quốc gia này với các cá nhân, tổ chức của quốc gia khác. Với một nghĩa hẹp hơn như vậy, thanh toán quốc tế được xác định bởi đặc trưng riêng mình, là việc thanh toán đã vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, mà cơ sở của nó là việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể có trụ sở tại các nước, các vùng lãnh thổ khác nhau. Cũng bởi đặc trưng đó, thanh toán quốc tế trở nênphức tạp hơn rất nhiều so với thanh toán diễn ra trong nội địa. Việc mua bán vượt qua biên giới quốc gia đòi hỏi phải tính đến những khác biệt và rủi ro, dễ thấy như: * Khác biệt về tập quán sinh hoạt, kinh tế, luật pháp.. làm cho con người ở các quốc gia khác nhau có những quan niệm không phải luôn thống nhất với nhau, và cư xử của họ không chỉ trong đời sống mà trong kinh doanh cũng khác nhau. Nếu không hiểu được tập quán và suy nghĩ của đối tác thường dẫn đến thất bại trong quan hệ làm ăn. *Niềm tin trong kinh doanh : chính vì khoảng cách địa lý làm cho người mua và người bán thường là không biết nhau, vì vậy ai cũng e ngại đối tác của mình, vì họ không hiểu rõ về nhau, không nắm được điểm mạnh hay yếu của nhau để có cách hành xử phù hợp. *Rủi ro: đối với các chuyến hàng chuyển giao trong nước không phải là không có rủi ro, tuy nhiên, rủi ro trong mua bán quốc tế là lớn hơn rất nhiều. Các chuyến hàng phải đi hành trình dài ngày trên biển, có sự tham gia của nhiều chủ thể trong mỗi thương vụ, đòi hỏi những kiểm soát và thủ tục rườm rà hơn.. Nếu thanh toán nội địa có thể tiến hành trực tiếp giữa người mua với người bán mà không qua trung gian Ngân hàng, thì việc thanh toán cho nước ngoài phần lớn cần đến các ngân hàng như một bảo đảm cho việc nhận hàng và trả tiền giữa các bên liên quan. Thanh toán quốc tế từ lâu đã trở thành một nghiệp vụ ngân hàng, và ngày càng được hoàn thiện và mở rộng hơn trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới, của quan hệ kinh tế đối ngoại và các quan hệ song và đa phương khác về chính trị, du lịch, ngoại giao... Xét trên góc độ nghiệp vụ, thanh toán quốc tế là chức năng ngân hàng quốc tế của mỗi một ngân hàng thương mại, và chỉ được thực hiện khi có sự cho phép của Ngân hàng nhà nước sở tại. Thực chất, thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ, trong đó ngân hàng hành động như một trung gian thanh toán, bằng kinh nghiệm, khả năng và nghiệp vụ của mình làm cho việc thanh toán được diễn ra an toàn và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao dịch thanh toán, tìm kiếm thu nhập cho ngân hàng. Trên khía cạnh nghiệp vụ như vậy, trong thanh toán quốc tế ( từ nay được gọi là thanh toán) có sự tham gia của ít nhất là 3 chủ thể: ăNgười mua : mua hàng và có trách nhiệm chuyển tiền vào ngân hàng để ngân hàng thanh toán cho người bán. ăNgười bán: giao hàng theo hợp đồng mua bán ăNgân hàng: thu tiền hộ cho người bán sau khi hàng hoá đã được giao. Trên đây là những mô tả khái quát nhất về sự tham gia của các bên, trong thực tế, với mỗi thương vụ, mỗi phương thức thanh toán được lựa chọn sẽ làm cho quy trình thanh toán trở nên khác biệt về trình tự, độ phức tạp, độ an toàn, chi phí .. và chính điều đó gợi ý rằng, khách hàng có thể lựa chọn hình thức nào là phù hợp nhất. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng là một lĩnh vực tương đối phong phú, đòi hỏi nhưng trình độ và kỹ thuật nhất định mà chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn ở phần sau. 1.2.Tính tất yếu của thanh toán quốc tế: a.Đối với nền kinh tế Như đã đề cập, thanh toán là hệ quả tất yếu của mỗi một vụ mua bán, và thực tiễn thế giới cho thấy kinh tế ngoại thương là yếu tố không thể thiếu đối với mỗi quốc gia đang tồn tại trong nền kinh tế mở. Trong thời đại ngày nay, mở cửa là xu thế phát triển khách quan, mà thực chất của nó là việc phát triển kinh tế đối ngoại, trong đó ngoại thương đóng vai trò quan trọng nhất. Ngoại thương là động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế vì ngoại thương giúp nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và nâng cao hiệu quả nền kinh tế mở. Nguồn gốc của ngoại thương chính là sự phân công lao động quốc tế, và lợi ích của ngoại thương đã được nhà kinh tế học thế kỷ 18-19 của Anh David Ricardo bình luận như sau: “lợi thế so sánh là nguồn gốc lợi ích ngoại thương, nó giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của các quốc gia do việc chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế nhất định để đổi lấy hàng nhập khẩu”. Các nhà thông kê cho hay, cuộc sống của chúng ta đang được bao quanh bởi khoảng 5 triệu mặt hàng khác nhau, và dễ nhận thấy rằng, một quốc gia không thể tự mình sản xuất tất cả các loại hàng hoá đó, hoặc giả họ có thể sản xuất thì cũng không hiệu quả. Đây chính là ý nghĩa của chi phí cơ hội trong ngoại thương, thường thể hiện dưới dạng lợi thế so sánh. Lấy ví dụ, người ta không thể khai thác kim cương nếu nước họ không may mắn được sở hữu một vài mỏ kim cương, và người ta cũng không thể sản xuất máy bay nếu trình độ công nghệ còn nằm ở mức i tờ. Để thoã mãn những nhu cầu đa dạng, nhiều mức độ đó, kinh tế đối ngoại là phương thức hay hơn cả.Hãy sản xuất những gì mình có thể , và dùng tiền bán sản phẩm của mình đi mua mọi thứ mình cần. Mua bán giữa hai quốc gia như vậy được gọi là thương mại quốc tế, hay hoạt động kinh tế ngoại thương. Ngoại thương là thành phần cơ bản của mảng kinh tế đối ngoại, tức tất cả các hoạt động kinh tế có liên quan đến phần còn lại của thế giới. Ngoại thương hiểu theo nghĩa phổ biến nhất, là một phạm trù kinh tế, phản ánh sự trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua các hoạt đông mua bán, được gọi là xuất nhập khẩu. Ngoại thương tồn tại kể từ khi hai tiền đề của nó xuất hiện, trước hết là sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá tiền tệ, cùng lúc là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp, và sau đó là sự hình thành của nhà nước và sự phát triển phân công lao đông quốc tế. Có thể nói, ngoại thương đã manh nha xuất hiện từ rất lâu, ngay từ chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng cho đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa nó mới thực sự phát triển rộng rãi và trở thành động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Như vậy, khẳng định rằng ngoại thương là tất yếu, và đi kèm với nó, hoàn thiện cho nó chính là thanh toán quốc tế. Trong điều kiện nền kinh tế ngày nay, nhu cầu của mỗi con người phát triển cùng với sự phát triển kinh tế thế giới, ngày càng phong phú và phân hoá mạnh mẽ hơn, mỗi mức độ đòi hỏi những loại hàng hoá với trình độ công nghệ và hàm lượng chất xám khác nhau. Nhu cầu gia tăng thúc đẩy mua bán ngoại thương, và thanh toán quốc tế là kết quả kéo theo, đồng thời thúc đẩy quan hệ mua bán, trao đổi phát triển hơn. b, Đối với mỗi ngân hàng Xét trên quan điểm của một nhà tài chính ngân hàng, chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Sự phát triển kinh tế đối ngoại dẫn đến sự lớn mạnh của nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, một nghiệp vụ tương đối an toàn đối với ngân hàng. Ngày nay khó có thể tưởng tượng sự tồn tại của một ngân hàng chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ nhận gửi và cho vay, mà ngân hàng giờ đây luôn phải thể hiện vai trò của một doanh nghiệp năng động, tầm hoạt động của ngân hàng phải vươn cùng với tầm hoạt động của khách hàng mà ngân hàng phục vụ. Ngân hàng phải coi thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ không thể thiếu trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên lãnh vực tài chính ngân hàng, và như thế, ngân hàng buộc mình phải hành động theo tôn chỉ “ Mất tiền là mất ít, mất danh tiếng là mất nhiều, mất uy tín là mất tất cả”. 1.3 Vai trò của nghiệp vụ thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại. 1.3.1. Đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng phục vụ khách hàng trong khâu thanh toán, và thực hiện các yêu cầu đó ở mức cao nhất có thể được là phương châm sống còn của mỗi ngân hàng. Cùng với sự phát triển và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp, các vụ mua bán ngoại thương ngày càng phổ biến và đi kèm với nó sẽ là việc thu vốn từ nước ngoài, và trả tiền cho đối tác của vay vốn bổ sung tiền, mua bán, đổi ngoại tệ phục vụ cho thanh toán, mở ra một lĩnh vực hoạt động rộng rãi cho ngân hàng phục vụ mình. Trong thanh toán, hiệu quả của ngân hàng chính là hiệu quả cho khách hàng, và một khi thoả mãn yêu cầu của khách hàng nghĩa là ngân hàng đã giữ chân khách hàng, cơ hội thu hút khách hàng mới, hoàn thiện và làm phong phú các sản phẩm ngân hàng của mình để khẳng định vị trí trong cạnh tranh. Ngân hàng thương mại cũng chỉ là một doanh nghiệp, và nó cũng phải hành động theo tư duy thị trường, nghĩa là hướng đến khách hàng. 1.3.2. Tạo thu nhập cho ngân hàng. Ngân hàng hoạt động trước hết là vì bản thân, vì sự sống còn và phát triển của mình. Trong mỗi hoạt động, ngân hàng tính toán đến lỗ (lãi) kinh doanh, nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá tài sản của mình. Với định hướng đó, ngân hàng phải đa dạng hoá các sản phẩm cung ứng, nâng cao chất lượng phục vụ đối với khách hàng, bước vào cạnh tranh. Trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay, thanh toán là một nghiệp vụ tạo thu nhập và tương đối ít rủi ro so với các sản phẩm ngân hàng truyền thống như tín dụng hay liên doanh sản xuất. Thông qua việc mở rộng mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng tạo thu nhập qua các loại phí sau : - Phí dịch vụ thanh toán cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ,..) - Phí chuyển đổi ngoại tệ - Lãi cho vay tạm cấp vốn thanh toán - Chênh lệch tỷ giá - Lãi chiết khấu hối phiếu chưa đến hạn. 1.3.3. Mở rộng phạm vi hoạt động ngân hàng. Khác với các nghiệp vụ khác, trong thanh toán quốc tế, ngân hàng không chỉ có mối quan hệ với khách hàng mà còn quan hệ với mạng lưới ngân hàng đại lý trên toàn thế giới - qua đó, ngân hàng có cơ hội tiếp cận với khách hàng ở nước ngoài, tạo lập một hình ảnh và vị trí trên thị trường ngân hàng thế giới, và đó là cơ sở đầu tiên và vững chắc cho kế hoạch mở rộng thị trường về lâu dài của ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng, mỗi một món thanh toán quốc tế thành công là một điểm cộng cho ngân hàng trong con mắt cộng đồng quốc tế. 1.3.4. Tạo điều