Lời mở đầu
Lao động là vốn quý, là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi hình thái kinh tế xã hội, chính vì lẽ đó Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề dân số, lao động, việc làm vào vị trí hàng đầu trong các chính sách kinh tế xã hội. Chính sách đó được thể hiện trong việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặt con người và việc làm vào vị trí trung tâm, lấy lợi ích con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình, kế hoạch phát triển.
Thái Bì
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp giải quyết việc làm ở Thái Bình đến 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh là một tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, diện tích đất tự nhiên 1535.8 km2, dân số năm 2002 khoảng 1 827 000 người, tổng nguồn lao động (từ 15 tuổi trở lên) chiếm 76% dân số. Trong điều kiện một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, diện tích đất canh tác bình quân chỉ có 550 m2/ người, nguồn nhân lực tăng nhanh qua các năm, chưa được sử dụng hết là một sức ép rất lớn về việc làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội trong toàn tỉnh. Do vậy việc đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm là một yêu cầu cấp thiết không thể thiếu được trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong thời gian tới.
Qua thời gian thực tập tại sở kế hoạch và đầu tư Thái Bình cùng quá trình tìm hiểu tình hình kinh tế xã hội của tỉnh, em nhận thấy vấn đề lao động, việc làm đang là vấn đề thời sự, nóng bỏng đối với một tỉnh thuần nông đang đi lên như tỉnh Thái Bình hiên nay. Vì vậy, với những kiến thức đã được trang bị ở trường em đi sâu nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp giải quyết việc làm ở Thái Bình đến 2005”. Mong rằng bài viết phần nào sẽ phản ánh rõ thực trạng lao động, việc làm hiện nay và những mục tiêu, giải pháp giải quyết việc làm của tỉnh đến năm 2005.
Nội dung luận văn tốt nghiệp “Giải pháp giải quyết việc làm ở Thái Bình đến 2005” được trình bày trong 3 phần:
Phần I: Kế hoạch việc làm trong hệ thống kế hoạch phát triển KT- XH.
Phần II: Thực trạng giải quyết việc làm ở Thái Bình qua 2 năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2001- 2005.
Phần III: Giải pháp giải quyết việc làm của Thái Bình đến 2005.
Qua bài viết, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, cô giáo : TS. Nguyễn Thị Kim Dung cùng toàn thể cán bộ trong sở kế hoạch và đầu tư Thái Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Nhưng do nhiều nguyên nhân bài viết không thể tránh khỏi ít nhiều thiếu sót mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến xây dung bài viết hoàn chỉnh hơn.
Phần I
kế hoạch việc làm trong hệ thống kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội.
I. Quản lí bằng kế hoạch trong nền kinh tế thị trường.
1. Kế hoạch hoá.
1.1 Khái niệm:
Kế hoạch hoá vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lý nền kinh tế của Nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và những giải pháp, chính sách, những cân đối vĩ mô cần thiết nhằm đạt được mục tiêu đặt ra một cách có hiệu quả nhất.
Kế hoạch hoá không chỉ là việc lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá kết quả. Trong nền kinh tế thị trường kế hoạch hoá thể hiện những cố gắng có ý thức của Chính phủ để đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh với mức việc làm cao, ổn định giá cả, kế hoạch hoá sẽ giúp Chính phủ ngăn chặn được sự mất ổn định kinh tế trong khi đó vẫn đảm bảo được tăng trưởng nhanh.
1.2 Chức năng của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1 Điều tiết, phối hợp và ổn định kinh tế vĩ mô.
Trên phương diện kinh tế vĩ mô, hoạt động kế hoạch hoá phải hướng tới các mục tiêu chính luôn được tính tới là: ổn định giá cả, bảo đảm công ăn việc làm, tăng trưởng và cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau, sự thiên lệch hay quá nhấn mạnh vào mục tiêu nào sẽ ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu khác và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến cân bằng tổng thể kinh tế, chức năng này của kế hoạch hoá thể hiện ở :
- Hoạch định kế hoạch chung tổng thể của nền kinh tế đưa ra và thực thi các chính sách cần thiết bảo đảm các cân đối kinh tế nhằm sử dụng tổng hợp nguồn lực phát huy hiệu quả tổng thể kinh tế – xã hội thúc đẩy tăng trưởng nhanh theo phương thức thống nhất , bảo đảm tính chất xã hội của các hoạt động kinh tế .
- Bảo đảm môi trường kinh tế ổn định và cân đối . Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kinh tế , kỹ thuật , xã hội bảo vệ môi trường , tạo tiền đề và hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế hùng mạnh
- Bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng , các tầng lớp dân cư bằng kế hoạch sử dụng ngân sách và các chính sách điều tiết .
- Kế hoạch hoá còn thể hiện chức năng điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá ngày càng tăng . Để thực hiện chức năng này KHH phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi tìm ra được hướng “ đi tắt đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao , rút ngắn khoảng khách với các nước tiên tiến khác .
1.2.2 Định hướng phát triển kinh tế – xã hội
Đây là chức năng thể hiện bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã làm cho công tác kế hoạch hoá không bị lu mờ trong cơ chế thị trường. Chức năng này thể hiện ở:
- Công tác kế hoạch hoá phải xây dựng được các chiến lược và quy hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế cũng như quy hoạch phát triển theo ngành, vùng lãnh thổ, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn. Kế hoạch đưa ra hệ thống mục tiêu phát triển vĩ mô về kinh tế-xã hội, xây dựng các dự án, các chương trình, tìm các giải pháp và phương án thực hiện, dự báo khả năng, phương hướng phát triển, xác định các cân đối lớn… nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt, định hướng phát triển, xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
- Chức năng định hướng còn thể hiện ở việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo phương thức giao nhận với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước sang cơ chế kế hoạch hoá gián tiếp, định hướng phát triển. Các chỉ tiêu mà Nhà nước cần giám sát và quản lý chủ yếu là những chỉ tiêu giá trị ở tầm vĩ mô và tất nhiên nó mang tính chất định hướng, không cứng nhắc và không áp đặt.
ở Việt Nam trong thời gian tới, Quốc Hội chỉ thông qua các chỉ tiêu cơ bản như: tốc độ tăng trưởng GDP, tổng thu chi ngân sách, tổng chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách, mức bội chi ngân sách và mức lạm phát cao nhất.
1.2.3 Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế-xã hội.
Nội dung chủ yếu của chức năng này bao gồm việc: Chính phủ thông qua các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện các tiến độ kế hoạch, thực hiện và tuân thủ các cơ chế, thể chế, chính sách hiện hành áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. Đánh giá kết quả của việc thực hiện các chính sách, các mục tiêu đặt ra. Phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế-xã hội bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng các kế hoạch của các thời kỳ tiếp sau.
1.3 Yêu cầu tất yếu của quản lý bằng kế hoạch trong nền kinh tế.
Cho đến nay lý luận và thực hiện phát triển đều đã đưa đến kết luận khách quan về tính tất yếu và ưu thế của quản lý bằng kế hoạch trong nền kinh tế. Sự chấp nhận rộng rãi về kế hoạch như là một công cụ phát triển dựa trên một số lập luận về kinh tế và thể chế cơ bản sau:
Một là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội.
Hệ thống phân công lao động ngày càng phát triển, việc chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc và gắn liền với nó là sự hiệp tác hoá sản xuất của các ngành với nhau, sự tích tụ sản xuất ngày càng tăng, tính năng động của toàn bộ sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật, tất cả những điều đó tạo ra sự cần thiết khách quan của việc Chính phủ phải điều tiết sản xuất.
Hai là:Yêu cầu khách quan từ chính cơ chế thị trường.
Trong nền kinh tế, sự hoạt động của cơ chế thị trường đã tạo điều kiện tích cực thúc đẩy quá trình hoạt động của nền kinh tế song cũng bộc lộ nhiều khuyết tật. Do đó, nếu không có sự can thiệp của chính phủ thì thị trường bị xem là dẫn đến sự phân phối sai lầm về nguồn lực hiện tại và tương lai, hay ít nhất là dẫn đến một cái gì đó không phù hợp với lợi ích xã hội lâu dài tốt đẹp nhất. Một tuyên bố rõ ràng nhất cho quan điểm này được trình bày rõ ràng nhất trong báo cáo của liên hợp quốc về kế hoạch hóa đã khẳng định rằng: một nhiệm vụ không thể thiếu được trong việc kế hoạch hóa là phải sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực khan hiếm cho sự phát triển kinh tế. Nhu cầu sử dụng những tiêu chuẩn thích hợp cho những dự án chọn lọc nảy sinh là vì thất bại của cơ chế thị trường trong việc không đưa ra được các hướng dẫn thích hợp… Một xuất bản phẩm 1970 của Tổ chức phát triển công nghiệp của LHQ (UNIDO) đã đưa ra cơ sở lí luận sâu đây về thất bại thị trường trong việc kế hoạch hóa tại các nước kém phát triển: chính phủ không nên không chỉ đóng vai trò thụ động trong quá trình mở rộng công nghiệp. Kế hoạch hóa trở thành một bộ phận chủ yếu và thiết yếu của các chương trình phát triển công nghiệp vì bản thân các tác nhân thị trường không thể vược qua được những cứng nhắc về cơ cấu đã ăn sâu trong nền kinh tế của các nước đang phát triển. Ngày nay nhu cầu về một mức độ kế hoạch hóa kinh tế nào đó đã được sử dụng rộng rãi… Như vậy, sự tồn tại các khuyết tật của thị trường đã đặt ra yêu cầu phải có can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Nhưng không phải sự can thiệp nào của Chính phủ cũng là phải giải quyết và khắc phục được các khuyết tật của thị trường. Thậm chí có những can thiệp còn làm trầm trọng hơn các khuyết tật tạo nên từ thị trường hoặc ít nhất cũng gây ra các hậu quả phụ nào đó. Vì vậy, muốn tránh các hậu quả phụ và đảm bảo tính hiệu quả của sự can thiệp Chính phủ, điều quan trọng là phải có sự tổ chức tốt sự can thiệp của mình. Một trong những công cụ để can thiệp là công cụ kế hoạch.
Ba là: Huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm.
Kế hoạch hoá kinh tế là phương thức thích hợp để lựa chọn và phối hợp những dự án đầu tư nhằm chuyển những nhân tố khan hiếm vào các lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất. Trong khi đó, thị trường cạnh tranh lại có xu hướng chuyển đầu tư sang những lĩnh vực xã hội ít ưu tiên và không tính đến lợi nhuận phụ thêm có được từ một chương trình đầu tư dài hạn đã được điều phối có kế hoạch.
Bốn là: Thái độ tâm lý đối với dân cư.
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia dưới dạng một kế hoạch phát triển cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ hay tâm lí đối với dân cư. Nó có thể thành công trong việc tập hợp dân chúng đằng sau Chính phủ trong một chiến lược quốc gia để xóa bỏ đói nghèo. Bằng sự ủng hộ của quần chúng, Chính phủ thông qua kế hoạch hoá huy động được tổng hợp nguồn lực của mọi tầng lớp xã hội, các đảng phái, tôn giáo, yêu cầu của mọi công dân cùng nhau làm việc để xây dựng đất nước. Kế hoạch kinh tế được coi là công cụ tốt nhất để đảm bảo những động lực cần thiết, vượt qua được những lực cản của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống trước một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi người.
Năm là: viện trợ và thu hút đầu tư nước ngoài.
Có những kế hoạch phát triển cụ thể với những mục tiêu sản lượng và những dự án được thiết kế cẩn thẩn, thường là điều kiện cần thiết để nhận viện trợ nước ngoài. Trong một chừng mực nhất định việc mô tả tỉ mỉ và cụ thể trong khuôn khổ một kế hoạch phát triển toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các nước đang phát triển về việc tìm kiếm viện trợ nước ngoài bằng mọi giá cũng nhiều bấy nhiêu.
2. Hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Kế hoạch phát triển là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội, là một công cụ quản lý điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kỳ bằng hệ thống các chỉ tiêu mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát triển và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Một nội dung quan trọng của kế hoạch là xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được của thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế xã hội, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được Nhà nước sử dụng để thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế.
Về nội dung, hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia thường bao gồm:
Các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội: kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng, kế hoạch nâng cao phúc lợi xã hội.
Hệ thống các kế hoạch biện pháp và các cân đối vĩ mô chủ yếu: kế hoạch các nguồn lực, cân đối vốn đầu tư, cân đối ngân sách, cân đối thương mại, cân đối thanh toán quốc tế.
Hệ thống các chính sách phát triển.
II. Việc làm và kế hoạch giải quyết việc làm
1. Các khái niệm cơ bản
1.1 Dân số trong độ tuổi lao động.
Dân số trong độ tuổi lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật (Việt Nam hiện nay, 15-60 tuổi đối với nam, 15-55 tuổi đối với nữ).
Dân số trong đội tuổi lao động được chia làm 2 bộ phận:
+ Dân số hoạt động kinh tế (còn gọi là dân số nguồn lao động hay lực lượng lao động): Là những người trong độ tuổi lao động đang làm việc hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc.
Như vậy lực lượng lao động trong độ tuổi lao động bao gồm số người có việc làm và số người thất nghiệp. Những người được coi là thất nghiệp là những người không có việc làm và có nhu cầu làm việc.
+ Dân số không hoạt động kinh tế: Gồm toàn bộ những người khác trong độ tuổi lao động không thuộc nhóm có việc làm hoặc thất nghiệp.
Bộ phận bao gồm: Những người không có khả năng làm việc do tàn tật, ốm đau, mất sức kéo dài, những người chỉ làm việc nội trợ của chính gia đình mình và không được trả công; học sinh, sinh viên trong đội tuổi lao động; những người không hoạt động kinh tế vì những lý do khác nhau.
1.2 Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: Là tổng số những người trong độ tuổi lao động và tham gia làm việc có thể huy động được của họ.
Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước (kể cả cận trên và cận dưới) là khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển nền kinh tế.
1.3 Lực lượng lao động
1.3.1 Khái niệm:
Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.
Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động (lực lượng lao động) cũng được biểu hiện trên 2 mặt là số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái niệm nguồn lao động, có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm; những người đang đi học và những người thuộc tình trạng khác.
1.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới số lượng lao động
* Dân số:
Dân số được coi là yếu tố quyết định số lượng lao động. Quy mô và cơ cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô, cơ cấu của nguồn lao động. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động của dân số là: Phong tục, tập quán của từng nước, trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế và chính sách của từng nước đối vấn đề khuyến khích hoặc hạn chế sinh đẻ.
Tình hình tăng dân số trên thế giới hiện nay có sự khác nhau giữa các nước. Nhìn chung các nước phát triển có mức sống cao thì tỷ lệ tăng dân số thấp; ngược lại ở những nước kém phát triển thì tỷ lệ tăng cao. Mức tăng dân số bình quân của thế giới hiện nay là 1.8%, ở các nước Châu Âu thường ở dưới mức 1%, trong khi đó ở các nước Châu á là 2 - 3% và các nước Châu Phi là 3 - 4%. Hiện nay 3/4 dân số thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số tăng nhanh chóng trong khi phát triển kinh tế tăng chậm, do đó mức sống của nhân dân không tăng lên được và tạo áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm. Do đó, kế hoạch hoá dân số đi đôi với phát triển kinh tế là vấn đề quan tâm của các nước.
* Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động
Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, hoặc ở trong tình trạng khác. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động thường được sử dụng để ước tính quy mô của dự trữ lao động trong nền kinh tế và có vai trò quan trọng trong thống kê thất nghiệp.
* Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp:
Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Số người không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế.
Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó không chỉ tác động về kinh tế mà còn tác động cả về khía cạnh xã hội.
Theo cách tính thông thường, tỉ lệ thất nghiệp bằng tỉ lệ phần trăm giữa tổng số người thất nghiệp so với tổng số nguồn nhân lực. Nhưng đối với các nước đang phát triển tỉ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động chưa sử dụng hết. Trong thống kê ở các nước đang phát triển, số người nghèo thường chiếm tỉ lệ rất nhỏ và khi họ thất nghiệp thì họ cố gắng không để thời gian đó kéo dài. Bởi vì họ không có các nguồn lực dự trữ, họ phải nhận mọi việc nếu có. Do đó, ở các nước đang phát triển để biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết lao động người ta dùng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình, thất nghiệp trá hình bao gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình.
Người ta cho rằng thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng làm việc với năng suất thấp, họ đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất, vấn đề khó khăn là không đánh giá chính xác nguồn lao động chưa sử dụng hết dưới hình thức bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp vô hình.
* Thời gian lao động
Thời gian lao động được tính bằng số ngày làm việc trên năm, số giờ làm việc trên năm, số ngày làm việc trên tuần, số giờ làm việc trên tuần hoặc số giờ làm việc trên ngày; xu hướng chung của các nước là thời gian làm việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng cao.
1.3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động
Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào sự phát triển kinh tế. Chất lượng lao động mới là yếu tố quyết định làm cho lao động có năng suất và chất lượng cao hơn. Chất lượng lao động được nâng cao thông qua giáo dục, đào tạo; nhờ sức khoẻ của người lao động, nhờ bố trí điều kiện lao động tốt hơn.
* Giáo dục:
Giáo dục quyết định sự phát triển tiềm năng của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông. Theo thống kê chung của nước ta cũng như thế giới giữa giáo dục và mức thu nhập có mối quan hệ: Ví dụ những người đã tốt nghiệp cấp 3 phần lớn có thu nhập cao hơn những người chỉ mới tốt nghiệp cấp 1. Nhưng để đạt được trình độ giáo dục nhất định cần phải chi phí khá nhiều kể cả chi phí của gia đình và quốc gia. Đó chính là chí phí đầu tư cho con người. ở các nước đang phát triển giáo dục được thực hiện dưới nhiều hình thức nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn cho mọi người.
Kết quả giáo dục sẽ làm tăng lực lượng lao động có trình độ tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, tăng trưởng kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối việc tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích luỹ kiến thức.
Chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta giai đoạn 1996 - 2000 đã xác định mục tiêu: Tăng số người tốt nghiệp phổ thông cơ sở trong độ tuổi lao động lên 55 - 60% và tỉ lệ những người lao động qua đào tạo trong tổng số lao động lên 22 - 25 % vào năm 2000.
* Sức khoẻ:
Sức khoẻ giống như giáo dục, làm tăng chất lượng của nguồn lực cả hiện tại và tương lai người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ dẻo dai và khả năng tập trung trong khi đang làm việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ em là yếu tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai giúp trẻ nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua giáo dục nhà trường. Những khoản chi cho sức khoẻ còn làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng bằng việc kéo dài tuổi lao động.
Một trong những nhiệm vụ giải quyết vấn đề văn hoá xã hội ở nước ta trong giai đoạn 2000 - 2005 là: Cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khoẻ cho mọi người ,từng bước nâng cao thể trạng và tầm vóc, trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ và trẻ em. Thực hiện chương trình dinh dưỡng quốc gia giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn dưới 22 - 25% năm 2005 và không còn suy dinh dưỡng nặng. Nâng tuổi thọ bình quân năm 2005 lên 70 tuổi.
1.4 Việc làm:
Trước khi đưa ra khái niệm về việc làm chúng ta xem xét một số vấn đề về lao động: Lao động là một hành động diễn ra giữa người và giới tự nhiên. Trong khi lao động, con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên, chiếm lấy vật chất trong giới tự nhiên, biến đổi những vật chất đó, làm cho nó trở lên có ích cho đời sống của mình. Vì thế lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sống của con người, là một sự tất yếu vĩnh viễn, là kẻ môi giới trong sự trao đổi vật chất giữa tự nhiên và con người.
Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động. Sức lao động là năng lực lao động của con người, là toàn bộ thể lực và trí lực của con người. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động trong quá trình lao động. Nó phát động và đưa ra các tư liệu lao động vào hoạt động để tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản suất là hệ thống gồm ba phần hợp thành (người sản xuất, quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá) thì sức lao động là một trong những nguồn lực khởi đầu của sản xuất. Trong các nguồn lực này thì nguồn lao động giữ vai trò trung tâm, cũng như người lao động giữ vai trò trung tâm trong quá trình lao động vậy. Đối với một nền sản xuất xã hội nhất định mỗi người lao động chiếm một vị trí nhất định trong toàn hệ thống. Mỗi vị trí trong đó một người lao động có thể chiếm giữ trong hệ thống sản xuất xã hội, với tư cách sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá trình sản xuất gọi là một “chỗ việc làm” hay “việc làm”.
1.4.1 Các khái niệm về việc làm.
* Đã có nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước bàn về khái niệm việc làm. Tuy nhiên có nhiều cách tiếp cận hoặc diễn giải khác nhau song có thể phân ra làm 2 loại:
Thứ nhất: Xem xét trên giác độ lợi ích của việc làm người ta cho rằng việc làm là hoạt động có ích cho xã hội, mang lại thu nhập và không bị pháp luật nghiêm cấm.
Có ý kiến cho rằng khái niệm này là cách hiểu trực diện, chưa bao hàm hết ý nghĩa phong phú của việc làm, mặt khác nếu chỉ căn cứ vào tính pháp lý, là sự đưa lại thu nhập của sự hoạt động thì có những hoạt động không đủ đặc tính đó, song chưa có thể coi là việc làm (ví dụ hoạt động của lực lượng vũ trang). Với quan niệm trên cũng chưa hẳn thích hợp vì hoạt động của lực lượng vũ trang thường đặt ra ngoài cuộc điều tra, thống kê về việc làm và thất nghiệp. Hơn nữa nếu hiểu thuật ngữ lao động theo cách mở rộng, thì như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, cải tạo lao động của lực lượng vũ trang là “lao động giết giặc”.
Loại thứ 2: Xem xét việc làm như một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liêu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy theo quan niệm này khi và chỉ khi có sự phù hợp về số lượng của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất (hoặc phương tiện sản xuất) thì ở đó có việc làm. ở đây cách hiểu việc làm khi và chỉ khi có sự kết hợp của 2 yếu tố: Sức lao động và tư liệu sản xuất như khái niệm trên thì cũng chưa thật toàn diện. Bởi vì còn một yếu tố thứ 3 rất quan trọng: đó là điều kiện lao động. Ví dụ: Nếu điều kiện lao động không đảm bảo thì quá trình lao động sản xuất càng không thể diễn ra được.
Như vậy, sau khi phân tích khái niệm về việc làm trên, người ta đưa ra khái niệm về việc làm như sau: Việc làm là sự kết hợp (hay phù hợp) về số lượng của sức lao động và phương tiện sản xuất trong điều kiện lao động phù hợp.
Có thể mô hình hoá việc làm trong mối quan hệ giữa 2 yếu tố đó như sau:
V: Việc làm.
C C: Khối lượng tư liệu sản xuất
V =
v v: Khối lượng lao động sống
Mô hình chỉ rõ 1 đơn vị lao động sống có thể vận hành bao nhiêu tư liệu sản xuất (suất đầu tư cho một chỗ việc làm mới). Quan hệ đó thường xuyên thay đổi do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật theo hướng một đơn vị lao động sống sẽ vận hành ngày càng nhiều hơn số đơn vị lao động vật hoá. Khi chuyển từ trạng thái phù hợp này sang thái phù hợp khác thông thường sẽ giảm bớt chi phí lao động sống từ đó dẫn đến tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong các cơ sở sản xuất.
Như vậy theo quan niệm này, thất nghiệp là hiện tượng có sự tách rời, không phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất mà sức lao động lại gắn với từng con người cụ thể vì đó cho nên người thất nghiệp là người không có phương tiện để sản xuất và đang muốn tìm việc làm.
