Mở đầu
Với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, trong thời gian qua, đất nước ta đã có một sự phát triển rõ rệt, trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi của nền kinh tế, sự nghiệp đổi mới của hoạt động ngân hàng cũng được thể hiện trên nhiều hình thức: công nghệ ngân hàng, kết cấu nguồn vốn và đặc biệt là các nghiệp vụ ngân hàng. Các NHTM cũng đã có một sự đ
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp góp phần hoàn thiện & phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổi mới và hoàn thiện từ nội dung hoạt động tới cơ cấu tổ chức nhằm tăng khả năng kinh doanh phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một trong các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại được các NHTM Việt Nam ứng dụng trong những năm gần đây. Với việc áp dụng nghiệp vụ này, các doanh nghiệp đã giảm thiểu được rủi ro từ các đối tác, nhất là các đối tác nước ngoài. Còn các ngân hàng đã đa dạng hoá được sản phẩm dịch vụ cung cấp, tăng doanh số thu được từ các nghiệp vụ ngoại bảng. Tuy nhiên nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng vẫn là một nghiệp vụ mới mẻ hơn nữa mức độ phát triển của nó trong những năm qua còn rất nhỏ so với đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam. Do vậy ngành ngân hàng nói chung và Ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng cần phải vận dụng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tốt hơn để đáp ứng kịp thời nhu cầu của các doanh nghiệp trước sự tiến triển của nền kinh tế toàn cầu.
Xuất phát từ tính thiết thực của việc giải quyết vấn đề trên nên em đã mạnh dạn chọn đề tài khoá luận của mình là :
“Giải pháp góp phần hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề án được trình bày thành ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình.
Chương III: Giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân Hàng.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân Hàng Thương Mại.
I) Hoạt động bảo lãnh của Ngân Hàng Thương Mại và vai trò của bảo lãnh tại Ngân Hàng Thương Mại.
Khái niệm bảo lãnh tại Ngân Hàng:
Tại Việt Nam, vào đầu những năm 90, khi nền kinh tế nước nhà bắt đầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, các hoạt động của ngân hàng trở nên đa dạng, phong phú, trong đó nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh đựơc phát triển như một tất yếu khách quan. Nhưng do thiếu sự chỉ đạo thống nhất bằng những văn bản pháp lý chặt chẽ, nên các hoạt động bảo lãnh trong thời kỳ này thường diễn ra tuỳ tiện, thiếu hiệu quả. Để khắc phục tình trạng đó, ngày17\9\1992 Thống đốc Ngân Hàng nhà nước ban hành Quyết định số 192\NH –QĐ về bảo lãnh, tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài, nhằm đưa hoạt động bảo lãnh đi vào kỷ cương thống nhất.
Bảo lãnh Ngân Hàng có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau:
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam( ngày 12\12\1997) qui định bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng, được thưc hiện thông qua hình thức cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thưc hiện nghĩa vụ tàI chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.
Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem như một loại hình tài trợ ngoai thương, nhằm chống đỡ những tổn thất của người thụ hưởng bảo lãnh do sự vi phạm nghĩa vụ của bên đối tác liên quan.
Căn cứ vào Quyết định 283/2000/QĐ - NHNN 14 ngày 25\8\2000 của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước, bảo lãnh ngân hàng được hiểu như sau:
“Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (người được bảo lãnh) đối với người có quyền (người nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (người được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với người nhận bảo lãnh. Khách hàng phải trả nợ và hoàn trả tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”.
Theo cách hiểu như trên có thể thấy tham gia vào hoạt động bảo lãnh của Ngân Hàng gồm có 3 chủ thể:
- Bên bảo lãnh: là các tổ chức tín dụng dùng uy tín của mình để lập các cam kết bảo lãnh, giúp cho khách hàng của mình có thêm điều kiện để được các đối tác tín nhiệm về mặt tài chính trong quan hệ giao dịch.
- Bên được bảo lãnh: là chủ thể được các tổ chức tín dụng sử dụng uy tín của mình cấp một cam kết bảo lãnh để thực hiện các quan hệ tàI chính trong và ngoài nước
- Bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức trong và ngoài nước có quyền hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng.
Thông thường, trong một bảo lãnh thường có 3 hợp đồng riêng biệt, độc lập với nhau, đó là :
- Hợp đồng cơ sở: là hợp đồng giũa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
- Hợp đồng bảo lãnh: là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh hoàn trả.
- Cam kết bảo lãnh: là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng hoặc bằng văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng, khách hàng được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ taì chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ tàI chính đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Chức năng của nghiệp vụ bảo lãnh:
2.1) Bảo lãnh là công cụ bảo đảm:
Đây là chức năng quan trọng nhất của nghiệp vụ bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự bảo đảm chắc chắn cho người thụ hưởng. Chính sự tin tưởng này tạo điều kiện cho hợp đồng được ký kết một cách suôn sẻ thuận lợi. Đây cũng chính là sự khác biệt cơ bản giữa bảo lãnh ngân hàng và tín dụng thư thương mại (tín dụng chứng từ). Do việc thanh toán dựa trên biến cố vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của người được bảo lãnh ( chẳng hạn như giao hàng không đúng kế hoạch, không đạt chất lượng dự kiến, thanh toán tiền hàng không đúng hạn…) nên trong thực tế tỷ trọng các bảo lãnh được yêu cầu thanh toán không cao, thông thường chỉ khoảng dưới 5% (chẳng hạn như tại Mỹ chỉ có 1% trong số các bảo lãnh ngân hàng được yêu cầu thực hiện thanh toán)
Với chức năng này, bảo lãnh ngân hàng thực sự là chất súc tác giúp cho các hợp đồng thương mại, xây dựng, các giao dịch hàng hoá trong nước và quốc tế được ký kết một cách thuận lợi. Mặt khác do chịu trách nhiệm thực hiên cam kết, nên ngân hàng phát hành bảo lãnh cũng thường xuyên kiểm tra, giám sát tạo ra một áp lưc thực hiện tốt hợp đồng, giảm thiểu vi phạm về phía người được bảo lãnh.
2.2) Bảo lãnh là công cụ tài trợ:
Không chỉ là công cụ bảo đảm đối với người thụ hưởng, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho người được bảo lãnh. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua bảo lãnh khách hàng (người được bảo lãnh) không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, tiền nộp thuế… Vì vậy mặc dù không trực tiếp cấp vốn nhưng với việc phát hành bảo lãnh ngân hàng đã giúp cho khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về ngân quĩ như khi được cho vay thực sự.
Với ý nghĩa này, bảo lãnh được coi là một trong những dịch vụ ngân hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đáp ứng kịp thời các yêu cần phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp.
2.3) Bảo lãnh ngân hàng có chức năng đôn đốc việc thực hiện hợp đồng:
Trong bảo lãnh ngân hàng, người được bảo lãnh phải trả khoản tiền đã được đảm bảo trong bất kỳ trường hợp nào có tổn thất xảy ra. Nếu anh ta vi phạm hợp đồng đã được cam kết với người thụ hưởng bảo lãnh thì chính anh ta phải chi trả khoản thiệt hại cho ngân hàng sau khi ngân hàng đã thanh toán cho người thụ hưởng. Như vậy, người được bảo lãnh luôn phải có ý thức cao trong việc hoàn thành nghĩa vụ của mình để tránh trường hợp có thể gây tổn hại đến những cam kết trong hợp đồng.
Ngân hàng bảo lãnh cũng phải chịu áp lực của việc phải thanh toán thay nếu như người được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ. Mặc dù sẽ nhận được một khoản tiền bồi hoàn từ việc người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng nhưng ngân hàng cũng không muốn tình trạng này xảy ra. Và để giữ vững uy tín của mình, ngân hàng cũng luôn tìm cách để đôn đốc người được bảo lãnh phải hoàn tất hợp đồng đã ký kết.
Như vậy, bảo lãnh ngân hàng mang ý nghĩa ràng buộc, đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Chức năng này có mối liên hệ rất chặt chẽ với chức năng bảo đảm vì khi người được bảo lãnh luôn bị đôn đốc thực hiện tốt hợp đồng thì khả năng được bảo đảm của người thụ hưởng sẽ càng cao.