kiện cho hoạt động khác: Để hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng phải tạo lập các quan hệ đại lý, chi nhánh với các ngân hàng ở nước ngoài, tạo điều kiện tiếp cận, tìm kiếm những hỗ trợ lớn về tài chính, khoa học kỹ thuật và trình độ, kinh nghiệm ngân hàng, tạo điều kiện cho việc phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài thường có uy tín và kinh nghiệm dày dạn trong nghề, trình độ nghiệp vụ thành thạo, và là khuôn mẫu mà chúng ta, những ngân hàng non trẻ cần học tập. Không chỉ thế, với mong muốn tạo lập ngân hàng xuyên lục địa, các ngân hàng này thường có những ưu đãi cho các khu vực đang phát triển mà chúng ta có thể tận dụng tốt để phát triển. Thanh toán quốc tế có khả năng mở rộng cơ hội cho vay, phát triển nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tạo điều kiện tìm kiếm nguồn ngoại tệ bằng cách huy động vốn ngoại tệ rỗi của nhà xuất khẩu, tranh thủ nguồn tạm rỗi của ngân hàng bạn, ngân hàng trung ương để đáp ứng cầu ngoại tệ thanh toán nhập khẩu. 1.4. Các điều kiện thanh toán quốc tế: Trong thanh toán quốc tế, chính vì sự khác biệt về tập quán kinh tế xã hội, luật pháp, địa điểm của các bên tham gia, mà đặc biệt là niềm tin trong kinh doanh, làm cho mỗi vụ thanh toán trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi những quy tắc, điều kiện cụ thể và tỉ mỉ hơn. Những điều kiện đó nhằm hạn chế tối đa rủi ro thanh toán, và dùng giải quyết tranh chấp nếu xảy ra. Các yếu tố đó thường được định rõ trong hợp đồng ngoại thương , và thường gồm có: ã Điều kiện về tiền tệ và đảm bảo hối đoái ãĐiều kiện về địa điểm thanh toán ã Điều kiện về thời gian thanh toán ãĐiều kiện về phương thức thanh toán 1.4.1Điều kiện về tiền tệ và bảo đảm hối đoái 1.4.1.1 Điều kiện về tiền tệ Việc mua bán với nước ngoài thông thường liên quan đến việc chuyển đổi một đồng tiền của nước này với đồng tiền nước khác, vì vậy nó liên quan đến các vấn đề về tỷ giá hối đoái như tỷ giá, các điều kiện đảm bảo giá trị hợp đồng. Dễ thấy rằng trong mua bán, ai cũng muốn nhận đồng tiền của nước mình nhằm tránh rủi ro do biến động tỷ giá, qua đó có cơ hội nâng cao vị trí đồng tiền nước mình. Việc lựa chọn đồng tiền nào dùng trong tính toán và thanh toán là tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng hai bên mua bán, ngoài ra còn phụ thuộc vào một số yếu tố như : * Tập quán thanh toán quốc tế đối với từng ngành hàng. Ví dụ kim loại màu thường sử dụng GBP để thanh toán, đối với hàng xuất khẩu nông sản thường dùng USD để thanh toán. *Vị trí đồng tiền được lựa chọn: USD ngày nay đã trở thành đồng tiền quốc tế, có khả năng chuyển đổi tự do, bởi vậy ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn trong ngoại thương. * Các hiệp định thương mại đã được kí kết giữa các nước nếu có, thường rơi vào trường hợp có quy định thống nhất về đồng tiền chung của khu vực kinh tế nào đó. 1.4.1.2. Điều kiện bảo đảm hối đoái Dù lựa chọn sử dụng đồng tiền nào thì điều kiện kèm theo và luôn được quan tâm là điều kiện bảo đảm hối đoái nhằm bảo lưu giá trị thực tế các khoản thu nhập của các bên. Trong hợp đồng mua bán phải định rõ đồng tiền tính toán, thanh toán và điều kiện đảm bảo, thông thường là các hình thức như: ă Điêù kiện đảm bảo vàng: - Nếu đồng tiền thanh toán đã được tuyên bố hàm lượng vàng: giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng dùng một đồng tiền để thanh toán và tính toán, đồng thời quy định hàm lượng vàng của đồng tiền đó, nếu khi thanh toán mà hàm lượng vàng của đồng tiền đó thay đổi, thì theo mức thay đổi mà điều chỉnh giá cả hàng hoá cũng như giá trị của hợp đồng. Tất nhiên chỉ áp dụng đối với các đồng tiền đã được xác định hàm lượng vàng, và sự thay đổi hàm lượng vàng là do có thông báo của chính phủ nước đó tuyên bố đánh sụt hoặc nâng cao giá trị đồng tiền lên. Cách này hiện nay ít dùng do tính chủ quan trong việc định giá cả của đồng tiền. -Dùng một đồng tiền tính toán giá cả và giá trị hợp đồng, đồng thời quy định giá vàng thời điểm đó tại một thị trường nhất định làm cơ sở đảm bảo. Khi thanh toán, nếu giá vàng thay đổi so với lúc ký hợp đồng đến một mức độ nhất định thì sẽ điều chỉnh giá cả hàng hoá và giá trị hợp đồng một cách tương ứng. Biện pháp này hiện nay không còn phù hợp vì vàng có thể nói đã thực hiện xong vai trò thước đo giá trị của nó và giá cả của nó giờ đây bị ảnh hưởng bởi rất nhiều các yếu tố và không phản ánh đúng biến động giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái. ă Điều kiện đảm bảo ngoại hối: là việc lựa chọn một đồng tiền tương đối ổn định, xác định mối quan hệ tỷ giá với đồng tiền thanh toán để đảm bảo giá trị của hợp đồng. Có thể thực hiện theo hai cách như sau: -Quy định một đồng tiền dùng trong thanh toán và tính toán, đồng thời xác định tỷ giá giữa đồng tiền đó với một đồng tiền mạnh nào đó ( đồng tiền tương đối ổn định ). Khi thanh toán, nếu tỷ giá đó thay đổi thì điều chỉnh lại giá cả và giá trị hợp đồng. - Nếu đồng tiền thanh toán khác với đồng tiền tính toán giá trị hợp đồng, thì căn cứ sự thay đổi tỷ giá đồng tiền thanh toán và tính toán mà điều chỉnh lại giá trị hợp đồng. Đây là cách thường dùng trong mua bán ngoại thương hiện nay. Kết hợp 2 cách trên có thể thực hiện đảm bảo hỗn hợp. Đó là: ăBảo đảm theo rổ tiền tệ: các bên thống nhất lựa chọn số lượng ngoại tệ đưa vào rổ cũng như phải thống nhất cách tính tỷ giá hối đoái của rổ so với đồng tiền được đảm bảo vào lúc ký kết và thanh toán. Mục đích chính của hình thức này là san bằng sự biến động khác nhau của các đồng tiền trên thế giới, nhằm tạo ra một sự ổn định tương đối. Hai cách thường thấy là: -Tổng giá trị hợp đồng được điều chỉnh bằng cách căn cứ vào mức bình quân tỷ lệ biến động của tỷ giá của cả rổ tiền tệ đã chọn. -Tổng giá trị hợp đồng được điều chỉnh căn cứ vào tỷ lệ biến động của bình quân tỷ giá hối đoái của cả rổ vào lúc thanh toán so với lúc kí kết hợp đồng. ă Bảo đảm căn cứ vào đồng tiền quốc tế : Tiền tệ quốc tế là các đồng tiền hiệp định thuộc các khối kinh tế và tài chính quốc tế như SDR, EURO.. ă Điều kiện đảm bảo căn cứ vào sự biến động giá cả: Đây là phương cách mà người ta dựa vào sự thay đổi của chỉ số giá cả mà thay đổi giá trị hợp đồng một cách tương ứng. Thật ra đây là cách làm không chính xác vì chỉ số giá không chỉ phản ánh sự biến động của tiền tệ mà nó còn phản ánh sự biến động của nhiều những nhân tố khác, đặc biệt là các nhân tố về cung cầu hàng hoá, dịch vụ. 1.4.2. Điều kiện về địa điểm thanh toán: Địa điểm thanh toán là các yếu tố thường gây ra tranh chấp cho cả hai bên, và ai cũng muốn kéo về nước mình, hoặc càng gần càng tốt. Nếu thanh toán tại địa phương, người bán sẽ không mất thời gian thu tiền từ nước ngoài, người mua thì không bị đọng vốn. Cũng như điều kiện tiền tệ, việc lựa chọn nơi thanh toán cũng tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng của các bên tham gia, và có thể thoả thuận chọn một địa điểm thứ ba. Nhưng thường thấy, nếu thoả thuận dùng tiền bên nào thì thanh toán tại trụ sở của bên ấy. 1.4.3. Điều kiện thời gian thanh toán: Thời gian là yếu tố rất co giãn trong kinh doanh và liên quan đến vốn, lợi nhuận, rủi ro cho doanh nghiệp. Trong hoạt động mua bán, hai bên thoả thuận đạt đến một trình tự thời gian cho việc thanh toán, thường là: ăTrả trước: Theo điều kiện này, người mua sẽ cấp một phần hoặc toàn bộ vốn cho người bán. Đây là cách chỉ được áp dụng khi hai bên có quan hệ rất tín nhiệm, hoặc quan hệ chi nhánh, đại lý với nhau. Người mua lúc này sẽ phải trả tiền truớc khi nhận được hàng hoá, tức là đã cấp tín dụng thương mại cho người bán. ă Trả sau: Trả sau nghĩa là việc cấp tín dụng thương mại của người bán cho người mua. Sau khi nhận hàng một khoảng thời gian nào đó, người mua mới phải trả tiền. Khoảng thời gian này là lâu hay mau tuỳ thuộc thoả thuận của hai bên, thường là hình thức “ gối đầu”, tức kì mua hàng sau mới thanh toán tiền nợ của kì mua hàng trước. Đây là trường hợp hay gặp nhất trong kinh doanh, vừa giúp người mua nhận được hàng trước khi có tiền, vừa giúp người bán tiêu thụ hàng hoá nhanh hơn, tạo lập quan hệ thân tín trong kinh doanh. ă Trả ngay: Đây là hình thức mua bán mà ngay khi nhận được hàng hoá, người mua phải tiến hành thanh toán cho người bán. Hình thức này thường chỉ áp dụng cho việc mua bán nội địa, hoặc mua bán tiêu dùng, trao tay trực tiếp và quan hệ bạn hàng khá hiếm gặp. Tuy nhiên, trong việc thanh toán, không phải mỗi hợp đồng áp dụng chỉ một cách thanh toán, trước, ngay hay sau, mà có thể hỗn hợp của cả ba cách như trên, mục đích cuối cùng là đạt đến thoả mãn cho cả hai bên, chứ không hề máy móc và cứng nhắc áp dụng một hình thức nào. 1.4.4. Điều kiện phương thức thanh toán Đây là điều kiện quan trọng nhất trong mỗi hoạt động mua bán .Điều kiện này cho biết người mua sẽ trả tiền cũng như người bán sẽ nhận tiền như thế nào. Có rất nhiều phương thức để lựa chọn, mỗi phương thức gắn với một trình độ, kĩ thuật, quy trình, chi phí và hiệu quả khác nhau. Một cách chung nhất xin được mô tả các phương thức thường gặp trong mua bán ngoại thương, chi trả quốc tế như sau: 1.3.4.1. Phương thức chuyển tiền - Remittance ă Khái niệm: Là phương thức mà người trả tiền yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền cho một người hưởng tại một địa điểm nhất định theo một phương tiện chuyển tiền mà khách hàng yêu cầu. Phương tiện mà khách hàng có thể lựa chọn sử dụng là chuyển tiền thư hoặc điện, chuyển tiền bằng điện nhanh hơn chuyển bằng thư và thực tế thì chủ yếu là thanh toán bằng điện. Phương thức này chỉ áp dụng khi người bán rất tín nhiệm người mua, hoặc dùng trong quan hệ đại lý, thanh toán phụ phí liên quan xuất nhập khẩu, hoặc chuyển kiểu hối. Trong xuất khẩu không nên sử dụng phương thức này vì rất dễ bị chiếm dụng vốn và rủi ro - ngân hàng chỉ đóng vai trò người thực hiện yêu cầu của khách, không là một trung gian thanh toán theo ý chí của người trả tiền. ăQuy trình : đơn giản, phụ thuộc 100% thiện chí của người trả tiền, được biểu diễn như sau : 2 4 3 NH đại lý Người hưởng Người chuyển tiền NH chuyển tiền 1 Người hưởng ( nhà xuất khẩu ) chuyển hàng cho người mua. Người chuyển tiền viết đơn yêu cầu chuyển tiền cùng với uỷ nhiệm chi, trích tiền từ tài khoản đế chi trả, hoặc nộp tiền vào ngân hàng để thực hiện chuyển. Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàn 4.Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi. 1.4.4.2. Phương thức ghi sổ ăKhái niệm: Là việc thanh toán trên cơ sở theo dõi tài khoản ghi nợ người mua khi người bán giao hàng sau từng thời gian thoả thuận (tháng, quý, năm) . Việc thanh toán thực hiện bằng cách : khi đến kỳ thanh toán, người bán báo nợ cho người mua và người mua sẽ yêu cầu ngân hàng chuyển tiền trả ngư._.ời bán. Phương thức này tạo sự chủ động và sắp xếp kế hoạch tiền mặt cả hai bên, nhưng không có sự bảo đảm nào từ phía ngân hàng. Ngân hàng chỉ là một người làm dịch vụ chuyển tiền như bưu tá mà thôi. Đây là phương thức chỉ áp dụng cho quan hệ mua bán truyền thống và tín nhiệm, người bán có vốn đủ lớn, người mua có uy tín trong thanh toán - hoặc dùng chi trả các giao dịch hàng đổi hàng một cách thường xuyên, hoặc để chi trả các loại chi phí mậu dịch và phi mậu dịch nhỏ. Muốn thực hiện phương thức này thành công cần có sự thống nhất về đồng tiền dùng theo dõi, căn cứ xác định ngày thanh toán, căn cú xác nhận hàng hoá đã bán, đã nhận.. nếu không sẽ xảy ra tranh chấp khó xử lí. 1.4.4.3. Phương thức nhờ thu: collection of payment ăKhái niệm: Là phương thức thanh toán trong đó khi người bán hoàn thành nhiệm vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền của người mua trên cơ sở hối phiếu do người bán lập. Việc sử dụng phương thức nhờ thu dựa vào văn bản pháp lý quốc tế thường dùng là quy tắc thống nhất về nhờ thu URC 525. Trong hợp đồng nên dẫn chiếu đến bản quy tắc này nhằm tạo một cơ sở để giải quyết nếu có tranh chấp phát sinh, nếu muốn dàn xếp theo quy tắc này của Phòng Thương mại Quốc tế tại Paris ( International Champer of Commerce_ ICC ) . Người bán và ngân hàng được ràng buộc trách nhiệm với nhau bằng chỉ thị nhờ thu do người bán gửi đến ngân hàng, trong đó phải nêu rõ: - Điều kiện trả tiền : D/A Người mua nhận được chỉ thị này phải chấp nhận trả tiền , D/P Khi người mua nhận được chỉ thị này thì phải trả tiền ngay. - Chi phí thuộc về ai: phí nhờ thu, phí phát sinh do đòi tiền không được hoặc bị từ chối thanh toán. Giải quyết các vấn đề phát sinh khi bị từ chối thanh toán hoặc hàng đến trước chứng từ... Có 2 loại nhờ thu, nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ - mỗi loại gắn với một mức độ an toàn nhất định cho người bán hàng (hay gọi là nhà xuất khẩu). Tham gia vào quá trình thanh toán sẽ gồm các chủ thể sau: - Người hưởng lợi (tức nhà xuất khẩu) _beneficiary - Ngân hàng bên bán (được ủy thác )_ remitting bank - Ngân hàng thu (đại lý)_ collecting/ presenting bank - Người trả tiền_Drawee Nhờ thu phiếu trơn ăKhái niệm: là phương thức mà người bán uỷ thác cho ngân hàng thu tiền người mua căn cứ hối phiếu mình lập ra, chứng từ hàng hoá thì được gửi thẳng cho người mua. Phương thức này chỉ áp dụng khi người bán và người mua tin cậy lẫn nhau và có quan hệ chi nhánh hoặc liên doanh với nhau, hoặc chỉ dùng thanh toán các phụ phí liên quan đến xuất nhập khẩu mà không cần đến chứng từ kèm theo như: phí vận tải, tiền phạt.. Phương thức này không tạo ra đảm bảo cho người bán vì người mua có thể nhận hàng mà trì hoãn trả tiền, hoặc phải trả tiền mà không chắc chắn sẽ nhận được hàng trong trường hợp chứng từ đòi tiền đến trước hàng hoá. Việc thanh toán có thể là at sight hoặc là differed payment, tuỳ vào ngôn ngữ chỉ thị của hối phiếu do người bán ký phát. Nhờ thu kèm chứng từ: ăKhái niệm: Là phương thức người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ trên hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo với điều kiện người mua trả chấp nhận trả tiền thì mới giao chứng từ lấy hàng. Đây là phương thức an toàn hơn cho người bán, khống chế được việc nhận hàng mà không trả tiền nhưng lại không ngăn được việc họ từ chối hàng hoá và không trả tiền. Lúc đó các chi phí vận chuyển, lưu kho phát sinh sẽ là rủi ro cho người bán. Mặt khác nảy sinh từ việc trì hoãn nhận hàng và trả tiền của người mua, gây thiếu vốn lưu động cho nhà sản xuất. ăQuy trình: Đây là quy trình tương đối phức tạp, kéo dài thời gian hơn và trải qua nhiều bước như sau: NH bên bán Người bán Người mua NH bên mua 3 4 1 4 3 23 4 1. Người bán giao hàng cho người mua. 2.Ngưòi bán chuyển chứng từ hàng hoá cho ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu thông báo cho ngân hàng đối phương. Trong bộ chứng từ phải có hối phiếu đòi tiền. 3. Ngân hàng bên bán thông báo cho ngân hàng bên mua. 4. Người mua chuyển tiền và nhận chứng từ để đi lấy hàng, hoặc kí chấp nhận thanh toán để được giao chứng từ, ngân hàng bên mua chuyển tiền cho ngân hàng bên bán, ngân hàng sẽ trả tiền cho người hưởng theo hối phiếu quy định. 1.4.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ _ Documentary of Credit Đây là phương thức ưu việt nhất và quan trọng nhất được sử dụng rất phổ biến trong thanh toán quốc tế. Phương thức này bảo vệ tối đa quyền lợi của người bán, miễn là người bán thực hiện đúng và đầy đủ các phần trách nhiệm của mình trong việc giao hàng và lập chứng từ.. đồng thời thoã mãn nhu cầu của người mua là khi thực hiện theo đúng yêu cầu của ngân hàng chắc chắn sẽ nhận được hàng hoá theo các điều kiện đã định trong L/C. Quy trình chung như sau: 23 NH xác nhận 564 123 43 4 31 24 3 NH thông báo Người bán Người mua NH phát hành Các bước diễn ra như sau: 1.Sau khi kí hợp đồng thương mại, người bán sẽ yêu cầu người mua mở một L/C với số tiền không nhỏ hơn giá trị hợp đồng.Người mua sẽ mở L/C tại một ngân hàng phục vụ mình, gọi là ngân hàng phát hành. 2.Ngân hàng phát hành sẽ thông báo về việc L/C đã được mở theo một phương tiện phù hợp, ngân hàng bên bán ( NH thông báo) sẽ theo đó thông báo cho người bán. 3.Nếu không yêu cầu tu chỉnh gì về L/C, người bán tiến hành giao hàng. 4.Người bán chuẩn bị chứng từ để đòi tiền, ngân hàng thông báo chuyển chứng từ sang ngân hàng phát hành. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm kiểm tra chứng từ, thông báo cho người mua, ra quyết định thanh toán hay từ chối. 5.Người mua chuyển trả tiền vào ngân hàng để được kí hậu vận đơn đi lấy hàng. Trong trường hợp mở L/C xác nhận, thì ngân hàng mở L/C phải tìm kiếm một ngân hàng đầy đủ uy tín đứng ra xác nhận khả năng thanh toán của L/C đó. Chi tiết về phương thức này được trình bày ở phần I.2 sau đây. 2. Tín dụng chứng từ _ phương thức quan trọng nhất trong thanh toán quốc tế. 2.1. Khái niệm: 2.1.1. Khái niệm theo UCP Tín dụng chứng từ ( từ nay có thể gọi tắt là DC) là một thoả thuận trong đó ngân hàng hành động theo yêu cầu và chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu mở L/C) hoặc đại diện cho chính bản thân mình để: - Thanh toán cho/ hoặc theo lệnh người hưởng hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu cho người hưởng lợi ký phát. - Uỷ quyền cho ngân hàng khác thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu. - Cho phép ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong L/C với điều kiện các chứng từ được xuất trình phù hợp với mọi điều kiện, điều khoản nêu ra ở L/C. Theo khái niệm trên, tín dụng chứng từ là một cam kết trả tiền, nhưng về bản chất thì nó là sự bảo lãnh của ngân hàng đối với khoản nợ phát sinh từ quan hệ thương mại (mua bán hàng hoá và dịch vụ). 2.1.2. Trên phương diện tài chính - ngân hàng Thuật ngữ tín dụng của DC được hiểu. - Sự cấp vốn của ngân hàng cho khách hàng: là sự thương lượng giữa khách hàng (người mở L/C) với ngân hàng (người phát hành) để đi đến việc phát hành L/C. Khách hàng có thể ký quỹ 100%, cũng có thể là 0% hoặc chỉ một phần nào đó trên tổng số tiền phải trả. Ngân hàng có thể trả tiền cho người bán rồi sau đó mới đòi tiền người mua. - Sự tín nhiệm: ngân hàng chưa trả tiền, người mua hàng cũng chưa phải nộp 100% số tiền vào tài khoản mở L/C để chi trả nhưng người bán có thể tin tưởng vào uy tín của ngân hàng để giao hàng, sau đó xuất trình chứng từ đòi thanh toán. Nếu người mua không có khả năng thanh toán rõ ràng ngân hàng gặp rủi ro. Ngân hàng trong trường hợp này đã cho khách hàng vay uy tín của mình chứ không chỉ là cấp vốn bằng tiền. Như vậy, DC trên phương tiện tài chính - ngân hàng là sự cam kết của ngân hàng phát hành sẽ thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện nghĩa vụ này, cho phép ngân hàng khác chiết khấu bộ chứng từ xuất trình hợp lệ theo các điều kiện của L/C. 2.2. Các chủ thể tham gia. Trong mỗi món L/C có các chủ thể tham gia sau: - Người yêu cầu mở L/C: là người mua hàng hoá và dịch vụ của người nước ngoài ( nhà nhập khẩu) và yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở một L/C để trả tiền cho người hưởng. - Người hưởng lợi L/C: Là người bán(nhà xuất khẩu) hoặc một người thứ 3. - Ngân hàng mở _ Issuing bank: là ngân hàng cam kết thanh toán, chấp nhận thanh toán khi được xuất trình bộ chứng từ phù hợp - Ngân hàng thông báo_ Advising bank : thông báo cho người bán biết khi người mua đã mở L/c hoăc có sự tu chỉnh. - Ngân hàng xác nhận_ confirming bank : là ngân hàng có uy tín đứng ra xác nhận tính chân thực cua L/C - Ngân hàng thanh toán_ Negotiating/ Paying bank: có thể là ngân hàng phát hành hay một ngân hàng khác được uỷ nhiệm. 