Hiện tượng thiếu việc làm biểu hiện dưới 2 dạng:
Thứ nhất là người lao động không đủ tư liệu sản xuất để sản xuất trong thời gian làm việc theo quy định, hoặc làm việc đủ thời gian theo quy định song thu nhập thấp vẫn muốn tìm thêm việc làm để tăng thu nhập.
Như vậy hai yếu tố (sức lao động và tư liệu sản xuất) tách rời nhau thì chúng tồn tại như là những tiềm năng, khi 2 yếu đó kết hợp với nhau, quá trình lao động diễn ra và người lao động có việc làm.
Nhưng làm thế nào để kết hợp được các yếu tố đó tức là biến những tiềm năng đó trở thành hiện thực theo các nhà nghiên cứu phải có những điều kiện nhất định như:
+ Số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất
+ Số lượng và chất lượng sức lao động
+ Điều kiện lao động và môi trường kinh tế xã hội.
Tạo việc làm cho người lao động chính là quá trình tạo ra những điều kiện đó. Cụ thể hơn, số lượng việc làm được tạo ra phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Mối quan hệ giữa tạo việc làm với các yếu tố đó có thể biểu thị ở một hàm số:
Y = f(X, U, Z…n)
Y: Số việc làm mới được tạo ra
X: Tư liệu sản xuất
U: Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Z: Chính sách kinh tế xã hội, điều kiện lao động
Do tư liệu sản xuất và sức lao động độc lập với nhau nên quá trình tạo việc làm phụ thuộc vào chế vận động của nền kinh tế. Như vậy tạo việc làm tất yếu phải dựa trên cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Theo mối quan hệ hàm số trên chúng ta thấy rằng: Số lượng việc làm có thể nói là phụ thuộc hoàn toàn vào tổng số vốn đầu tư tạo việc làm mới. Điều này chỉ ra cho các nhà quản lý khi tiến hành tổ chức thiết kế các phương án tạo việc làm cho người lao động một chỉ tiêu tổng hợp rất cần quan tâm đó là vốn.
* Trên đây chỉ là một trong nhiều quan niệm, nghiên cứu về việc làm. Đứng trên các góc độ, mục đích nghiên cứu khác nhau thì người ta có quan niệm về việc làm riêng nhưng bản chất của việc làm là không thay đổi. Theo điều lệ Bộ luật lao động ở nước ta hiện nay chúng ta có khái niệm việc làm: Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm và được xã hội thừa nhận là việc làm.
Việc làm là một phạm trù, tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện có của nền sản xuất. Một người lao động có việc làm khi anh ta chiếm giữ được một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà anh ta mới thực hiện được quá trình lao động, từ đó tạo ra sản phẩm cho xã hội và bản thân.
Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu như vậy là chưa đủ. Một người có thể tiến hành lao động nhưng vẫn không được coi là có việc làm. Bởi vì con người chỉ có thể tồn tại trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Chính vì vậy chỉ được coi là việc làm nếu nó được pháp luật và xã hội thừa nhận.
1.4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm
Nói đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm là nói đến các yếu tố vị trí địa lý lịch sử, các vấn đề kinh tế xã hội… nhưng ở đây là nói đến yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng việc làm.
a. Chất lượng việc làm
Một việc làm được gọi là chất lượng cao nếu nó đem lại thu nhập cao cho người có việc làm và đem lại phần đóng góp lớn cho xã hội. Chất lượng việc làm và chất lượng lao động không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Một người có thu nhập, có việc làm cao chưa chắc đã trên cơ sở lao động có hiệu quả. Vì vậy nhìn chung toàn bộ xã hội chất lượng việc làm phải dựa trên cơ sở chất lượng lao động. Việc nhận thức đúng đắn về chất lượng việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao mức sống người lao động. Khi đề cập đến việc giải quyết việc làm thì điều quan trọng không chỉ tạo thêm việc làm, mà còn nâng cao chất lượng việc làm cho người lao động.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng việc làm. Trước hết phải kể đến hiệu quả lao động, chất lượng lao động ngoài ra chất lượng lao động còn phụ thuộc vào chế độ phân phối tính chất cuả công việc. Tình trạng ứng dụng khoa học kĩ thuật nói chung của xã hội, hiệu quả các chính sách kinh tế của Chính phủ. Đó là những nhân tố tích cực ảnh hưởng đến chất lượng việc làm.
b. Số lượng việc làm:
Trong nền kinh tế quốc dân nhất định do các yếu tố của toàn bộ lao động xã hội có hạn, cũng như hạn chế của chế độ tổ chức lao động xã hội nên số lượng việc làm có hạn.
Một số người cho rằng: Lao động của một người có thể chia cho nhiều người làm, do đó khả năng giải quyết việc làm (giả định chế độ tổ chức lao động xã hội cho phép) của xã hội là vô hạn. Nhưng khi phân chia như vậy thì hiệu quả lao động giảm, thu nhập của mỗi người sẽ bị giảm dẫn đến phá vỡ nguyên tắc thu nhập đảm bảo cuộc sống cho bản thân, gia đình và một phần đóng góp của xã hội. Chính vì vậy đối với một xã hội nhất định trong một thời kỳ nhất định, số lượng việc làm luôn luôn là hữu hạn.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến số lượng việc làm trong xã hội, trước hết phải kể đến nguồn lực hiện có trong nền kinh tế. Nếu nguồn lực dồi dào thì khả năng tạo việc làm là lớn. Chẳng hạn những nước giàu (các nước phát triển) giải quyết việc làm dễ hơn các nước nghèo (các nước đang phát triển và các nước thuộc thế giới thứ 3). Mặt khác phải tính đến hiệu quả của tổ chức lao động xã hội (hay còn gọi là tổ chức lao động khoa học). Với cùn._.g các điều kiện tài nguyên thiên nhiên như nhau, nước nào có tổ chức lao động hợp lí hơn sẽ có nhiều việc làm hơn. Bên cạnh đó các yếu tố như sự gia tăng dân số, quy mô dân số, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, sự biến đổi của lao động và dân số đều ảnh hưởng đến việc làm của xã hội.
1.4.3 Phân loại:
Có nhiều cách phân loại khác nhau. Sau đây sẽ xét 2 cách phân chia việc làm phổ biến nhất:
- Chia việc làm theo hình thức thu nhập:
+ Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật hoặc để đổi công.
+ Các công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chính bản thân đó sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
+ Làm công việc nhằm tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền công, tiền lương. Bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng, hoặc hoạt động sản xuất kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ quản lý.
- Chia việc làm theo tính chất công việc.
+ Việc làm chính: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với các công việc khác.
+ Việc làm phụ: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính.
1.5 Thất nghiệp:
1.5.1 Khái niệm:
Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
1.5.2 Phân loại:
Thất nghiệp có thể phân chia thành nhiều loại trên cơ sở những tiêu thức khác nhau:
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện:
+ Thất nghiệp tự nguyện là thất nghiệp xảy ra khi người lao động tự nguyện bỏ việc để đi tìm công việc khác tốt hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng.
+Thất nghiệp không tự nguyện xảy ra khi người lao động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vần không tìm được việc làm.
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
+ Thất nghiệp tạm thời: : Là do công nhân thay đổi việc làm hoặc do cung cầu không phù hợp.
+Thất nghiệp cơ cấu: Đề cập đến số người thất nghiệp xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động của nhu cầu sản xuất thay đổi.
+ Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như thể là kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội lao động.
+Thất nghiệp chu kì: là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất kinh doanh giảm lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với thất nghiệp này những chính sách nhằm khuyến khích tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
ở nước ta cũng như các nước đang phát triển, tỉ lệ thất nghiệp chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động chưa sử dụng hết. Trong thống kê thất nghiệp ở các nước đang phát triển, số người nghèo thường chiếm tỉ lệ rất nhỏ và khi họ thất nghiệp thì họ cố gắng không để thời gian đó kéo dài. Bởi vì họ không có nguồn lực dự trữ, họ phải chấp nhận mọi việc nếu có. Do đó, ở các nước đang phát triển, để biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết lao động người ta sử dụng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình.
Thất nghiệp trá hình: gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình.
Thất nghiệp vô hình gồm những người không thuộc lực lượng lao động nhưng họ sẽ tham gia vào lực lượng lao động nếu như nền kinh tế đảm bảo được việc làm đầy đủ.
Người ta cho rằng thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có việc làm, trong khu vực nông thôn hoặc thành thị, không chính thức nhưng làm việc với mức năng xuất rất thấp, họ đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất. Vấn đề khó khăn là không đánh giá được chính xác nguồn lao động chưa sử dụng hết dưới hình thứ bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp vô hình.
1.5.3 Nguyên nhân của thất nghiệp:
Về nguyên tắc, thất nghiệp xảy ra khi chỗ việc làm trống ít hơn người đi tìm việc hoặc số việc làm trống đòi hỏi chuyên môn và kĩ năng nghề nghiệp mà người tìm việc không đáp ứng được. Nguyên nhân dẫn tới sự mất cân đối này là đối tượng quan tâm của nhiều nhà kinh tế lao động. Có thể nói là không có một nguyên nhân duy nhất dẫn tới thất nghiệp, mà thất nghiệp là kết quả của nhiều yếu tố có tác động qua lại lẫn nhau. Một số lí giải về nguồn gốc của thất nghiệp, có thể nêu ra như sau:
- Tiền lương, tiền công quá cao so với giá trị của yếu tố sản xuất khác (máy móc, thiết bị).
- Tiền lương, tiền công quá cao so với mức năng xuất lao động,
- Nền kinh tế vĩ mô nằm trong tình trạng khủng khoảng.
- Các chế độ bảo hiểm xã hội (bảo hiểm thất nghiệp) quá cao so với tiền lương, tiền công.
- Người lao động tự nguyện nghỉ việc để hy vọng tìm được công việc tốt hơn.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của người lao động không phù hợp với yêu cầu của người sử dụng lao động.
Ba nguyên nhân đầu tiên lý giải thất nghiệp là do thiếu cầu lao động. Theo trường phái kinh tế học tân cổ điển, người sử dụng lao động sẽ thuê thêm lao động khi và chỉ khi sản phẩm lao động biên (sản phẩm được tạo ra do thuê mướn thêm một lao động) ít nhất bằng chi phí để thuê lao động đó (tiền lương hoặc tiền công cộng các chí phí tuyển dụng lao động). Như vậy tiền lương, tiền công sẽ làm giảm cầu lao động và hạ thấp tiền lương tiền công sẽ làm tăng cầu lao động và vấn đề thất nghiệp sẽ được giải quyết.
Tình trạng của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng lớn đến việc làm và thất nghiệp. Các hoạt động sản xuất, về bản chất có tính chu kì giao động theo một dạng quỹ đạo nhất định gọi là chu kì kinh doanh. Chu kì kinh doanh phản ánh sự tăng giảm các hoạt động kinh tế so với xu hướng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái hầu hết các doanh nghiệp đều giảm lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động, dẫn tới tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Trên thực tế có tồn tại những người tự nguyện thất nghiệp. Điều đó có nghĩa là họ vẫn có thể tìm được một công việc nhưng họ không muốn làm việc đó với mong muốn sẽ tìm được một công việc tốt hơn. Bởi vậy ngay trong nền kinh tế có tổng cung và tổng cầu lao động bẵng nhau vẫn có thất nghiệp. Đó là khoảng thời gian cần thiết để người lao động tìm được công việc phù hợp với trình độ tay nghề và sở thích của họ. Điều này gợi ý rằng, hệ thống thông tin về thị trường lao động và dịch vụ giới thiệu việc làm có ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp.