Phân loại bảo lãnh của ngân hàng:
3.1) Phân loại theo bản chất của bảo lãnh:
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ:
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (còn được gọi là bảo lãnh bổ sung) là một loại bảo lãnh mang tính truyền thống xét theo nguồn gốc ra đời của nó. Đặc trưng của loại bảo lãnh này là nghĩa vụ của ngân hàng phát hành bị chi phối bởi qui tắc đồng vi phạm, hay nói cách khác là ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, còn nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa vụ bổ xung. Nghĩa vụ bổ xung được thực hiện khi và chỉ khi có các bằng cớ xác nhận là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng phát hành bảo lãnh phải can thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng, do vậy ít được xử dụng trong quan hệ quốc tế, mà chủ yếu trong phạm vi nội địa.
Bảo lãnh độc lập:
Bảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân hàng hiện đại, được sáng tạo từ yêu cầu đòi hỏi trong thực tiễn. Cơ chế hoạt động của nó dựa trên hai qui tắc cơ bản là: “độc lập” và “hoàn toàn phù hợp”. Theo đó, nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người được bảo lãnh và việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào những điều kiện, điều khoản qui định trong văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà thôi. Tuy nhiên cần lưư ý rằng tính độc lập của loại bảo lãnh này không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được qui định trong văn bản bảo lãnh giữa ngân hàng và người thụ hưởng. Bảo lãnh độc lập mang lại sự thuận lợi cho người thụ hưởng bảo lãnh và cả ngân hàng phát hành. Do vậy nó được xử dụng rất phổ biến trong thương mại quốc tế. Hiện nay hầu hết các qui định về bảo lãnh trong linh vực quốc tế đều chỉ quan tâm đến loại bảo lãnh này.
3.2) Phân loại dựa trên mục đích của bảo lãnh:
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
Loại bảo lãnh này nhằm chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng ( bên đặt hàng) trong trường hợp người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng, chẳng hạn như giao hàng chậm trễ, không đúng chất lượng, số lượng… Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được xử dụng thay thế cho yêu cầu ký quĩ mà người đặt hàng đề nghị đối với người cung ứng để bảo đảm bồi thường vi phạm hợp đồng. Do vậy giá trị tối đa của bảo lãnh tương đương với mức bồi thường ( tính tỷ lệ % trên giá trị cuả hợp đồng, giao động ở mức 10% -15 %). Thông thường hiệu lực của loại bảo lãnh nay chấm dứt khi người được bảo lãnh hoàn thành nghĩa vụ cung ứng hàng hoá của họ.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại bảo lãnh ngân hàng được xử dụng nhiều nhất trong thực hành và được xem như một công cụ đối ứng với tín dụng chứng từ. Lĩnh vực thường gặp nhất của bảo lãnh ngân hàng dạng này là trong các hợp đồng xây dựng, cung ứng thiết bị công nghệ… trong và ngoà nước.
Bảo lãnh hoàn thanh toán:
Loại bảo lãnh này được xử dụng trong các hợp đồng thương mại, dịch vụ…mà người mua hàng hay hưởng dịch vụ đã ứng trước tiền hàng cho người bán hay người cung cấp dịch vụ. Bằng việc cam kết sẽ trả lại số tiền đã ứng trước cho người mua, ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua hàng và đồng thời cũng giúp cho người cung ứng thoát khỏi những khó khăn tạm thời về ngân qũi. Giá trị của bảo lãnh hoàn thanh toán tưong đương toàn bộ số tiền đã ứng trước (kể cả tiền lãi và phạt nếu có). Tuy nhiên cần tránh sự lạm dụng của người thụ hưởng, văn bản bảo lãnh hoàn thanh toán phảI qui định rằng bảo lãnh chỉ có hiệu lực khi điều kiện tiền đề đã được thoả mãn. Bảo lãnh vay nợ là một dạng bảo lãnh hoàn thanh toán được xử dụng khá phổ biến trong và ngoài nước.
Bảo lãnh trả chậm:
Loại bảo lãnh này được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả chậm và còn gọi là bảo lãnh thanh toán. Quan hệ giữa người bán và người mua ở đây thực chất là quan hệ tín dụng thương mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hóa theo kỳ hạn nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo lãnh trả chậm của ngân hàng. Đây là một trong những loại bảo lãnh rất phổ biến ở các nước đang phát triển và có thể được xử dụng thay thế cho tín dụng chứng từ. Nhưng điều kiện thanh toán cũng như cơ chế vận hành của loại phương tiện này hoàn toàn khác với bảo lãnh.
Bảo lãnh dự thầu:
Mục đích của bảo lãnh ngân hàng loại này nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian và chi phí cho người tổ chức đấu thầu do những vi phạm của bên đối tác liên quan (người tham gia dự thầu) chẳng hạn như: rút đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng sau khi trúng thầu… Bảo lãnh dự thầu thực chất là phương tiện thay thế cho việc ký quĩ của người tham gia dự thầu, nên giá trị của bảo lãnh này được qui định theo mức ký quĩ chuẩn do người tổ chức đấu thầu đưa ra. Bảo lãnh dự thầu theo bản tính tự nhiên của nó, sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người được bảo lãnh không trúng thầu.
Bảo lãnh dự thầu giúp cho khách hàng (người tham gia đấu thầu) khỏi phải chi một số tiền nhất định khi dự thầu và đồng thời bảo đảm cho người chủ công trình ( người tổ chức đấu thầu) những khoản đền bù thoả đáng trong trường hợp người dự thầu vi phạm qui định.
3.3) Phân loại theo phương thức phát hành:
Bảo lãnh trực tiếp:
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh (không qua trung gian). Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh, ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.
Bảo lãnh trưc tiếp thông thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hành bảo lãnh, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh. Trong trường hợp người thụ hưởng bảo lãnh là người nước ngoài, có thể xuất hiện một ngân hàng ở cùng quốc gia với người thụ hưởng bảo lãnh trong vai trò ngân hàng thông báo.
Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp.
Ngân hàng phát hành
Người được bảo lãnh
Người thụ hưởng bảo lãnh
Ngân hàng thông báo
3b
2 3a 3b
1
Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh.
Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết bồi hoàn.
(3a) Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng (sau khi xét duyệt và chấp nhận)
(3b) Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo.
Bảo lãnh gián tiếp:
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng thứ nhất (gọi là ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ hai (gọi là ngân hàng phát hành) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, người được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng chỉ thị sẽ chịu trách nhiêm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua một cam kết gọi là bảo lãnh đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng có nội dung và các điều khoản qui định như trong bảo lãnh chính. Sau khi đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình ngân hàng chỉ thị lại có thể truy đòi từ người được bảo lãnh.
Như vậy trong bảo lãnh gián tiếp có 4 thành phần tham gia là : ngân hàng phát hành bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh. Trong một số trường hợp cũng có thể xuất hiện một ngân hàng giữ vai trò thông báo như trong bảo lãnh trực tiếp.
Bảo lãnh gián tiếp được xử dụng chủ yêú trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng, do vậy, quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ chắc chắn hơn.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
Hợp đồng gốc.
Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng chính phát hành bảo lãnh
Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh, đồng thời cam kết bảo lãnh bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng.
(4a,4b) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh có thể chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng hoặc qua ngân hàng thông báo.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp:
Người thụ hưởng bảo lãnh
Người được bảo lãnh
Ngân hàng chỉ thị
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng thông báo
4b 3 4a 4b 2 1
Đồng bảo lãnh:
Trong một số dự án có giá trị lớn, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này môt ngân hàng đóng vai trò đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng đồng minh khác. Nếu phả chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng chính có thể đòi bồi hoàn từ các ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
Sơ đồ đồng bảo lãnh:
Hợp đồng gốc
Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh
Ngân hàng chíng dàn xếp đồng bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng minh.
(4a,4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, chuyển trực tiếp hoặc qua ngân hàng thông báo.