2.3. Tính độc lập tương đối của L/C. Tuy L/C là một văn bản phát sinh sau một hoạt động mua bán ngoại thương và nhằm thực hiện khâu cuối cùng cực kỳ quan trọng là khâu thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh, nhưng theo quan điểm của các nhà ngân hàng thì L/C có tính độc lập tương đối với hợp đồng mua bán đó. Tính độc lập này được giải thích: + Hợp đồng: Điều chỉnh quan hệ giữa người mua và người bán về hàng hoá, giá cả, phương thức thanh toán, điều kiện địa điểm, thời gian thanh toán, loại tiền thanh toán .. và .. + L/C: là một công cụ của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, được hai bên thoả thuận lựa chọn và nó là cam kết của ngân hàng mở với người bán hàng (hưởng lợi) chứ không phải là cam kết của người mua với người bán- đây chỉ là một cụ thể hoá của một điều kiện trong số các điều kiện của hợp đồng mua bán, và ngân hàng tham gia với tư cách là người bảo đảm trả tiền khi các yêu cầu trong L/C được thoả mãn. Các yêu cầu thể hiện trên L/C chính là được điều dẫn chiếu từ hoạt động mua bán. Như vậy, cũng thấy rằng L/C có độc lập với hợp đồng, nhưng là độc lập tương đối mà thôi. Cũng không loại trừ khả năng nó bị ràng buộc vào hợp đồng nếu trong L/C có dẫn chiếu chính xác đến tên của hợp đồng đi kèm. Ngân hàng sẽ không có trách nhiệm gì trong việc xử lý các điều kiện của hợp đồng mua bán giữa hai bên, mà đứng ở vị trí trung gian và khách quan trong khi xử lý nghiệp vụ. Ngân hàng sẽ giải quyết công việc của mình trên cơ sở chứng từ mà thôi, miễn chứng từ hợp lệ thì ngân hàng sẽ thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán, còn tất cả khiếu nại phát sinh khi người mua không vừa lòng với hàng hoá thì được xử lý giữa hai bên bán mua trên cơ sở hợp đồng thương mại giữa họ với nhau. 2.4. L/C- công cụ quan trọng của phương thức DC. Trong khái niệm đã đề cập đến thư tín dụng L/C, thực chất L/C là công cụ quan trọng nhất của phương thức chứng từ, được quan niệm là chứng thư, trong đó ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ thích hợp với nội dung của L/C. L/C chính là văn bản điều chỉnh hành động của ngân hàng mở L/C đối với người hưởng lợi, bởi vậy, cần có những lưu ý và cẩn trọng đặc biệt đối với ngân hàng khi thực hiện - mỗi L/C là một văn bản cam kết của ngân hàng, và đó phải là cam kết thực sự, cam kết có điều kiện và có tính dự phòng. Mỗi một L/C được xác định bởi: + Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C. Địa điểm mở L/C là địa điểm mà ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Số hiệu của L/C nói lên tính xác định của mỗi một món thanh toán. Ngày mở L/C là một yếu tố hết sức quan trọng, đó là ngày tính hiệu lực của L/C bắt đầu, và là căn cứ kiểm tra xem nhà nhập khẩu có thực hiện đúng yêu cầu mở L/C cho người hưởng hay không. + Tên, địa chỉ người tham gia thanh toán.Gồm tên và địa chỉ những người sau đây: - Người nhập khẩu - Người xuất khẩu - Ngân hàng mở L/C _openning and issuing bank - Ngân hàng thông báo _ Advising bank - Ngân hàng trả tiền/ thương lượng: có thể là ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng khác được uỷ nhiệm. - Ngân hàng xác nhận + Số tiền: phải ghi vừa bằng số, vừa bằng chữ và phải khớp nhau. + Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng. Ngày giao hàng và ngày hết hạn L/C không được trùng nhau. Ngày hết hạn phải sau ngày giao hàng thời hạn trả tiền một thời gian, tuỳ thuộc vào hối phiếu là trả ngay hay trả chậm. Thời hạn giao hàng: phải sau ngày mở L/C và trước ngày hết hạn của L/C. + Chi tiết về hàng hoá. Trong L/C không nên đưa quá nhiều các chi tiết về hàng hoá, mà mục đích là mô tả chính xác hàng hoá đó. + Chi tiết khác về vận tải, bảo hiểm, cách thức giao hàng, từng phần hay toàn bộ. + Các chứng từ phải xuất trình: người bán phải lập bộ chứng từ hàng hoá theo các yêu cầu của L/C thì mới được thanh toán, thường bao gồm các chứng từ sau: - Hoá đơn thương mại. - Vận đơn hoàn hảo. - Chứng nhận chuyển nhượng. - Bao gói và kiểm hàng. - Chứng nhận xuất xứ. - Các chứng nhận vệ sinh và kiểm dịch hoặc hun trùng tuỳ theo từng loại hàng hoá 2.5 Phân loại L/C. Tuỳ theo tiêu chí phân loại mà người ta có thể chia L/C(Thư tín dụng, TTD) thành một số loại riêng biệt nhằm nắm bắt được đặc trưng và bản chất của từng loại mà vận dụng vào thực tế cho phù hợp. ă Phân theo loại hình - Irrevocable L/C: Là loại tín dụng thư không thể huỷ ngang, tức muốn huỷ bỏ giá trị của nó phải có văn bản về sự thoả thuận đồng ý huỷ bỏ của các bên, một bên không được đơn phương huỷ bỏ tín dụng thư theo bất kì lí do nào. - Revocable L/C: Nếu trên L/C không có ghi chú là nó thuộc loại nào, ICC cho rằng nó là loại không huỷ ngang . L/C có thể huỷ ngang là loại L/C mà một bên có thể đơn phương huỷ bỏ L/C đang còn hiệu lực mà bên phía người hưởng hoặc ngân hàng thông báo và xác nhận không biết hoặc không đồng ý với việc huỷ bỏ đó. Trong thanh toán quốc tế hiếm gặp loại L/C này vì nó thực sự nguy hiểm cho khách hàng. Tuy nhiên, L/C không huỷ ngang vẫn có thể huỷ bỏ theo thoả thuận của các bên mua và bán và các ngân hàng liên quan. ăPhân theo phương thức sử dụng -Tín dụng thư không huỷ ngang có giá trị trực tiếp: là loại L/C có giá trị thanh toán tại ngân hàng phát hành. Loại này ít gặp vì tính bất tiện của nó, không được chiết khấu tại ngân hàng khác, không được thanh toán tại ngân hàng đại lí. -Tín dụng thư không hủy ngang có giá trị chiết khấu: có hai loại, chiết khấu tại ngân hàng được chỉ định và chiết khấu tại bất cứ ngân hàng nào. Nếu là loại tín dụng thư có giá trị chiết khấu tại ngân hàng chỉ định thì trên thư tín dụng phải nói rõ tên của ngân hàng chiết khấu, nếu là loại tín dụng thư chiết khấu không hạn chế, thi trên thư tín dụng phải ghi câu “ Free negotiating” hoặc một câu có ý nghĩa tương tự. -TDT không huỷ ngang có xác nhận là tín dụng thư không huỷ ngang có xác nhận của một ngân hàng uy tín nhằm bảo đảm tối đa khả năng thanh toán của thư tín dụng - thường người hưởng yêu cầu có xác nhận nến họ không chắc chắn về khả năng tài chính và uy tín về ngân hàng phát hành thư tín dụng, và chi phí cho thư tín dụng không huỷ ngang có xác nhận lớn hơn thư tín dụng không huỷ ngang không xác nhận. - TTD tuần hoàn: revolving DC: là loại L/C mà sau khi sử dụng xong và hết thời hạn hiệu lực nó lại có giá trị như cũ cho đến khi tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. Như vậy, trong L/C phải ghi rõ ngày hết hiệu lực L/C chung và số lần tuần hoàn, thời hạn hiệu lực mỗi lần tuần hoàn, và cho biết là loại tích luỹ hay không tích luỹ. Tích luỹ, nghĩa là giá trị của L/C con trước đó nếu còn dư, sẽ được cộng dồn vào giá trị của L/C sau. Có 3 cách tuần hoàn: tự động, bán tự động và tuần hoàn hạn chế - Thư tín dụng tuần hoàn tỏ ra rất linh hoạt, tiết kiệm chi phí, tránh đọng vốn và được ưa dùng trong quan hệ mua bán hàng hoá thường xuyên, định kì và khối lượng lớn, nhưng phải là quan hệ bạn hàng tin cậy thì mới nên áp dụng. -TTD điều khoản đỏ_ Red clause DC: là loại thư tín dụng mà người yêu cầu mở thư tín dụng này cam kết thanh toán ngay cho người xuất khẩu ngay sau khi thư tín dụng được mở. Như vậy, đây chỉ là loại tín thương mại người mua cấp cho người bán chứ không phải là tín dụng ngân hàng, ngân hàng chỉ chuyển tiền từ tài khoản người mở L/C bổ sung vốn cho người hưởng mà thôi. Thường ngân hàng cam kết ứng trước một số tiền nhất định, thường là 30-50% giá trị tín dụng thư khi nhận được bộ chứng từ tạm. Bộ chứng từ thường gồm các giấy tờ như sau: + Hối phiếu số tiền tạm ứng. + Hoá đơn. +Cam kết trả nợ/ giao hàng +Chứng từ khác. - Thư tín dụng dự phòng (Stanby letter of credit). Đúng như tên gọi của nó, loại thư tín dụng này nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của người mua hàng còn việc thanh toán và nhận hợp đồng vẫn theo tín dụng đã mở. Thường các standbies này có tính chất dự phòng, dùng thanh toán một khoản tiền cho phía người bán khi người mua vi phạm hợp đồng, tức không nhận hàng theo quy định. Còn được gọi là bảo lãnh thư của cam kết bảo lãnh. -Thư tín dụng chuyển nhượng _tranferable DC: Là thư tín dụng mà theo đó người hưởng thứ nhất có quyền yêu cầu được uỷ quyền thanh toán, cam kết trả sau, chấp nhận chiết khấu (gọi là ngân hàng chuyển nhượng) hoặc trong trường hợp tự do chiết khấu, ngân hàng uỷ quyền ghi rõ trong TTD là ngân hàng chuyển nhượng, chuyển ngượng cho một hay nhiều người hưởng khác (người hưởng thứ 2) sử dụng toàn bộ hay một phần TTD. Người hưởng thứ nhất đã trở thành trung gian cho người bán và người mua cuối cùng, họ không cần vốn mà vẫn ăn chênh lệch giá do ghép được giao dịch giữa người bán và người mua. -Thư tín dụng giáp lưng _ Back to back DC ăPhân loại theo thời hạn thanh toán. -TTD trả ngay -TTD trả chậm 2.6. Chứng từ trong giao dịch tín dụng chứng từ Ngay từ tên gọi của phương thức đã cho thấy tầm quan trọng của chứng từ. Đây là một phương thức phức tạp đòi hỏi rất nhiều các loại chứng từ liên quan, mỗi loại chứng từ gồm nhiều bản, được yêu cầu thực hiện theo một số chuẩn tắc quốc tế khá phức tạp. Ngân hàng sẽ xem xét quyết định thanh toán hoặc không thanh toán chỉ trên cơ sở chứng từ, hoàn toàn tách rời với giao dịch hàng hoá, và ngân hàng sẽ kiểm tra với sự cẩn thận "hợp lý" tức chỉ xem xét logic bề mặt của chứng từ để ra quyết định. Ngân hàng được miễn trách đối với các gian lận mà ngân hàng không thể nhận thấy được theo logíc thông thường. Các chứng từ cần xuất trình để thanh toán và cam kết trả sau, chấp nhận hoặc chiết khấu phải quy định rõ trong TTD và nếu xuất trình thừa, ngân hàng trả người hưởng và không kiểm tra và không chịu trách nhiệm gì về thực trạng của nó. 2.7. Hiệu quả sử dụng tín dụng chứng từ. 2.7.1. Khái niệm: Hiệu quả sử dụng phương thức tín dụng chứng từ là mức độ thoả mãn của các bên tham gia, đó là người mua sẽ nhận hàng khi trả đủ /cam kết trả tiền, người bán nhận tiền/ cam kết được trả tiền khi đã chuẩn bị và giao hàng theo đúng hợp đồng và ngân hàng thực hiện việc kiểm tra chứng từ, giao chứng từ, thu phí dịch vụ theo đúng tiến độ mong muốn. Cũng như yêu cầu đối với một phương thức thanh toán, yêu cầu chính xác, an toán và kịp thời chính là các chỉ tiêu đề ra để xem xét đến hiệu quả của phương thức tín dụng chứng từ - qua đó nhận thấy phương thức này thực sự đem lại lợi ích ưu việt cho các bên. + Với người xuất khẩu: Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ, kịp thời tiền hàng, có thể thu càng nhanh càng tốt. Khi họ hoàn thành chứng từ chắc chắn nhận được tiền. Nhà xuất khẩu có thể thu hồi tiền nhanh bằng cách chiết khấu trước thời hạn bộ chứng từ hàng xuất đáp ứng vốn lưu động. Mặt khác, nhà xuất khẩu quan tâm đến việc giữ vững giá trị hàng hoá khi có biến động tỷ giá; cũng như việc thúc đẩy quan hệ hợp tác làm ăn của mình qua uy tín thực hiện hợp đồng. + Với người nhập khẩu: bảo đảm chắc chắn nhận được hàng đúng số lượng và chất lượng yêu cầu, đúng thời hạn. Trong trường hợp các điều kiện khác không đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt. Nhà nhập khẩu có thể ký quỹ bé hơn 100% tổng giá trị hợp đồng, như vậy đã tranh thủ được tín dụng của ngân hàng. Họ có thể tìm đối tác mua bán bằng uy tín của ngân hàng, thể hiện ở cam kết thanh toán của ngân hàng phục vụ mình. + Ngân hàng - Đối với ngân hàng thì đây là một hoạt động thu phí, tạo thu nhập cho ngân hàng, và là một nhân tố tạo điều kiện cho ngân hàng thắng trong cạnh tranh. ít rủi ro. Nói như vậy, và ngân hàng chỉ là một trung gian thanh toán, thanh toán bằng tiền của khách hàng là chủ yếu. Tất nhiên không phải không co rủi ro, rủi ro nằm ở chỗ, nếu kí quỹ bé hơn 100% mà khách hàng chưa thanh toán cho ngân hàng đã bị phá sản, thì ngân hàng phải thực hiện thanh toán theo cam kết thực sự của mình trong thư tín dụng, hoặc các lỗi từ chối chứng từ bất hợp lệ, khách hàng không thanh toán và ngân hàng bị ngân hàng bạn ghi nợ tài khoản -Điểm ưu việt của phương thức này là ở chỗ, khớp được thời hạn trả tiền và giao hàng giữa hai bên mua bán từ đó được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. 