Một bộ phận lao động không tìm được việc làm là do sự không phù hợp giữa trình độ chuyên môn, tay nghề của người đi tìm việc và yêu cầu của người sử dụng lao động. Hiện tượng này trở lên nghiêm trọng trong thời kì CNH - HĐH. Dưới ảnh hưởng của cách mạng khoa học kỹ thuật, một số ngành nghề mới xuất hiện, một số ngành nghề cũ trở lên lạc hậu và bị bại bỏ. Số lao động trong các ngành nghề truyền thống bị đẩy ra trong khi họ chưa có đủ điều kiện để làm việc trong các lĩnh vực mới và trở lên thất nghiệp. Điều này nói lên rằng việc đào tạo, đào tạo lại và hướng nghiệp dạy nghề có ý nghĩa quan trọng đến việc hạn chế thất nghiệp.
1.5.4 Hậu quả của thất nghiệp
Hậu quả kinh tế trực tiếp của thất nghiệp có thể dễ dàng nhận thấy là sự giảm sút của tổng thu nhập kinh tế quốc dân. Bởi vì, lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần của xã hội… Khi nền kinh tế không có khả năng tạo đủ việc làm cho những người có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc thì việc sử dụng không hết tiềm năng lao động sẽ là sự mất đi vĩnh viến lợi ích tiềm tàng của xã hội.
Đối với từng thành viên của xã hội và gia đình, thất nghiệp làm mất đi tiền lương, tiền công hoặc các khoản thu được từ các hoạt động tự làm và có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống. Trên thực tế cho thấy rằng phần đông những người thất nghiệp không tự nguyện có mức thu nhập dưới ngưỡng đói nghèo. Giữa thất nghiệp, đói nghèo và sự phân chia thu nhập có mối quan hệ khăng khít với nhau. Qua nghiên cứu thực tế cho thấy: thất nghiệp thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư, khó khăn về điều kiện tự nhiên, hạ tầng cơ sở…) những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp) và dẫn tới một bộ phận dân cư nằm trong nguy cơ bị đói nghèo suốt đời nếu như không có chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
Thất nghiệp dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp có thể đạt được trong quá trình lao động. Mặt khác đối với những người đã được đào tạo thất nghiệp sẽ làm hao mòn và mất đi kiến thức và trình độ tay nghề quý báu vốn có.
Hậu quả kinh tế của thất nghiệp có thể dẫn tới nhiều tiêu cực trong cuộc sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động không chỉ vì lao động là nguồn gốc của thu nhập, mà lao động còn là điều kiện để phát triển nhân cách, để khẳng định mình là môi trường giao tiếp xã hội. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy: trong nhiều trường hợp thất nghiệp làm mất đi lòng tự trọng, lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của nhiều vụ phạm tội, đổ vỡ hạnh phúc gia đình, mắc bệnh hiểm nghèo về tim mạch và tâm thần.
Thất nghiệp còn là vấn đề công bằng xẫ hội có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa một bộ phận lớn tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân. Về nguyên tắc, mọi thành viên xã hội đều có quyền bình đẳng về quyền sở hữu đối với những tư liệu sản xuất ấy. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có một bộ phận dân cư có quyền trực tiếp sử dụng và có nguồn thu nhập. Bộ phận còn lại (những người thất nghiệp) có quyền sở hữu nhưng không có quyền sử dụng và có thu nhập cho bản thân mình. Bởi vậy giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm phải là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.
2. Giải quyết việc làm.
2.1 ý nghĩa giải quyết việc làm
Mục đích cuối cùng của nghiên cứu vấn đề việc làm là đề xuất ra các giải pháp giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm là nâng cao chất lượng việc làm và tạo việc thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm.. Đây là vấn đề còn ít được chú ý khi đề cập đến vấn đề giải quyết việc làm.
Do nhiều lí do khác nhau nên số lượng việc làm luôn bị hạn chế. Trong xã hội thường có số lượng nhất định người không có việc làm. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến bản thân người không có việc làm mà cả đến xã hội. Họ không những không đóng góp cho xã hội mà lại phải trợ cấp cho họ. Tình trạng không có việc làm còn tạo ra sự căng thăng về mặt xã hội, một trong những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy giải quyết việc làm là một nhiệm vụ hết sức quan trọng không chỉ của các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý xã hội mà của mỗi con người. ở nước ta giải quyết việc làm luôn là mục tiêu trong việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế cũng như sự ổn định kinh tế xã hội nói chung.
Mặc dù nhiệm vụ giải quyết việc làm là rất quan trọng nhưng khả năng giải quyết việc làm chỉ có giới hạn. Do tiềm năng của sản xuất xã hội là có hạn, do bản chất của chế độ khác nhau nên số lượng việc làm không thể thu hút hết những người có khả năng lao động.
2.2 Đổi mới nhận thức về giải quyết việc làm.
2.2.1 Giải quyết việc làm trong nền kinh tế tập trung.
Trong thời kì trước đổi mới, nền kinh tế Việt Nam xây dựng theo mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống với sự thống trị của quan hệ trao đổi hiện vật phi thị trường và cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Nhà nước xây dựng kế hoạch và phân bổ hầu như các nguồn lực sản xuất của quốc gia. Các đơn vị sản xuất kinh doanh không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh mà chỉ thực hiện kế hoạch của Nhà nước giao. Trong các kế hoạch và phân bổ các nguồn lực có người lao động.
Trong hệ thống quan điểm truyền thống của XHCN thời kì trước đổi mới có 2 đặc điểm liên quan đến lao động việc làm.
+ Trong XHCN không có nạn thất nghiệp, đây là đặc điểm đối lập với chủ nghĩa tư bản.
+ Mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ lao động do đó mọi người trong độ tuổi lao động đều được Nhà nước phân phối việc làm.
Do những đặc điểm cơ bản trên vấn đề việc làm không được đặt ra mọi người đến tuổi lao động đều phải lao động, được quyền đòi hỏi lao động và có thu nhập. Về nguyên tắc người lao động không phải lo tìm việc làm. Nghĩa là trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, theo chế độ hoàn dụng lao động, mọi người đến tuổi lao động đều được sắp xếp vào biên chế Nhà nước theo chỉ tiêu kế hoạch đã định.
Kiểu phân phối lao động trên có nhiều ưu điểm đặc biệt là trong một số điều kiện nhất định nó taọ ra khả năng giải quyết việc làm nhanh chóng, kế hoạch Nhà nước được thực hiện ngay, mọi người đều cảm thấy bình đẳng. Nhưng đến nay nó đã không còn phù hợp và bộc lộ nhiều vấn đề.
+ Sự sắp đặt của Nhà nước, của tập thể về việc làm cho người lao động dẫn đến chỗ trong nhiều trường hợp bố trí sai người sai việc. Nhiều người có kiến thức, có chuyên môn không được sử dụng đúng dẫn đến chỗ lãng phí lao động, phí công đào tạo.
+ Nguyên lí về CNXH không có thất nghiệp dẫn đến chỗ chia việc làm để làm bất chấp hiệu quả. Trong điều kiện nhất định, chỉ có thể tạo ra số lượng việc làm nhất định. Nếu tiếp tục tăng người làm một việc (mà ở đây chỉ cần 1 người) phải chia cho nhiều người đảm nhiệm, dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa các đầu vào, không hiệu quả.
+ Chế độ tiền lương hoàn toàn bao cấp qua ngân sách làm cho ngân sách Nhà nước phải chịu một gánh nặng lớn, là một trong những nguyên nhân tạo ra bội chi ngân sách lớn.
+ Nhà nước phân bổ công việc dẫn đến làm mất quyền của người lao động, người lao động trở thành công cụ thụ động không còn hứng thú trong lao động.
+ Chế độ tiền lương bao cấp không dựa trên chất lượng và số lượng lao động, chủ nghĩa công bằng trong phân phối làm cho người lao động chỉ lo tìm chỗ làm nhàn rỗi.
+ Vấn đề việc làm không thành vấn đề, không tồn tại nạn thất nghiệp như ở các nước kinh tế thị trường, nhưng điều đó chỉ đúng theo cách hiểu việc làm giản đơn. Việc làm ở đây được hiểu chỉ có công việc Nhà nước và tập thể sắp xếp, bất chấp chất lượng của công việc, thu nhập, từ chỗ việc làm không đảm bảo cuộc sống gia đình dẫn đến tiêu cực khác (vô tổ chức kỷ luật, tệ nạn xã hội…)
+ Chủ nghĩa biên chế thống trị, đề cao hư danh coi thường các công việc có tính tự tạo. Như vậy thực tế ở nước ta trong thời kỳ bao cấp vấn đề việc làm thực chất không phải là không có mà ngược lại đặt ra một cách gay gắt. Thực chất đã nảy sinh nạn thất nghiệp trá hình với tỉ lệ khá cao. Vấn đề giải quyết việc làm thường được hiểu và thực hiện một cách máy móc, đơn giản và chỉ do Nhà nước đứng ra làm.
2.2.2 Giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các yếu tố đầu vào của sản xuất đều trở thành hàng hoá, kể cả yếu tố sức lao động nằm trong con người. Nó là yếu tố chi phí của quá trình sản xuất, đồng thời cũng là yếu tố mạng lại lợi ích cho quá trình đó. Trong kinh doanh thị trường, con người chỉ bán sức lao động của mình trong thời hạn nhất định chứ không phải bán con người vĩnh viễn như chủ nô bán nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ.
Khi bán sức lao động , con người phải thực hiện quá trình lao động để tạo ra sản phẩm cho người mua sức lao động của anh ta. Người mua sức lao động dùng một phần giá trị sản phẩm được tạo ra trả cho người bán (đó chính là giá cả sức lao động).
Người bán sức lao động có thu nhập để từ đó đảm bảo cuộc sống cho mình và gia đình. Như vậy khi bán sức lao động cũng là lúc nhận được việc làm.
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán sức lao động được thông qua thị trường. Do đó thị trường cũng là một hình thức giải quyết việc làm (tạo việc làm). Như vậy ta có thể hiểu rằng thị trường lao động chính là nơi diễn ra quá trình mua bán sức lao động.
Trong nền kinh tế thị trường việc làm được tự do tạo lập theo các nguyên tắc của cơ bản của thị trường và sự chỉ đạo hướng dẫn của Nhà nước. Người lao động không bị ràng buộc, thụ động trông chờ vào sự sắp xếp phân bổ của Nhà nước và hợp tác xã. Họ được tự chủ định đoạt việc sử dụng sức lao động của mình, phát huy năng lực sáng tạo theo khả năng chuyên môn của mình. Tạo việc làm, giải quyết việc làm không còn là quyền hạn, trách nhiệm riêng của Nhà nước, hợp tác xã. Tất cả các đơn vị tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi người lao động đều có quyền và trách nhiệm tạo việc làm giải quyết việc làm. Toàn xã hội tham gia vào giải quyễt việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Tư tưởng xuyên suốt của Đảng: Sự nghiệp phát triển là do dân, vì dân, phát triển đi lên xã hội chủ nghĩa lấy phát triển con người làm vị trí trọng tâm. Vì vậy mà việc giải quyết việc làm không chỉ nhằm đưa ra phương án sử dụng tối ưu nguồn lao động xã hội mà nó còn liên quan đến vấn đề đào tạo chăm sóc và đảm bảo các yếu tố về văn hoá, tinh thần của người lao động. Giải quyết việc làm không chỉ tính đến vấn đề hiệu quả mặt khác phải quan tâm đến công bằng xã hội, tạo ra sự bình đẳng trong khi vẫn thúc đẩy phát huy năng lực cống hiến của người lao động. Quan điểm mới của Đảng, Nhà nước về vấn đề “việc làm hợp lý” là không chỉ tính về mặt số lượng mà còn xét về mặt chất lượng, hiệu quả, trình độ chuyên môn, nguyện vọng của người lao động và phải phù hợp giữa số lượng, chất lượng của yếu tố con người với vật chất và tư liệu sản xuất.