Sơ đồ đồng bảo lãnh:
Người thụ hưởng bảo lãnh
Ngân hàng phát hành
Người được bảo lãnh
Ngân hàng thông báo
Ngân hàng 3
Ngân hàng 2
Ngân hàng 1
3 4b 2 4a 4b 1
3.4) Các phân loại bảo lãnh khác:
Bảo lãnh theo yêu cầu:
Bảo lãnh theo yêu cầu là một bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ hưởng chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán cho ngân hàng phát hành. Văn bản này chỉ do người thụ hưởng đơn phương lập mà không cần phải có sự xác nhận của người được bảo lãnh hay của bên thứ ba nào. Đôi khi người thụ hưởng còn đưa ra tờ trình về việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Ngoài ra, người thụ hưởng không cần phải đưa ra một chứng từ gì để chứng minh sự thiệt hại của bản thân mình.
Như vậy, bảo lãnh theo yêu cầu mang lại cho người thụ hưởng một lợi thế rất lớn. Ngân hàng cũng gặp thuận lợi trong việc kiểm tra chứng từ vì chúng khá đơn giản. Tuy nhiên, nó lại gây bất lợi cho người được bảo lãnh, loại bảo lãnh này đã tạo ra một áp lực mạnh mẽ, đốc thúc họ hoàn tất nghĩa vụ hợp đồng của mình đồng thời cũng phải đề phòng trường hợp lừa đảo của người thụ hưởng.
Bảo lãnh kèm chứng từ:.
Không giống như bảo lãnh theo yêu cầu, bảo lãnh kèm chứng từ là một loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của một bên thứ ba, một bên độc lập có đủ khả năng chuyên môn để xác nhận. Như vậy, ngoài yêu cầu thanh toán, người thụ hưởng còn phải xuất trình cho ngân hàng các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Bảo lãnh kèm chứng từ đã bảo vệ được quyền lợi cho người được bảo lãnh nhưng quyền của người thụ hưởng vì thế cũng bị giảm đi. Và một trong những nhược điểm của bảo lãnh kèm chứng từ là kéo dài thời gian thanh toán cho người thụ hưởng. Người thụ hưởng sẽ không nhận được tiền ngay khi có biến cố vi phạm của người được bảo lãnh mà còn phải đợi cho đến khi bên thứ ba xác nhận và ngân hàng phát hành kiểm tra xong chứng từ.
Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc toà án.
Loại bảo lãnh này có điều kiện thanh toán là người thụ hưởng phải cung cấp cho ngân hàng một phán quyết của trọng tài hoặc toà án để khẳng định việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh và trách nhiệm phải bồi hoàn thiệt hại cho người thụ hưởng. Tuy nhiên, do tính phức tạp và chậm trễ của mình mà loại bảo lãnh này rất ít được sử dụng trong thực tế.
4) Vai trò của bảo lãnh.
Đối với các doanh nghiệp:
Với bên thụ hưởng bảo lãnh, việc yêu cầu đối tác phải có sự bảo lãnh của ngân hàng giúp cho doanh nghiệp yên tâm hơn khi ký kết và thực hiện hợp đồng. Đồng thời doanh nghiệp còn tiết kiệm được thời gian và chi phí tìm hiểu bạn hàng để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Đặc biệt, trong trường hợp phía đối tác vi phạm hợp đồng đã được ký kết giữa hai bên gây tổn thất cho doanh nghiệp thì họ chỉ cần xuất trình cho ngân hàng những chứng từ cần thiết để chứng minh sự vi phạm hợp đồng, ngay lập tức họ sẽ nhận được khoản bồi thường từ ngân hàng. Như vậy, khi có sự bảo lãnh của ngân hàng, rủi ro đối với doanh nghiệp sẽ được giảm thiểu tới mức thấp nhất. Đây là điều mà doanh nghiệp rất cần đến nhất là khi quan hệ giữa hai bên chưa được xác lập một cách vững chắc.
Với bên được bảo lãnh, họ nhận được rất nhiều lợi ích khi sử dụng bảo lãnh ngân hàng. Về mặt ngân quỹ, khách hàng tiết kiệm được một khoản vốn đáng kể và có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động với chi phí nhỏ hơn so với việc phải vay ngân hàng. Hơn nữa, họ còn được các chuyên gia của ngân hàng giúp đỡ trong phân tích, đánh giá việc sử dụng vốn vay để có được hiệu quả cao nhất. Bởi vì quyền lợi của ngân hàng đã gắn liền với quyền lợi của doanh nghiệp và ngân hàng, hơn ai hết, không mong muốn tình trạng xấu sẽ xảy ra với doanh nghiệp.
Bảo lãnh ngân hàng còn kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả vì trong trường hợp xấu xảy ra, họ vẫn phải trả vốn, lãi và khoản phí bảo lãnh cho ngân hàng. Nhưng quan trọng hơn hết là bảo lãnh ngân hàng giúp cho bên được bảo lãnh tăng thêm uy tín với các đối tác do được uy tín ngân hàng đứng ra đảm bảo nhất là khi doanh nghiệp chưa có đủ khả năng và phương tiện để thực hiện hợp đồng.
Đối với Ngân Hàng:
ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, luật pháp qui định quan hệ giao dịch tài chính – kinh tế phải được bên thứ ba là định chế tài chính hoặc ngân hàng bão lãnh đồng thời với việc phát triển các hoạt động ngoại bảng hay các hình thức dịch vụ, ngân hàng không những giảm được sự phụ thuộc vào hoạt động cho vay mà còn đa dạng hoá hoạt động của ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại rất quan tâm khơi tăng hoạt động này vì nó đem lại cho ngân hàng những lợi ích thiết thực:
- Thực hiện hoạt động bảo lãnh để hưởng hoa hồng phần trăm tính trên số dư bảo lãnh, thu một lần đối với nhưng khoản bảo lãnh ngắn ngày như dự thầu, đấu thầu hoặc thu hàng quí đối với khoản bảo lãnh dài hạn như thực hiện hợp đồng.
- Luật pháp bắt buộc muốn được bảo lãnh phải có ký quĩ bảo lãnh, khoản này gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng bảo lãnh suốt thời gian bảo lãnh, cho nên đối với ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định ma thông thường theo qui định là không phải trả lãi.
- Do tiền ký quĩ bảo lãnh là khá lớn, trong đó có thể một phần là vố tự có cua khách hàng và phần lớn khách hàng phải thế chấp tài sản, vay tiền ký quĩ bảo lãnh. Ngân hàng lúc này có thể cho vay tương đối an toàn ( vì tiền ký quĩ được phong toả) thu được lãi cho vay.
- Nội dung các cam kết bảo lãnh thường có các điều kiện rõ ràng, ví dụ như bên A thanh toán cho bên B phải đúng số tài khoản của bên B tại ngân hàng bảo lãnh đã ghi trong cam kết.
Đối với nền kinh tế:
Với những chức năng của mình, bảo lãnh ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thương mại có vai trò như một chất xúc tác tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển. Nhờ có bảo lãnh mà các bên có thể yên tâm tham gia ký kết hợp đồng và có trách nhiệm với các nghĩa vụ đã cam kết. Như vậy, bảo lãnh đã đem lại lợi ích cho tất cả các bên, nhưng điều quan trọng là nó đem lại lợi ích to lớn cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Ngược lại, việc hạn chế cấp bảo lãnh của ngân hàng cho các ngành, lĩnh vực kinh tế không được khuyến khích phát triển đã tác động góp phần làm cân đối lại cơ cấu nền kinh tế.
Đối với những nước như Việt Nam hiện nay, trong quá trình từng bước tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Và bảo lãnh cũng góp phần không nhỏ trong việc giúp doanh nghiệp thu hút vốn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những nguồn vốn rẻ với thời hạn ổn định, lãi suất thấp từ trong và ngoài nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn vay được vốn thông qua bảo lãnh thì phải tính toán đến các yếu tố như lãi vay, phí bảo lãnh và việc hoàn trả gốc cùng lãi cho ngân hàng. Doanh nghiệp muốn có lợi cho bản thân mình thì buộc phải kinh doanh có hiệu quả, tiết kiệm chi phí để có lãi. Vì vậy, bảo lãnh còn làm tăng cường chế độ hạch toán kinh tế tại các doanh nghiệp.