2.7.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng phương thức DC. Tuy vậy, hiệu quả sử dụng phương thức này phụ thuộc vào nhiều vấn đề liên quan, vì đây là một quy trình máy móc, phức tạp, yêu cũng xử lý khối lượng chứng từ lớn, phải có sự tham dự của nhiều các cơ quan khác của chính quyền: phòng thương mại, nhà vận chuyển, nhà bảo hiểm..Tuy nhiên, có một số vấn đề ảnh hưởng chủ yếu đến hiệu quả sử dụng phương thức này như sau: 2.7.2.1. Các vấn đề sử dụng UCP 500 UCP là văn bản được coi là văn bản quy tắc quốc tế do ICC (Phòng Thương mại quốc tế - trụ sở tại Paris) ấn hành, và được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Nó được coi như một hành lang hoạt động cho giao dịch thanh toán quốc tế của các ngân hàng trong thực tiễn thương mại thế giới. Trong việc thanh toán L/C, các ngân hàng cần hiểu rõ và áp dụng các quy định này vào hành động của mình, tuy rằng không phải là việc đơn giản. UCP đã qua nhiều lần chỉnh sửa và hiện nay sau 5 lần chỉnh sửa UCP 500 là văn bản hoàn thiện và đầy đủ nhất, tuy vậy, UCP chỉ là một thông lệ chứ không thay thế được luật pháp quốc gia, vì vậy, việc sử dụng UCP cần phải phù hợp với luật nhà nước. Hầu hết các nước đều ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ thanh toán quốc tế. Riêng Việt Nam, việc áp dụng UCP là duy nhất và không có dẫn chiếu gì đến luật Việt nam về mảng này. Đây là một điều khác của Việt Nam với các nước trong việc áp dụng UCP. Như vậy, muốn sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trước hết phải thông hiểu và vận dụng linh hoạt UCP vào thực tế từng món thanh toán, đây là cẩm nang dành cho những ai cóliên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và thực hiện dịch vụ thanh toán. 2.6.2.2. Về phía nhà xuất khẩu: Nhà xuất khẩu nên hiểu biết về tín dụng chứng từ và xác định đây chỉ là điều kiện phương thức thanh toán trong số rất nhiều các điều kiện của hợp đồng mua bán. Muốn được thanh toán nhà xuất khẩu phải hiểu cách lập và hoàn thành bộ chứng từ hoàn hảo (không có các điều kiện bất hợp lệ), xuất trình đúng thời gian, đúng địa chỉ để được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Việc lập chứng từ thường đòi hỏi nhà xuất khẩu phải có mối quan hệ tốt đối với các cơ quan cấp phép chứng nhận, cũng như lựa chọn nhà vận chuyển,bảo hiểm phù hợp. Quan trọng hơn, nhà xuất khẩu phải chuẩn bị hàng hoá và cung ứng dịch vụ với thiện chí cao nhất để hoàn thành hợp đồng mua bán đã định và đó chính là cơ sở vững chắc nhất cho một món thanh toán thành công. 2.6.2.3. Nhà nhập khẩu: Một hoạt động mua bán có hiệu quả không chỉ là thiện chí của bên bán mà còn cần cả thiện chí của bên mua hàng, đó là thiện chí nhận hàng theo hợp đồng và thanh toán theo hoá đơn (hối phiếu đòi tiền). Như đã phân tích thì thanh toán là về thứ hai hoàn thành một giao dịch hàng_ tiền, vì vậy trao đổi hàng hoá là cơ sở của việc thanh toán tiền tiếp theo sau. Nhà nhập khẩu phải hiểu về phương thức tín dụng chứng từ để mở một thư tín dụng với các điều khoản phù hợp, và đây chính là linh hồn của phương thức tín dụng chứng từ. Thư tín dụng là cơ sở để đối chiếu chứng từ xuất trình để được thanh toán và một thư tín dụng sẽ là cản trở cho việc thanh toán nếu chứa trong nó nhiều điều khoản tối nghĩa, mập mờ hoặc gây nhầm lẫn, và hiểu theo hai cách hoặc quá chi tiết khiến cho việc hoàn thành chứng từ của đối phương là không thể đạt được. Tuy nhiên nhà nhập khẩu cần lưu ý rằng phương thức tín dụng chứng từ là đảm bảo trả tiền với các điều kiện, điều khoản về bộ chứng từ, chứ không liên quan gì đến các gian lận về hàng hoá. Có nghĩa là, nếu nhà nhập khẩu nhận được hàng hoá hư hỏng và sai quy cách, thì không được phép yêu cầu ngân hàng phát hành ngừng thanh toán hoặc truy đòi thanh toán, mà nhà nhập khẩu lúc này sẽ khởi kiện nhà xuất khẩu trên cơ sở hợp đồng mua bán mà thôi. Và nếu không thắng kiện, thì lỗi là ở nhập khẩu đã chọn nhầm đối tác trong kinh doanh. 2.6.2.3. Về phía ngân hàng. Trong phương thức thanh toán này, ngân hàng đóng vai trò tương đối rõ nét so với các phương thức chứng từ, nhờ thu,.. ngân hàng sẽ là người mở L/C theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, và như thế ngân hàng đã cam kết chăc chắn việc thanh toán chứ không phải là nhà nhập khẩu. Tất nhiên, nhà nhập khẩu trong thương vụ chính là người trả tiền cuối cùng và nhà nhập khẩu không thể viện cớ rằng mình không phát hành L/C để từ chối thanh toán. Ngân hàng đóng vai trò thông báo về việc mở, tu chỉnh, huỷ bỏ L/C, xác nhận L/C nếu là ngân hàng được yêu cầu xác nhận, thực hiện việc tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và thanh toán. Có thể nói, trong phương thức này, vai trò của ngân hàng thể hiện rõ nhất ở khâu tiếp nhận và khâu kiểm tra chứng từ. Tuy nhiên ngân hàng không phải là người nhập khẩu, bởi vậy việc kiểm tra chứng từ là công việc mang tính chất máy móc và ngân hàng sẽ thực hiện theo cái gọi là thực hành ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế. Vì không hiểu rõ về hàng hoá cũng như chi tiết dịch vụ cung ứng, ngân hàng sẽ kiểm tra như thế nào? Ngân hàng kiểm tra "trên bề mặt chứng từ" và chỉ trên chứng từ mà thôi - ngân hàng sẽ xác định mức độ phù hợp của bộ chứng từ, và phát hiện các bất hợp lệ nếu có, vai trò của ngân hàng chỉ là người giám sát chứng từ, trên cơ sở chứng từ và sẽ không chịu trách nhiệm gì về việc gian lận thương mại giữa hai bên. Tuy vậy, trong phương thức này, ngân hàng sẽ quan hệ với nhà nhập khẩu như một người trả tiền hộ hoặc là người cấp tín dụng để nhập hàng, việc cấp tín dụng là ở chỗ ngân hàng, theo thẩm định của mình, sẽ quyết định mức ký quỹ cho khách hàng của mình có thể 100% hoặc 30%, 15% và 0% đối với các khách hàng có uy tín trong thanh toán, quan hệ lâu dài và tin cậy, như vậy ngân hàng không chỉ là trung gian thanh toán, mà đã tham gia cấp tín dụng và sẽ chịu rủi ro nào đó nếu khách hàng yêu cầu mở L/C của mình phá sản. Nêú là ngân hàng chiết khấu, ngân hàng sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán và sẽ thu tiền lại từ ngân hàng phát hành. Như vậy, khẳng định rằng ngân hàng nắm một vai trò chủ động trong việc thanh toán và nếu ngân hàng không có uy tín thì không thể tham gia thanh toán và buộc khách hàng phải tổn phí xác nhận. Ngân hàng mở L/C phải có công nghệ ngân hàng phát triển, máy móc đầy đủ để có thể liên lạc nhanh chóng và chính xác đến các bên trong khoảng thời gian cho phép. Không chỉ thế, hiệu quả trong việc thanh toán, phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ của thanh toán viên, đặc biệt là kinh nghiệm trong xử lý chứng từ để tránh gặp sai phạm trong thanh toán. Ví dụ ngân hàng có thể bỏ qua các lỗi chưa trở thành bất hợp lệ, hoặc phải phát hiện những bất hợp lệ để từ chối thanh toán đúng. Việc từ chối thanh toán vô căn cứ (sai) sẽ gây thiệt hại vốn, mất uy tín cho ngân hàng, và sẽ là hậu quả khó sửa chữa, bởi vì ngân hàng kinh doanh bằng uy tín của mình trên thương trường. 2.6.2.4. Sự ảnh hưởng của các nghiệp vụ khác trong ngân hàng. Thanh toán quốc tế là việc thanh toán có liên quan đến việc chuyển đổi đồng tiền giữa các quốc gia, bởi vậy nó quan hệ đến nguồn ngoại tệ của ngân hàng. Thông thường, nếu ngân hàng có thế mạnh về các ngoại tệ thường dùng trong thanh toán như USD, EURO,YEN.. thì nó sẽ thu hút được khối lượng lớn các khách hàng nhập khẩu. Việc khan hiếm ngoại tệ sẽ là cản trở lớn cho Ngân hàng và khách hàng thanh toán cho nước ngoài. Không chỉ thế, nghiệp vụ tín dụng nội tệ ngân hàng cũng là một nghiệp vụ tạo điều kiện cho thanh toán được trôi chảy, trong trường hợp khách hàng thiếu vốn thanh toán, khách hàng có thể vay vốn nội tệ (hoặc vay ngoại tệ nếu được phép) đã cho thanh toán. Rõ ràng, việc cấp tín dụng cho khách hàng đã tác động như thế nào tốt như thế nào đến việc chi trả cho người xuất khẩu . Chương II Thực trạng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại sở gd ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn I 1. Vài nét về sở giao dịch nH nông nghiệp &phát triển nông thôn I và tổ thanh toán quốc tế. Theo quyết định QĐ 15 ngày 25/11/1990 của Tổng Giám đốc ngân hàng nhà nước, sở giao dịch I được hình thành với chắc năng là nơi thí điểm các chức năng nhiệm vụ theo lệnh của trung ương trước khi đưa vào chính thức triển khai. Địa bàn hoạt động của Sở giao dịch I là thành phố Hà Nội với số khách hàng ban đầu là 7 , dư nợ 800 triệu VND. Tuy Sở giao dịch I được quyết định thành lập ngày 25/11/1991, nhưng Sở đã đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 1991. Đến QĐ 198/QĐ - NH5 (2/6/1998) của thống đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam quyết định thành lập các đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Ngân nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam thì Sở giao dịch được gọi tên chính thức là Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I, gọi tắt là Sở giao dịch I. Sở giao dịch I là pháp nhân tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh và các cam kết của mình, có bảng tổng kết tài sản và con dấu riêng, hoạt động trong khuôn khổ luật nhà nước, điều lệ ngân hàng nông nghiệp và quy định của bản thân Sở giao dịch. Kể từ bước khởi đầu đến nay, Sở giao dịch I đã có một quá trình phát triển với nhiều khó khăn không chỉ của ngành ngân hàng Việt Nam non trẻ nói riêng mà còn của cả nền kinh tế Việt Nam nói chung - mặc dù vậy, qua Sở lịch sử hơn 10 năm tồn tại và phát triển của mình, Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp I đã luôn được đánh giá cao về những kết quả thuộc thành tựu nổi bật Sở giao dịch I được đánh giá là một trong những đơn vị hoạt động thành công nhất trong hệ thống, và luôn có những tìm tòi, sáng tạo để hoà nhập với nền kinh tế đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Trụ sở của sở giao dịch I đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch - quận Đống Đa - thành phố Hà Nội. Sở