3. Kế hoạch lực lượng lao động
3.1 Khái niệm:
Kế hoạch lực lượng lao động là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch phát triển nhằm xác định quy mô, cơ cấu, chất lượng của bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế cần huy động cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu về nhu cầu việc làm mới, nhiệm vụ giải quyết việc làm trong kì kế hoạch đồng thời đưa các chính sách và giải pháp quan trọng nhằm thu hút sử dụng hiệu quả lao động xã hội.
3.2. Vị trí, vai trò của kế hoạch lực lượng lao động:
Trong hệ thống kế hoạch phát triển, kế hoạch lực lượng lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó bao hàm cả ý nghĩa của kế hoạch biện pháp và kế hoạch mục tiêu:
Nếu xét lao động là một yếu tố nguồn lực thì kế hoạch lực lượng lao động là kế hoạch biện pháp, kế hoạch phát triển lực lượng lao động nhằm vào mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng, tạo ra các điều kiện về lao động để thực hiện các kế hoạch này.
Xét lao động là yếu tố hưởng lợi ích thì kế hoạch lực lượng lao động là kế hoạch mục tiêu vì kế hoạch phát triển lao động bao hàm cả một số các chỉ tiêu nằm trong hệ thống các mục tiêu phát triển xã hội như: Giải quyết lao động, khống chế thất nhiệp hay các chỉ tiêu giáo dục, y tế sức khoẻ.
Quan niệm trên có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch về lao động. Một mặt kế hoạch lao động được xây dựng dựa trên cơ sở các yếu tố cần do các kế hoạch về tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặt ra đồng thời kế hoạch lao động còn tìm ra các cơ chế chính sách để thực hiện các mục tiêu do chính kế hoạch lao động đặt ra.
3.3 Nội dung của kế hoạch lao động và việc làm.
Nhiệm vụ của kế hoạch lực lượng lao động là từ việc xác định cung cầu về lao động sẽ xác định các chính sách tác động của Chính phủ nhằm hoàn thiện hơn sự vận động của thị trường lao động. Nội dung, phương pháp kế hoạch lực lượng lao động gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định nhu cầu sức lao động xã hội.
Nhu cầu sức lao động xã hội chỉ nhu cầu thu hút, tiếp nhận sức lao động nảy sinh trong hoạt động kinh tế xã hội, nó có tính khách quan nội tại. Phân tích cụ thể, nhu cầu nghĩa là có bao nhiêu chỗ làm việc do hoạt động kinh tế xã hội mang lại.
Các nhân tố chi phối tổng lượng nhu cầu sức lao động xã hội chủ yếu bao gồm:
+ Quy mô tốc độ tăng trưởng kinh tế
+ Trình độ và tốc độ nâng cao năng suất lao động.
+ Sự phát triển trong cơ cấu ngành nghề, cơ cấu sản phẩm, cơ cấu hoạt động kinh tế xã hội.
+ Khả năng đối với sức lao động.
Để xác định cụ thể nhu cầu sức lao động ở kì kế hoạch ở tầm vĩ mô, có một phương pháp dựa trên nghiên cứu của Timbergan (người Hà lan) và nhà kinh tế học người Mĩ Habeet Paens gọi là phương pháp Timbergan-Palnes. Việc tính toán nhu cầu tiến hành qua 5 bước:
Xác định nhu cầu tăng trưởng GDP kì kế hoạch.
Xác định sự biến đổi về tỉ trọng, cơ cấu ngành kinh tế tạo nên GDP.
Xác định nhu cầu về số lượng lao động vần có trong kì kế hoạch theo các phương pháp thích hợp.
Xác định cơ cấu lao động theo nghề nghiệp
Xác định cơ cấu nhu cầu giáo dục.
Bước 2: Xác định khả năng cung cấp lực lượng lao động xã hội và nhiệm vụ giải quyết việc làm kì kế hoạch.
Khả năng cung cấp lực lượng xã hội là một bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế, bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động có đủ khả năng tham gia lao động, đang tham gia lao động và có nhu cầu tìm việc làm.
Việc xác định khả năng cung cấp lực lượng lao động xã hội được thực hiện qua các bước sau:
Xác định tổng nguồn nhân lực đất nước kì kế hoạch bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi lao động.
Xác định bộ phận dân số hoạt động kì kế hoạch.
Bước 3: Cân bằng cung cầu sức lao động xã hội
Thông thường ở Việt nam và các nước phát triển nói chung khi thực hiện cân đối cung cầu sức lao động xã hội tồn tại một thực tế: Nhiệm vụ giải quyết việc làm thường lớn hơn khả năng, tức là cung lớn hơn cầu về mặt số lượng. Tình hình đó đòi hỏi phải điều tiết cả 2 mặt cung và cầu.
Một mặt giữ cho dân số tăng trưởng không quá cao để hạn chế quy mô tăng sức lao động, giảm nhẹ áp lực xã hội do số lượng tài nguyên sức lao động quá thừa đồng thời nâng cao chất lượng của dân số nhất là sức lao động để thoả mãn nhu cầu.
Mặt khác, điều chỉnh và sắp xếp hợp lý kết cấu sản nghiệp, đặc biệt là căn cứ vào tình hình nhân lực của đất nước để điều tiết phương hướng phát triển các hoạt động kinh tế xã hội nhằm tạo ra nhiều chỗ việc làm hơn, sử dụng có hiệu quả nhất tài nguyên sức lao động.
Bước 4: đề ra các giải pháp và chính sách nhằm khai thác huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lao động.
III. Đặc điểm tự nhiên-kinh tế-xã hội của tỉnh Thái Bình có ảnh hưởng đến giải quyết việc làm.
3.1 Điều kiện tự nhiên: Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển. Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, thành phố Hải Phòng. Diện tích đất tự nhiên hơn 1639km2 chiếm 0.48% so với cả nước. Thái Bình nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng Hà Nội-Hải Phòng-Hạ Long, có trên 50km bờ biển và hệ thống sông ngòi với 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân) thuận lợi cho giao lưu kinh tế hướng ra biển. Tỉnh chỉ cách thành phố Hải Phòng 70km và thủ đô Hà Nội 110km, với việc hoàn thành cầu Tân Đệ và nâng cấp quốc lộ 10 đã là yếu tố mới tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Thái Bình phát triển, sản xuất hàng hoá và mở rộng giao lưu kinh tế xã hội với các tỉnh trong vùng, cả nước và quốc tế.
Về điều kiện địa hình: Thái Bình thuộc Đồng bằng châu thổ sông Hồng có địa hình tương đối băng phẳng, với độ dốc nhỏ hơn 1%, cao trình biến thiên phổ biến từ 1-2 m so với mặt biển. Nhìn chung toàn tỉnh có hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, ở từng khu vực có thấp trũng hay gò cao hơn so với địa hình chung, toàn bộ diện tích tự nhiên là đất bằng, đặc điểm địa hình là rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tỉnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, bức xạ mặt trời lớn tạo nên nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm là 23-240C, nhiệt độ thấp nhất ở mức 40C và cao nhất tới 38-390C. Mùa hè nóng bức mưa nhiều thường có bão lũ, mùa đông gió lạnh khô hanh. Độ ẩm dao động từ 80-90%, tổng nhiệt lượng cả năm 85000C, lượng mưa từ 1500-1900mm. Nhìn chung khí hậu Thái Bình cơ bản là thuận lợi cho việc phát triển đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, mỗi năm có thể gieo trồng được 2-3 vụ/năm, có nơi đến 3-4 vụ/năm.
Với tất cả các điều kiện về tự nhiên, địa hình, khí hậu Thái Bình từ trước đến nay được biết đến là một tỉnh chuyên canh về sản xuất nông nghiệp với mức năng suất khá cao. Là một tỉnh thuần nông có dân số đông (2.47% so với cả nước), hoạt động chủ yếu trong nông nghiệp, diện tích đất canh tác thấp và có xu hướng ngày càng giảm thì giải quyết việc làm trong nông nghiệp được coi là hướng đi chủ yếu trong công tác giải quyết việc làm của tỉnh. Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển nông nghiệp đối với nền kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến giải quyết việc làm cho người lao động. Trong những năm gần đây tỉnh đã tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp thông qua các chương trình chuyển đổi cây trồng vật, chương trình phát triển kinh tế biển, chương trình kiên cố hoá kênh mương…đã tạo đà, dần hình thành một nền nông nghiệp hàng hoá tập trung có khả năng cung cấp lương thực, thực phẩm cho vùng và cả nước, đồng thời giải quyết việc làm cho người lao động theo hướng tích cực: Một mặt thu hút lao động tại chỗ ngày càng nhiều vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mặt khác làm tăng năng suất lao động, tăng quỹ thời gian sử dụng lao động trong nông nghiệp, tạo điều kiện giải phóng lao động nông nghiệp sang hoạt động ở một số lĩnh vực khác.
Ngoài tài nguyên đất được coi là rất thuận lợi cho phát triển một nền nông nghiệp tập trung. Thái Bình còn có nguồn tài nguyên về dầu khí đang được khai thác sử dụng hiệu quả ở Tiền Hải và mới được phát hiện ở Thái Thuỵ với trữ lượng lớn, đó là nền móng cho việc phát triển các ngành công nghiệp có giá trị cao bên cạnh những ngành công nghiệp truyền thống mà tỉnh có lợi thế từ trước như may mặc, giày dép, mây tre đan…Trong những năm tới việc hình thành và đưa vào hoạt động các cụm công nghiệp (cụm công nghiệp thị xã, cụm công nghiệp Tiền Hải, Thái Thuỵ) sẽ tạo ra một bước ngoặt lớn cho phát triển kinh tế của tỉnh và có khả năng thu hút hàng vạn lao động mỗi năm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu lao động theo hướng tích cực, bền vững.
3.2 Điều kiện kinh tế xã hội: Thái Bình có nền sản xuất nông nghiệp lúa nước truyền thống với các khu vực dân cư được tổ chức theo các làng, xã, thôn, xóm mang đặc trưng của vùng nông thôn Bắc Bộ. Từ xưa người đời sống người nông dân trong tỉnh chủ yếu chỉ gắn với hoạt động sản xuất nông nghiệp, quá trình sản xuất bó hẹp trong một thôn, một xóm chưa có sự tổ chức sản xuất, tổ chức lao động có tính tập chung của sản xuất hàng hoá. Ngoài sản xuất nông nghiệp một số nơi trong tỉnh còn phát triển hình thành các làng nghề, xã nghề truyền thống như: dệt, đúc đồng, mây tre…thu hút, giải quyết được khá nhiều lao động nông nhàn và lao động thời vụ vốn còn nhiều trong nông thôn. Tuy nhiên sự phát triển này còn mang tính tự phát theo phương thức truyền nghề và phục vụ nhu câù tại chỗ, vì vậy mà nó chưa phát triển rộng khắp có tính quy hoạch tương xứng với tiềm năng về nguyên liệu cũng như lao động của vùng. Trong những năn gần đây thực hiện nghị quyết Đại hội IX và nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI về đẩy nhanh phát triển kinh tế với mục tiêu phát triển nông nghiệp là nền tảng dần hình thành một nền sản xuất nông nghiệp có tính hàng hoá cao, đồng thời hình thành các cụm công nghiệp, khu công nghiệp với các ngành nghề mà tỉnh có tiềm năng phát triển như công nghiệp vật liệu xây dựng, chế biến nông sản, may mặc…có khả năng tạo, thu hút hàng vạn lao động có tay nghề được đào tạo, dịch chuyển từ nông nghiệp sang. Phát triển công nghiệp cũng là bước đột phá mang tính tất yếu và cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong tương lai.
Phần II
Thực trạng giải quyết việc làm ở Thái Bình trong 2 năm đầu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
I- Mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch giải quyết việc làm ở Thái Bình thời kì 2001 - 2005.
