Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đến năm 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ----------eêf---------- KHUẤT VĂN THÀNH GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VÙNG THU HỒI ĐẤT HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành : KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số : 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. NGUYỄN VĂN SONG HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN - Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị n

doc124 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào. - Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Khuất Văn Thành LỜI CẢM ƠN Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình nhiều mặt của các tổ chức, cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Viện Sau đại học, Khoa Kinh tế & PTNT, Bộ môn Kinh tế Môi trường đã tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đặc biệt tôi bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Văn Song, người thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn của mình. Để hoàn thành luận văn, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức, phòng Lao động – TBXH, phòng Tài nguyên và môi trường, phòng Tài chính - Kế hoạch, phòng Công Thương, văn phòng HĐND & UBND huyện, UBND các xã và các hộ gia đình tại khu vực nghiên cứu đã giúp đỡ, cung cấp số liệu để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những tình cảm cao quý đó. Hà Nội, ngày tháng năm 2009 Tác giả Khuất Văn Thành MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CCN Cum công nghiệp CN Công nghiệp CNH Công nghiệp hoá ĐTH Đô thị hoá HĐH Hiện đại hoá KCN Khu công nghiệp LĐ Lao động NN Nông nghiệp TBXH Thương binh xã hội TTCN Tiểu thủ công nghiệp DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 3.1: Tổng hợp số huyện/thị, xã và cơ sở đào tạo nghề điều tra 50 4.1: Giá trị sản xuất công nghiệp- TCN huyện Hoài Đức giai đoạn 2006 - 2008 53 4.2: Tình hình chuyển mục đích sử dụng đất NN sang phi NN của các xã từ 01/01/2005 đến 01/01/2009 55 4.3: Số hộ có diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi của các xã 56 4.4. Thực trạng đất đai chuyển đổi của các xã điều tra 57 4.5. Tổng hợp số học viên học nghề sơ cấp tại Trung tâm dạy nghề Hoài Đức từ năm 2006 đến 30/4/2009 của các xã, thị trấn trong huyện 63 4.6. Việc làm của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp của 12/14 xã điều tra của huyện Hoài Đức 67 4.7. Kết quả giải quyết việc làm của huyện từ năm 2006 đến 6 tháng năm 2008 69 4.8. Việc làm của lao động sau khi thu hồi đất 70 4.9: Thu nhập bình quân của nhân khẩu trong vùng 71 4.10: Mức sống của hộ trong vùng 72 4.11. Nguyên nhân không kiếm được việc làm 73 4.12. Tình hình mở lớp dạy nghề cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp 77 4.13. Tuổi của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp 78 4.14. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lao động 79 4.15. Tình hình học vấn của hộ 80 4.16. Tình trạng việc làm 81 4.17. Nhu cầu làm thêm 81 4.18. Nghề nghiệp chính của lao động vùng thu hồi đất 82 4.19. Số lao động có thể tìm nghề mới 82 4.20. Thời gian cần thiết để tìm được việc làm 83 4.21. Thực trạng hỗ trợ tìm việc làm 83 4.22. Sử dụng tiền đền bù của người dân vùng thu hồi đất 84 4.23. Qui mô và cơ cấu nguồn lao động trong các cụm công nghiệp 87 4.24. Thu nhập bình quân của lao động trong các cụm, điểm công nghiệp tại các doanh nghiệp dân doanh 87 4.25. Mức độ và cơ cấu chi tiêu bình quân thường của lao động trong các KCN 88 4.26. Số lượng và tỷ lệ tham gia BHXH và BHYT trong các cụm CN 89 4.27. Thu nhập hiện tại của các lao động 90 4.28. Thu nhập của người dân so với trước 90 4.29. Biến động về đất đai của Hoài Đức đến năm 2020 95 4.30. Dự báo biến động về dân số và lao động 95 4.32. Dự kiến cơ cấu kinh tế trong những năm tới Quy hoạch phát triển KT-XH huyện Hoài Đức đến năm 2020 98 3.1 Tổng hợp số huyện/thị, xã và cơ sở đào tạo nghề điều tra 51 4.1 Giá trị sản xuất công nghiệp- TCN huyện Hoài Đức giai đoạn 2006 - 2008 54 4.2 Tình hình chuyển mục đích sử dụng đất NN sang phi NN của các xã 56 từ 01/01/2005 đến 01/01/2009 56 4.3 Số hộ có diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi của các xã 57 4.4 Thực trạng đất đai chuyển đổi của các xã điều tra 58 4.5 Tổng hợp số học viên học nghề sơ cấp tại Trung tâm dạy nghề Hoài Đức từ năm 2006 đến 30/4/2009 của các xã, thị trấn trong huyện 63 4.6 Việc làm của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp của 12/14 xã điều tra của huyện Hoài Đức 67 4.7 Kết quả giải quyết việc làm của huyện từ năm 2006 đến 6 tháng năm 2008 69 4.8 Việc làm của lao động sau khi thu hồi đất 70 4.9 Thu nhập bình quân của nhân khẩu trong vùng 71 4.10 Mức sống của hộ trong vùng 71 4.11 Nguyên nhân không kiếm được việc làm 73 4.12 Tình hình mở lớp dạy nghề cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp 77 4.13 Tuổi của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp 78 4.14 Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lao động 79 4.15 Tình hình học vấn của hộ 80 4.16 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động 81 4.1716 Tình trạng việc làm 81 4.1817 Nhu cầu làm thêm 82 4.1918 Nghề nghiệp chính của lao động vùng thu hồi đất 82 4.2019 Số lao động có thể tìm nghề mới 83 4.2120 Thời gian cần thiết để tìm được việc làm 83 4.2221 Thực trạng hỗ trợ tìm việc làm 84 4.2322 Sử dụng tiền đền bù của người dân vùng thu hồi đất 84 4.2423 Qui mô và cơ cấu nguồn lao động trong các cụm công nghiệp 87 4.2524 Thu nhập bình quân của lao động trong các cụm, điểm công nghiệp tại các doanh nghiệp dân doanh 88 4.2625 Mức độ và cơ cấu chi tiêu bình quân thường của lao động trong các KCN 88 4.2726 Số lượng và tỷ lệ tham gia BHXH và BHYT trong các cụm CN 89 4.2827 Thu nhập hiện tại của các lao động 90 4.2928 Thu nhập của người dân so với trước 91 4.3039 Biến động về đất đai của Hoài Đức đến năm 2020 94 4.3130 Dự báo biến động về dân số và lao động 95 4.3231 Dự kiến cơ cấu kinh tế trong những năm tới 98 DANH MỤC BIỂU ĐỒ STT Tên biểu đồ Trang 4.1. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách đền bù 6060 4.2. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách hỗ trợ sản xuất 6061 4.3. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách hỗ trợ việc làm 6262 4.4. Tình trạng nghề nghiệp chính của hộ trước và sau thu hồi đất 9191 4.5. Sự thay đổi chỗ ở của chủ hộ trước và sau chuyển đổi 9292 4.6. Sự thay đổi thu nhập của các hộ trước và sau chuyển đổi 9292 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Nước ta đang trong quá trình CNH và HĐH đất nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu chế xuất và đô thị là tất yếu. Tuy nhiên, sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, đô thị dẫn đến sự thay đổi nhiều mặt trong đời sống kinh tế xã hội nông thôn. Sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, đô thị dẫn đến sự thay đổi về đất đai, lao động, việc làm, thu nhập và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Xét về lâu dài, sự thay đổi này mang tính chất tích cực, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH đất nước, tạo ra việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Quá trình CNH - HĐH sẽ góp phần hiện đại hóa các quá trình sản xuất trong nông nghiệp, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, qua đó làm giảm nhẹ sức lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và đô thị cũng tạo ra rất nhiều khó khăn cho nông dân các vùng có đất thu hồi. Đó là: sự mất dần diện tích đất nông nghiệp và hậu quả của nó là hàng ngàn nông hộ không hoặc thiếu đất sản xuất, tăng tỷ lệ thất nghiệp, cụ thể trong 3 năm từ năm 2006 đến hết năm 2008 diện tích đất thu hồi của toàn huyện là 774,54 ha, kéo theo trên mười ngàn lao động thiếu việc làm tạo ra nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội nông thôn; việc sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích, dẫn đến lãng phí không cần thiết, đôi khi dẫn đến những hậu quả xã hội không lường, trong 11.545 hộ nhận tiền đền bù đất nông nghiệp thì có tới hơn 4386 hộ xây dựng, sửa chữa nhà cửa và mua sắm tiện nghi sinh hoạt gia đình chiếm 38%. Sự tăng lên về giá tiêu dùng do sự tập trung của nhiều lao động; các vấn đề xã hội nảy sinh ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề việc làm, tăng thu nhập một cách ổn định cho lao động nông thôn nói chung và cho lao động nông thôn thuộc những vùng thu hồi đất nông nghiệp nói riêng đang là vấn đề có tính chất thời sự ở nhiều địa phương. Huyện Hoài Đức trong những năm qua, kinh tế của huyện đó có những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng năm diện tích đất nông nghiệp giảm do chuyển mục đích sử dụng sang công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải ngày càng tăng. Thực tế cho thấy, hàng ngàn lao động nông nghiệp sau khi thu hồi đất đang có nhu cầu được đào tạo nghề, được hỗ trợ công ăn, việc làm ổn định; tình trạng lao động trong vùng thu hồi đất không tìm được việc làm, hoặc tìm được việc làm không ổn định, tình trạng các doanh nghiệp sau khi tuyển dụng lao động theo cam kết đó sa thải lao động hoặc trả lương quá thấp khiến người lao động tự bỏ việc không phải là hiện tượng cá biệt. Theo số liệu điều tra của phòng lao động thương binh xã hội huyện trong số 10.224 lao động mất việc làm do thu hồi đất có 3909 người tìm được việc làm mới còn lại 6315 lao động không kiếm được việc làm, nguyên nhân là không có chuyên môn chiếm 70%, sức khoẻ không đảm bảo 10%, còn lại là các nguyên nhân khác. Vì vậy, việc tìm ra cách giải quyết việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động nhất là ở vùng thu hồi đất là vấn đề cấp thiết có tính bức xúc không phải của huyện Hoài Đức mà là vấn đề có tính thời sự cho tất cả các huyện, quận trên địa bàn thành phố Hà Nội có đất chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và đô thị… Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần đánh giá tình hình công tác giải quyết việc làm làm tăng thu nhập của người lao động vùng thu hồi đất nông nghiệp của huyện, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp chủ yếu góp phần tạo công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động của huyện đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Từ vấn đề trên câu hỏi được đặt ra là: các chính sách của nhà nước khi thu hồi đất nông nghiệp đã giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động đến mức độ nào? Vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trông ra sao? Công tác dạy nghề cần triển khai như thế nào?. Làm thế nào để tạo nhiều cơ hội cho người lao động tìm kiếm được việc làm tăng thu nhập, ổn định đời sống? Từ đó chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài: "Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đến năm 2020" 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu tổng quát Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác giải quyết việc làm cho người lao động khu vực thu hồi đất, đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho lao vùng thu hồi đất. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn liên quan đến lao động, việc làm, thu hồi đất. - Đánh giá thực trạng công tác giải quyết việc làm vùng thu hồi đất trên địa bàn huyện. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm làm tốt công tác giải quyết việc làm trên đại bàn huyện đến năm 2010 và những năm tiếp theo. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lao động, việc làm của những hộ nông dân bị thu hồi đất thuộc 03 xã trên địa bàn của huyện bao gồm: An Khánh, Di Trạch, Vân Canh. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giải quyết việc làm cho người lao động trong vùng có đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển các công nghiệp, đô thị… tình hình thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước với các hộ có đất thu hồi, những khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, các giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trong những vùng thu hồi đất. - Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên phạm vi toàn huyện, trong đó tập trung chủ yếu 3 xã của huyện, đó là: An Khánh, Di Trạch, Vân Canh. Phạm vi thời gian: 01 năm từ tháng 8 năm 2008 đến tháng 8 năm 2009. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn 2.1.1 Lao động và việc làm Việc làm là một phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu. Có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm. Theo Robert J. Gorden (1) thì “ai có công ăn, việc làm đều là người hữu nghiệp, ai không có công ăn việc làm đều là những người thất nghiệp, ai không đáp ứng được thị trường lao động đều không nằm trong lực lượng lao động”. Luật lao động được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994 ghi ra “ Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi có khả năng lao động có giao kết hợp đồng lao động. Người lao động là bộ phận dân số trong qui định thực tế tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm làm việc. Có hai chỉ tiêu thường dùng khi xem xét, đánh giá nguồn lao động, đó là: - Số lượng lao động: Số lượng lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi qui định (nam từ 15-60 tuổi, Nữ từ 15 - 55 tuổi) có khả năng tham gia lao động. Tuy nhiên, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, những người không nằm trong độ tưổi lao động nhưng vẫn có khả năng tham gia lao động thì vẫn được coi là bộ phận của nguồn lao động nhưng do khả năng lao động của họ hạn chế nên họ được coi là lao động phụ. - Chất lượng lao động: Chất lượng lao động chính là sức lao động của bản thân người lao động, chất lượng lao động thể hiện ở sức khoẻ, trình độ văn hoá, nhận thức hiểu biết về khoa học kỹ thuật và trình độ kinh tế tổ chức. Trên cơ sở đó, có thể kết luận: người có việc làm là những người trong độ tuổi lao động và đang làm việc tại các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội. Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho những người trong cùng một hộ gia đình. Ngày nay việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là một trong những việc làm quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt đối với Việt Nam, tốc độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng cung cấp về vốn, tư liệu sản xuất còn thấp. Về mặt bản chất, việc làm là quan hệ tích cực, sáng tạo của chủ thể việc làm với hoạt động sống của mình, với ý nghĩa, nội dung và mục đích đặt ra. Tùy thuộc vào từng thời điểm, không gian và từng chủ thể có cách tiếp cận vấn đề, đưa ra các khái niệm khác nhau về việc làm. Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu; nó thuộc loại vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng, khái niệm “việc làm” và “thị trường lao động” không hiếm khi bị đồng nhất với nhau. Hệ thống việc làm được đưa thêm hàng loạt chức năng không đúng tính chất của nó, còn thị trường lao động được tăng thêm tính chất tổng hợp. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có mối liên hệ chặt chẽ liên hệ với nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm không phải là hoạt động mà những quan hệ xã hội giữa con người, mà trước hết là những quan hệ kinh tế và pháp lý về việc đưa người lao động vào hợp tác lao động cụ thể trong một chỗ làm việc xác định. Hoạt động lao động, trước hết, đó là một quá trình, còn việc làm là tài sản của chủ thể mà bằng cách nào đấy được đưa vào (hay là loại trả ra) từ quá trình đó. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng đồng mà pháp luật quy định. Nói cách khác, việc làm là công việc, những hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A., đã đưa ra khái niệm việc làm như phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái xã hội. Đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng nhất với lao động và sử dụng sức lao động. Nó định ra đặc tính dân số hoạt động kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất thể hiện quan hệ giữa con người về việc tham gia của họ vào trong sản xuất xã hội. Các nhà khoa học kinh tế Anh thì lại cho rằng “việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế” [3, tr.315]. Theo quan điểm này thì tất cả những việc làm tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật thừa nhận hay ngăn cấm đều được gọi là việc làm. Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên Xô lại cho rằng, “việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hóa của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của các nông trang viên” [3, tr.315]. Theo khái niệm này thì những người đang đi học, đang tham gia hoạt động trong các lực lượng vũ trang, những người nội trợ đều coi là những người có việc làm. Ngày nay, ở Liên Bang Nga khái niệm này được quy định ra trong Bộ Luật Việc làm của dân cư Liên Bang Nga như sau: “việc làm là hoạt động của công dân nhằm thỏa mãn những nhu cầu xã hội và của cá nhân, đem đến cho họ thu nhập và không bị pháp luật Liên bang ngăn cấm” [3, tr.315]. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân làm hai loại: có trả công (những người làm thuê, học việc …) và không được trả công nhưng vẫn có thu nhập (những người như giới chủ làm kinh tế gia đình …). Vì vậy, “việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” [3, tr.314]. Theo khái niệm này, người có việc làm là người làm việc gì đó để được trả công, lợi nhuận được thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình (không được nhận tiền công hay hiện vật). Khái niệm này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của nhà thống kê lao động (ILO.1993) và đã được áp dụng ở nhiều nước. Tuy nhiên, quan niệm này mang nghĩa rất rộng, bao trùm mọi hoạt động lao động của con người. Trong thời đại ngày nay, với quan niệm trên, có rất nhiều người sẽ thuộc diện có việc làm, bao gồm: những hoạt động mang tính hợp pháp và những hoạt động mang tính phi pháp hay là những hoạt động lao động của con người vi phạm pháp luật hoặc bị cho là vi phạm vi phạm đạo đức xã hội và bị ngăn cấm ở một số nước. Ví dụ, việc buôn bán heroin, mại dâm,… ở các nước như Hà Lan, Côlômbia thì không cấm, nhưng những hoạt động này bị cấm ở những nước khác, đặc biệt ở các nước châu Á như: Việt Nam, Trung Quốc,… Do vậy, khái niệm trên chỉ mang tính khái quát, là cơ sở nghiên cứu vấn đề chung cho các nước trên thế giới. Ở nước ta, trong thời kỳ tập trung bao cấp, nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm, trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ đến việc sử dụng đãi ngộ đối với người lao động thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh. Trong giai đoạn này, những khái niệm về thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ… hầu như không được biết đến. Còn khái niệm “thất nghiệp” dường như là điều cấm kị nói tới dưới bất kỳ hình thức nào, trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh hóa được coi là một điều tất yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh là chuyển nhanh vào khu vực quốc doanh, đối với mỗi công dân là vào đội ngũ viên chức nhà nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà nước và kinh tế tập thể. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan điểm về việc làm được hiểu là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm tạo thu nhập hoặc tạo ra điều kiện cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập. Điều này cũng phù hợp với các nhìn nhận và phân tích của Nhà nước ta, được quy định trong Điều 13 của Bộ Luật Lao động: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” [8, tr.13]. Khái niệm việc làm của Bộ luật Lao động Việt Nam được cụ thể hóa, có thể hiểu dưới ba dạng hoạt động sau: - Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật - Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. - Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Theo quan niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai tiêu thức: Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ ra tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ ra tính pháp lý của việc làm, quan niệm đó rõ ràng hơn so với quan niệm của tổ chức ILO. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, hành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên kết kinh doanh, tự do tìm kiếm việc làm, tư do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực ngoài nhà nước và các khu vực phi chính thức. Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra thu nhập, nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma túy, mại dâm,… thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động là hợp pháp và có ích, nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm. Nhận thức về việc làm và tạo việc làm đó có sự chuyển biến căn bản. Nếu như trước đây, quan niệm phổ biến là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho người lao động thì nay đó chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Sự thay đổi quan niệm về việc làm của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường, coi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm, có vai trò quan trọng trong giải phóng sức lao động, thúc đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta. Quan niệm về việc làm nêu trên nó mang tính khái quát cao, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là: Thứ nhất, xét trên phạm vi rộng thì tính hợp pháp của một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Có hoạt động là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác. Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần làm giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công. Theo giáo trình Kinh tế Lao động của khoa Kinh tế Lao động và Dân số - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu “là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,…) để sử dụng sức lao động đó” [10]. Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu … và chi phí về sức lao động (V). Quan hệ tỷ lệ biểu diễn sự kết hợp giữa sức lao động với trình độ công nghệ sản xuất. Khi công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản xuất, vốn có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao động. Còn trong điều kiện tự động hóa, sản xuất theo dây truyền hiện đại thì chi phí về vốn, thiết bị, công nghệ rất cao, nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động với tỷ lệ thấp. Do đó, tùy từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để có thể tạo việc làm cho người lao động. Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỷ lệ giữa C và V thường xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau. - Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có ý nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động có nghĩa là việc làm đầy đủ. Trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm việc làm hợp lý. - Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu nguồn nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp. Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm việc làm là phạm trù để chi trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó. Trên cơ sở này sẽ hình thành các dạng việc làm cũng như phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hỗ trợ giải quyết việc làm, 2.1.2 Thất nghiệp Theo quan niệm của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), thất nghiệp là người không có việc làm, có khả năng làm việc và có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có sức lao động chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội (BLĐTB-XH), cũng quy đinh: “Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có nhu cầu tìm kiếm việc làm nhưng không có việc làm”. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số người thất nghiệp và tổng nguồn nhân lực. Thất nghiệp có thể được chia ra làm một số loại chính sau: - Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp xảy ra khi một số người lao động đang trong thời kỳ tìm kiếm việc làm hoặc chờ làm ở nơi có việc làm tốt hơn. - Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các loại lao động, giữa các ngành nghề trong khu vực. - Thất nghiệp do thiếu cầu: là thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống, ngồn gốc chính là do sự suy giảm tổng cầu. - Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: là loại thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển, xảy ra khi tiền lương được xác định không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. Thất nghiệp cũng có thể chia thành thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện: - Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp trong đó những người lao động không quan tâm đến một số nghề mặc dù họ có đủ điều kiện để làm vì họ có một phần vốn từ bên ngoài. - Thất nghiệp không tự nguyện là loại thất nghiệp trong đó những người lao động muốn làm bất kỳ một công việc nào đó mà họ không quan tâm đến mức lương nhưng họ không tìm được việc làm. Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế tất yếu, song duy trì ở mức độ nào cho hợp lý còn tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia và khả năng quản lý nền kinh tế của Chính phủ. Tỷ lệ thất nghiệp thấp đồng nghĩa với lực lượng lao động trong nền kinh tế được tăng cường và tỷ lệ lạm phát cao. Ngược lại, tỷ lệ thấp nghiệp cao đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát thấp cũng tạo ra những vấn đề xã hội bức xúc về việc làm, về tệ nạn xã hội,... Vì vậy, duy trì một tỷ lệ thất nghiệp hợp lý ở mức thất nghiệp tự nhiên (tỷ lệ thất nghiệp mà ở đó ai có nhu cầu làm việc đều có thể kiếm được việc làm) là điều lý tưởng. Thất nghiệp trong trường hợp mất đất do chuyển đổi mục đích sử dụng thuộc loại thất nghiệp tạm thời, bởi việc làm của người lao động nông thôn luôn gắn liền với đất đai. Khi tư liệu sản xuất chính bị mất, một bộ phận lao động nông nghiệp được chuyển sang lao động công nghiệp. Một bộ phận còn lại, không đáp ứng được yêu cầu của khu công nghiệp đó tạm thời mất việc. 2.2 Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển công nghiệp và đô thị hóa 2.2.1 Những thành tựu chủ yếu phát triển khu công nghiệp Thứ nhất, về số lượng các khu công nghiệp (KCN), tính đến cuối tháng 5/2008, cả nước đó có 186 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 45.042 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 29.469 ha, chiếm 66,6% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 110 KCN đó đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 26.115 ha và 76 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 18.926 ha. Các KCN, KCX phân bố ở 52 tỉnh, thành phố trên cả nước; tập trung ở 3 vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện tích đất tự nhiên chiếm trên 60% tổng diện tích các KCN cả nước; vùng Đông Nam Bộ có 75 KCN (22.352 ha), Đồng bằng sông Hồng có 42 KCN (10.046 ha); Đồng bằng sông Cửu Long có 28 KCN (5.027 ha) Việc thành lập các KCN nhìn chung đều tuân thủ quy mô diện tích đã được phê duyệt tại Quy hoạch phát triển KCN đến năm 2015, đồng thời các KCN có quy mô lớn được phân kỳ đầu tư để đảm bảo hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư. Thứ hai, về việc xây dung kết cấu hạ tầng KCN, trong thời gian gần đây, các KCN, đặc biệt là các KCN mới thành lập đã đạt được những kết quả tích cực trọng công tác đền bù giải phóng mặt bằng và triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng KCN. Số lượng các KCN đi vào vận hành đạt khoảng 6-12 KCN mỗi năm. Đặc biệt trong năm 2007, cả nước có gần 20 KCN đã cơ bản hoàn thành cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành, ._.thu hút đầu tư. Việc các KCN nhanh chóng đi vào vận hành và thu hút đầu tư đó tạo điều kiện khai thác có hiệu quả quỹ đất công nghiệp trong các KCN. (15) Thứ ba, các KCN đạt kết quả tốt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN trong tổng vốn đầu tư thu hút được hàng năm trên cả nước luôn ở mức 40-45%. Năm 2007, các KCN đã thu hút được trên 8 tỷ USD vốn FDI, chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước. Tính đến cuối tháng 5/2008, các KCN cả nước đã thu hút được trên 3200 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 31,5 tỷ USD và 3.100 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 195 nghìn tỷ đồng. Riêng lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, có 31 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 1.755 triệu USD và 155 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư trên 61.160 tỷ đồng. Thứ tư, các chỉ tiêu thực hiện vốn đầu tư và SXKD trong KCN tiếp tục tăng trưởng ổn định. Trong thời gian qua, mặc dù thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và thế giới có nhiều biến động, tuy nhiên, tiến độ giải ngân vốn đầu tư đăng ký của các dự án trong KCN nhìn chung tiến triển khá ổn định. Trong năm 2007, các dự án đầu tư nước ngoài trong KCN đã thực hiện thêm được 2.600 triệu USD, bằng gần 30% tổng số vốn đầu tư nước ngoài giải ngân được trong năm 2007. Thứ năm, việc sử dụng đất trong KCN nhìn chung có hiệu quả. Tuy có sự gia tăng đáng kể các KCN mới thành lập trong vài năm gần đây, nhưng tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp của cả nước vẫn duy trì ở mức 50% và khá đồng đều giữa các vùng trên cả nước. Tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp tính chung cho các KCN đó vận hành và đang xây dựng cơ bản từ 50%-60%; nếu tính riêng các KCN đó vận hành thì thường ở mức 65%-75%. Một số vùng phát triển KCN từ lâu như Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp đối với các KCN đó vận hành cao hơn Đông Nam Bộ: 75%; Đồng bằng sông Hồng: 73%; Đồng bằng sông Cửu Long: 89%). [ 15] 2.2.2 Hạn chế, tồn tại phát triển khu công nghiệp Tiến độ thực hiện vốn đầu tư các dự án đầu tư trong một số KCN còn chưa đạt yêu cầu. Trong 6 tháng đầu năm 2008, số dự án đi vào hoạt động và số vốn đầu tư đã thực hiện giảm so với cùng kỳ năm 2007, chủ yếu do nhiều nguyên nhân khách quan từ biến động thị trường trong nước và thế giới ảnh hưởng tới tiến độ huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp. Ở một số địa phương, điều kiện sống, làm việc, thu nhập của người lao động còn chưa được giải quyết thỏa đáng. Do một số điều chỉnh về chế độ tiền lương, sự quan tâm hơn của các địa phương, điều kiện sống, làm việc của người lao động nhiều KCN đã được cải thiện. Tuy vậy, do lực lượng lao động KCN ngày càng đông đảo và biến động phức tạp, công tác quản lý lao động, triển khai các cơ chế, chính sách nâng cao đời sống và đảm bảo quyền lợi của người lao động khá khó khăn. Tình trạng người lao động KCN thuê nhà ở tạm với điều kiện sinh hoạt, ăn ở khó khăn đang diễn ra ở một số địa phương, đặc biệt là các địa phương tập trung nhiều KCN. Việc quy hoạch nhà ở cho công nhân đã được triển khai tại nhiều địa phương, song chưa đi đôi với việc xây dựng nhà ở theo quy hoạch đã phê duyệt. Việc đảm bảo các trung tâm dịch vụ, vui chơi giải trí, sinh hoạt văn hóa tinh thần gần KCN chưa thực sự được chú ý khi xây dựng quy hoạch KCN. Do tính chất phức tạp của lao động KCN, những năm qua, cơ chế hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người lao động KCN đã được nghiên cứu song gặp nhiều khó khăn để hoàn thiện. Trên thực tế, pháp luật hiện hành đã quy định mức ưu đãi ở mức cao nhất cho đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động song vẫn chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực này. Vì vậy, hiện chưa có cơ chế thực sự thỏa đáng và đủ khuyến khích việc huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân. Do nhiều nguyên nhân khách quan (giá cả sinh hoạt tăng), nguyên nhân chủ quan..., tình trạng đình công, lãn công, tranh chấp lao động vẫn tiếp tục diễn ra ở một số địa phương, đặc biệt là một số địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm. Trong 6 tháng đầu năm, các bộ ngành đã phối hợp với địa phương xử lý một số cuộc đình công, tranh chấp lao động ở một số tỉnh, thành phố trên cả nước. Một số trường hợp sử dụng đất KCN chưa đạt hiệu quả. Nhìn chung đối với các KCN đã vận hành, việc sử dụng quỹ đất đảm bảo được hiệu quả được thể hiện qua các chỉ tiêu thu hút đầu tư và giá trị sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, một số khó khăn trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng đó có ảnh hưởng tới tiến độ đưa quỹ đất KCN vào khai thác sử dụng do tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng chậm, chưa sẵn mặt bằng để thu hút các nhà đầu tư. Một số trường hợp các nhà đầu tư thứ cấp chậm xây dựng nhà xưởng, kéo dài thời gian đưa quỹ đất đã thuê vào sản xuất kinh doanh hoặc sản xuất kinh doanh không hiệu quả, phải chấm dứt hoạt động, giải thể hoặc phá sản cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng quỹ đất. [ 15] 2.2.3 Đô thị hóa và vấn đề đô thị hóa ở Việt Nam Thuật ngữ đô thị hóa (ĐTH) đó xuất hiện từ thời cổ đại, nó gắn liền với việc thừa nhận ngày càng phổ biến vai trò và tầm quan trọng của đô thị đối với phát triển kinh tế - xã hội. ĐTH là quá trình kinh tế - xã hội, lịch sử mang tính quy luật trên quy mô toàn cầu. Ngày nay, ĐTH chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp với nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau của một xã hội hiện đại. Theo cách tiếp cận của nhân khẩu học và địa lý kinh tế thì ĐTH là sự di cư từ nông thôn vào thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là đô thị. Đó cũng là quá trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân của quốc