giao._. lập cam kết thanh toán, ký và đóng dấu sẵn đơn xin vay và dấu nhận nợ - khách hàng vì cho rằng khi có tiền trên tài khoản, ký quỹ nhỏ hơn 100% sao lại phải ký đơn vay? + Việc quy định chữ ký trên thư yêu cầu mở L/C phải có cả chủ tài khoản và kế toán trưởng. Trong trường hợp không có kế toán trưởng thì giải quyết thế nào? + Thế nào là: ý kiến của khách hàng và các cơ quan khác về chứng từ chỉ có giá trị tham khảo, trong khi trong thực tế, ngân hàng phải thông báo cho khách hàng về tình trạng chứng từ, sau đó mới ra thanh toán cho ngân hàng đối phương sau khi có ý kiến của khách hàng. - Sở giao dịch I căng về nguồn VND để mua ngoại tệ nên mất cơ hội thu gom ngoại tệ. Không chỉ thế, sự phân công phối hợp hoạt động trong Sở giao dịch I còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Khách hàng nếu tạm thiếu vốn thanh toán sẽ nảy sinh mâu thuẫn vay vốn, khi khách hàng muốn vay VND đôi khi thiếu sự phối hợp giữa hai phòng ban nghiệp vụ và gây phiền hà, và mất khá nhiều thời gian của khách hàng, ảnh hưởng đến thiện cảm của khách hàng đối với Sở I. Nhân viên ngân hàng chưa có sự chủ động sáng tạo trong khâu tiếp xúc khách hàng. Hiện phân công mỗi thanh toán viên phụ trách một số đơn vị hiện có thì là tương đối sát sao nhưng lại không xác định gì về khả năng mỗi nhân viên tiếp cận khách hàng tiềm năng. Đối với các khách hàng thân thuộc, ngân hàng chưa có dịch vụ chăm sóc khách hàng chu đáo để giữ khách. Đã từng xảy ra sai sót trong bộ chứng từ LC/ 071 do những bất đồng quan điểm về vai trò của hối phiếu trong bộ chứng từ. Điều này có thể gây rủi ro cho Ngân hàng. Chính quan điểm của ICC và luật pháp các nước liên quan đến thanh toán quốc tế về điểm này vẫn chưa thống nhất và rõ ràng. Điều này ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng không nhỏ và vụ việc vẫn đang tiếp tục được giải quyết. Tuy nhiên, trước mắt, ngân hàng đã mất một khách hàng lớn là Centrimex. Việc thẩm định và xác định ký quỹ đối với từng khách hàng còn chưa hợp lý. Thực tế khi mở L/C nhập, ngân hàng là người nắm vận đơn và là chủ sở hữu hàng hoá, vì vậy, mức ký quỹ hoàn toàn có thể định thấp hơn - hiện tại các khách hàng không phải doanh nghiệp quốc doanh phải ký quỹ 100%. Tại sao không tiến hành thẩm định từng khách hàng, từng L/C để có thể hạ thấp mức quỹ, vừa bảo đảm an toàn cho ngân hàng vừa thu hút khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chương III một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch NHNo và PTNT I 1. Định hướng cho hoạt động thanh toán quốc tế tại SGD I cho thời gian tới. Thời gian vừa qua, tổ thanh toán quốc tế là một tổ nghiệp vụ thu hút được sự chú ý của cả ngân hàng, không chỉ vì tính mới mẻ của nó mà còn do sự tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm. Thời gian hơn 4 năm hoạt động, hoạt động của tổ đã đi vào nề nếp, có đóng góp vào quỹ thu nhập của ngân hàng tuy còn nhỏ bé và chưa tương ứng với tiềm năng. Khả năng của Sở, quyết tâm của anh chị em trong tổ và cơ hội của thời kì mở cửa sẽ tạo ra khả năng cho sự phát triển cả về lượng và chất cho hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Trong năm 2002, SGD đã đặt chỉ tiêu hoạt động như sau Nguồn vốn huy động tăng từ 15 đến 20 % Tổng dư nợ tăng từ 15 đến 20 % Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3 % Quỹ thu nhập 946 A đạt 50 tỷ VND Hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở I là một chưa phải la một hoạt động tạo thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tuy vậy, một số các chỉ tiêu cụ thể cho công tác này được đề ra như sau: Doanh số thanh toán tăng 10 đến 15 % Mua bán ngoại tệ tăng từ 5 đến 10 % Hiện tại thị phần thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại ở Việt nam có phần đa thuộc về Ngân hàng Ngoại thương vơi thế mạnh là ngân hàng truyền thống trong lãnh vực này tại Việt nam. Tuy nhiên, xu thế gần đây đã nhận thấy động thái phát triển ngày càng mạnh mẽ của Ngân hàng Nông nghiệp. Quyết tâm của hệ thống ngân hàng nông nghiệp là cạnh tranh lành mạnh thu hút khách hàng, và mở rộng phạm vi các sản phẩm ngân hàng do mình cung cấp. Cơ cấu thị phần thanh toán quốc tế hiện nay tại Việt nam như sau: Bảng 6. Thị phần thanh toán quốc tế Năm Ngân hàng 1995 1998 NH Ngoại thương 61.8 41.1 NH Công thương 8.4 13.8 NH ĐT _PT 1.8 3.2 NH Nông nghiệp 4.6 10.1 Trong thời gian tới, khi tiến tới gia nhập khối mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Mỹ chính thức đi vào hoạt động sẽ tạo cơ hội cho việc giao lưu mua bán thương mại với nước ngoài. Thuế quan giảm, phá dỡ hàng rào phi quan thuế sẽ là cơ hội cho các nhà xuất khẩu Việt nam xâm nhập thị trường nước ngoài, và là cơ hội thu hút đầu tư, nhập khẩu máy móc công nghệ, nguyên vật liệu từ nước ngoài cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với Việt nam, đó là tiến trình đầy khó khăn, vì khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt nam còn tương đối kém so với hàng hoá của các nước trong khu vực, vấn đề buôn bán tiểu ngạch không thể kiểm soát, tình trạng vi phạm bản quyền tràn lan.. sẽ là cản trở không nhỏ. Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán quốc tế được phát triển, nhưng đồng thời đặt các Ngân hàng thương mại hiện có tại Việt nam trước những cạnh tranh và thử thách mới. Một khi các ngân hàng nước ngoài được phép thực hiện tất cả các nghiệp vụ như các chủ thể trong nước, thì với sức mạnh tài chính, kinh nghiệm vài trăm năm trong nghề ngân hàng, uy tín và vị thế vững chắc trên trường quốc tế.. sẽ là mối đe doạ thực sự đến thị phần còn đang bấp bênh hiện nay. Đó cũng là lý do yêu cầu cải cách khu vực tài chính ngân hàng và tiền tệ quốc gia, triển khai công nghệ ngân hàng và đa dạng hoá các sản phẩm ngân hàng. Sở giao dịch I cũng không nằm ngoài xu thế đó, hoạt động thanh toán quốc tế của Sở cũng đang gặp phải những thách thức và khó khăn. Để đạt được những mục tiêu của mình,Sở cần phát huy nội lực, đồng thời tìm kiếm sự hỗ trợ hữu ích từ Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam, Ngân hàng nhà nước, chính phủ và các ban ngành có liên quan. 2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả và mở rộng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHNo và PTNT Việt nam Phương thức tín dụng chứng từ đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong thanh toán quốc tế, với những ưu thế nổi trội so với các phương thức khác. Tín dụng chứng từ là phương thức trả tiền dựa trên hợp đồng hàng hoá dịch vụ hoặc trả lương chuyên gia, và ngày càng được chú trọng hơn một khi thương mại thế giới đang phát triển nhanh chóng. Phương thức này đã kết hợp được tính an toàn cho cả người bán, người mua, ngân hàng phục vụ, cũng như tạo ra tính linh hoạt trong vận dụng. Tuy vậy, trong thực tế, để phương thức này phát huy được vai trò của mình, thì phải hiểu và vận dụng tốt các lý thuyết đã có, đáp ứng một số các yêu cầu và quy tắc nhất định. Muốn vậy, ngân hàng sẽ là người có trách nhiệm lớn nhất, sao cho mỗi vụ thanh toán diễn ra đều được an toàn, chính xác, đúng thời gian. Điều đó nhằm thoã mãn yêu cầu của khách hàng, tạo thu nhập cho ngân hàng, giúp ngân hàng tồn tại và phát triển trong cạnh tranh. Trải qua thời gian thực tập tại ngân hàng,em xin đượcmạnh dạn đề xuất một số các giải pháp như sau, nhằm góp phần hoàn thiện và mở rộng thị phần cho nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ của Sở. 2.1 Nâng cao trình độ thanh toán viên ngân hàng Việc sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán có hiệu quả đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của thanh toán viên ngân hàng đứng ra tiến hành nghiệp vụ. Trong lúc ngân hàng đứng trung gian thanh toán, ngân hàng sẽ tiếp xúc với người mua và ngân hàng đại lí nếu đóng vai trò ngân hàng phát hành, tiếp xúc với người bán nếu chỉ đóng vai trò ngân hàng thông báo. Trong mọi trường hợp, ngân hàng luôn đóng vai trò chủ động, thể hiện từ khâu tiếp nhận, xử lí hồ sơ cho đến khâu thanh toán. Cẩm nang cho mỗi thanh toán viên chính là ấn phẩm UCP500 của ICC. Tuy vậy, điều quan trọng hơn, đó là hiểu và vận dụng UCP vào thực tiễn vốn phong phú và đa dạng. Ngôn ngữ của UCP rất khó hiểu, và ngay cả các bản dịch cũng không thống nhất. Trên thị trường Việt nam hiện có khá nhiều các tài liệu hướng dẫn sử dụng UCP, tuy tiếc rằng, chúng đôi khi không cùng quan điểm, gây khó khăn cho người đọc. Hiện nay chưa có một tài liệu thống nhất nào trong việc hiểu và sử dung UCP cho các ngân hàng thương mại hiện có tại Việt nam. Mỗi hệ thống ngân hàng có các văn bản cho riêng mình, tuỳ theo trình độ và nhận thức của ngân hàng. Nhân viên ngân hàng muốn phục vụ tốt khách hàng nên hiểu biết về nghiệp vụ là điều kiện cần, tuy nhiên, điều kiện đủ sẽ là sự hiểu biết rộng rãi về kinh tế, ngoại thương, hiểu về vận chuyển, bảo hiểm, thông lệ mua bán quốc tế. Đây là một yêu cầu không hề đơn giản. Tổ thanh toán quốc tế là một phòng nghiệp vụ thường xuyên tiếp xúc khách hàng, vì vậy thái độ của nhân viên là rất quan trọng. Nhân viên ngân hàng cần xây dựng tác phong công nghiệp và lịch sự, nhiệt tình đáp ứng mọi yêu cầu chính đáng của khách. Bộ mặt của ngân hàng sẽ được đánh giá tổng thể, và không thể thiếu thái độ với khách hàng của nhân viên. Với tư duy kinh doanh hiện nay, ngân hàng cần phổ biến cho nhân viên của mình về tư duy Marketing ngân hàng, để từng nhân viên nhận biết được từng hành vi của mình sẽ tác độngnhư thế nào đến khách hàng, và cách thức thoã mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, qua đó làm lợi cho bản thân. Muốn vậy, Sở giao dịch I cần chú trọng đến một số các yêu cầu như sau: ãTập huấn về UCP, URR, các văn bản của chính phủ, ngân hàng nhà nước quy định về lãnh vực thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ. Tập huấn cho nhân viên của tổ thanh toán về các quy tắc và quy định trong nội bộ hệ thống ngân hàng Nông nghiệp, nội bộ Sở giao dịch I. Bổ sung kiến thức còn thiếu về tin học và ngoại ngữ, công nghệ mới trong nghành bằng cách tiến hành kiểm tra định kì nhân viên của mình, đánh giá và bổ khuyết ngay những gì còn yếu kém. Sở có thể xem xét một mô hình đánh giá thực hiện công việc phù hợp hơn mô hình hiện tại, mặc dù đó cũng là một mô hình rất hiệu quả. Một mô hình có thể xem xét là mô hình MBO (Management by Object) tức quản trị thực hiện công việc trị bằng mục