1. Quan điểm của Đảng bộ tỉnh về giải quyết việc làm.
Trong chương trình mục tiêu giải quyết việc làm năm 2001 và đến năm 2005 của tỉnh đã nêu: Giải quyết việc làm cho người lao động vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, vừa mang tính cấp bách, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội và của chính người lao động. Nhà nước các cấp có trách nhiệm xây dựng chương trình giải quyết việc làm hàng năm và từng thời kì, đề ra các chỉ tiêu tạo việc làm và các giải pháp thực hiện, có hệ thống các chính sách ưu đãi khuyến khích có liên quan đến tạo nhiều chỗ làm việc mới để thu hút lao động và có trách nhiệm đối với người lao động.
Giải quyết việc làm phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải căn cứ vào 2 chỉ tiêu chủ yếu đó là hiệu quả kinh tế và chỗ việc làm mới để lựa chọn các dự án phát triển kinh tế.
Giải quyết việc làm phải gắn với việc không ngừng nâng cao chất lượng lao động, do đó phải xây dựng kế hoạch, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu giải quyết việc làm , yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
2. Mục tiêu và phướng hướng giải quyết việc làm của tỉnh giai đoạn 2001 - 2005.
2.1 Mục tiêu chung:
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh 5 năm 2001 - 2005 là: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiếp tục khắc phục những điểm yếu kém tồn tại trong nền kinh tế khơi dậy và phát huy tối đa nguồn nội lực, nâng dần nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững hơn mức bình quân 5 năm trước. Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả phát triển, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phát huy nhân tố con người, phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo, chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc về việc làm; ổn định và cải thiện vững chắc đời sống nhân dân; tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và tạo tiêu đề cần thiết khác để đi vào giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị an toàn xã hội, từng bước đưa Thái Bình trở thành một trong những tỉnh có trình độ phát triển khá ở đ._.ợng sản phẩm và hiệu quả kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Tập trung nguồn lực thực hiện có hiệu quả dự án khoanh vùng nuôi trồng trên 4.000 ha thuỷ sản, trong đó thực hiện xây dựng hệ thống thuỷ lợi vùng đầm ở các xã Thụy Trường, Thụy Hải, Thái Đô (Thái Thụy) và ở Nam Thịnh Đông Cơ Tiền Hải. Thực hiện thí điểm dự án nuôi tôm công nghiệp ở xã Thụy Hải (Thái Thụy) để rút kinh nghiệm nhân diện rộng. Có cơ chế khuyến khích để phát triển nhanh các chủ đầm nuôi trồng hải sản và cơ sở sản xuất tôm giống có chất lượng cao.
- Đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả chương trình trồng 5 triệu ha rừng, tiếp tục trồng mới bảo vệ rừng phòng hộ ven biển thuộc 2 huyện Tiền Hải và Thái Thụy tạo việc làm cho ngư dân địa phương. Đến năm 2005 đạt khoảng 11.000 - 12.000 ha rừng phòng hộ ven biển. Đẩy mạnh trồng cây phân tán phục vụ các mục đích kinh tế nhất là việc hình thành các vành đai cây xanh ở đô thị.
1.2 Phát triển công nghiệp và xây dựng:
Công nghiệp phát triển là một nhu cầu thiết yếu đối với tỉnh Thái Bình- một vùng thuần nông là chính. Là một vùng sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn cho nên lực lượng lao động chủ yếu là nông dân làm nông nghiệp. Như vậy phát triển công nghiệp phải phù hợp với đặc điểm kinh tế của vùng như phát triển các làng nghề truyền thống, ngành nghề khai thác tiềm năng của vùng, hình thành các khu công nghiệp… Nhờ phát triển công nghiệp theo hướng như vậy sẽ thu hút một lực lượng lao động do dư thừa và lao động thời vụ. Do đó đã giải quyết một phần việc làm cho người dân, tạo thu nhập mới và thêm cho họ. Đồng thời phát triển công nghiệp sẽ thu hút lao động có tay nghề cao, có năng lực chuyên môn. Tạo công ăn việc làm cho những người có tay nghề để họ làm đúng chuyên môn ngành nghề của mình mà trước đây chưa được sử dụng, khuyến khích tinh thần hăng say yêu thích công việc của họ, tạo thu nhập cao hơn. Nhìn chung giải pháp phát triển công nghiệp là một giải pháp quan trọng góp phần lớn vào giải quyết việc làm cho người dân trong tỉnh, nâng cao thu nhập và cuộc sống của họ.
Phát triển công nghiệp là một trong những trọng tâm tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Phát triển công nghiệp chủ yếu theo hai hướng:
+ Công nghiệp địa phương với các nghành nghề truyền thống, các nghành nghề nhằm khai thác phát triển tiềm năng của mỗi địa phương, thu hút lao động dư thừa và lao động mùa vụ trong nông nghiệp góp phần nâng cao đời sống người dân.
+ Hình thành phát triển các khu công nghiệp tập trung thu hút lao động có kỹ năng, tay nghề được đào tạo và chuyển dịch từ lĩnh vực nông nghiệp.
Mục tiêu phát triển chủ yếu: Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi kêu gọi sự hợp tác, đầu tư với bên ngoài.
Chú trọng nhóm nghành công nghiệp có lợi thế phát triển: Có lợi nhuận cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh, công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp sử dụng nhiều lao động, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông hải sản.
Tập trung ưu tiên đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị hiện đại hoá các ngành công nghiệp để khai thác năng lực sẵn có nhằm tăng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành có khả năng cạnh trang trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Nhanh chóng hoàn thành các cụm công nghiệp Tiền Hải, Thị Xã, Diêm Điền hình thành những trung tâm công nghiệp của tỉnh, làm nòng cốt cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH.
Coi trọng phát triển các nghành nghề, làng nghề truyền thống, chủ động tìm tòi phát triển các ngành nghề mới giải quyết việc làm tại chỗ, giảm đến mức thấp nhất số hộ thuần nông, tăng thu nhập người lao động, góp phần từng bước đô thị hoá nông thôn.
Đa dạng hoá các loại hình sản xuất công nghiệp với quy mô phù hợp với trình độ quản lý mang lại hiệu quả cao và linh hoạt trong cơ chế thị trường, khẩn trương thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định 103/CP. Đẩy nhanh quá trình đổi mới về cơ sở vật chất kỹ thuật và công tác quản lý trong công nghiệp. Tạo tiềm lực mới cho công nghiệp của tỉnh có điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Sản xuất công nghiệp phải hướng vào tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về nguyên liệu, nhiên liệu và lao động. Tranh thủ hợp tác liên doanh với công nghiệp Trung ương và nước ngoài để thu hút khoa học kỹ thuật công nghệ cao. Mở rộng thị trường Quốc tế, khai thác triệt để mọi thành phần kinh tế trên các lĩnh vực. Phấn đấu đến năm 2005 giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 13%/ năm, tạo việc làm mới bình quân cho khoảng 4.000 lao động và tạo thêm việc làm cho khoảng 80.000 lao động mỗi năm. Tập trung vào 1 số giải pháp sau:
Một là:Thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển làng nghề, xã nghề, bằng cơ chế chính sách hợp lý như hỗ trợ về vốn, quy hoạch vùng nguyên liệu, tìm kiếm thị trường đào tạo dạy nghề, du nhập nghề mới.. nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các làng nghề sẵn có của tỉnh như: Thêu Minh Lãng - Vũ Thư, dệt chiếu, dệt vải ở Hưng Hà, cơ khí ở Đông Xá Đông Hưng, dệt đũi ở Nam Cao, trạm bạc Đồng Sâm, mây tre đan Kiến Xương... ngày càng phát triển mở rộng. Phấn đấu phát triển từ 82 làng nghề hiện nay lên 120 làng nghề vào năm 2005, mỗi năm sẽ giải quyết việc làm mới cho khoảng 800 lao động và có thêm việc làm cho khoảng 15.000 lao động. Tiếp tục tổ chức chỉ đạo xây dựng mô hình xã công nghiệp theo đề án của Sở nông nghiệp được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt, cụ thể là:
+ Nghề may mặc ở hai hợp tác xã Đại đồng, hợp tác xã Bình dân ở xã Đông Sơn Đông Hưng với tổng vốn đầu tư 2 tỷ đồng sẽ thu hút trên 850 lao động.
+ Nghề dệt ở xã Thái Phương Hưng Hà với 2 dự án của Xí nghiệp dệt Minh Ngọc và công ty dệt Thành Công với tổng vốn đầu tư 2 tỷ đồng sẽ thu hút 250 lao động mới vào làm việc.
+ Nghề dệt đũi ở Nam Cao Kiến Xương với 2 dự án của xí nghiệp dệt Thành Công và xí nghiệp dệt Đại Hoà. Tổng mức vốn đầu tư 7 tỷ đồng sẽ thu hút 537 lao động.
+ Mở rộng phát triển nghề thêu ở xã Minh Lãng Vũ Thư thông qua dự án của xí nghiệp thêu Mỹ Long với tổng vốn đầu tư 3 tỷ đồng tạo thêm việc làm cho khoảng 600 lao động.
Tất cả các nguồn đầu tư cho các dự án trên được hình thành từ nguồn vốn vay ngân hàng, vốn vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm và của cơ sở tự có. Riêng đào tạo nghề tỉnh sẽ hỗ trợ một phần kinh phí.
Hai là: Tập trung mọi nguồn lực để phát triển các khu công nghiệp tập trung đã được quy hoạch. Khu công nghiệp ở Thị Xã với các nhóm ngành giầy da, may mặc, cơ khí điện tử, chế biến nông sản thực phẩm giải quyết được khoảng trên dưới 15.000 việc làm mới cho người lao động. Khu công nghiệp Tiền Hải gồm các nhóm ngành sản xuất điện, sành sứ, thuỷ tinh, vật liệu xây dựng, nước khoáng và dầu khí thu hút được khoảng 627 lao động mới vào làm việc. Khu công nghiệp thương mại Diêm điền với các nhóm ngành chế biến thuỷ hải sản, thương mại và dịch vụ với khoảng 500 lao động trực tiếp. Với các khu công nghiệp tập trung hiện có và các khu đang triển khai đi vào hoạt động đã tạo, sẽ tạo lên một diện mạo mới cho công nghiệp Thái Bình vốn rất kém phát triển trong các năm về trước. Các dự án đăng ký vào hoạt động ở các khu công nghiệp thường hướng vào các nghề tận dụng được lơị thế và nguyên liệu, nhiên liệu và lao động như may mặc, da dày, vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm thuỷ sản:
+ Công nghiệp dệt da may mặc:
Chiếm tỷ trọng giá trị sản xuất khoảng 45-47% ngành công nghiệp, thu hút nhiều lao động, có nhiều triển vọng trong hợp tác đầu tư với nước ngoài và thị trường rộng lớn.
Phấn đấu đến năm 2005 đặt: May mặc sẵn 11 triệu sản phẩm, giầy thể thao 2 triệu đôi/năm, khăn mặt các loại 200 triệu sản phẩm. Thu hút giải quyết việc làm cho khoảng 11.900 lao động/năm.
Để đạt được các mục tiêu của ngành may mặc, cần phải tăng cường kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài, các tổng công ty Trung ương đầu tư vào các lĩnh vực may mặc, vào các khu công nghiệp tập trung.
Đầu tư cho công tác nghiên cứu mẫu mã, thiết kế thời trang, đào tạo đội ngũ lao động may có trình độ tay nghề cao, tăng cường thông tin và tiếp thị mở rộng thị trường mới tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp tục xuất khẩu.
+ Công nghiệp sành sứ thuỷ tinh và sản xuất vật liệu xây dựng:
Hiện là ngành công nghiệp phát triển mạnh có nhiều sản phẩm đạt chất lượng cao (Gạch ốp lát, gạch men, sứ vệ sinh, sứ mỹ nghệ, thuỷ tinh pha lê) được ưa chuộng trong nước và có sản phẩm xuất khẩu. Năm 2005 sẽ đạt sản lượng: Gạch ốp lát 2,5 triệu m2, sứ vệ sinh 500.000 sp/năm, gạch men kính 45 triệu viên, sứ dân dụng 4 triệu sản phẩm, thuỷ tinh pha lê 500.000 sản phẩm, xi măng trắng 40.000 tấn, gạch granit 15 triệu m2/năm, mỗi năm sử dụng khoảng 3.500 lao động.