gia. Theo cách tiếp cận xã hội học, ĐTH được hiểu rộng hơn, đó là quá trình tổ chức lại môi trường cư trú của nhân loại; là sự thay đổi phương thức hay hình thức cư trú của nhân loại. Điều này có nghĩa là ĐTH không chỉ thay đổi phương thức sản xuất, tiến hành các họat động kinh tế mà còn là sự thay đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, trong đó quan hệ xã hội, các mô hình và ứng xử tương ứng với điều kiện CNH, HĐH và ĐTH. ĐTH có hai hình thức biểu hiện là ĐTH theo chiều rộng và ĐTH theo chiều sâu. ĐTH theo chiều rộng tức là ĐTH diễn ra tại các khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các đô thị mới, các quận, các phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng, các hoạt động phi nông nghiệp và các họat động của kinh tế đô thị không ngừng mở rộng. Sự hình thành các đô thị mới được tạo nên cơ sở phát triển các khu công nghiệp, thương mại và dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô. ĐTH theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa. ĐTH theo chiều sâu tức là quá trình HĐH và nâng cao các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng tăng cường, hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày được cải thiện và nâng cao. * Kết quả đô thị hóa ở Việt Nam Tính đến năm 2007, cả nước đang có gần 730 đô thị bao gồm hai đô thị đặc biệt là TP HCM, Hà Nội. Bốn đô thị loại 1 là Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, và Huế; 13 đô thị loại 2; 36 đô thị loại 3; 39 đô thị loại 4 và 635 đô thị loại 5. Từ năm 1990, đô thị Việt Nam mới bắt đầu phát triển. Từ đó đến nay, đặc biệt là vài năm trở lại đây tốc độ đô thị hóa càng diễn ra nhanh chóng. Những năm đầu 1990 tỷ lệ đô thị hóa hàng năm chỉ đạt khoảng 17-18% nhưng nay mức độ đô thị hóa đã tăng lên 27% mỗi năm. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ có nhiều khu đô thị mới ra đời theo nhu cầu phát triển của nền kinh tế và xã hội. Trong nền kinh tế, các đô thị đóng góp 2 phần 3 giá trị của tổng thu nhập và chiếm 30% tổng số dân. Ngày nay sự thay đổi của nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các đô thị phát triển mạnh mẽ. Một số đô thị chọn hướng phát triển theo nền kinh tế dịch vụ như Đà Lạt, Phan Thiết, Phú Quốc, Vũng Tàu... Theo quy hoạch, đất đô thị chỉ có 105.000 ha phân bổ khắp 64 tỉnh thành. Vì vấn đề quy hoạch đô thị chậm đổi mới nên không gian sống ở các đô thị ngày càng chật hẹp. Hiện nay, TP HCM và Hà Nội tăng trưởng rất mạnh mẽ và có sức lan tỏa rộng đến các vùng xung quanh. Theo nghiên cứu của nhiều tổ chức, đô thị Việt Nam đang phát triển nhưng cũng gặp phải không ít thách thức. Bộ Xây dựng dự báo tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40% tương đương với số dân cư sinh sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra diện tích bình quân đầu người là 100 m2 mỗi người. Nếu đạt tỷ lệ này, sẽ cần có khoảng 450.000 ha đất đô thị, nhưng hiện nay, diện tích đất đô thị vẫn đang ở quy mô 105.000 ha. Do vậy, tình trạng thiếu nhà ở cho dân thành thị đang diễn ra trầm trọng. Tình trạng nhà ở chật chội, nhà tạm còn chiếm phần nhiều và tồn tại ở 2 thành phố lớn của cả nước phổ biến nhất. Theo thống kê, TP HCM còn có 300.000 người đang sống trong các nhà ổ chuột, 30% dân số Hà Nội phải sống trong môi trường chật chội với diện tích ở không quá 3 m2 mỗi người. Đô thị phát triển nhanh nhưng đời sống người dân thành thị chưa được quan tâm đầy đủ. Ngay tại TP HCM, người dân một số quận huyện chưa được cung cấp nguồn nước máy. Dân số, nhà cửa ngày càng nở ra nhưng các dịch vụ công ích như cung cấp nước phải theo kế hoạch nhất định hằng năm. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng không đáp ứng đủ, đường sá giao thông tắc nghẽn, nguồn nước ngầm và các dòng sông bị đe dọa nhiễm bẩn nghiêm trọng vì chất thải, không khí ngày càng ô nhiễm nặng nề vì bụi bặm công trường, khói xe, khói nhà máy sản xuất công nghiệp. Như khảo sát của các nhà chuyên môn tại các thành phố lớn vẫn còn 20% và các đô thị nhỏ còn khoảng 45% rác thải xả vào môi trường tự nhiên, chưa được thu gom. Các vấn đề phát sinh khi quá trình đô thị hóa nhanh đều do sự ảnh hưởng bởi tình trạng dân nhập cư tại khu vực thành thị. Một phần họ là những nông dân chán cảnh “chân lấm tay bùn” dắt díu nhau vào các đô thị kiếm việc làm. Một bộ phận là tầng lớp thanh niên trẻ ở lại thành thị lập nghiệp và làm việc sau thời gian học tập. Hiện nay các khu đô thị, thành phố trên cả nước đang đau đầu và khắc phục những sai sót trong quá trình quy hoạch đô thị trước đây về cơ sở hạ tầng như đường sá, hệ thống thoát nước, xử lí nước thải... Đây là hệ quả của việc quy hoạch đô thị không đồng bộ (16) 2.3 Tác động của phát triển khu công nghiệp và đô thị hóa tới lao động việc làm khu vực nông thôn 2.3.1 Tác động tích cực Thứ nhất, phát triển KCN và ĐTH tạo mở nhiều việc làm mới trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ. Để tiến hành ĐTH đòi hỏi phải thúc đẩy xây dựng, cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật với việc hình thành các KCN, khu du lịch, khu dịch vụ, thương mại ngày càng hiện đại. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại sẽ kích thích gia tăng hội tụ các nguồn đầu tư cho sản xuất, thúc đấy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp diễn ra ngày càng sôi động, đa dạng hóa và phát triển các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ…, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp. Theo một nghiên cứu thì với 1 ha đất nông nghiệp ở nước ta hiện chỉ sử dụng 3 - 5 lao động và tạo ra giá trị khoảng 22,5 triệu đồng/năm (2004). Nhưng nếu chuyển sang xây dựng KCN có thể thu hút 50 - 100 lao động và tạo ra giá trị trên 500 triệu đồng/năm. Thu nhập của người lao động ở các KCN cũng cao hơn so với làm nông nghiệp Thứ hai, phát triển KCN và ĐTH làm tăng chỗ việc làm trong khu vực kinh tế không chính thức. ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư đô thị làm nảy sinh các nhu cầu ngày càng cao về vật chất và tinh thần. Để đáp ứng nhu cầu đó đòi hỏi sản xuất và dịch vụ phải được mở rộng, kéo theo sự phát triển một cách tự phát khu vực kinh tế không chính thức với những hoạt động kinh tế quy mô nhỏ, không đăng ký, không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật như bán hàng rong, các dịch vụ, buôn bán nhỏ tại nhà, vỉa hè, giúp việc gia đình, lao động tự do… Sự phát triển của khu vực kinh tế không chính thức sẽ tạo nhiều việc làm, góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động không nhỏ không có tay nghề, lao động nhập cư, lao động nông nghiệp thuộc diện bị thu hồi đất sản xuất… Thứ ba, phát triển KCN và ĐTH làm tăng chỗ việc làm tạm do quy hoạch mở rộng không gian đô thị, cải tạo, nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Để tiến hành cải tạo, nâng cấp, xây dựng hạ tầng kinh tế, xây dựng KCN, khu dân cư…, đòi hỏi có lực lượng lao động nhất định phục vụ cho việc xây dựng này. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động dịch vụ khác phát triển đi kèm với quá trình xây dựng các công trình này như dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí… từ đó làm tăng chỗ việc làm tạm thời trong thời gian nhất định. Sau khi công trình hoàn thành, những chỗ việc làm tạm thời này không tiếp tục hoạt động nữa hoặc chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác cho phù hợp. Thứ tư, phát triển KCN và ĐTH mở rộng khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm của người lao động. Khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm của người lao động chủ yếu do: + Trình độ người lao động ngày càng được nâng cao. Trước yêu cầu trình độ lao động ngày càng cao và áp lực về việc làm do dân số, lao động hội tụ ngày càng đông ở đô thị theo xu hướng ĐTH, một bộ phận người lao động, nhất là lao động trẻ buộc phải trang bị cho mình một trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. + Dưới tác động của ĐTH thị trường lao động hoạt động sôi động hơn. Tốc độ ĐTH càng cao thì tăng trưởng việc làm và tốc độ hội tụ dân số và lao động ở đô thị có quy mô càng lớn. Môi trường kinh tế năng động hơn chính là điều kiện cơ bản phát triển mạnh mẽ các họat động tư vấn, giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin lao động. 2.3.2 Tác động tiêu cực Thứ nhất, phát triển KCN và ĐTH làm một bộ phận người lao động diện thu hồi đất nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp. Quy hoạch sử dụng đất theo hướng chuyển đổi mục đích sử dụng từ phục vụ sản xuất nông nghiệp phục vụ sản xuất công nghiệp thương mại, dịch vụ với việc xây dựng các KCN, khu du lịch, khu dân cư, khu đô thị mới sẽ làm xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao động thuộc diện bị thu hồi đất sản xuất mất việc làm hoặc buộc phải chuyển đổi việc làm. Đại đa số họ có trình độ học vấn thấp, không có tay nghề chuyên môn kỹ thuật, không có vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ mang nặng sắc thái văn hóa nông thôn làng xã truyền thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập các mối quan hệ, công ăn việc làm, khả năng tiếp cận các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị, khả năng thích ứng kịp thời với sự biến đổi nhanh chóng của quá trình ĐTH khi mà bỗng chốc họ trở thành những cư dân đô thị sau những quyết định hành chính mở mang ranh giới, không gian đô thị. Những vấn đề trên đó cản trở nhóm dân cư này trong việc tìm kiếm cơ hội chuyển đổi việc làm mới, biến họ trở thành những cư dân thất nghiệp trên chính quê hương mình. Thứ hai, phát triển KCN và ĐTH làm cho một bộ phận người lao động không kịp đáp ứng yêu cầu về trình độ sản xuất. ĐTH, CNH, HĐH thúc đẩy quá trình sắp xếp, cơ cấu lại các đơn vị, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước và thực hiện thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí, phát triển tự động hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, làm giảm chỗ việc làm yêu cầu trình độ lao động thấp. Do đó, xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao động dôi dư không đáp ứng được yêu cầu sản xuất sẽ bị mất việc. Những người này đa số đã lớn tuổi hoặc trình độ lao động thấp không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới của doanh nghiệp và khả năng đào tạo lại và chuyển đổi nghề của họ là rất thấp [15 ]. 