Tóm lại, những vai trò trên đã cho thấy việc ngày càng phải hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh là yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng của hoạt động thương mại nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
II) Nội dung nghiệp vụ bảo lãnh:
Qui trình nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại.
Bước 1: Tiếp nhận và hoàn chỉnh hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng.
Khi khách hàng có yêu cầu được bảo lãnh, cán bộ tín dụng ngân hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ theo đúng quy định của ngân hàng. Với mỗi loại bảo lãnh, bộ hồ sơ mà ngân hàng yêu cầu cũng khác nhau. Nhìn chung hồ sơ bao gồm những loại giấy tờ sau:
Giấy đề nghị phát hành bảo lãnh.
Các tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng như giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy phép đăng ký kinh doanh, các tài liệu liên quan đến việc bổ nhiệm các chức danh trong doanh nghiệp như giám đốc, kế toán trưởng…
Các tài liệu chứng minh khả năng tài chính của khách hàng (bảng cân đối tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền tệ…)
Các tài liệu liên quan đến giao dịch được yêu cầu bảo lãnh như hợp đồng thương mại, dịch vụ giữa các bên, phương án sản xuất kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu…
Các tài liệu liên quan đến việc đảm bảo cho phát hành bảo lãnh như giấy tờ thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba…
Ngân hàng sau khi tiếp nhận hồ sơ bảo lãnh của khách hàng phải có trách nhiệm kiểm tra sơ bộ số lượng các loại tài liệu, giấy tờ xem có đầy đủ không và yêu cầu khách hàng hoàn chỉnh, bổ sung hồ sơ nếu phát hiện thấy sai sót.
Bước 2 : Phân tích thẩm định khách hàng và phương án kinh doanh.
Đây là một công việc rất quan trọng vì nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Việc thẩm định được thực hiện tốt sẽ giúp cho ngân hàng loại trừ được những khách hàng không đủ điều kiện bảo lãnh đồng thời có thể tránh được những rủi ro phát sinh từ phía khách hàng khi đã thực hiện bảo lãnh.
Từ các tài liệu trên cùng với những thông tin bổ sung từ các nguồn khác (phỏng vấn trực tiếp khách hàng, từ sách báo tạp chí, các ngân hàng đã giao dịch với khách hàng hoặc từ trung tâm thông tin tín dụng…) sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện việc phân tích, đánh giá khách hàng được chính xác để có quyết định hợp lý.
Quá trình thẩm định chủ yếu nhằm để định lượng rủi ro về phía khách hàng, qua đó nếu ngân hàng thấy có thể chấp nhận rủi ro thì tiến hành bảo lãnh cho khách hàng và ngược lại nếu thấy không thể chấp nhận được rủi ro thì từ chối bảo lãnh.
Bước 3 : Soạn thảo và phát hành văn bản bảo lãnh.
v Soạn thảo văn bản bảo lãnh.
Việc soạn thảo văn bản bảo lãnh được xuất phát từ hợp đồng cơ sở, hợp đồng gốc giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng. Ngân hàng phải nghiên cứu hợp đồng cơ sở một cách kỹ lưỡng, cẩn thận vì chỉ khi nhận dạng được hợp đồng thì soạn thảo mới được chính xác, tránh trường hợp bản chất của giao dịch không trùng với mục đích của bảo lãnh hoặc những trường hợp phát sinh rủi ro khác dễ dẫn đến tranh chấp sau này. Vì vậy việc nghiên cứu hợp đồng gốc cần tập trung vào làm rõ các điểm như: bản chất của giao dịch; nghĩa vụ của người được bảo lãnh hay thời hạn hiệu lực của hợp đồng gốc.
Nội dung của văn bản bảo lãnh thường chứa đựng những yếu tố sau:
s Chỉ định các bên tham gia.
s Mục đích của bảo lãnh.
s Số tiền được bảo lãnh.
s Các điều kiện thanh toán của bảo lãnh.
s Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.
s Tham chiếu luật áp dụng.
v Phát hành văn bản bảo lãnh.
Sau khi văn bản bảo lãnh đã được soạn thảo xong, ngân hàng chuyển bản chính cho khách hàng. Đồng thời trong thời gian bảo lãnh còn hiệu lực, ngân hàng ngoài việc phải tiến hành theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ của khách hàng còn phải tiến hành những công việc liên quan đến khoản bảo lãnh như:
s Thu phí bảo lãnh từ khách hàng.
s Quản lý khoản ký quỹ của khách hàng.
s Tiến hành thủ tục nhận bảo đảm.
s Ghi giá trị bảo lãnh vào sổ theo dõi.
Bước 4 : Xử lý các tình huống phát sinh đến giao dịch bảo lãnh.
Cán bộ tín dụng phải bám sát diễn biến giao dịch bảo lãnh để có thể xử lý linh hoạt các tình huống phát sinh trong thời gian bảo lãnh.
Trong trường hợp rủi ro dẫn đến ngân hàng phải trả thay khách hàng thì khoản trả thay được xử lý như sau:
Khi chi nhánh và khách hàng đã tìm mọi biện pháp có thể mà khách hàng vẫn chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ được bảo lãnh, ngân hàng sẽ tiến hành cho vay bắt buộc với khách hàng để thanh toán cho người thụ hưởng. Số tiền cho vay này được lấy từ quỹ bảo lãnh của ngân hàng.
Sau đó ngân hàng thông báo cho khách hàng về việc trả thay. Khi nhận được thông báo của ngân hàng, khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả nợ hoặc có văn bản xác nhận nợ với ngân hàng về số tiền mà ngân hàng đã trả thay. Sau 15 ngày kể từ ngày ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nếu khách hàng chưa hoàn trả hoặc chưa có văn bản xác nhận nợ thì ngân hàng sẽ hạch toán ghi nợ cho khách hàng. Khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn mà ngân hàng đang áp dụng nhưng không quá 150% lãi suất của khoản vay được bảo lãnh.
Trường hợp vì lý do khách quan như thiên tai, hoả hoạn, những khó khăn tài chính tạm thời… hoặc việc trả nợ cho bên nhận bảo lãnh không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh dẫn đến khách hàng chưa thực hiện được nghĩa vụ của mình. Trên cơ sở đề nghị của khách hàng trong văn bản xác nhận nợ, ngân hàng có thể xem xét lại kỳ hạn trả nợ và áp dụng lãi suất cho vay thông thường đối với số tiền mà ngân hàng đã trả thay.
Bước 5 : Kết thúc giao dịch bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng được kết thúc trong các trường hợp sau:
Nghĩa vụ bảo lãnh đã được ngân hàng thực hiện đầy đủ.
Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật
Bên được bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên thụ hưởng bảo lãnh.
Bên thụ hưởng bảo lãnh đồng ý huỷ bỏ bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
Việc bảo lãnh được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác do các bên thoả thuận.
Thời hạn của bảo lãnh đã hết hiệu._. lực trong trường hợp bảo lãnh có quy định về thời hạn hiệu lực của bảo lãnh.
Việc kết thúc bảo lãnh được thực hiện qua các bước:
ã Thanh lý hợp đồng bảo lãnh.
Sau khi doanh nghiệp đã hoàn tất các nghĩa vụ theo hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng lập biên bản thanh lý hợp đồng bảo lãnh và yêu cầu khách hàng nộp lại thư bảo lãnh, đồng thời thông báo cho kế toán hạch toán lại số dư bảo lãnh và quỹ bảo lãnh.
ã Giải toả các tài sản đảm bảo: ngân hàng tiến hành bàn giao lại tài sản đảm bảo cho người được bảo lãnh.
ã Lưu trữ hồ sơ bảo lãnh.
Thời hạn và việc tổ chức lưu trữ hồ sơ bảo lãnh được thực hiện theo quy định của NHNN về lưu trữ hồ sơ chứng từ.
Cán bộ tín dụng lưu trữ hồ sơ bảo lãnh, các biên bản kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh và các tài liệu liên quan đến giao dịch được bảo lãnh.
Kế toán lưu bản chính hợp đồng bảo lãnh, cam kết bảo lãnh hoặc xác nhận bảo lãnh và các văn bản khác liên quan đến sửa đổi hoặc gia hạn bảo lãnh.