Nghiên cứu dự án đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất gạch không nung và một số sản phẩm kiến trúc khác.
+ Công nghiệp điện tử:
Mở rộng hợp tác bằng mọi hình thức và loại hình kinh tế với mọi đối tượng thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp cơ khí và điện gia dụng. Trước hết tập trung vào sản xuất máy công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp: Máy làm đất, bơm nước, thu hoạch và ra hạt, chế biến lương thực, phương tiện vận tải nhỏ (Nhập động cơ) sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe máy, xe đạp hàng kim khí chuyên dùng.
Điện, điện tử: Hướng trọng tâm vào sản xuất các mặt hàng điện dân dụng (Quạt, mô tơ các loại... thiết bị điện, điện tử, điện lạnh) có nhu cầu của tỉnh, khu vực đồng bằng sông hồng và tham gia vào các chương trình nội địa hoá, thay thế nhập khẩu của nhà nước. Phát triển công nghiệp cơ khí điện tử mỗi năm trung bình giải quyết được trên dưới 1.000 lao động có trình độ tay nghề.
+ Công nghiệp chế biến lâm sản:
Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư mở rộng sản xuất vào các sản phẩm từ gỗ, mây tre đan để làm đồ dùng gia đình, trang trí nội thất và tăng khả năng xuất khẩu hàng mây tre mỹ nghệ. Đây là nhóm ngành thủ công mà Thái Bình có lợi thế về lực lượng lao động và nghề truyền thống.
+ Đồng thời nghiên cứu chuẩn bị các dự án để xây dựng các cơ sở sản xuất sử dụng khí mỏ có quy mô lớn khi có điều kiện: Điện, đạm, khí hoá lỏng, gạch Glanit, sứ vệ sinh cao cấp, xi măng trắng, thuỷ tinh pha lê.. đưa công nghiệp của tỉnh phát triển với tốc độ cao hơn tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
+ Thực hiện các dự án về giao thông vận tải đã được phê duyệt: Cải tạo nâng cấp 2000 km2 đường giao thông nông thôn, dự án đường 39A có mức vốn 59,4 tỷ đồng, dự án đường 39B có mức vốn 19,8 tỷ đồng, dự án quốc lộ 10 mức vốn 400 tỷ đồng, dự án nâng cấp cảng Diêm Điền mức vốn 22,6 tỷ. Phát triển các phương tiện vận tải bộ, thuỷ ở mọi thành phần kinh tế để tham gia vận tải trên các lĩnh vực. Thực hiện các kế hoạch và giải pháp trên sẽ giải quyết việc làm mới cho khoảng 1000 lao động và có thêm việc làm ổn định cho 1.900 lao động của ngành giao thông.
1.3 Phát triển thương mại và dịch vụ:
Khi nhu cầu của con người ngày càng cao thì đòi hỏi mức phát triển thương mại và dịch vụ tương xứng. Với tốc độ tăng trưởng như vậy của thương mại dịch vụ đã thu hút nhiều lao động tham gia. Do chưa có công ăn việc làm, do thu nhập thấp và nhu cầu của con người lớn cho nên người lao động có xu hướng tham gia nhiều vào hoạt động dịch vụ. Nhờ vậy, giải pháp phát triển thương mại dịch vụ hàng năm đã tạo cho người lao động nhiều việc làm mới và có thêm việc làm góp phần vào giải quyết việc làm của tỉnh, đây cũng là giải pháp quan trọng tạo việc làm có thu nhập cao cho người lao động.
Xu thế phát triển các ngành dịch vụ trong cơ chế thị trường là tăng trưởng với tốc độ cao và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, 5 năm tới 2001-2005 dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khoảng 11%, tỷ trọng của các ngành dịch vụ tăng chiếm khoảng 35-36% trong cơ cấu kinh tế. Tạo việc làm mới bình quân mỗi năm cho khoảng 450 lao động và tạo thêm việc làm cho 7.000 lao động. Hướng chủ yếu đầu tư phát triển nhanh ngành dịch vụ du lịch ở Thị Xã, thị trấn và các khu công nghiệp tập trung của tỉnh, khu nghỉ mát đồng Châu mở rộng và đa dạng hoá các hoạt động thương mai dịch vụ đặc biệt là khu vực nông thôn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu tiêu dùng của nhân dân.
+ Phát triển dịch vụ thương mại:
Phát triển đa dạng các hình thức dịch vụ thương mại, khuyến khích các thành phần kinh tế kinh doanh dịch vụ, gắn kết thị trường trong tỉnh với thị trường cả nước và thị trường nước ngoài, gắn thương nghiệp dịch vụ với sản xuất, phát triển mạnh hợp tác và dịch vụ ở nông thôn nhằm cung ứng các dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân, làm đại lý thu mua và trao đổi nông sản hàng hoá với các ngành hàng của tỉnh và Trung ương. Đưa thu nhập từ dịch vụ của nông dân ngày càng chiếm tỷ trọng cao.
Xem xét điều chỉnh quy hoạch phát triển mạng lưới thương nghiệp, xây dựng các trung tâm thương mại dịch vụ thị xã, khu kinh tế mở Diêm Điền, khu công nghiệp Tiền Hải, phát triển các chợ nông thôn, thương nghiệp quốc doanh. Tăng cường hoạt động thông tin, xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Chấn chỉnh từng bước hoạt động và phương thức kinh doanh thương mại dịch vụ theo hướng hiệu quả văn minh hiện đại. Tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước. Phấn đấu mức tăng trưởng doanh thu hàng năm là 10%.
+ Phát triển du lịch:
Đa dạng hoá và nâng cao các hoạt động du lịch, phát triển các loại hình du lịch sinh thái (Tắm biển, nghỉ mát, dưỡng sức, chữa bệnh) du lịch văn hoá. Xây dựng, tôn tạo và nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, các điểm, các tuyến du lịch ven biển Đồng Châu, Cồn Vành, Cồn Đen. Xây dựng các làng sinh thái, các ngành nghề tiêu biểu, các điểm trình diễn văn hoá dân gian truyền thống... xây dựng các chương trình điểm du lịch hấp dẫn du khách phát huy tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn của tỉnh gắn liền với tổng thể du lịch của đồng bằng bắc bộ và cả nước, mở rộng dịch vụ du lịch quốc tế.
+ Tài chính ngân hàng:
Nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng yêu cầu của các thành phần kinh tế:
Thực hiện triệt để chính sách tiết kiện trong tiêu dùng đời sống xã hội để tạo lập nguồn vốn nội tại, chủ động đầu tư phát triển sản xuất tạo cầu việc làm cho người lao động.
Thực hiện chương trình cho vay vốn phát triển kinh tế xã hội, chương trình cho vay ưu đãi với người nghèo mà không cần phải thế chấp. Quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ và phát triển việc làm cho người lao động.
2- Giải pháp đào tạo nâng cao chất lượng lao động kết hợp với chính sách khuyến khích dạy nghề của tỉnh.
Muốn có việc làm, nhất là trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh để có việc làm và việc làm có thu nhập cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì vấn đề đào tạo cho người lao động là khâu then chốt trong kế hoạch giải quyết việc làm.
Đào tạo mới và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh theo hướng CNH - HĐH. Phấn đấu số học sinh được học kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp đạt tỷ lệ 60-70 %, số người lao động được đào tạo kỹ thuật chuẩn đạt tỷ lệ khỏang 25-30 % (2005) và trên 50% (2010). Phát triển hợp tác các hình thức đào tạo tập trung thông qua trường trung học dạy nghề (CNKT) xây dựng, nông nghiệp, y tế, văn hoá và các trung tâm dạy nghề, xúc tiến việc làm. Để đạt được các chỉ tiêu trên cần tập trung vào một số giải pháp chính là:
Thứ nhất: Quy hoạch lại một số hệ thống mạng lưới đào tạo, dạy nghề, đầu tư hợp lý cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên cho các trường, cơ sở dạy nghề trong quy định cụ thể là:
Nâng cấp mở rộng quy mô chất lượng dạy nghề trường công nhân kỹ thuật thuộc sở lao động thương binh xã hội để thực sự là trường nòng cốt đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao với quy từ mô từ 800-1000 học sinh/ năm đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp tập trung.
Củng cố và tăng cường vai trò của các trung tâm, trường trung học nông nghiệp, trường kinh tế kỹ thuật, trường công nhân kỹ thuật, trường đào tạo lái xe, cơ giới tàu thuỷ để cùng tham gia đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ với quy mô mỗi trường từ 500 - 600 học sinh/ năm.
Nâng cấp các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm thuộc sở lao động - TBXH, Hội phụ nữ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội nông dân, Bộ CHQS Thái Bình và hình thành các trung tâm dạy nghề ở các huyện, thị để đủ sức mở các trường dạy nghề ngắn hạn, chuyển giao công nghệ trong mọi ngành, mọi lĩnh vực đặc biệt là dạy nghề, chuyển giao KHKT cho nông dân nông nghiệp, trong các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống.
Khuyến khích các doanh nghiệp các tổ chức, các cá nhân mở các lớp học dạy nghề theo hình thức cạnh xí nghiệp.
Thứ hai: Trên cơ sở quy hoạch mạng lưới dạy nghề của tỉnh, trong những năm tiếp theo tập trung đào tạo và dạy nghề theo các hướng:
Dạy nghề cho nông dân: Thông qua các quỹ khuyến nông của tỉnh bằng hình thức truyền nghề, phổ biến kiến thức, chuyển giao công nghệ môi trường những cây con có giá trị kinh tế cao đến năm 2005 bình quân mỗi năm dạy nghề, truyền thống cho khoảng 15000 lao động.
Dạy nghề phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp: Thông qua hệ thống các trung tâm dạy nghề, các doanh nghiệp, các tổ chức, các cơ sở kinh doanh hàng tiểu thủ công nghiệp có sự hỗ trợ kinh phí từ ngân sách của tỉnh để dạy nghề, chuyển giao công nghệ làm hàng tiểu thủ công nghiệp truyền thống và du nhập nghề mới về tỉnh.
Đẩy mạnh dạy nghề dài hạn và ngắn hạn đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH nền kinh tế và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp tập trung, xuất khẩu lao động, cơ chế, chính sách khuyển khích dạy nghề của tỉnh.
Thứ ba:Thực hiện tốt các cơ chế khuyến khích dạy nghề.
Thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy nghề tại Nghị đinh 90/CP của Chính phủ trong đó chú ý khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân mở lớp dạy nghề cho người lao động. Ưu tiên các cơ sở dạy nghề cho người tàn tật được vay vốn, miễn giảm thuế.
Tỉnh khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân dạy nghề, truyền nghề, nhất là nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống để phục hồi phát triển làng nghề, du nhập nghề mới về tỉnh.
Sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí dạy nghề hàng năm được nhà nước phân bổ (Khoảng 7% trong tổng số ngân sách dành cho sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo).
3- Các chính sách giải quyết việc làm.
3.1- Chính sách dân số và di dân:
Quy mô, cơ cấu dân số tạo lên cung lao động và là đối tượng trực tiếp cho công tác giải quyết việc làm. Tốc độ tăng dân số cao trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế giới hạn không đáp ứng đủ việc làm cho người lao động dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng. Nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức nguồn lao động, nâng cao thu nhập dân cư, nâng cao dân trí thì các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình cần đặc biệt được quan tâm.