2.4 Thực trạng thu hồi đất và tác động của nó tới lao động, việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam Thời gian qua, cùng với sự phát triển của KCN và quá trình ĐTH nhanh, mạnh mẽ là diện tích đất nông nghiệp (chủ yếu là đất thâm canh lúa) lại đang bị nhiều địa phương thu hồi. Tình trạng này đó khiến cho người nông dân nhiều địa phương trong cả nước rơi vào tình trạng không có đất canh tác. Theo điều tra của Bộ Nông nghiệp và PTNT, tại 16 tỉnh trọng điểm về thu hồi đất, diện tích đất nông nghiệp chiếm 89% diện tích đất thu hồi và số còn lại là diện tích đất thổ cư. Mặc dù diện tích đất nông nghiệp thu hồi chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số diện tích đất tự nhiên (chiếm 1- 2%), nhưng lại chủ yếu tập trung vào một số xã, huyện có mật độ dân số cao, tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, có xã có diện tích bị thu hồi chiếm tới 70 - 80% diện tích đất canh tác. Theo kế hoạch, những năm tới có xã có thể chuyển đổi 100% diện tích đát nông nghiệp, kéo theo nhiều hộ bị thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Những địa phương có diện tích đất thu hồi lớn nhất là Tiền Giang (20.308 ha), Đồng Nai (19.752 ha), Bình Dương (16.627 ha), Cà Mau (13.242 ha), Hà Nội (7.776 ha), Vĩnh Phúc (5.573 ha), Hải Dương (3.146 ha)… Khoảng 70% số hộ có diện tích đất thu hồi từ 50% diện tích đất sản xuất trở lên. Theo dự báo của Bộ NN&PTNT, đến năm 2010, bình quân đất nông nghiệp trên một nhân khẩu chỉ còn 0,108 ha (so với 10 năm trước giảm 0,005 ha); trong khi đó, mức bình quân đất nông nghiệp của thế giới hiện nay là 0,23 ha/người. Vấn đề này đã được Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT báo động nhiều lần. Tuy nhiên, tình trạng này không những không ngăn chặn được mà còn có chiều hướng gia tăng. Tính riêng giai đoạn từ 2001-2005, tổng diện tích đất bị thu hồi cả nước đó lên tới trên 366 nghìn ha (chiếm gần 3,9% quỹ đất nông nghiệp); tức mỗi năm thu hồi hơn 73.200 ha [13]. Theo đánh giá của bộ NN&PTNT tThu hồi đất đã đẩy hàng vạn người, trong đó chủ yếu là nông dân lâm vào cảnh không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn ([Nguồn???) ai kết luận câu này?.13] Khu vực đồng bằng sông Hồng có nhiều hộ bị ảnh hưởng nhất (300.000 hộ), tiếp đến là khu vực Đông Nam Bộ (108.000 hộ); riêng TP Hà Nội có số hộ nông dân bị thu hồi lớn nhất (138.291 hộ); tiếp đến là TP. Hồ Chí Minh (52.094 hộ), Bắc Ninh (40.944 hộ), Hưng Yên (31.033 hộ), Đà Nẵng (29.147 hộ). Sau khi bị thu hồi, người dân bị mất hoặc thiếu việc làm, trong khi các dự án phát triển công nghiệp đòi hỏi phải có thời gian mới thu hút được lao động (chưa kể các dự án treo). Chính vì vậy, việc làm ở khu vực này trở nên bức xúc. Các tỉnh có nhiều lao động bị mất việc làm hoàn toàn do thu hồi đất: Hà Tây 35.703 người, Vĩnh Phúc 22.800 người, Đồng Nai 12.295 người, Hài Dương 9.357 người, Cà Mau 3.021 người… [12] Theo một khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội mới đây, trung bình mỗi hộ nơi thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm trong nông nghiệp. Như vậy, còn trên 50% số lao động bị mất việc làm giải phóng khỏi nông nghiệp rơi vào tình trạng không có việc làm [12]. Theo kết quả điều tra của đại học Kinh tế Quốc dân tại 8 tỉnh về những người bị thu hồi đất thì số người không có trình độ chuyên môn là 73,75%; số người có trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chỉ có 17,01%, số người được học nghề (công nhân kỹ thuật) là 3,96%, trình độ khác là 5,28%. [18] Nghề nghiệp của những người có đất bị thu hồi chủ yếu là những nghề đòi hỏi chuyên môn thấp như làm nông nghiệp, lao động xây dựng, công nhân tự do (xe ôm) buôn bán nhỏ... Từ tình hình trên có thể thấy nhiều KCN mới được ra đời, song việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra không phù hợp với xu thế phát triển chung, tỷ lệ lao động quay trở về làm nông nghiệp vẫn còn lớn (27,6%), tỷ lệ các nghề không cơ bản, ít đào tạo vẫn còn cao (như nghề xe ôm, cửu vạn.v.v...). Nói cách khác là nguồn lực đất đai đó chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, song nguồn lực lao động thì chưa theo kịp xu hướng đó [15 ]. Về đời sống của người có đất bị thu hồi Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN không chỉ ảnh hưởng đến chỗ ở, đến việc làm của người dân có đất bị thu hồi, mà còn ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc đến thu nhập, cũng như đời sống vật chất và tinh thần của gia đình họ. Chính vì vậy, Nhà nước đó có chính sách bồi thường cho họ. Việc bồi thường cho các hộ bị thu hồi đất, trước hết là bồi thường bằng tiền để bù đắp cho một phần những ảnh hưởng đó. Điều này thể hiện ra trên các mặt sau đây: - Trước hết người dân có được một khoản thu nhập khá lớn từ tiền bồi thường cho diện tích đất bị thu hồi, mua lại đất nông nghiệp hoặc đất ở. - Từ tiền bồi thường các hộ có điều kiện mua sắm các công cụ phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó tạo cơ sở cho việc tiếp tục tăng nguồn thu nhập và cải thiện đời sống. - Các gia đình cũng có thể dành ra một phần tiền trong số tiền bồi thường để đầu tư cho con cái trong việc học tập, nhằm tạo cơ sở để sau này có thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Đây cũng là khoản đầu tư hợp lý, phù hợp với mục đích bồi thường của Nhà nước. - Cũng từ tiền bồi thường, các hộ có điều kiện để trang bị cho gia đình các thiết bị hiện đại phục vụ cho cuộc sống hàng ngày như các phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, giường, tủ, máy điều hoà v.v... Trước mắt, đời sống của các hộ được nâng lên. Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông dân, có nhiều hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn nghề nghiệp, chưa hình thành được tác phong lao động công nghiệp nên không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Không ít người sau một thời gian được nhận vào làm việc tại các nhà máy, các KCN do không đáp ứng được yêu cầu công việc nên buộc phải thôi việc và lại rơi vào tình trạng không có việc làm. Điều này gây khó khăn cho cuộc sống của chính bản thân người lao động, đồng thời cũng gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thu hút lao động và ổn định sản xuất. Về phía quản lý nhà nước, cũng còn những bất cập: kế hoạch thu hồi đất dường như cũng không gắn gì với kế hoạch đào tạo nghề cho những người mất đất. Nhà nước mới chỉ có chính sách hỗ trợ tiền cho chuyển đổi nghề nghiệp, trong khi đó học nghề gì, học ở đâu, học bao lâu, học rồi có tìm được việc làm không là việc người dân tự lo, chính quyền các cấp không biết. Chính quyền các địa phương cũng chưa chú ý hướng dẫn người dân trong việc sử dụng hợp lý và hiệu quả số tiền được bồi thường do mất đất. Số hộ sử dụng tiền bồi thường để đầu tư sản xuất, kinh doanh, đầu tư cho đào tạo nghề nghiệp, mua bảo hiểm xã hội.v.v… không nhiều. Đa phần các hộ chi vào việc xây nhà cửa, mua sắm các phương tiện sinh hoạt đắt tiền. Nhìn bề ngoài có vẻ như đời sống của họ được cải thiện ra rệt. Tuy nhiên, bên trong tiềm ẩn một nguy cơ bất ổn rất lớn; không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định [15 ]. 2.5 Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam 2.5.1 Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở các nước trên thế giới 2.5.1.1 Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở Trung Quốc Là nước đông dân nhất thế giới với 1,3 tỷ dân nhưng 70% dân số ở khu vực nông thôn. Hàng năm, Trung Quốc có 10 triệu lao động đến tuổi tham gia lực lượng lao động nên yêu cầu giải quyết việc làm trở nên gay gắt. Trước đòi hỏi cấp bách của thực tế, ngay từ năm 1978 sau khi cải cách mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc thực hiện phương trâm “ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành” thông qua chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ công nghiệp Hưng Trấn nhằm phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động ở nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành thị; coi việc phát triển công nghiệp nông thôn là con đường giải quyết việc làm. Từ năm 1978 đến 1991, Trung Quốc có 19 xí nghiệp Hưng Trấn thu hút 96 triệu lao động ở nông thôn, tạo ra giá trị tổng sản lượng 1.162 tỷ Nhân dân tệ. Nhờ phát triển công nghiệp nông thôn mà tỷ trọng lao động nông nghiệp đã giảm từ 70% năm 1978 xuống còn 50% năm 1991. Bình quân trong 10 năm, từ 1980 đến 1990, mỗi năm các xí nghiệp Hưng Trấn của Trung Quốc thu hút khoảng 12 triệu lao động dư thừa từ nông nghiệp [13]. Từ thực tiễn phát triển công nghiệp nông thôn, giải quyết việc làm ở nông thôn có thể rút ra bài học kinh nghiệm: Một là: Trung Quốc đã thực hiện chính sách đa dạng hoá và chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn phát triển sản xuất công nghiệp và mở mang các hoạt động phi nông nghiệp. Đây là nhân tố quan trọng nhất tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế thu hút lao động và các hoạt động phi nông nghiệp khác ở nông thôn. Hai là: nhà nước tăng giá thu mua nông sản một cách hợp lý, giảm giá cánh kéo giữa hàng nông nghiệp và hàng công nghiệp, khuyến khích phát triển sản xuất, đa dạng hoá theo hướng sản xuất những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, phù hợp với yêu cầu thị trường, điều đó tác động đến thu nhập trong khu vực nông thôn. Ba là: tạo môi trường thuận lợi để công nghiệp phát triển vào giai đoạn đầu của quá trình CNH-HĐH nông thôn, Nhà nước thực hiện bảo hộ sản xuất hàng hoá trong nước, hạn chế ưu đãi đối với các doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước, qua đó tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nông thôn. Bốn là: thiết lập một hệ thống cung cấp tài chính có hiệu quả cho doanh nghiệp nông thôn, giảm chi phí giao dịch để huy động vốn cho công nghiệp nông thôn. Năm là: duy trì và mở rộng quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp nông thôn. Như vậy, Trung Quốc đã thành công trong việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn bằng việc mở hàng loạt các xí nghiệp Hưng Trấn sử dụng lao động nông thôn kết hợp với các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Đây là một trong những kinh nghiệm quý báu có thể áp được ở Việt Nam, nhằm giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động nông thôn, tăng thu nhập. 2.5.1.2 Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở Đài Loan Các cơ sở công nghiệp nông thôn Đài Loan thu hút số lượng lớn lao động từ nông thôn với 78 ngàn người năm 1930 lên 248 ngàn lao động năm 1966. Vào đầu những năm 1950, do đất đai bị hạn chế, cùng với số lượng lớn cư dân từ Trung Quốc sang dẫn đến nguy cơ thất nghiệp lớn ở nông thôn. Tuy nhiên, nhờ công nghiệp nông thôn phi tập trung phát triển mà từ những năm 1960, nền kinh tế có thể duy trì ở mức gần như toàn dụng lao động. Lao động nông nghiệp từ trên 50% những năm 1950 đã rút còn 14,2% vào năm 1988 và được chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp. Việc tăng trưởng công nghiệp phi tập trung dã làm giảm nhẹ sức ép đối với đất nông nghiệp mà không cần phải chuyển gánh nặng đó cho khu vực thành thị vì cư dân nông thôn đã có thể đi về hàng ngày đến các nhà đặt ở các vùng lân cận. Từ thực tế đó của Đài Loan, có thể rút ra bài học về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình CNH-HĐH: Nông nghiệp được ưu tiên phát triển làm cơ sở để phát triển công nghiệp nông thôn mà trước hết la công nghiệp chế biến nông sản. Lao động dư thừa trong nông nghiệp được chuyển sang các ngành nghề công nghiệp nhẹ nông thôn. Năm 1953, chính quyền Đài Loan đá đưa ra nội dung hỗ trợ như sau: Bãi bỏ việc đổi lúa lấy phân bón Bãi bỏ các khoản thu phụ đối với ruộng đất Giảm lãi suất tín dụng nông nghiệp Nâng cấp giao thông nông thôn Cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn Đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật cho nông nghiệp Khuyến khích lập các khu công nghiệp chuyên ngành Tăng cường cho công tác nghiên cứu, thí nghiệm phục vụ sản xuất Khuyến khích đầu tư xây dựng nhà máy ở nông thôn Chú trọng phát triển doanh nghiệp nông thôn quy mô nhỏ và vừa, lấy công nghệ sử dụng nhiều động là chính. Năm 1971, quy mô trung bình một doanh nghiệp là dưới 15 lao động. Công nghiệp nông thôn phát triển theo hướng phân tán, phi tập trung nhưng có liên kết với nhau và liên kết với các công ty lớn ở đô thị. Công nghiệp nông thôn Đài Loan chủ yếu là các công nghiệp truyền thống, thu hút phần lao động dư thừa từ sản xuất nông nghiệp. Nhà có chính sách khuyến khích xây dưng nhà máy ở nông thôn, chú ý vào phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực ở nông thôn. Phát triển các cơ sở nông - công nghiệp được bố trí ở gần với vùng nguyên liệu cũng như nhà máy chế tạo máy nông nghiệp. Kế hoạch phát triển vùng được dựng để thúc đẩy thành lập các khu công nghiệp vùng nông thôn. Trong quá trình công nghiệp hoá, nông nghiệp không bị coi nhẹ, nông dân không bị loại ra khỏi phạm vi hưởng phúc lợi từ nông nghiệp. 