Hồ sơ thế chấp, cầm cố bảo lãnh… (hợp đồng và bản gốc giấy tờ sở hữu tài sản bảo đảm cho bảo lãnh) được lưu giữ tại kho theo quy định lưu giữ chứng từ có giá.
ã Rút kinh nghiệm.
Ngân hàng tiến hành tổ chức đánh giá lại hiệu quả của dự án trên các mặt tài chính, kinh tế xã hội… và các vấn đề phát sinh của khoản bảo lãnh để rút kinh nghiệm cho việc thực hiện các khoản bảo lãnh sau được tốt hơn.
2) Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh:
Rủi ro đối với ngân hàng:
Mặc dù khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng không phải xuất vốn trực tiếp nhưng do bảo lãnh cũng là một hoạt động tín dụng nên không vì thế mà nó không gây rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng cam kết bảo lãnh cho khách hàng cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đã chịu trách nhiệm trả thay cho khách hàng khi họ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình với bên yêu cầu bảo lãnh. Vì vậy, có thể nói mọi rủi ro xảy ra với khách hàng dẫn đến họ không thể thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ của mình đã thoả thuận trong hợp đồng cơ sở cũng đều gây tổn thất, thiệt hại cho ngân hàng. Những rủi ro đó có thể được xuất phát từ những nguyên nhân khách quan như thiên tai, hoả hoạn, các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ, lạm phát, tình hình chính trị - xã hội… và những nguyên nhân chủ quan như khả năng điều hành, quản lý của khách hàng, sự thiếu thông tin… gây ảnh hưởng xấu tới tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Ngoài ra, ngân hàng cũng phải chịu trách nhiệm bởi những rủi ro do chính mình gây ra như:
Do trình độ của cán bộ ngân hàng không đạt yêu cầu dẫn đến không đánh giá được chính xác tình hình và khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng trước khi quyết định bảo lãnh.
Việc thực hiện quy trình bảo lãnh đôi khi còn tuỳ tiện nhất là khâu theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của khách hàng khi thư bảo lãnh còn hiệu lực. Điều này đã khiến cho ngân hàng không thể có được những biện pháp thích hợp, kịp thời để can thiệp, xử lý khi cần thiết.
Công nghệ ngân hàng và sự thiếu hụt thông tin cũng gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng. Khi thiếu hụt thông tin, cán bộ ngân hàng không có đủ cơ sở để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại cũng như trong tương lai và đặc biệt là khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng ở hợp đồng gốc.
Tự bản thân ngân hàng cũng phải gánh chịu ảnh hưởng của những nhân tố khách quan khác, đặc biệt là những quy định của pháp luật. Tất cả những yếu tố này đều làm giảm chất lượng bảo lãnh và tăng những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động bảo lãnh của ngân hàng.
Rủi ro với người được bảo lãnh:
Với những đặc điểm và vai trò của mình, bảo lãnh đã làm cho người được bảo lãnh luôn bị ràng buộc trong việc thực hiện hợp đồng đã ký kết với người thụ hưởng. Họ luôn phải chịu sức ép phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình ngay cả khi họ gặp phải những rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Bởi vì họ sẽ phải đền bù về mặt tài chính nếu sự vi phạm của mình được chứng minh trong suốt thời gian có hiệu lực của thư bảo lãnh. Không những thế người được bảo lãnh còn phải đề phòng khả năng lừa đảo của bên đối tác khi người này lập những chứng từ giả mạo để yêu cầu ngân hàng thanh toán, nhưng trên thực tế người được bảo lãnh vẫn hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Rủi ro với người thụ hưởng bảo lãnh:
Ngân hàng được chọn làm ngân hàng bảo lãnh là một ngân hàng cóuy tín, có chính sách tài trợ mạnh mẽ, năng lực quản lý điều hành của ban lãnh đạo tốt, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng cao… Người thụ hưởng sẽ có sự đảm bảo chắc chắn về khả năng nhận được khoản bồi hoàn khi người được bảo lãnh không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động kinh doanh của một NHTM luôn chứa đựng rủi ro rất lớn. Trong một thời gian ngắn, một NHTM có uy tín cũng có thể gặp rủi ro thậm chí dẫn đến phá sản. Đó là chưa kể đến trường hợp người thụ hưởng yêu cầu một ngân hàng bảo lãnh không được như ý muốn. Như vậy, người thụ hưởng bảo lãnh vẫn chịu phải những rủi ro khi yêu cầu đối tác của mình có sự bảo lãnh của ngân hàng.
Mặc dù bảo lãnh có thể gây ra những rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng bảo lãnh, người được bảo lãnh cũng như người thụ hưởng. Nhưng với những lợi ích mà nó đem lại cho các bên tham gia vào bảo lãnh cũng như cho cả nền kinh tế thì bảo lãnh là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế của một đất nước
Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh NHCT Ba Đình.
I) Giới thiệu khái quát về NHCT Ba Đình
1) Giới thiệu khái quát:
Chi nhánh Ngân hàng công thương khu vực Ba Đình ra đời từ năm 1959.
Tên gọi lúc thành lập: Chi điếm Ngân hàng Ba đình trực thuộc Ngân hàng Hà nội.
Địa điểm đặt trụ sở: Tại phố Đội cấn – Hà nội (nay là 126 Đội cấn )
Nhiệm vụ: Vừa xây dựng cơ sở vật chất, củng cố tổ chức và hoạt động Ngân hàng.
Số lượng cán bộ lúc đó có trên 10 người.
Mục tiêu hoạt động: mang tinh bao cấp, phục vụ không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lý một cấp. Mô hình này được duy trì từ khi thành lập đến tháng 7/1988 thì kết thúc.
Ngày 01\07\1988 Ngân hàng Ba Đình cũng đã được chuyển đổi thành một chi nhánh NHTM quốc doanh với tên gọi Chi nhánh Ngân hàng công thương quận Ba Đình trực thuộc Ngân hàng công thương thành phố Hà Nội
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban tại chi nhánh bao gồm 11 phòng: Phòng kế toán giao dịch,Phòng tài trợ tương mại, Phòng khách hàng số1, Khách hàng số 2, Khách hàng cá nhân, Thông tin điện toán, Phòng tổ chức hành chính, Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng kiểm tra nội bộ, Phòng tổng hợp tiếp thị, Phòng kế toán tài chính.
Phòng kế toán giao dịch
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng,cung cáp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán , xử lý hạch toán các giao dịch theo qui định của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dich trên máy,quản lý quĩ tiền mặt đến từng giao dịch viên, thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về xử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
Phòng tài trợ thương mại
Chức năng :
Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về tài trợ thương maị tại chi nhánh theo qui định của Ngân hàng công thương VN.
Phòng khách hàng số1 (doanh nghiệp lớn)
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các Doanh nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VND& ngoại tệ; Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT.
Phòng khách hàng số 2 (doanh nghiệp vừa và nhỏ)
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ; Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành của Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương.
Phòng khách hàng cá nhân
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để huy động vốn bằng VND và ngoại tệ; Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành của Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương; Quản lý hoạt động của các Quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch.
Phòng thông tin đIện toán
Chức năng:
Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh. Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
Phòng Tổ chức- Hành chính
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại Chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCT VN. Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn Chi nhánh.
Phòng tiền tệ kho quỹ
Chức năng:
Phòng tiền tệ kho quỹ là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo qui định của NHNN và NHCT. ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy.
Phòng kiểm tra nội bộ
Chức năng:
Giúp giám đốc giám sát, kiểm tra, kiểm toán các hoạt động kinh doanh của chi nhánh nhằm đảm bảo việc thực hiện theo đúng pháp luật của nhà nước vàchơ chế quản lý của ngành.
Phòng tổng hợp tiếp thị
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo tổng hợp hàng năm của chi nhánh.
Phòng kế toán tài chính.
Chức năng:
Là phòng nghiệp vụ giúp cho giám đốc thực hiện công tác quản lý tài chính và thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ tại chi nhánh theo đúng qui định của nhà nước và của Ngân hàng công thương.
2) Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong những năm gần đây.
Tình hình huy động vốn.