tiêu. Đây là mô hình rất hay, vì nó tạo ra kết nối giữa nhân viên với người quản lí, và tạo ra sự tương tác và đánh giá thường xuyên. Nhân viên sẽ thảo luận và cùng với người quản lí trực tiếp ( trưởng phòng) định ra mục tiêu cho mình, đến kì đánh giá, nhân viên sẽ tự đánh giá và sau đó được nhận xét lại bởi người quản lí trực tiếp của mình. Dựa trên kết quả của kì đánh giá công việc trước mà nhân viên sẽ phải tìm cách điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp hơn, bổ sung và sữa chữa những gì chưa thực hiện được vào kì sau. Sở có thể tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về kinh tế, xã hội, nhằm tạo cho nhân viên của mình một khả năng hiểu biết rộng hơn nữa, tạo thuận lợi cho công việc. Cũng có thể phổ biến kinh nghiệm, giải đáp thắc mắc nhân viên về nghiệp vụ với sự cộng tác của các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong nghề. Sở hoàn toàn có thể mời các giáo viên, chuyên gia kinh nghiệm để đào tạo thêm cho nhân viên các kiến thức cơ bản và nâng cao về nghề, tạo ra một môi trường hăng hái học tập và hứng thú với cái mới, tạo nên không khí ham học hỏi và nhu cầu được học cho nhân viên của mình. Nhân viên ngân hàng có giỏi thì ngân hàng mới có thể làm giàu cho mình. ãThông qua đánh giá thực hiện công việc như vậy, Sở cần nghiêm khắc chọn đúng người đúng việc. Với các trường hợp không đủ trình độ, Sở cần xem xét bổ sung kiến thức, hoặc nếu, không thể, có thể thuyên chuyển sang các công việc phù hợp hơn. Sở cần có tư duy rõ ràng rằng, một người chỉ có thể thực hiện tốt công việc của mình khi và chỉ khi họ thấy công việc đó vừa với khả năng của mình, tạo hứng thú cho họ khi làm việc đó. ãSở nên mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ, có khả năng vào vị trí lãnh đạo, tạo cho họ một vị thế có thể phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình. Sở cần có chế độ khen thưởng hợp lí, làm tốt phải được khuyến khích, làm xấu phải phê bình để tiến bộ. Tránh hết sức trường hợp bình quân hoá trong khen thưởng, vì như thế làm mất đi vai trò quan trọng nhất của khen thưởng là tính kích thích người lao động. ã Sở phải đặt ra chế độ thi tuyển rộng rãi, thu hút người tài về với ngân hàng, bởi vì mỗi một con người trong ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với hành động của những người còn lại. Đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho nhân viên của mình có thể học cao hơn, tu nghiệp ở các nước tiên tiến.. nhằm tạo ra một sự chuẩn bị cho sân chơi ngân hàng đầy canh tranh sắp tới 2.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và mở rộng mạng lưới chi nhánh Như đã phân tích, Sở giao dịch I là một chi nhánh hoạt động tất cả các nghiệp vụ ngân hàng như các chi nhánh khác, và như vậy, các món thanh toán quốc tế của Sở cũng được tập trung về Sở giao dịch đầu mối. Mỗi một hoạt động của Sở đều có tác động đến các hoạt động còn lại, và nói đến Sở thì phải nói đến các bộ phận phòng ban không thể tách rời. Hiện nay, nhà làm việc của Sở được bố trí không mấy tiện lợi cho khách hàng, và lối vào tương đối bất tiện. Các phòng giao dịch, phòng ngân quỹ, phòng tín dụng được bố trí xa nhau, khách hàng khi đến xin vay chẳng hạn, phải lòng vòng trong Sở khá phức tạp, có thể gây tâm lí mệt mỏi cho khách. Trụ sở của Sở giao dịch I đang được lên kế hoạch xây dựng lại trong thời gian tới, và hy vọng sẽ được quy hoạch tốt hơn. Trụ sở chính là bộ mặt của ngân hàng, và là một trong những phương tiện marketing tốt nhất cho ngân hàng mà không cần một lời nói thêm nào cả. Hoạt động thanh toán quốc tế, tín dụng chứng từ chỉ thực hiện được tốt khi có sự phối hợp, hỗ trợ của các nghiệp vụ kiên quan. Quan trọng nhất phải kể đến là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, nghiệp vụ huy động vốn và tín dụng nội, ngoại tệ. Sở cần có quy định cụ thể về sự phối hợp giữa phòng tín dụng và tổ thanh toán để giải quyết nhanh chóng cho khách hàng. Đặc biệt trong công tác thẩm định khách hàng và thẩm định hiệu quả món L/C nhập, tổ thanh toán rất cần có sự giúp đỡ của tín dụng, trong việc thu thập thông tin khách hàng nếu khách đã có quan hệ vay vốn với ngân hàng nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí. Hiện nay, khi khách hàng nhập khẩu muốn vay vốn thanh toán L/C , thì nhân viên của tổ phải đến phòng thanh toán, thu thập thông tin, đệ trình đơn vay chờ giải quyết, Đôi khi xảy ra sự phối hợp không nhịp nhàng, làm nản lòng khách hàng. Vậy, nên chăng, trong Sở nên nối mạng giữa các phòng ban, xây dựng một ngân hàng dữ liệu nội bộ Sở, và các người chịu trách nhiệm có thể truy cập lấy thông tin, ra quyết định một cách nhanh nhất và bảo đảm bí mật thông tin. Với phương châm nhiều người lo hơn một người lo, Sở I đã quan tâm mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch trên khắp địa bàn Hà nội. Việc mở rộng mạng lưới kinh doanh như vậy là rất quan trọng, mở ra khả năng khai thác tối đa thị trường trong khu vực, đáp ứng ngay nhu cầu của khách hàng. Đối với công tác thanh toán quốc tế, thông qua mạng lưới chi nhánh trực thuộc Sở trên địa bàn như thế, tác dụng chủ yếu là quảng bá các sản phẩm dịch vụ thanh toán cho khách hàng, thu hút khách hàng mới đến với Sở và mở rộng được doanh số các hoạt động ngoại hối, trong đó có phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên, vấn đề không nằm ở số lượng các quầy, quỹ, mà là mạng lưới phải được tổ chức sao cho, với một số tối thiểu nhân sự nhưng thực hiện tốt nhất công việc đang có. Vấn đề chính là bài toán tối ưu về hiệu quả kinh doanh của các cở sở đó. 2.3 Khai thác và đổi mới công nghệ ngân hàng Thanh toán quốc tế có đạt kết quả hay không phần rất lớn phụ thuộc vào việc ngân hàng có các trang thiết bị theo yêu cầu hay không. Hiện tại, Sở đã được trang bị 4 máy tính, máy fax.. nhằm phục vụ cho công tác soạn thảo, nhận, gửi điện, thông báo một cách an toàn và đúng thời giạn. Sở đã nối mạng SWIFT, đảm bảo 100 % các món thanh toán đều thực hiện qua mạng an toàn, công tác điều chuyển vốn được chính xác và nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, Sở vẫn chưa khai thác hết công suất thiết bị. Để giải quyết điều này, Sở cần tăng số món thanh toán của mình, đặc biệt là các món L/C nhập, xuất. Hiện nay việc theo dõi L/C nhập xuất vẫn làm bằng tay, và khi cần tra cứu mất rất nhiều thời gian. Các chứng từ vẫn lập theo cách thủ công, theo dõi tỷ giá là trên sổ sách rất cồng kềnh.Nếu Sở ứng dụng tin học vào quản lý thì sẽ đơn giản hơn rất nhiều, vừa tiết kiệm nhân lực, không gian lưu trữ, và khi cân tập hợp số liệu theo bất cứ tiêu thức nào cùng vô cùng nhanh chóng và chính xác. Tình trạng này xảy ra không chỉ ở một, mà nó dường như là tình trạng chung của các ngân hàng thương mại Việt nam hiện nay. 2.4.Triển khai dịch vụ tư vấn và chăm sóc khách hàng Tại Việt nam hiện nay, tư vấn khách hàng là khâu còn bị xem nhẹ vì nhiều lí do. Một phần do nhân viên ngành tài chính ngân hàng chưa đủ độ rộng và sâu về kiến thức về các lãnh vực, một phần là do lề lối làm việc ở Việt nam chưa quen với việc trả phí để hưởng dịch vụ tư vấn. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt nam hiện nay đều chưa thể triển khai dịch vụ tư vấn cho khách hàng, mà đều thực hiện miễn phí. Chính vì miễn phí nên bị xem nhẹ, ngân hàng ít quan tâm phát triển nghiệp vụ, và khách hàng thì chấp nhận dịch vụ đó như một cái gì đó kèm thêm, và vì thêm nên chẳng mấy quan tâm xem nó như thế nào. Sở giao dịch I trong tương lai phải tích luỹ kinh nghiệm, khai thác thông tin để có thể tiến đến cung cấp cho khách hàng mọi thông tin họ quan tâm, tư vấn cho khách về đối tác, hàng hoá, thủ tục thanh toán, chứ không chỉ là thực hiện thanh toán hộ như hiện nay. Sở cũng nên triển khai hình thức dịch vụ trọn gói cho khách hàng, dựa trên các quan hệ của mình với hệ thống ngân hàng tài chính quốc tế, với các cơ quan chức năng của chính phủ, ngân hàng bạn. Đối với các khách hàng truyền thống, uy tín trong thanh toán, Sở nên có chế độ đãi ngộ khách hàng phù hợp, lưu giữ khách hàng ở lại với Sở. Có thể là các món quà cho khách hàng trong các dịp đặc biệt, hoa trong ngày khai trương, kỉ niệm thành lập của khách, ưu đãi mức kí quỹ,lãi suất vay vốn.. Một quan hệ uy tín và truyền thống sẽ có lợi cho cả hai bên, ngân hàng giữ khách trong hoàn cảnh cạnh tranh lôi kéo khách quyết liệt của các ngân hàng khác trên địa bàn, khách hàng tiết kiệm được chi phí trong kinh doanh. Sở cũng phải tiến hành thu hút thêm khách hàng mới cho mình, phần lớn dựa trên sự hài lòng của khách hàng hiện tại. Mức kí quỹ nên xác định phù hợp, vì trong thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng là người nắm vận đơn, hoàn toàn có thể định một mức kí quỹ thấp cho khách hàng, tuy nhiên, đây lại là vấn đề của lợi nhuận và rủi ro, nên Sở cần có sự suy xét cẩn thận, đảm bảo an toàn vốn và uy tín ngân hàng. 3. Một số kiến nghị 3.1 . Với khách hàng Khách hàng là người mở đầu cho mỗi vụ thanh toán, chỉ khi khách hàng có yêu cầu thì ngân hàng mới thực hiện theo yêu cầu của khách. Tuy vậy, đa phần trong các sai sót phát hiện ra, thì từ phía khách hàng. Lý do chủ yếu là, khách hàng rất lúng túng khi phải xử lí một khối lượng chứng từ lớn, nhiều loại, nhiều bản, phức tạp và chi tiết. Đây chính là điểm dễ bị lợi dung trong thanh toán tín dụng chứng từ. Vậy, đề nghị các đơn vị có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm hiểu về kinh doanh và tập quán, thông lệ kinh doanh quốc tế, nếu có phòng ban hoặc một cán bộ chuyên trách thì càng tốt. Khách hàng cần phân biệt tính chất pháp lí của L/C với tính chất của hợp đồng mua bán, và cần xác định rằng, L/C chỉ là một bảo đảm trong thanh toán chứ không phải cho tất cả các điều kiện khác như tình trạng hàng hoá, phẩm chất, khối lượng. Nói như vậy, để khẳng định, khách hàng có hiểu về Tín dụng chứng từ, thì ngân hàng thực hiện mới có hiệu quả hơn. Khách hàng cũng nên có sự hỗ trợ và thiện chí đối với Sở I , đặc biệt trong vấn đề ngoại tệ. Khách hàng có thể ưu tiên bán lại ngoại tệ cho Sở khi thu được ngoại tệ khi xuất khẩu, tất nhiên là Sở sẽ không để khách hàng của mình bị thiệt về giá cả. Trong giao dịch với ngân hàng, khách hàng cần chú ý đến chữ kí của mình, có nhiều trường hợp do khách hàng ẩu, nên không giải quyết được công việc chỉ vì phía có liên quan nói rằng chữ kí là bất hợp lệ ( không thống nhất). 