2.5.1.3 Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở Malaysia Liên bang Malaysia có tổng số dân 22,2 triệu người, hiện nay lao động đang được thu hút mạnh vào cá ngành phi nông nghiệp (công nghiệp, dịch vụ) nên sức ép về dân số/đất đai không lớn. Hiện tại, Malaysia không đủ lao động nên phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài, nhưng trong thời gian đầu của quá trình công nghiệp hoá, nước này đã phải giải quyết vấn đề dư thừa lao động như nhiều quốc gia khác. Bài học kinh nghiệm của Malaysia cũng rất quý báu trong việc giải quyết lao động nông thôn, từ dư thừa lao động sang mức toàn dụng và nhập khẩu thêm lao động nước ngoài. Đạt được các thành tựu quan trọng như vậy trong giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là do Chính phủ Malaysia đã có biện pháp, chính sách và bước đi phù hợp để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Kinh nghiệm của Malaysia cho thấy: Thời gian đầu của quá trình công nghiệp hoá, Malaysia chú trọng phát triển nông nghiệp, trong đó đặc biệt chú ý đến phát triển cây công nghiệp dài ngày dựa trên lợi thế về đất đai, khí hậu. Cùng với phát triển nông nghiệp, Malaysia còn tập trung phát triển công nghiệp chế biến, vừa giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, vừa giải quyết việc làm và thu nhập cho nông dân. Trong những năm 1960, Malaysia đã chú trọng đầu tư theo chiều sâu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp và chú ý đến phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp như: công nghiệp cơ khí, chế tạo máy phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp. Kha._.y càng có xu hướng tăng, đất nông nghiệp ngày càng giảm, dẫn đến sức ép về việc làm cho người lao động càng trở nên cấp bách. 4.4.3 Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho người lao động sau khi bị thu hồi đất. Trước hết, chúng ta cần phân loại các đối tượng mất đất theo các tỷ lệ khác nhau, các lứa tuổi khác nhau, vị trí khác nhau để có căn cứ đưa ra giải pháp cụ thể, phù hợp, chúng ta có thể tập trung vào các giải pháp sau: Giải pháp 1: Hoàn thiện việc quy hoạch đất đai và quản lý tốt kinh phí trong đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng: Việc quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp cũng như các khu đô thị mới cần được thông qua một cách công khai sớm trước mọi người dân và cần chỉ rõ thời gian cần thu hồi, quy mô cần thu hồi để người dân có kế hoạch chủ động trong tìm kiếm việc làm, chuyển đổi ngành nghề cũng như có kế hoạch sản xuất phù hợp. Tuy nhiên, để tránh trường hợp người dân nắm được phương án quy hoạch sẽ tìm cách đối phó để lấy tiền đền bù cao như trồng cây lâu năm hay xây dựng công trình nhà ở… cần có những biên bản hoặc ảnh chụp về hiện trạng đất đai thuộc sự quản lý của người dân trong vùng giải tỏa. Cần thực hiện nghiêm nghị định 17 và nghị định 84 của Chính phủ trong quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp, đó là để lại 10% đất nông nghiệp bị mất để làm dịch vụ, diện tích đất để lại phải lựa chọn vị trí phù hợp, đáp ứng yêu cầu cho hoạt động dịch vụ. Cần xác định rõ trách nhiệm của các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp trong việc sử dụng lao động với người bị thu hồi đất. Các doanh nghiệp phải ưu tiên tuyển chọn lao động trong vùng bị thu hồi đất trước khi tuyển lao động ở những nơi khác. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần nêu rõ yêu cầu về lao động mà họ sẽ tuyển chọn khi dự án đi vào sản xuất để các đối tượng có cơ hội tuyển chọn có kế hoạch học nghề phù hợp. Với những hộ mất đất lớn cần phải di dời chỗ ở nên có sự ưu tiên đặc biệt để họ nhanh chóng ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Trước hết là ưu tiên trong việc nhận đất tái định cư, sau đó là ưu tiên trong việc nhận các khoản hỗ trợ, đền bù và sau đó là ưu tiên trong việc tuyển chọn vào làm việc cho các cơ sở trên đất thu hồi. Cần quản lý chặt chẽ và khoa học với kinh phí đền bù giải tỏa và hỗ trợ di dời, tránh hiện tượng trả toàn bộ tiền đền bù và hỗ trợ cho người dân. Theo điều tra chúng tôi thấy: có tới 90% số hộ đã dùng tiền đền bù vào việc xây dựng và sửa chữa nhà ở, 50% số hộ để mua sắm dụng cụ trong gia đình, có khoảng 30% có dùng để đi học nghề… Điều này chứng tỏ việc sử dụng tiền đền bù và hỗ trợ của người dân không đúng mục đích. Các xã và huyện cần phân loại đối tượng mất đất để xây dựng kế hoạch chi trả đền bù cho từng hộ sao cho hợp lý. Nếu các hộ chưa sử dụng tiền đền bù đó cho việc học nghề hoặc đầu tư cho chuyển hướng sản xuất thì có thể chi trả một phần để ổn định cuộc sống, số còn lại các cơ quan chức năng phải giữ lại để buộc người sử dụng phải sử dụng đúng mục đích, tránh trường hợp sau khi mất đất thì tiền cũng hết. Tuy nhiên, cần lưu ý khi giữ tiền của các hộ không nên để tiền chết mà phải đưa vào lưu thông lấy lãi cho các hộ. Giải pháp 2: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh kinh tế công nghiệp, dịch vụ để tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và phát triển du lịch. Tuy nhiên, khi áp dụng giải pháp này chúng ta cần phân loại các đối tượng mất đất theo các tỷ lệ khác nhau, các lứa tuổi khác nhau, vị trí khác nhau để áp dụng cho phù hợp. Căn cứ vào dự kiến cơ cấu kinh tế trong kế hoạch phát triển của tỉnh (bảng 4.32) ta cần có những giải pháp cụ thể sau: a) Trước hết, các địa phương cần phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp để làm khâu đột phá của quá trình chuyển dịch. Tập trung phát triển những ngành nghề truyền thống như nghề dệt của làng dệt kim La Phù, làng mộc Sơn Đồng, làng chế biến lương thực, thực phẩm Dương Liễu… Để làm tốt vấn đề này cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước, thể hiện việc hỗ trợ về vốn cho các đối tượng muốn phát triển làng nghề. Khuyến khích các hộ muốn đầu tư mở rộng sản xuất và đặc biệt có thu hút lao động ngoài lao động gia đình. Bảng 4.32. Dự kiến cơ cấu kinh tế trong những năm tới Quy hoạch phát triển KT-XH huyện Hoài Đức đến năm 2020 Đơn vị tính:% Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 Công nghiệp, xây dựng 55,4 56,2 58,2 59,4 Dịch vụ 32,0 33,0 36,5 40,6 Nông, lâm, thuỷ sản 12,6 10,8 05,3 02,0 Cần chuẩn bị cơ sở để bảo vệ bảng này vì làm như thế nào để ra bảng này?Quy hoạch phát triển KT-XH huyện Hoài Đức đến năm 2020 Với những hộ mất đất từ trên 80% thì việc phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tìm kiếm việc làm, chúng ta phải tìm mọi cách để họ có thu nhập chủ yếu từ các ngành này. Tuy nhiên, do đặc điểm lao động của các ngành này không dễ thích ứng như sản xuất nông nghiệp nên cần rất nhiều giải pháp phụ trợ. Bên cạnh đó, vẫn phải có các giải pháp về sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ thật phù hợp. Những hộ mất nhiều đất tập trung chủ yếu ở xã An Khánh, Vân Côn, Song Phương.., diện tích mất đất nông nghiệp từ 80% trở lên nên việc sử dụng đất nông nghiệp còn lại cũng khá thuận lợi. Phần đất nông nghiệp còn lại quá ít nên các hộ có thể dành cho việc tự sản xuất những sản phẩm thiết yếu cho gia đình để đảm bảo tính chủ động trong tiêu dùng của các hộ gia đình, cũng có thể hướng các hộ dân sản xuất một số loại rau gia vị vừa đáp ứng nhu cầu thị trường, vừa có thu nhập cao và thu hút nhiều lao động. Với những hộ mất đất từ khoảng 50% đến 80%, giải pháp này có ý nghĩa lớn, bởi vì những hộ này khả năng dựa vào thu nhập từ sản xuất nông nghiệp là rất khó khăn. Do đó, tìm kiếm việc làm mới thông qua việc phát triển công nghiệp và các ngành tiểu thủ công nghiệp để tăng thu nhập, ổn định đời sống là rất cần thiết. Cũng như với các hộ mất nhiều đất như trên, nếu tham gia vào các hoạt động sản xuất của các ngành nghề khác ngoài nông nghiệp thì người lao động cần có thời gian học tập nhất định mới có thể làm việc được. Do đó, cần có kế hoạch chi tiết về đào tạo nghề cho họ. b) Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Đối với những hộ mất dưới 50% diện tích đất đai, nghề nghiệp của họ không có sự thay đổi nhưng có nhiều xáo trộn. Do đó, vấn đề cần làm là làm sao cho với số lượng đất ít ỏi còn lại mà họ vẫn có thể đảm bảo được việc làm, tăng thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Điều này chỉ có thể thực hiện nếu tìm được những cây con cần đầu tư lượng lao động lớn, hiệu quả kinh tế cao cũng như tìm cách quay vòng ruộng đất nhiều hơn để tăng khối lượng sản phẩm và tăng giá trị của nó. Chú trọng những sản phẩm có giá trị kinh tế cao đáp ứng nhu cầu thị trường. Mặt khác cũng cần tìm những nghề thu hút nhiều lao động và ít ruộng đất hơn. Do đó cần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, đầu tư phát triển nông nghiệp sạch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng sản xuất tập trung; chú trọng đầu tư phát triển chăn nuôi theo mô hình công nghiệp tập trung kiểu trang trại hoặc bán tập trung, đảm bảo vệ sinh an toàn cho người và gia súc, phát triển cây trồng theo hướng sản xuất nông nghiệp sạch, chú trọng sản xuất những cây đặc sản, hình thành những vùng sản xuất rau an toàn. Với việc chuyển dịch này sẽ giúp các hộ có thêm việc làm với phần đất hạn hẹp còn lại sau thu hồi. Trong trường hợp này, người lao động ở các lứa tuổi và cả những người không còn trong độ tuổi lao động đều có thể tham gia lao động mà không có trở ngại gì. Một số địa phương có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất rau sạch như Tiền Yên, Song Phương...., nên có sự liên kết để cung cấp rau sạch cho các khách sạn, siêu thị để giữ uy tín cho sản phẩm, từ đó ổn định thị trường và ổn định giá cả. Ổn định và phát triển nuôi bò sữa, bò thịt, dê... ở vùng đồng bãi. Mở rộng nuôi trồng thủy sản bằng việc nuôi cá ở những vùng đất trũng hoặc kết hợp nuôi cá-lúa... Để làm tốt việc này, chính quyền địa phương cần làm tốt công tác dịch vụ. Tăng cường liên kết làm cầu nối giữa những nhà sản xuất với các nhà khoa học, các cơ sở sản xuất giống, các cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm..., từ đó giúp người sản xuất có định hướng đúng và triển khai hợp lý. c) Phát triển ngành du lịch, dịch vụ. Đây cũng là một trong những vấn đề cơ bản góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hoài Đức. Hoài Đức có tiềm