Nguồn vốn kinh doanh là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động của một NHTM. Trong đó, nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội là nguồn vốn truyền thống và chủ yếu của ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian qua NHCT Ba Đình đã có nhiều quan tâm, chú trọng đến công tác huy động vốn từ thái độ phục vụ nhiệt tình, chu đáo, chính xác của đội ngũ nhân viên đến việc mở rộng các loại hình sản phẩm cũng như mạng lưới giao dịch ở các phường trên địa bàn quận Ba Đình. Điều này đã tạo cho khách hàng luôn cảm thấy an tâm, thuận tiện khi đến giao dịch với ngân hàng. Các quĩ tiết kiệm tại nơi dân cư tập trung được cải tạo,nâng cấp và mở rộng, hiện nay chi nhánh đã có 11 quĩ tiết kiệm. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi ở các tổ chức kinh tế lớn với những hình thức hấp dẫn. Vì vậy mà kết quả khả quan ngân hàng đã đạt được về mặt huy động vốn trong những năm qua là một thành quả tất yếu.
Tổng nguồn vốn huy động qua 3 năm là 2642 tỷ; 2975,8 tỷ; 3125 tỷ; Với tốc độ tăng là 2002 so với 2001 là 12.62 % (333.44 tỷ); năm 2003 so với năm 2002 là 7,28% (217 tỷ). Tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn là khá cao, đặc biệt năm 2003 chi nhánh đã có mức tăng trưởng huy động vốn trong toàn hệ thống là 333.33 tỷ đồng. Để đạt được mức tăng trưởng này chi nhánh đã luôn mở rộng các quỹ tiết kiệm, bổ xung thêm trang thiết bị máy móc cho các quĩ tiết kiệm để đảm bảo phục vụ khách hàng kịp thời.Từng cán bộ trong chi nhánh đã chú ý đến nần cao tinh thần, phong cách giao dịch với khách hàng. Hình thức huy động vốn phong phú với các loại tiền gửi và kỳ hạn khác nhau và với các mức lãi suất khác nhau. Chi nhánh cũng đã chuẩn bị chu đáo trong triển khai các đợt tiết kiệm dự thưởng, phát hành kỳ phiếu theo chỉ đạo của NHCT VN.
Nguồn vốn của chi nhánh bao gồm hai nguồn chính; tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư. Trong đó tỷ trọng của tiền gửi dân cư luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Tốc độ tăng của tiền gửi dân cư luôn cao hơn tốc độ tăng của tiền gửi các tổ chức kinh tế (năm 2002 là 18,25%; năm 2003 là 13,69%) trong khi tốc độ tăng của tiền gửi các tổ chưc kinh tế năm 2002 là 6,79%; năm 2003 là 0,14%. Năm 2003 mức tăng trưởng của tiền gửi các tổ chức kinh tế thấp là do các doanh nghiệp lớn phải chuyển vốn về đơn vị chính tại các ngân hàng khác vào dịp cuối năm.
Tiền gửi không kỳ hạn qua 3 năm: năm 2002 là 1116, 02 tỷ; năm 2003 là 736,52 tỷ; năm 2004 là 829,92 tỷ; so với tiền gửi có ky hạn đạt 1562 tỷ; 223.8,32 tỷ; 262,14 tỷ. Tiền gửi có kỳ hạn luôn có tỷ trọng lớn hơn, chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động. Năm 2004 có sự giảm sút của tiền gửi không kỳ hạn ( giảm 379,5 tỷ đồng) đã làm tăng lãi suất đầu vào đáng kể của chi nhánh.
Về tổng doanh số cho vay, cũng giống như các NHTM khác tại Việt Nam, NHCT Ba Đình chủ yếu thực hiện cho vay ngắn hạn (chiếm hơn 90%). Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện việc cho vay trung dài hạn giúp các doanh nghiệp từng bước đổi mới dây truyền công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, doanh số cho vay của ngân hàng đã có sự phát triển về cả số lượng và chất lượng khoản cho vay. Kết quả là khoản thu lãi từ cho vay trong những năm qua đã được cải thiện đáng kể.
Tình hình huy động vốn theo thời hạn.
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Tiền gửi không kỳ hạn
1116
736,49
829,92
Tiền gửi có kỳ hạn
1526
2238,83
2362,1
Tiền gửi bằng tiền Việt nam của chi nhánh vẫn chiếm tỷ trọng lớn và là nguồn huy động chủ yếu của ngân hàng. Năm 2002 là 2147 tỷ đồng chiếm 81,29% tổng nguồn vốn; năm 2003 là 2353,2 tỷ chiếm 79,09%; năm 2004 là 2178 tỷ chiếm 68,52%. Trong khi đó tiền gửi ngoại tệ lại thay đổi thất thường, với tốc độ tăng năm 2003 là 25,68% thì đến năm 2004 lại giảm 23,81% tương đương 148,12 tỷ,nguyên nhân cơ bản là khách hàng lo ngại sự biến động về tỷ giá trong năm 2004.
Về hoạt động tín dụng:
Đây là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất vì vậy nó giữ một vị trí quan trọng nhất trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Trong quá trình hoạt động của mình, NHCT Đống Đa luôn cố gắng tìm nhiều biện pháp nhằm mở rộng quy mô gắn liền với nâng cao chất lượng khoản tín dụng để đảm bảo an toàn vốn và phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Ngân hàng thường tìm hiểu rất kỹ khách hàng, nhất là những khách hàng vay lần đầu, trước khi ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, ngân hàng cũng hạn chế tới mức thấp nhất những thủ tục phiền hà không cần thiết để tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng vay vốn nhằm phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng cũng không ngừng mở rộng các hình thức cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của các doanh nghiệp.Vì vậy hoạt động tín dụng của chi nhánh đã đạt được những kết quả khả quan, thực hiện đựơc chỉ tiêu tăng trưởng mức dư nợ theo kế hoạch. Năm 2002 mức dư nợ tín dụng là 1.164,8 tỷ; năm 2003 là 1.630,782 tỷ tăng 34% tương đương 465,982 tỷ so với năm 2002. Năm 2004 là 1.717,7 tỷ tăng 5,2% tương đương 86,818 tỷ so với 2003. Để đánh giá tình hình hoạt động tín tín dụng, ta có thể xem xét chỉ tiêu hiệu suất xử dụng vốn của chi nhánh.
Bảng hiệu suất xử dụng vốn:
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Tổng dư nợ (tỷ đồng)
1.630,7826
1.717,7826
1.954,662
Tổng tiền gửi DN & cá nhân
2.975,32
3.192
3.325,555
Hiệu suất xử dụng vốn
54%
55%
57%
Hiệu suất xử dụng vốn của chi nhánh là khá cao tuy nhiên mới chỉ xủ dụng hơn một nửa nguồn vốn huy động. Điều này cho thấy hoạt động tín dụng của chi nhánh chưa phải là chủ đạo.Vì vậy nguồn thu từ lãi trong hoạt động tín dụng mới chỉ chiếm 40% - 50% tổng thu nhập, trong khi đó nguồn thu từ hoạt động gửi vốn chiếm khoảng 35% tổng thu nhập. Vì vậy chi nhánh cần phải đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tín dụng.
Các hoạt động khác của chi nhánh
Hoạt động kinh doanh đối ngoại:
Ngoài nguồn ngoại tệ mua trực tiếp của các doanh nghiệp xuất khẩu, chi nhánh đã trực tiếp khai thác nguồn ngoại tệ liên ngân hàng, từ các đại lý và sự hỗ trợ của NHCT VN để đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về nguồn cung ngoại tệ nhưng lượng ngoại tệ khai thác được trong năm 2004 đã đáp ứng được đầy đủ nhu cầu, giữ được khách hàng truyền thống cho ngân hàng. Doanh số mua bán ngoai tệ tăng đều qua các năm. Năm 2002 doanh số mua bán ngoại tệ là 184 triệu USĐ; năm 2003 là 195 triệu USĐ; năm 2004 là 205 triệu USĐ. Hiện nay tỷ lệ kết hối bắt buộc giảm xuống còn 30% đã tác động đến nguồn mua ngoại tệ của chi nhánh trong khi nhu cầu ngoại tệ để đáp ứng cho các doanh nghiệp nhập khẩu lại tăng cao. Do đó công tác kinh doanh cũng gặp ít nhiều khó khăn.