Hiện nay ở Thái Bình có khoảng 1,8 triệu dân với mật độ dân số được đánh giá là cao so với các tỉnh khác, tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm khoảng 0,7%, dân số tăng nhanh làm cho nhiệm vụ giải quyết việc làm trở lên nặng nề hơn. Ngoài việc giải quyết việc làm cho những người lao động còn tồn đọng từ ký trước lại thêm lao động mới bước vào tuổi lao động. Nếu dân số không giảm thì trong những thập niên tới đây Thái Bình sẽ phải đối diện với nhiệm vụ hết sức khó khăn và nan giải trong việc giải quyết lao động và việc làm. Chính vì vậy, Nhà nước, tỉnh cần quan tâm đến chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình hơn nữa phấn đấu giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,04% để dân số Thái Bình đến năm 2005 là 1.874.000 người. Để đạt được mục tiêu đó Thái Bình phải tiếp tục thực hiện xã hội hoá công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, tăng cường hoạt động giáo dục truyền thông về dân số, củng cố nhận thức của nhân dân. Tỉnh cần tăng chi ngân sách cho công tác dân số, chương trình chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em đồng thời kết hợp với chính quyền địa phương, hội phụ nữ tăng cường tuyên truyền, thuyết phục giáo dục người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.. có các chính sách khuyến khích người dân sinh ít con, nuôi dạy con tốt và phải có các biện pháp sử lý đối với các trường hợp vi phạm.
Công tác di dân xây dựng các vùng kinh tế mới trong hai năm qua tiếp tục còn gặp khó khăn về địa bàn, cung cấp lao động cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh còn hạn chế do người lao động không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề.Trong năm 2002 chỉ tiến hành di dân được cho 108 hộ đi ngoài tỉnh và 175 hộ đi nội tỉnh trong khi con số kế hoạch đạt ra tương ứng là 150 và 200. Đến năm 2005 phấn đấu mỗi năm đưa 500 hộ, 2000 khẩu, 1200 lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới trong và ngoài tỉnh. Để đạt được chỉ tiêu trên trong các năm tới ban chỉ đạo tỉnh phải tập trung vào một số vần đề:
+ Quan tâm tạo điều kiện cho các hộ gia đình chuyển nhượng ruộng đất, nhà ở, hỗ trợ thêm kinh phí (Ngoài kinh phí trung ương cấp) chuẩn bị địa bàn đón dân cụ thể để đồng bào ổn định cuộc sống nơi quê mới.
+ Có chính sách, cơ chế khuyến khích lao động đi ra tỉnh ngoài làm việc.
+ Có chính sách phân bổ lại dân cư, di dân nội tỉnh phù hợp với tiềm năng kinh tế và lao động ở mỗi địa phương tránh tình trạng tập trung quá đông ở khu vực thị xã, thị trấn, di dân một cách tự phát không có sự quản lý của chính quyền địa phương nơi chuyển đi cũng như nơi chuyển đến.
3.2- Xuất khẩu lao động:
Đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (Gọi là xuất khẩu lao động) là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giảm sức ép và bức xúc về việc làm, tăng thu nhập cho bản thân người lao động, thu ngoại tệ cho đất nước và góp phần phát triển nguồn nhân lực.. đã được xác định trong chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm 2001- 2005, ở Thái Bình chương trình mục tiêu giải quyết việc làm năm 2001 và đến 2005 cũng đã xác định xuất khẩu lao động là một giải pháp để giải quyết việc làm, mục tiêu mỗi năm từ 1000 - 2000 lao động đi lao động có thời hạn ở nước ngoài và cần tập trung vào một số giải pháp sau:
+ Trong thời gian tới, cần tích cực đào tạo nguồn nhân lực mang tính đón đầu và dự trữ để xuất khẩu, cần trang bị cho người học vững vàng các kiến thức về chuyên môn, ngoại ngữ, hiểu biết về quan hệ chủ thợ trong nền kinh tế thị trường đồng thời có biện pháp để nâng cao trình độ văn hoá, sức khoẻ, ý thức tổ chức kỷ luật và một số vấn đề khác cho người học.
+ Sắp xếp lại các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động hiện đang đóng trên địa bàn tỉnh (13 doanh nghiệp về tuyển dụng lao động), thu hồi giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động một thời gian hoặc vĩnh viễn các doanh nghiệp không đủ điều kiện, các doanh nghiệp này cần được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhanh chóng tiến hành việc thành lập công ty chuyên kinh doanh xuất khẩu lao động của tỉnh để chủ động việc xuất khẩu lao động.
+ Cùng với việc khai thác thị trường mới vấn đề quan trọng công tác thị trường cho xuất khẩu lao động là giữ vững các thị trường truyền thống đã có như Li bi, Cô oét, Nhật bản và gần đây là Đài Loan.
+ Tăng cường công tác quản lý lao động ở nước ngoài: Khi số lao động ở nước ngoài tăng lên, tăng cường quản lý đối với số lao động này là việc rất quan trọng. Việc quản lý này nhằm khắc phục những rủi ro có thể xảy ra đối với người lao động, kịp thời giải quyết các tranh chấp giữ người lao động với chủ doanh nghiệp, khắc phục mối quan hệ không tốt giữa người lao động và dân địa phương tạo sự uy tín, tin tưởng đối với nước tiếp nhận lao động.
+ Đối với việc chỉ đạo xuất khẩu lao động trong những năm tới:
- Tổ chức hội nghị triển khai thực hiện công tác xuất khẩu lao động trong những năm tới.
- Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động của tỉnh nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội thuận lợi nhất để tham gia xuất khẩu lao động.
- Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định quản lý, chế độ chính sách đối với người lao động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đóng trên địa bàn.
Kiến quyết xử lý vi phạm trong lĩnh vực này.
- Nâng cao vai trò của cấp uỷ xã trong xuất khẩu lao động.
- Xem xét đề nghị Bộ lao động - Thương bị xã hội cấp giấy phép xuất khẩu lao động cho một số doanh nghiệp, cơ quan thuộc tỉnh để đủ sức làm nhiệm vụ xuất khẩu lao động trên địa bàn.
- Thành lập công ty xuất khẩu lao động để đẩy mạnh việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
3.3- Chính sách hỗ trợ trực tiếp để tạo việc làm.
Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động để tạo việc làm là một biện pháp quan trọng, nhất là đối với người lao động có sức lao động lại không có vốn, kỹ thuật.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình cho vay vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm.
Lập quỹ hỗ trợ việc làm của tỉnh (Theo điều 15 Bộ luật lao động) để hỗ trợ các cấp các nghành, các đơn vị tạo việc làm cho người lao động bằng cách hàng năm trích 1% tổng chi ngân sách cho quỹ này.
Tổ chức tốt cho vay vốn từ ngân hàng người nghèo với mức vốn 120 tỷ đồng đảm bảo cho vay đúng đối tượng là lao động nghèo có nhu cầu tạo việc làm để có việc làm và thu nhập ổn định.
Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm thông qua những công việc sau:
+ Nắm chắc số lượng, chất lượng lao động thông qua điều tra lao động việc làm hàng năm.
+ Củng cố các trung tâm dịch vụ việc làm trong tỉnh để tư vấn cho người lao động chọn việc làm, nơi làm việc, tư vấn chọn nghề học, hình thức học nghề, tìm kiếm thị trường và tổ chức cung ứng lao động.
3.4- Xây dựng và áp dụng một số cơ chế, chính sách khuyến khích để thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để mọi tổ chức, cá nhân người lao động nhận thức sâu sắc giải quyết việc làm cho người lao động là trách nhiệm của nhà nước, của các cấp, các nghành, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh và trách nhiệm của chính người lao động.
Ưu tiên vốn để đầu tư xây dựng thực hiện các chương trình dự án đã được phê duyệt.
Phát triển các quan hệ tín dụng, mở rộng các hợp tác xã tín dụng ở các địa phương, đồng thời tạo điều kiện để nhân dân được vay vốn từ quỹ tín dụng nhà nước (Các ngân hàng chuyên doanh) đặc biệt là ngân hàng người nghèo cho vay đúng đối tượng (là hộ nghèo) đúng mục đích để khuyến khích phát triển sản xuất tạo việc làm.
áp dụng một số cơ chế chính sách khuyến khích để phát triển sản xuất tạo việc làm:
+ Cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi, miễn giảm thuế thời gian đầu với các sản phẩm mới, mặt hàng mới mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất là các mặt hàng chế biến, khai thác từ nguyên liệu sẵn có của địa phương.
+ Ưu tiên bán hoặc cho thuê địa điểm sản xuất kinh doanh thuận lợi cho các cơ sở thu mua, chế biến đối với các sản phẩm nông sản, hải sản, các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp như thêu len, chiếu cói, mây tre đan... tạo điều kiện để phát triển sản xuất, xuất khẩu sản phẩm.
+ Tỉnh có chính sách tôn vinh những tập thể, cá nhân du nhập nghề mới về tỉnh, phong hàm cho các nghệ nhân làm ở các nghề tiểu thủ công nghiệp.
+ Các đơn vị, tổ chức đến tìm được thị trường, ký hợp đồng và cung ứng lao động cho các khu công nghiệp ở tỉnh ngoài, nước ngoài, hoặc du nhập nghề mới về tỉnh tạo việc làm ổn định lâu dài tỉnh sẽ hỗ trợ một phần kinh phí.
+ Có cơ chế cho người lao động nghèo có đủ điều kiện vay vốn không phải thế chấp để đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và trả dần hàng tháng bằng nguồn thu nhập thông qua công ty dịch vụ xuất khẩu lao động.
Khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất được vay vốn để mở rộng sản xuất hoặc mở cơ sở sản xuất mới tạo thêm nhiều chỗ việc làm mới.
Kết luận
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần cho chính bản thân của người lao động, đồng thời trong quá trình lao động tự hoàn thiện và phát triển mình vì vậy muốn tồn tại trong xã hội con người không thể không lao động.
Do nhiều nguyên nhân mà việc làm luôn không đủ đáp ứng nhu cầu lao động ngày càng tăng vì vậy trong xã hội đều có hiện tượng thiếu việc làm và thất nghiệp ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế xã hội. Do đó giải quyết việc làm luôn được đặt ra cấp bách không chỉ riêng đối với một quốc gia nào, trong đó Đảng và Nhà nước ta đã coi đó là một phần quan trọng không thể thiếu được trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng, dân số năm 2002 khoảng 1 827 000 người, tổng nguồn lao động (từ 15 tuổi trở lên) chiếm 76% dân số. Trong điều kiện một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, diện tích đất canh tác bình quân chỉ có 550 m2/ người, nguồn lao động chủ yếu tập chung ở khu vực nông thôn, tăng nhanh qua các năm, chưa được sử dụng hết là một sức ép rất lớn về việc làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội trong toàn tỉnh. Do vậy việc đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm là một yêu cầu cấp thiết đối với một tỉnh thuần nông như Thái Bình hiện nay.
Qua 2 năm đầu các cấp các ngành trong tỉnh triển khai thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI tình hình kinh tế xã hội của tỉnh đã thu được nhiều sự chuyển biến tích cực đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng cơ sở và giải quyết việc làm cho người lao động. Những thành tựu đạt được qua 2 năm sẽ tạo đà, tạo ra không khí cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm tiếp theo.
Đánh giá mặt được, mặt chưa được và tìm ra nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp chính sách giải quyết việc làm trong những năm tiếp theo là mục đích quan trọng cuối cùng của công tác giải quyết việc làm.
Tuy đã được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn, cán bộ đơn vị thức tập nhưng do còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như thực tiễn mà bài viết không thể tránh khỏi thiếu xót, một làn nữa mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến xây dựng bài viết hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn TS .Nguyễn Thị Kim Dung cùng toàn thể cán bộ sở kế hoạch và đầu tư Thái Bình đã giúp đỡ tạo điều kiện cho em hoàn thành bài viết này.
Mục lục
Lời mở đầu………………………………………………………………..1
Phần I: Kế hoạch việc làm trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội…………………………………………………………………...…3
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3056.doc