năng về nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch làng nghề, du lịch văn hóa lịch sử với nhiều di tích được xếp hạng, có di tích đặc biệt quan trọng như Đền Giá. Hoài Đức, có nhiều lễ hội gắn với những truyền thuyết lịch sử và văn hóa của dân tộc, có nhiều điểm du lịch lễ hội như các đền chùa, miếu mạo.., với nhiều thắng cảnh đẹp. Nên tổ chức những chuyến du lịch thuận lợi để quảng cáo vẻ đẹp của huyện, đồng thời, nên có sự quản lý chặt các loại dịch vụ ăn theo để vừa phục vụ tốt khách du lịch, vừa tăng nguồn thu cho địa phương. Tuy nhiên, lao động thuộc ngành này đòi hỏi kiến thức khá sâu và rộng nên phải qua đào tạo. Cần tổ chức tuyển chọn những người có năng khiếu về dẫn chương trình, am hiểu về lịch sử, văn hóa, tìm hiểu kỹ hơn những truyền thuyết để đem đến cho du khách những món ăn tinh thần bổ ích. Cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch nâng cao chất lượng phục vụ và mở rộng mạng lưới phát triển để có thể cạnh tranh với những Công ty du lịch khác ngoài địa bàn Huyện. Ngoài ra, với bộ phận những người hết tuổi lao động nhưng vẫn tích cực tham gia lao động từ trước đến khi bị thu hồi đất nên tạo cho họ cơ hội lao động chân chính bằng cách cho họ quyền sử dụng phần đất dôi dư do quy hoạch khu dân cư để lại để có thể kinh doanh các loại dịch vụ phục vụ khu đô thị hoặc khu công nghiệp. Giải pháp 3: Tổ chức đào tạo nghề cho nông dân. Nhìn chung, nông dân Hoài Đức nói riêng và nông dân Việt Nam nói chung đều có chất lượng thấp: trình độ chuyên môn chưa sâu, tay nghề còn hạn chế, còn tùy tiện trong hoạt động sản xuất kinh doanh...nên chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại, công nghiệp. Chính vì vậy, sau khi thu hồi đất, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng nhận lại những lao động trong vùng giải tỏa làm công nhân của doanh nghịệp. Tuy nhiên do trình độ thấp không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp nên một bộ phận công nhân thường bị loại thải hoặc tự rút lui không dám tham gia. Chính vì vậy, đào tạo nghề cho bà con nông dân là một việc không thể thiếu. Để việc đào tạo nghề thực sự hữu hiệu cần rà soát lại hệ thống các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp, xem xét nhu cầu về lao động của họ để đào tạo, ngoài ra, cần làm tốt công tác tư vấn để người lao động có thể chọn nghề phù hợp với khả năng và sức khoẻ của họ. Địa phương cần thực hiện nghiêm túc các quyết định, thông tư, chỉ thị về dạy nghề cho nông dân như - Quyết định số 81/2005/QĐ - TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. - Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT- BTC- BLĐTBXH ngày 19/01/2006 của liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. Đối tượng áp dụng: Là lao động nông thôn trong độ tuổi lao động chưa qua học nghề, có nhu cầu học nghề, có nhu cầu học nghề, đủ điều kiện xét tuyển vào các khoá học nghề ngắn hạn và được lựa chọn theo thứ tự ưu tiên sau: 1. Lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất canh tác do đô thị hoá… có nhu cầu học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp; 2. Lao động thuộc đối tượng hưởng chính sách ưu đãi người có công theo quy định của pháp luật; 3. Lao động thuộc các dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 4. Lao động nữ chưa có việc làm; 5. Lao động thuộc các làng nghề nằm trong dự án khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống mà dự án không có khoản kinh phí riêng cho dạy nghề; 6. Lao động thuộc vùng chuyên canh có nhu cầu chuyển đổi nghề; 7. Lao động nông thôn khác có nhu cầu học nghề. Việc dạy nghề được tiến hành với những lao động trong độ tuổi theo như quy định, tuy nhiên, một điều rất đáng chú ý là trong nông thôn, một bộ phận đáng kể người nông dân tuy không còn trong độ tuổi lao động nhưng vẫn có những đóng góp khá quan trọng tạo ra một lượng sản phẩm khá dồi dào và họ tự nuôi sống bản thân mà chưa cần dựa vào con cái. Để đào tạo nghề cho nông dân, cần chú ý quy hoạch đào tạo nghề, phát triển hệ thống các trường dạy nghề theo đóng yêu cầu của cơ sở, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Trong đào tạo cần gắn với nhu cầu lao động do vậy phải tạo được sự liên kết giữa các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển lao động với cơ sở day nghề trong đó nhà nước đóng vai trò trung gian, là cầu nối. Giải pháp 4: Tăng cường các hoạt động hỗ trợ để khuyến khích người lao động tìm kiếm việc làm và phát triển sản xuất Trong điều kiện hiện nay, nếu người nông dân không được sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ rất khó khăn, vì vậy bất cứ sự trợ giúp nào cũng sẽ là tác động quan trọng giúp người nông dân nhanh chóng ổn định cuộc sống sau thu hồi đất. Trước hết, đó là sự trợ giúp về vốn: nhìn chung, hiện nay hầu hết các hộ gia đình đều có khó khăn về vốn, đặc biệt, sau thu hồi đất, việc thay đổi phương hướng sản xuất càng làm cho yêu cầu về vốn cao hơn trước. Nhà nước cần có chính sách cho vay thiết thực hơn với các hộ có nhu cầu vay vốn và tạo điều kiện cho các hộ có khả năng chi trả sau khi vay. Ưu tiên cho vay từ các nguồn vốn khác nhau với lãi suất ưu đãi với các hộ thuộc diện di dời hay các hộ có diện tích đất bị thu hồi nhiều. Cần thường xuyên kiểm soát việc sử dụng tiền vốn của họ và hướng dẫn họ sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nâng cao vai trò của các quỹ tín dụng, quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ quốc gia về giải quyết việc làm để hỗ trợ cho các hộ gia đình, các cơ sở bị thu hồi đất vẫn có thể tiếp tục sản xuất. Ngoài ra, khi có sự ưu đãi của Nhà nước về tín dụng, các doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn với các hộ nông dân mất đất thông qua việc trợ giúp đào tạo nghề tại chỗ hoặc nhận lại doanh nghiệp để làm việc. Hiện nay, nhà nước có cấp kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề cho các hộ mất đất. Tuy nhiên, mức hỗ trợ này quá thấp không đủ để học nghề, dù là nghề đơn giản. Do vậy, Nhà nước cũng như các cơ quan hữu quan cần nâng mức trợ cấp học nghề và không nhất thiết phải chi trả trực tiếp cho từng hộ mà chi trả bằng cách chuyển trả các cơ sở đào tạo nghề. Mỗi lao động mất đất được cấp 1 thẻ hỗ trợ học nghề. Nghề học nào thì sẽ có mức phí tương ứng, nếu các học viên đi học thì được cấp thẻ có các thông tin cá nhân, thẻ đó không có giá trị chuyển nhượng hay cho, biếu. Như vậy, sẽ không có hiện tượng không đi học nhưng vẫn lĩnh trợ cấp học nghề. Ngoài ra, các tổ chức đoàn thể cũng có thể có những hỗ trợ khác trợ giúp cho bà con nông dân thông qua các hoạt động phong trào giúp nhau làm kinh tế. Nhiều địa phương, các tổ chức phụ nữ quyên góp giúp nhau để lần lượt từng hộ nghèo thoát nghèo, xây được nhà mới và sắm sửa đồ dùng trong gia đình. Các địa phương cũng cần làm tốt vai trò như những trung gian tìm kiếm thông tin về việc làm để cung cấp cho những người có nhu cầu tìm việc làm. Ngoài ra, cần làm tốt công tác thông tin tuyên truyền để người lao động biết lượng sức mình để chọn những ngành phù hợp để tham gia đào tạo. Có một thực tế rất nóng hiện nay, đó là nhu cầu tìm người giúp việc trong gia đình. Khi yêu cầu chuyên môn hóa càng cao, sự bình đẳng giới càng được coi trọng thì công việc trong gia đình càng trở nên khó giải quyết. Nhu cầu có người giúp việc để trông nom con cái, cha mẹ già là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, một bộ phận khá lớn người lao động không chấp nhận làm việc này trong nước nhưng sẵn sàng đi ra nước ngoài để làm người giúp việc. Điều đó là do nhận thức chưa đúng về công việc này, họ coi đấy như một sự xỉ nhục nên không sẵn sàng tham gia. Chúng ta cần có cái nhìn đúng về vấn đề này, cần tuyên truyền để những người lao động thấy không có sự phân biệt đối xử, không phân biệt công việc, miễn là những công việc đó tạo ra thu nhập chính đáng. Nếu chúng ta làm tốt công tác tư tưởng trong dân thì không những bản thân họ có được công việc làm với thu nhập ổn định mà những người có con nhỏ, cha mẹ già cũng bớt lo lắng và yên tâm làm việc. Mức thu nhập của người giúp việc hiện nay dao động trong khoảng 800.000 đồng đến 1 triệu đồng một tháng không kể mọi khoản ăn uống, chi phí cho sinh hoạt tại nhà chủ, có nơi còn được may quần áo mới mỗi năm 2 bộ, với những công việc nặng nhọc như trông người ốm thì mức thù lao lên tới 1,5 triệu 1 tháng. Thực tế trên thị trường hiện nay cũng có những trung tâm giới thiệu việc làm nhưng các trung tâm đó thực chất chỉ là trung tâm môi giới nên người có nhu cầu tìm người cũng không tin cậy. Một mặt người được giới thiệu đến làm ngoài giấy chứng minh ra thì mọi thông tin là do tự khai, không có cơ sở đảm bảo, mặt khác họ không được đào tạo nên hầu như không biết việc, do đó cầu vẫn rất cao, cung cũng khá dồi dào nhưng cung cầu vẫn không gặp nhau. Chúng ta nên cho phép mở rộng mô hình đào tạo người giúp việc gia đình. Lớp học này sẽ dạy cho các học viên về sử dụng các trang thiết bị trong gia đình, học cách chăm sóc người già và trẻ em, học cách nấu ăn, giặt là quần áo...tất cả mọi việc với những trang thiết bị hiện có. Tổ chức này sẽ cung cấp cho thị trường những người có nhu cầu đi bế em hoặc chăm sóc người già đã được đào tạo qua trường lớp. Theo sơ bộ ước tính, trong nội thành thành phố Hà Nội, bình quân có khoảng 85% số hộ có nhu cầu tìm kiếm người giúp việc. Đây chính là thị trường “xuất khẩu” lao động rất thuận lợi. Giải pháp 5: Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, tăng cơ hội việc làm ngoài nước cho người lao động. Đây được coi là một trong những biện pháp tạo việc làm hiệu quả và thiết thực được nhắc tới rất nhiều trong những năm gần đây. Các cơ quan chức năng cần có sự liên kết với nhau trong tổ chức, sao cho những người bị thu hồi đất sẽ được ưu tiên đi trước, số còn lại mới dành cho các đối tượng khác. Tuy nhiên, để việc xuất khẩu lao động được thuận lợi, người lao động cũng cần phải được đào tạo cả về tiếng và về ý thức tổ chức kỷ luật cũng như về kỹ thuật công nghệ. Có chính sách khuyến khích gián tiếp qua hỗ trợ người lao động để các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động trên địa bàn tuyển chọn lao động Hoài Đức như: chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động, hỗ trợ khám sức khoẻ, làm hộ chiếu cho lao động nghèo, chính sách thưởng khuyến khích đối với các doanh nghiệp dành hợp đồng và thị trường hợp đồng lao động phù hợp cho lao động Hoài Đức, chính sách thưởng cho các doanh nghiệp đưa được nhiều lao động Hoài Đức đi lao động ở nước ngoài. Để giúp người lao động về các khoản kinh phí đóng góp, tiền đặt cọc trước khi đi lao động ở nước ngoài, huyện cần trích một phần ngân sách trong nguồn thu từ đất, phối hợp với quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng chính sách cho người lao động vay với lãi xuất ưu đãi tạo điều kiện cho nhiều người có cơ hội đi xuất khẩu lao động. Nguồn này sau khi thu về lại tiếp tục quay vòng cho người lao động khác có nhu cầu vay tiếp theo. Thành lập ban chỉ đạo xuất khẩu lao động từ huyện đến xã, có lãnh đạo Đảng, chính quyền cùng các nghành đoàn thể tham gia làm nhiệm vụ hỗ trợ, tuyên truyền vận đông người lao động nắm được chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về vấn đề lao động việc làm, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, từ đó nâng cao nhận thức cho người dân. Tăng cường chức năng quản lý nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động hoạt động trên địa bàn, có biện pháp nhằm chấn chỉnh hoat động trái các quy định của nhà nước, hạn chế rủi ro cho lao động.. Giải pháp 6: Phát triển thông tin thị trường lao động, tổ chức hiệu quả sàn giao dịch việc làm vệ tinh - Tuyên truyền hướng dẫn truy cập wedsite việc làm của Thành phố Hà Nội tổ chức thu thập thông tin nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp thông báo thường xuyên tới các xã, thị trấn để người lao động biết đăng ký lựa chọn việc làm phù hợp. Cung cấp các thông tin về cơ hội đào tạo, các chương trình về giáo dục đào tạo, hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp đồng thời thông qua hệ thống này tuyên truyền nâng cao nhận thức cho các cấp các ngành và người lao động về vị trí, vai trò, nhu cầu đào tạo của xã hội trong từng giai đoạn - Phối hợp với Sở Lao động thương binh & xã hội Hà Nội xây dựng sàn giao dịch việc làm vệ tinh, thường xuyên tổ chức các phiên giao dịch định kỳ nhằm cung cấp mọi thông tin cung - cầu lao động trên thị trường lao động cho người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển, người lao động có nhu cầu tìm việc làm. - Hàng năm ngân sách huyện bố trí kinh phí tổ chức thu thập, cập nhật và xử lý thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động dưới nhiều hình thức: Gửi phiếu cho các doanh nghiệp, cập nhật các thông tin về cung, cầu trên thị trường để thông báo rộng rãi; nhà nước đứng vai trò trung gian là cầu nối giữa các doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề và người lao động, nâng cao hiệu quả giữa đào tạo và tuyển dụng. - Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm huyện theo hướng: tăng cường chức năng tư vấn giới thiệu việc làm, cung ứng lao động, thu thập, cung cấp và phân tích thông tin thị trường nhằm trợ giúp những người thất nghiệp thiếu việc làm. Xây dựng kế hoạch tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giới thiệu việc làm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tư vấn, giới thiệu việc làm của trung tâm. Giải pháp 7: Thành lập quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, dạy nghề cho người lao động - Nguồn hình thành quỹ trên cơ sở lấy trong kinh phí nguồn thu từ đất được để lại trong đền bù giải phóng mặt bằng, đóng góp của các chủ dự án, doanh nghiệp sử dụng đất, hỗ trợ của thành phố... - Đối tượng hỗ trợ là lao động sản xuất nông nghiệp đó bị thu hồi 30% diện tích đất nông nghiệp trở lên được giao theo nghị định 64cp của Chính phủ và các chính sách của nhà nước giao ruộng đất cho người nông dân. - Nội dung hỗ trợ: nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho người lao động đó hết tuổi lao động (nam trên 60 tuổi, nữ trên 55 tuổi); trợ cấp hàng tháng tương đương với mức hỗ trợ người nghèo của thành phố cho người già neo đơn không nơi nương tựa. Hỗ trợ học văn hóa cho học sinh chưa học hết THPT được miễn tiền học phí và các khoản đóng góp khác của Thành phố trong thời gian 3 năm. Hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động bằng thẻ học nghề, người lao động có thể vào học các trường nghề trên địa bàn thành phố sau khi có chứng chỉ, bằng tốt nghiệp, được thanh toán tiền học phí trong suốt thời gian học theo quy định của nhà trường nhưng tiền hỗ trợ cho mỗi thẻ không quá 6 triệu đồng. Thời gian quỹ hỗ trợ cho các đối tượng trên là 5 năm nhằm giúp cho người lao động sau khi bị thu hồi đất có thời gian ổn định cuộc sống. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận 5.1.1. Lao động là bộ phận dân số trong quy định thực tế tham gia lao động, đang có việc làm và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Số lượng lao động và chất lượng lao động là hai chỉ tiêu quan trọng để đánh giá nguồn lao động. Người có việc làm là người trong độ tuổi lao động, đang làm việc trong các cơ sở kinh tế, văn hóa - xã hội, không bị pháp luật ngăn cấm, mang lại thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Những người thất nghiệp là người có khả năng lao động, có nhu cầu tìm kiếm việc làm nhưng không có việc làm. 5.1.2. Công nghiệp hóa và đô thị hóa mở ra nhiều việc làm mới trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, hình thành các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị hiện đại. Phát triển công nghiệp, đô thị còn tăng thêm chỗ làm việc mới, thúc đẩy kinh tế, năng cao thu nhập và mức sống của người dân. Mở rộng khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm của người lao động. Việc phát triển các KCN, CNN và đô thị dẫn đến tình trạng hàng ngàn hộ nông dân bị thu hồi đất trên hầu hết các xã trong huyện. Tình trạng mất đất sản xuất nhất là đất nông nghiệp đã gây ra nhiều khó khăn trong việc ổn định nơi ăn chỗ ở, trong tìm kiếm việc làm ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động ở vùng thu hồi đất. Tìm kiếm việc làm hiện đang là vấn đề có tính chất thời sự ở tất các các huyện, quận trong thành phố thuộc vùng thu hồi đất. 5.1.3.Trong những năm qua, Đảng và Chính quyền các cấp đó thực hiện khá tốt các chính sách hỗ trợ cho người lao động trong vùng thu hồi đất như chính sách đền bù, hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ tìm kiếm và tư vấn việc làm, cho vay vốn phát triển sản xuất và tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, theo kết quả còn nhiều hạn chế. Phần lớn người dân đều cho rằng các chính sách này là tốt nhưng còn chưa kịp thời, mức độ hỗ trợ còn thấp nên hiệu quả chưa cao. Hoài Đức đã có cố gắng trong việc đào tạo nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người lao động bao gồm việc trong các cơ sở CN, KCN trên địa bàn tỉnh, các KCN, CCN có sử dụng đất thu hồi và tìm thị trường xuất khẩu lao động. Số lượng lao động nông thôn được đào tạo ngày càng cao. Tuy nhiên, số lao động mất đất chưa tìm kiếm được việc làm còn nhiều (6.315 người). Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu chuyên môn kỹ thuật, do tổ chức kỷ luật trong các doanh nghiệp cao kết hợp với những lý do khác. Đời sống của các hộ trước và sau mất đất có nhiều thay đổi. Một số ít hộ có việc làm và thu nhập ổn định nên có thu nhập cao hơn trước khi thu hồi đất. Số hộ khá giả tăng từ 2,5% lên 7,5%, số hộ có thu nhập đủ sống giảm từ 60,0% xuống còn 50%. Số hộ túng thiếu cũng tăng từ 37,5% lên 41,0%, đặc biệt là tỷ lệ số hộ rất túng thiếu tăng từ 0% lên 1,5%. 5.1.4. Một số giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động trong vùng thu hôi đất. Trong thời gian tới, để giải quyết tốt công tác giải quyết việc làm cho người lao động vùng thu hồi đất, huyện cần áp dụng một số biện pháp sau: -Hoàn thiện việc quy hoạch đất đai để công tác quản lý đi vào nề nếp, chặt chẽ, có kế hoạch và hiệu quả. Các dự án đi vào quy hoạch cần phải công khai và chỉ rõ thời gian, quy mô thu hồi đất để người dân chủ động trong chuyển đổi nghề tìm kiếm việc làm. -Trước tình hình diện tích đất sản xuất bị thu hẹp huyện cần chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nhằm phát huy lợi thế làng nghề và địa bàn ven đô tạo điều kiện thu hút nhiều lao động làm việc tại địa phương. Trong nông nghiệp cần tập trung sản xuất hàng hóa hướng tới các sản phẩm rau quả có chất lượng. -Tăng cường công tác đào tạo nghề cho nông dân, cần lưu ý tới đối tượng, độ tuổi, văn hóa của người lao động để bố trí ngành nghề cho phù hợp. Trong đào tạo nghề gắn với xu thế phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới để đáp ứng nhu cầu thị trường. -Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ sản xuất, để người lao dộng giải quyết được các khó khăn về vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đăng ký thương hiệu và mẫu mã sản phẩm, tạo sức cạnh tranh trên thị trường và có mặt hàng đủ điều kiện xuất khẩu. -Công tác xuất khẩu lao động cần được coi trọng; có chính sách hỗ trợ người lao động được đào tạo định hướng trước khi đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ vốn vay đối với những người có khó khăn; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động tiếp cận địa bàn. Tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động xuất khẩu lao động. -Làm tốt công tác thông tin thị trường lao động, nhằm cung cấp đầy đủ nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan doanh nghiệp và ngành nghề dào tạo của các trường dạy nghề, tăng thêm nhiều cơ hội cho người lao động tìm kiếm việc làm. -Xây dựng quỹ hỗ trợ đời sống, học tập, dạy nghề cho người lao động, từ đó giải quyết khó khăn trước mắt cho nông dân khi bị thu hồi đất chưa thích ứng với hoàn cảnh mới, có khó khăn trong chuyển đổi nghề nghiệp. . 5.2 Kiến nghị 5.2.1 Huyện Hoài Đức - Cần có sựTrên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - Xã hội trong dài hạn trên có sở đócần sớm có kế hoạch đầu tư phát triển các ngành sản xuất cụ thể. - Thực hiện tốt và đồng bộ các chính sách hỗ trợ đối với người lao động trong vùng thu hồi đất. - Khuyến khích các doanh nghiệp trong vùng thu hồi đất tuyển dụng lao động và có các chế tài đủ mạnh đối với các doanh nghiệp không thực hiện tốt các cam kết đó ký với lao động trước khi thu hối đất. 5.2.2 Người lao động - Chủ động nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng. - Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tăng cường đầu tư thâm canh tăng năng suất và hiệu quả. Thực hiện phân công lao động trong nội bộ hộ một cách hợp lý. - Sử dụng hợp lý các nguồn lực của hộ, bao gồm nguồn vốn đền bù và nguồn hỗ trợ của Nhà nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ giáo dục và Đào tạo (1995), Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Giáo dục, Hà Nội. Bộ Lao động và TBXH (2000), Báo cáo của chuyên gia về kết quả đi khảo sát về quản lý lao động tại Mỹ, Anh, Nhật Bản. Phạm Đức Chính (2005), Thị trường lao động, cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,Hà Nội Lê Dương (2005), Giải bài toán đào tạo nghề ở Hà Nam vẫn chưa ra. UBND huyên Hoài Đức, Đánh giá tình hình phát triển kinh tế xã hội huyện Hoài Đức trong 3 năm từ 2006 đến năm 2008. Lưu Bình Nhưỡng (2001), Luật lao động. NXB Công an nhân dân, Hà Nội Đào Thị Oanh (2003), Tâm lý học lao động. NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ Luật lao động và xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực lao động. Sở Lao động và TBXH (2008), Báo cáo kết quả công tác dạy nghề, giải quyết việc làm 2001- 2006, phương hướng nhiệm vụ thời gian tới. Sở Lao động và TBXH Hà Tây. Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2001), Giáo trình Kinh tế lao động, NXB Lao động -Xã hội, Hà Nội Đức Tùng (2005), Vĩnh Phúc có gần 48 ngàn lao động có đất bị chuyển đổi mục đích sử dụng. http:/www.molisa.gov.vn/tintuc/frmdocchitiet.asp? mbien1=01&mbien2=101&mbien3=3005. http:/www.molisa.gov.vn/tintuc/frmdocchitiet.asp? mbien1=01&mbien2=101&mbien3=3148. www.dothi.net; www.neu.edu.vn; ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHKT09049.doc
Tài liệu liên quan