Nghiệp vụ thanh toán quôc tế:
Công tác thanh toán quốc tế tiếp tục phát huy vai trò tích cực đối với hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Năm 2003 thanh toán 1492 món hàng xuát nhập trị giá hơn 100,301 triệu USĐ tăng 5,5% so với năm2002 và thanh toán 410 món hàng xuất trị giá 93,259 triệu USĐ trong đó có 82 món hàng nhờ thu; 212 món thông báo L\C. Năm 2004 chi nhánh đã thanh toán 1461 món trị giá 111,17 triệu USĐ trong đó thanh toán hàng nhập là 990 món trị giá 96,07 triệu USĐ thanh toán hàng xuất là 472 món trị giá 8,048 triệu USĐ. Về các hoạt động dịch vụ chi trả kiều hối, séc du lịch, visa… còn hạn chế mặc dù doanh số chi trả ngày càng tăng qua các năm.
Công tác kế toán thanh toán:
Để phục vụ nhu cầu thanh toán ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng với kháchh hàng, chi nhánh đã thực hiên tốt thanh toán điện tử liên ngân hàng và trong hệ thống. Công tác thanh toán được đảm bảo nhanh chóng, chính xác, kịp thời, tạo điều kiện thúc đẩy luân chuyển vốn nhanh cho khách hàng. Tuy nhiên vẫn cần phải khắc phục về chế độ chứng từ, về sự phối hợp giữa các phòng nghiệp vụ để được hoàn thiện hơn.
Công tác tiền tệ kho quĩ:
Với khối lượng thu chi tiền mặt lớn nhưng công tác tiền tệ kho quĩ vẫn bảo đảm an toàn tuyệt đối. Thu chi tiền mặt VNĐ đạt 10.000 tỷ đồng bằng 150% so với năm 2003, thu chi ngoại tệ đạt 156 triệu USĐ tăng 58 triệu USĐ, điều chuyển cho NHNN và NHCT VN 1.458 tỷ đồng và 38 triệu USĐ.
Công tác kiểm tra, kiểm soát:
Thường xuyên tiến hành kiểm tra kiểm soát theo chương trình của NHCT VN và kế hoạch kiểm tra nội bộ của chi nhánh trên các mặt nghiệp vụ, dặc biệt là trong công tác kiểm tra kiểm soát nguồn vốn, tín dụng, kế toán, kho quĩ. Đối với nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh đã thực hiện tốt qui trình nghiệp vụ, kiểm tra kiểm soát cho vay trong năm không xảy ra trường hợp rủi ro nào. Qui chế cho vay có bảo đảm bằng tài sản được thực hiện nghiêm túc trong cho vay khu vực ngoài quốc doanh và cho vay trung dài hạn ở các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, tỷ lệ cho vay có bảo đảm bằng tài sản đã thực hiện được tỷ lệ 71%, so với chỉ tiêu NHCT VN giao vượt mức 5%. Trong đó công tác thanh toán kho quĩ bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tuy nhiên trong kiểm tra vẫn còn những sai sót trên các mặt nghiệp vụ tín dụng, kế toán.. nhưng những sai sót nhìn chung không lớn và đã được điều chình kip thời.
Về kết quả kinh doanh:
Trong đIều kiện kinh doanh gặp nhiều khó khăn bởi trên cùng địa bàn hẹp có nhiều tổ chức tín dụng hoạt động cạnh tranh về huy động và cho vay. Chi nhánh đã có chính sách khách hàng linh động và thích hợp đảm bảo giữ vững được khách hành truyền thống và nâng cao chất lượng trong công tác đầu tư vốn, tiết kiệm chi phí.
Báo cáo kết quả kinh doanh:
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Tổng thu nhập
153.495
180.448
236.879
Tổng chi phí
123.780
145.611
176.066
Lợi nhuận
24.187
30.084
60.384
Độ tăng của lợi nhuận
24%
102.36%
II) Thực trạng hoạt động bảo lãnh trong những năm gần đây.
1 Thực trạng:
Trong những năm qua, tình hình kinh tế xã hội trong nước và trên địa bàn có tốc độ phát triển cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ của ngân hàng ổn định và phát triển. Tuy nhiên ngân hàng cũng đang gặp phải không ít khó khăn gây ảnh hưởng xấu tới kết quả kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là sự cạnh tranh quyết liệt về lãi suất tiền gửi, tiền vay giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn.
Riêng về hoạt động bảo lãnh, ngân hàng đã thực hiện nhiều loại hình bảo lãnh như: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền tạm ứng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo hành… cho các khách hàng có nhu cầu.
Doanh số bảo lãnh tại chi nhánh
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền (trđ)
Số tiền (trđ)
± %
Số tiền (trđ)
± %
- Dư BL đầu năm.
279426
308736
+10,5
327139
+5,96
- Doanh số BL phát sinh trong năm.
52135
82094
+57,4
117501
+43,1
- Doanh số BL thanh toán trong năm.
22825
63691
+179
84126
+32,1
- Dư BL cuối năm.
308736
327139
+5,96
360514
+10,2
Từ bảng có thể thấy hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh trong những năm gần đây đã có một sự tăng trưởng rõ rệt. Doanh số bảo lãnh phát sinh qua các năm liên tục tăng, từ mức 52135 triệu đồng năm 2002 lên đến 82094 và 117501 triệu đồng trong hai năm 2003 và 2004 tiếp theo. Mức tăng trưởng qua các năm cả về số tuyệt đối và tương đối đều rất cao. Đây là một biểu hiện, một minh chứng sinh động nhất về sự phát triển hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Dù sao đây cũng là một điều tất yếu vì nó đã phản ánh đúng được với xu thế phát triển chung của nền kinh tế xã hội nước ta trong những năm gần đây. Nó cho thấy được hiệu quả của những nỗ lực, cố gắng của ngân hàng trong việc từng bước phát triển hoạt động phục vụ nhu cầu của nền kinh tế và nâng cao uy tín của mình.
1.1 Về cơ cấu bảo lãnh:
Tình hình thực hiện các loại bảo lãnh:
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền (trđ)
Số tiền (trđ)
± (%)
Số tiền (trđ)
± (%)
- BL thực hiện hợp đồng.
149127
153557
+3,59
158890
+3,40
- BL dự thầu.
19947
23168
+20,2
28950
+24,9
- BL nghĩa vụ bảo hành
54642
59714
+9,28
67925
+13,75
- BL thanh toán.
5264
4395
-16,5
13837
+314,8
- Các loại BL khác
79756
86305
+6,78
90912
+6,42
Như vậy, phần lớn các loại hình bảo lãnh mà ngân hàng thực hiện đều đạt một mức tăng trưởng nhất định. Trong đó các loại bảo lãnh như: BL thực hiện hợp đồng, BL nghĩa vụ bảo hành và nhất là BL dự thầu đều đạt mức tăng trưởng cao và ổn định. Chỉ có BL thanh toán năm 2003 giảm so với năm trước nhưng đến năm 200 doanh số loại BL này cũng đã đạt tỷ lệ tăng cao nhất trong các loại bảo lãnh (hơn 3 lần). Điều này cho thấy ngân hàng đã chú trọng phát triển hài hoà các loại hình bảo lãnh để tránh bị mất cân đối.
Thời hạn các loại hình bảo lãnh tại ngân hàng:
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
- BL ngắn hạn.
38653
14,8
32655
12,3
55023
17,1
- BL trung dài hạn.
270083
85,2
294484
87,7
305491
82,9
Số dư BL.
308736
100
327139
100
360514
100
Số dư bảo lãnh trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 85%). Nguyên nhân là do đa số các quan hệ phát sinh trong hợp đồng gốc là dài hạn vì vậy ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cũng phải có hiệu lực trong khoảng thời gian đó. Doanh số bảo lãnh trung dài hạn tăng ổn định qua các năm đã cho thấy ngân hàng đã quan tâm đến nhu cầu đầu tư phát triển đặc biệt là vào những dự án lớn có số vốn lớn, thời gian thực hiện trong nhiều năm của khách hàng. Hơn nữa thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, ngân hàng có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn về khách hàng từ đó có thể tư vấn để giúp cho hai bên đạt được lợi ích cao hơn trong những lần giao dịch sau.