3.2 Với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn việt nam 3.2.1 Hoàn thiện quy trình L/C Theo văn bản 447 của Ngân hàng nông nghiệp, khi khách hàng mở L/C phải có đủ chữ kí của chủ tài khoản và kế toán trưởng của đơn vị trên thư yêu cầu mở L/C. Trong thực tế, không phải đơn vị nào cũng có hai người kể trên. Vậy xin được điều chỉnh lại là chữ kí của chủ tài khoản và kế toán trưởng nếu có. Văn bản 447 cũng đưa ra quy định về số tiền chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. Kiến nghị cho phép Sở giao dịch I được tự quyết định số tiền chiết khấu phù hợp theo các tính toán của Sở, đồng thời khuyến khích được khách hàng chuyển ngoại tệ về Sở I. Đối với các L/C nhập, đặc biệt với L/C nhập khẩu trả ngay, kí quỹ dưới giá trị hợp đồng, thì ngân hàng chịu nhiều rủi ro hơn cả. Bởi vậy, trong quy trình nghiệp vụ của mình, đề nghị ngân hàng nông nghiệp coi trọng và cụ thể hoá hơn nữa về tiến trình, tiêu chuẩn thẩm định khách hàng, thẩm định món thanh toán, nhằm bảo đảm hạn chế rủi ro ở mức tối thiểu. Mức kí quỹ đối với các L/C nhập nên để cho chi nhánh chủ động quyết định, và có một hạn mức nào đó thì phải báo cho trung ương. 3.2.2 Tài khoản thanh toán Việc mua bán ngoại tệ trên địa bàn hiện còn nhiều vướng mắc là do, việc chuyển ngoại tệ cho Sở phải qua tài khoản ở Ngân hàng nhà nước, thường mất từ 2, 3 ngày, làm mất cơ hội kinh doanh của Sở. Việc chuyển tiền từ tài khoản của ngân hàng bạn phải qua ngân hàng nông nghiệp, vậy đệ trình cho Sở Giao dịch I được mở tài khoản tiền gửi thanh toán ngoại tệ tại Ngân hàng Vietcombank. Hiện tại, tình trạng khan hiếm đô la và ngoại tệ cho thanh toán là thường xuyên xảy ra, vậy nên cho Sở được thực hiện giao dịch SWAP với các tổ chức tín dụng khác để giải quyết khó khăn này một cách nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nhất. Sở I cũng mong muốn có được sự hỗ trợ về nguồn ngoại tệ, từ phía tổng ngân hàng Nông nghiệp. 3.2.3 Về mạng lưới đại lí của NHNo và PTNT Việt nam Các khách hàng hiện nay của Sở có đối tác trên khắp trái đất, và việc thanh toán L/C đôi khi không thực hiện được vì ta không co ngân hàng đại lí ở nước của người xuất khẩu. Vậy kiến nghị ngân hàng nông nghiệp xem xét mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lí của mình, chủ yếu là đặt mối quan hệ với các ngân hàng có mạng lưới toàn cầu, quan hệ thanh toán uy tín để tranh thủ được hạn mức tín dụng lớn, tạo điều kiện cho việc thanh toán. Việc mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lí phải xét trên quan điểm hiệu quả. 3.2.4 Công tác đào tạo Riêng về mảng đào tạo, kiến nghị ngân hàng Nông nghiệp tổ chức các kháo tập huấn về nghiệp vụ thanh toán làm hai lần một năm, để cho các chi nhánh phân chia anh chị em tham gia sao cho tất cả đều được tập huấn kĩ lưỡng. Tổng cần tăng cường kiểm tra kiểm soát hoạt động của Sở, các chi nhánh trực thuộc để uốn nắn sai phạm kịp thời, theo dõi sát để bổ sung ngay các kiến thức còn yếu, tránh thiệt hại về vốn, về uy tín có thể xảy ra không chỉ cho Sở mà còn cho cả hệ thống. 3.3 Kiến nghị với ngân hàng nhà nước. 3.3.1 Về chính sách ngoại hối Công tác thanh toán quốc tế có liên quan mật thiết đến các vấn đề về tỷ giá,cung cầu ngoại tệ cũng như các quy chế quản lí ngoại hối của trung ương. Vai trò của Ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại tệ là người mua bán cuối cùng,lớn nhất và quyết định đến tỷ giá và cung cầu ngoại tệ. Muốn làm được điều này, ngân hàng trung ương phải có dự trữ ngoại tệ đủ lớn,nâng cao năng lực điều hành. Vấn đề cốt lõi là, Ngân hàng trung ương hành động như thế nào trên thị trường để tạo ra một tỷ giá phù hợp và có lợi, chứ không phải là luôn giữ cho nó được cố định. Ngân hàng nhà nước cần dự đoán chĩnh xác các diễn biến của thị trường và hành xử cho phù hợp, tránh sự đối phó bị động như suốt thời gian qua. Tất nhiên làm được điều này không chỉ là việc của ngân hàng nhà nước, mà vấn đề chính là năng lực sản xuất của quốc gia.Nói như vậy để thấy rằng vấn đề không hề đơn giản. Ngân hàng trung ương cần đưa ra các chính sách quản lí lãi suất chiết khấu, chính sách cho vay, huy động ngoại tệ ..phù hợp với thị trường, mà tốt nhất là, ngân hàng trung ương chỉ tạo một hành lang thông thoáng cho các Ngân hàng thương mại tực thực hiện về giá cả sao cho phục vụ khách hàng tốt nhất và cạnh tranh lành mạnh nhất. Các văn bản đưa ra phải tính toán tính chất lâu dài của nó, tránh việc liên tục ban hành rồi liên tục thay đổi và điều chỉnh, gây khó khăn không chỉ cho ngân hàng mà còn cho khách hàng. hơn nữa, cần phải thống nhất các văn bản đang còn hiệu lực, tránh sự mâu thuẫn lẫn nhau. Và dù thế nào, thì các văn bản đó phải mang tính chất phổ quát, và phải kích thích được tính sáng tạo trọng thực tiễn các ngân hàng áp dụng. Ví dụ, theo quyết định 267_98/QĐ_NHNN8 đã ấn định giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại tệ,đưa ra quy tắc xác định giá bán của ngoại tệ kì hạn, là bằng giá ngoại tệ giao ngay cộng với một số phần trăm không vượt quá mức quy định nào đó. Tại sao không để các Ngân hàng thương mại ấn định giá cả theo công thức tỷ giá kì hạn, trên cơ sở lí thuyết đã cung cấp? Hay như việc quy định phí giao dịch mua bán ngoại tệ là 0.05% giá trị hợp đồng mua bán,nhưng lại không quá 1.000.000VND mỗi vụ. Trong tình hình căng về ngoại tệ như hiện nay, giới hạn đó đã hạn chế ngân hàng tạo thu nhập, vì với những hợp đồng trị giá nhiều triệu đô la Mỹ, thì để gom đủ số ngoại tệ cần thiết là rất khó khăn, thường thì Ngân hàng phải giữ khách bằng cách mua hộ mà thôi. Nên chăng, các nhà chính sách của ngân hàng nhà nước chỉ nên tạo một khung, còn lại, để cho các ngân hàng tự do hoạt động trong khuôn khổ được cấp phép của mình, tự hoàn thiện sản phẩm và tuỳ nghi cạnh tranh bằng giá và các yếu tố phi giá, đó là, chất lượng dịch vụ, thái độ với khách hàng, tiện ích mới lạ của sản phẩm.. 3.3.2 Thành lập ngân hàng dữ liệu ngân hàng Ngân hàng trung ương có thể hỗ trợ về mặt thông tin cho các ngân hàng trong nước, không chỉ là các thông tin đơn thuần về khách hàng mà còn các thông tin về kinh tế, các ngành nghề liên quan, các số liệu dự báo hoặc thông kê. Ngân hàng trung ương có thể thực hiện được điều đó bằng cách thành lập một Ngân hàng dữ liệu, có thể dành cho các ngân hàng thương mại của mình quyền truy cập lấy thông tin theo các yêu cầu nhất định. Ngân hàng dữ liệu này có thể được nối mạng trong toàn quốc và qua các phương tiện thông tin kết nối toàn cầu hiện nay như Internet, hoặc qua mạng riêng của hệ thống ngân hàng nhằm đáp ứng các yêu cầu bảo mật. Ngân hàng dữ liệu đó có thể cung cấp các thông tin cần thiết theo cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Phòng thanh toán quốc tế tại các chi nhánh có thể tiếp cận, xác định nhanh chóng hiệu quả của từng món thanh toán, trên cơ sở so sánh với các số liệu chuẩn hoá đã tập trung tại Ngân hàng dữ liệu đó. Với sự phát triển của tin học ngày nay, đó là điều hoàn toàn có thể làm được, nhưng cần có sự phát triển nhất định về cơ sở hạ tầng cho ngành, cũng như sự đầu tư đúng mức của nhà nước. 3.4 Kiến nghị với nhà nước 4.1Về chính sách ngoại thương Nhà nước là cơ quan quản lí cao nhất của xã hội, đặt ra những quy tắc xử sự chung. Nhà nước quản lí xã hội chủ yếu bằng pháp luật, đề ra, theo dõi sự thực hiện pháp luật của nhân dân. Trên mọi lãnh vực của cuộc sống đều cần có sự điều chỉnh của pháp luật để tạo lập trật tự, công bằng và bảo đảm quyền lợi chính đáng của con người. Trên lãnh vực ngoại thương,các chính sách chủ trương của nhà nước trước hết tác động đến người làm xuất nhập khẩu, sau đó tác động đến người sản xuất, và người tiêu dùng, tức đã ảnh hưởng không ít thì nhiều tới mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nếu nhà nước thực hiện bảo hộ mậu dịch, không khuyến khích nhập khẩu, thì nhập khẩu giảm xuống, sản xuất thay thế nhập khẩu phải tăng lên, và đối với nghề ngân hàng sẽ là một thời kì ảm đạm, các món thanh toán quốc tế sẽ theo đó mà sút giảm tương ứng. Nếu nhà nuớc chủ trương mở cửa, thúc đẩy giao lưu kinh tế, việc trao đổi thương mại sẽ nhộn nhịp và thanh toán quốc tế sẽ trở thành một khu vực sôi động trong nghề ngân hàng. Để khuyến khích hay thắt chặt ngoại thương, nhà nước có thể vận dụng rất nhiều các chính sách như về thuế và chi tiêu, chính sách khuyến khích với xuất khẩu, hỗ trợ giá cho nhà nhập hoặc xuất khẩu tuỳ từng trường hợp, các chính sách khác như qouta,hạn nghạch nhập.. 4.2 Về lãnh vực thanh toán quốc tế và tín dụng chứng từ Thực tế hiện nay,Việt nam chưa có bộ luật nào điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia vào quan hệ thanh toán quốc tế. Riêng đối với phương thức tín dụng chứng từ, thì việc á dụng UCP dường như là duy nhất. Các văn bản nội bộ của các ngân hàng như văn bản 447 của hệ thống ngân hàng nông nghiệp thì đơn thuần là chỉ dẫn về mặt nghiệp vụ mà thôi, không có giá trị pháp lí khi đưa ra tranh chấp. Hiện nay, ta giải quyết các vụ thanh toán có tranh chấp tại trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế, hoặc trung tâm trọng tài quốc tế, tuy nhiên chưa có một chỉ dẫn nào tương đối rõ ràng về quy tắc cũng như trình tự thực hiện. Vậy, nhà nước cần sớm ban hành các luật về thanh toán quốc tế, tạo khung pháp lí cho hành động của các ngân hàng, đồng thời xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên : nhà nhập khẩu _ ngân hàng _ nhà xuất khẩu. Để làm điều đó, Việt nam có thể có một số các lựa chọn: Quy định lấy UCP và các thông lệ khác như URC, URR .. áp dụng hoàn toàn vào thành luật của Việt nam. Điều chỉnh các thông lệ quốc tế trên một số phương diện để hình thành luật cho phù hợp các đặc điểm riêng của Việt nam. Đưa ra luật của Việt nam, dẫn chiếu đến các điều khoản mà Việt nam cho là phù hợp. Và dù thế nào đi nữa, Việt nam cần gấp rút hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của mình, và không thể thiếu luật về thanh toán quốc tế. Nhà nước cũng cần đưa ra định hướng phối hợp hoạt động của các co quan ban ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động củacác tổ chức tín dụng. Tăng cường quản lí hơn nữa trên lãnh vực chống buôn lậu, gây thất thu ngân sách và cản trở sự phát triển ngoạ thương, từ đó tác động đến khả năng mở rộng thanh toán quốc tế của các ngân hàng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0050.doc
Tài liệu liên quan