Các đối tượng bảo lãnh của ngân hàng:
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
- DN Quốc doanh.
306359
99,23
324195
99,1
355827
98,7
- DN Ngoài Quốc doanh.
2377
0,77
2944
0,9
4687
1,3
Số dư BL.
308736
100
327139
100
360514
100
DN Quốc doanh chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng số dư bảo lãnh của ngân hàng (trong hai năm 2002 và 2003 tỷ lệ này chiếm đến 99%). Vì thế mà khách hàng là DN Ngoài Quốc doanh chiếm tỷ trọng rất thấp (chỉ khoảng 1%). Điều này cho thấy độ an toàn trong bảo lãnh của ngân hàng rất cao vì những DN Quốc doanh thường là những DN mạnh, có uy tín và phần nào có được sự ưu đãi của Chính phủ. Nhưng cũng có thể thấy ngân hàng đang ở tình trạng mất cân đối lớn về đối tượng khách hàng. Ngân hàng nên chú ý điều chỉnh lại đối tượng khách hàng vì đa dạng hoá đối tượng khách hàng không những đem lại lợi ích cao hơn cho ngân hàng mà còn giúp cho những khách hàng thuộc những thành phần kinh tế khác có điều kiện phát triển, đóng góp chung vào sự phát triển của xã hội.
1.2 Về các hình thức đảm bảo cho bảo lãnh.
Trong những năm qua, ngân hàng chưa để xảy ra rủi ro phải trả thay khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng. Mọi khoản bảo lãnh đều được tất toán. Có được điều này là do ngân hàng đã sử dụng hài hoà, hợp lý các hình thức đảm bảo trong bảo lãnh.
Các hình thức đảm bảo
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
- Tín chấp.
226171
68,8
221475
63,8
241627
63,5
- Ký quỹ.
27942
8,5
44087
12,7
50989
13,4
+ Ký quỹ 0%.
27942
44087
50989
+ Ký quỹ 100%.
-
-
-
-
-
-
- Thế chấp.
-
-
-
-
-
-
- Hình thức đảm bảo khác.
74623
22,7
81577
23,5
87898
23,1
Do đặc điểm khách hàng tham gia bảo lãnh của ngân hàng phần lớn là các DN Quốc doanh với uy tín cao và được sự ưu đãi phần nào từ Chính phủ, hơn nữa họ đa số cũng là những khách hàng quen của ngân hàng. Vì vậy mà điều kiện đảm bảo của ngân hàng không quá chặt chẽ, khắt khe. Điển hình là trong những năm qua ngân hàng không yêu cầu khách hàng của mình phải ký quỹ 100% giá trị được bảo lãnh hay phải tham gia thế chấp tài sản. Điều này tạo cho khách hàng một sự thuận lợi rất lớn về nguồn vốn khi được ngân hàng bảo lãnh.
Trong các hình thức đảm bảo cho bảo lãnh, khách hàng phải tín chấp có tỷ trọng lớn nhất (chiếm hơn 60%). Khách hàng được tín chấp trên cơ sở được các tổng công ty hay các công ty mẹ bảo lãnh thông qua công văn gửi tới ngân hàng. Khi khách hàng được tín chấp thì họ cũng phải ký quỹ 5% giá trị khoản bảo lãnh. Như vậy khả năng đảm bảo khách hàng thanh toán trong trường hợp ngân hàng phải trả thay rất cao và rủi ro với ngân hàng vì thế được giảm thiểu.
1.3 Về phí thu từ bảo lãnh.
Đây là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng. Khách hàng khi tham gia bảo lãnh thì bắt buộc phải nộp khoản phí bảo lãnh trên cơ sở mức phí do ngân hàng đưa ra và khối lượng, thời gian của khoản bảo lãnh. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, ngân hàng đưa ra mức phí bảo lãnh như thế nào có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến việc thu hút khách hàng của ngân hàng mình. Hiện nay NHCT Đống Đa đang áp dụng mức phí 1% cho mọi khoản bảo lãnh, tình hình cụ thể về thu phí bảo lãnh của ngân hàng trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau:
Tình hình thu phí bảo lãnh của ngân hàng.
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
Số tiền (trđ)
Tỷ trọng (%)
- Thu phí từ hoạt động BL.
1749
26,3
2062
28,6
2632
29
Tổng thu từ dịch vụ.
6654
100
7210
100
9063
100
Trước hết có thể thấy rõ được nguồn thu từ dịch vụ của ngân hàng qua các năm đạt mức tăng trưởng cao và ổn định (năm 2003 tăng 8,3%; năm 2004 tăng 25,7%). Như vậy ngân hàng đã có sự quan tâm chú trọng đến việc phát triển các hoạt động dịch vụ của mình. Đây cũng chính là xu hướng phát triển chung của các ngân hàng hiện đại. Trong tổng thu từ dịch vụ, khoản thu từ bảo lãnh cũng không ngừng tăng trưởng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Vì vậy hoạt động bảo lãnh đang chiếm một vai trò đáng kể và đóng góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng hoạt động dịch vụ của ngân hàng.
1.4 Về chất lượng hoạt động bảo lãnh.
Trong những năm qua, chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng nhìn chung đạt được kết quả tốt. Hoạt động bảo lãnh của chi nhánh đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động thanh toán, tín dụng, kinh doanh đối ngoại, nâng cao hiệu quả kinh doanh từ đó thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Thực tế đã chứng minh trong những năm qua số lượng các dự án khả thi và số lượng các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi được ngân hàng bảo lãnh ngày càng tăng.
Không những thế, với việc ngân hàng chưa phải trả thay khoản bảo lãnh nào trong những năm qua đã cho thấy ngân hàng thực hiện khá tốt quy trình nghiệp vụ bảo lãnh, nhất là khâu thẩm định dự án và khách hàng xin bảo lãnh. Điều này đã làm cho uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao, tạo cho ngân hàng một lợi thế rất lớn cho kinh doanh sau này. Như vậy có thể nói cùng với việc số lượng bảo lãnh ngày càng tăng thì chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh cũng ngày càng được hoàn thiện.
2) Đánh giá chung về hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh:
2.1 Những kết quả đạt được:
Doanh số bảo lãnh ngày càng tăng và chất lượng các khoản bảo lãnh cũng ngày càng được nâng cao, cho đến nay ngân hàng vẫn chưa phải thực hiện khoản trả thay nào cho khách hàng khi thực hiện bảo lãnh.
Số lượng khách hàng đến yêu cầu ngân hàng bảo lãnh ngày càng đông đảo.
Các loại hình bảo lãnh mà ngân hàng đang áp dụng được mở rộng, phát triển đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của khách hàng.
Nguyên nhân dẫn đến những thành công của chi nhánh trong thời gian qua:
- Nguyên nhân cơ bản là sự chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường. Dần dần nền kinh tế đã bắt đầu thích ứng với cơ chế thị trường và dần đi vào ổn định dưới sự điều tiết của Nhà nước. Các doanh nghiệp đã tạo lập được mối quan hệ với thị trường bên ngoài và làm quen với các tập quán, thông lệ quốc tế trong kinh doanh thương mại. Việc mở rộng các mối quan hệ trong và ngoài nước đã kích thích quá trình đầu tư và sản xuất. Các thành phần kinh tế không ngừng phát triển và hoàn thiện trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nhưng trong đó điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp đã tìm thấy được được sự cần thiết và lợi ích của hoạt động bảo lãnh ngân hàng và sử dụng dịch vụ này thường xuyên trong các hoạt động giao dịch, ký kết hợp đồng. Do vậy mà nhu cầu bảo lãnh của ngân hàng ngày càng tăng cả về số lượng lẫn các loại hình bảo lãnh. Hơn nữa hoạt động bảo lãnh của chi nhánh cũng đã tạo đuợc sự tin tưởng đối với khách hàng từ đó tận dụng được cơ hội kinh doanh và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
- Chính phủ, NHNN VN và các cơ quan quản lý khác đã ban hành nhiều qui chế, qui định liên quan đến hoạt động bảo ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0233.doc