Phần I
Lời nói đầu
******
Ngày nay, với sự tác động mạnh mẽ của cuộc các mạng khoa học kỹ thuật công nghệ, xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá , phân công lao động ngày càng phát triển sâu rộng trên phạm vi quốc tế . Bối cảnh đó đặt các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trước những thách thức cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Do vậy việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước là rất cấp thiết, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà cả thực tiến, từ đó phát
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đổi mới & phát triển Doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao khả năng hội nhập thị trường quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huy tối đa nội lực của nền kinh tế.
Trước bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn đan xen và phức tạp, để đáp ứng yêu cầu thực hiện thành công sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả , thiết nghĩ việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy lên một bước mới. Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “ Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Cơ chế phù hợp để kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước đối với doanh nghiệp”.
Vì vậy, để tìm ra hướng đi mới cho các doanh nghiệp nhà nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong quá trình hội nhập, em quyết định chọn đề tài:
Một số giải pháp đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao khả năng hội nhập thị trường quốc tế của Việt Nam.
Phần iI
Nội dung chính
Chương I: Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
I .Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Khái niệm:
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu các DNNN hoạt động kinh doanh vì hiện đang có rất nhiều vấn đề tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của các DNNN hoạt động kinh doanh trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Vậy để phù hợp với phạm vi và mục đích của bài viết ta thống nhất lại khái niệm về DNNN như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
Vai trò chủ đạo, chủ lực của DNNN:
2.1. Vai trò chủ đạo, chủ lực của xí nghiệp quốc doanh trong cơ chế cũ.
Từ năm 1955 miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát
triển kinh tế. Ngay ở giai đoạn đầu của công cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế ( 1955- 1960 ). Nhà nước ta đã rất coi trọng việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới mà nòng cốt là kinh tế quốc doanh ( nay là kinh tế nhà nước ). ở giai đoạn này, cùng với quá trình thu hẹp các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa là quá trình hình thành các xí nghiệp quốc doanh bằng nhiều con đường, như tiếp tục mở rộng và phát triển các cơ sở sản xuất ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nhà nước xây dựng một loạt các xí nghiệp. nhà máy mới, quốc hữu hoá hoặc cải tạo và biến các cơ sở kinh doanh của các nhà tư sản thành các xí nghiệp quốc doanh hoặc xí nghiệp công tư hợp doanh. Với chủ trương đó, xí nghiệp quốc doanh đã đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong công cuộc khôi phục và cải tạo kinh tế trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, xã hội. Đến cuối thời kỳ cải tạo và khôi phục kinh tế, xí nghiệp quốc doanh đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Từ đây, vai trò chủ đạo của xí nghiệp quốc doanh luôn được thể hiện một cách xuyên suốt trong mọi chủ trương, đường lối phát triển kinh tế cũng như trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội nước ta.
Theo chủ trương xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong giai đoạn thi hành cơ chế kế hoạch hoá tập trung (1960- 1985 ), kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm vị trí độc tôn. Trong cơ chế kinh tế đó, xét trên giác độ quan hệ sản xuất, xí nghiệp quốc doanh dựa trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất được coi là hình thức sở hữu tiến bộ đóng vai trò gương mẫu, đầu tàu trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; xí nghiệp quốc doanh vừa là tấm gương, vừa hướng dẫn kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới. Chính quá trình hình thành các khu công nghiệp mới trong thời kỳ này ( gắn liền với quá trình phát triển kinh tế quốc doanh như ở Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, ... đã góp phần hình thành bước đầu các trung tâm kinh tế vùng, làm hạt nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế của từng vùng. Sự hình thành và phát triển các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương ở khắp các tỉnh miền Bắc trong thời kỳ này vừa nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế phân tán, phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh của nước ta lúc đó lại vừa tạo ra cơ sở kinh tế để giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội đặt ra, như tạo ra bước đầu cơ sở hạ tấng để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng nông thôn miền núi; các xí nghiệp quốc doanh ở đây đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế tập thể cùng phát triển. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh được biểu hiện cụ thể trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp: công nghiệp nặng đóng vai trò là xương sống của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trang bị máy móc, thiết bị cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân; công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến đảm bảo các nhu cầu về hàng công nghiệp cho các công nhân viên chức và nhân dân lao động.
Mặc dù đến đầu thập kỷ 80 nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, thực sự là một nền kinh tế thiếu hụt và thực chất cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã được chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá phi tập trung, song mọi sự cải tiến, hoàn thiện khi đó hầu như nhằm vào mục tiêu cố gắng thổi cho kinh tế quốc doanh một luồng sinh khí mới, kinh tế quốc doanh vẫn chiếm vị trí độc tôn. Tuy nhiên, ở thời kỳ này đã bắt đầu xuất hiện các hình thức kinh tế ngoài quốc doanh như kinh tế hộ gia đình,...
Như vậy trong cơ chế kinh tế cũ, xí nghiệp quốc doanh thực sự giữ vai trò chủ đạo, vai trò đòn bẩy, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Kinh tế quốc doanh có vai trò mở đường, hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế tập thể cùng phát triển. Xét trên giác độ xã hội, kinh tế quốc doanh đóng góp sức mình vào việc giải quyết các vấn đề xã hội ở từng vùng, từng địa phương: cơ sở hạ tầng, công ăn việc làm...
2.2. Vai trò của xí nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế kinh tế mới.
Từ năm 1985, cơ chế kế hoạch hoá tập trung dần dần được thay thế bởi cơ chế kinh tế mới với đặc trưng cơ bản là không coi nền kinh tế quốc dân chỉ bao gồm hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong cơ chế kinh tế mới đó, một mặt, tiếp tục đổi mới quản lý đối với các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã trong tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,... và lĩnh vực lưu thông, mặt khác kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển trong giai đoạn 1988-1990, đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân có tốc độ tăng rất cao. Cùng với quá trình đổi mới đó kinh tế quốc doanh không còn giữ vị trí độc tôn.
Giai đoạn phát triển này là giai đoạn từ chủ trương đến thực tiễn, phát triển kinh tế đều nhất quán ở chỗ phát triển một kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1991, DNNN trở thành một bộ phận quan trọng trong cơ chế kinh tế mới. Mặc dù ở giai đoạn này tỷ trọng của kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng có giảm, song cho đến nay DNNN vẫn giữ vị trí chủ đạo vì nó nắm giữ những lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, kinh tế nhà nước, DNNN đã đóng góp thiết thực giải quyết nhiều vấn đề kinh tế – xã hội bức bách của thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý như: tiền tệ hoá tiền lương trong khu vực sản xuất kinh doanh, chuyển từ cơ chế kinh doanh vật tư hai giá sang cơ chế một giá và thương mại hoá vật tư, kiềm chế lạm phát, ổn định tài chính tiền tệ, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo đà tăng trưởng khá trong những năm đầu của thập kỷ 90.
II. Sự cần thiết phải phát huy vai trò đạo, chủ lực của DNNN.
Xuất phát từ đòi hỏi bức bách của cơ chế thị trường.
Bắt đầu từ giữa thập kỷ 80 cơ chế kinh tế mới đã được hình thành ở nước ta. Đặc trưng cơ bản của cơ chế mới là xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử hình thành kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta trong suốt thời kỳ đầu của giai đoạn này theo đấy các cơ sở kinh tế này được lập ra từ chính nguồn vốn lâu nay nằm phân tán trong các tầng lớp dân cư. Từ đó tới nay, nền kinh tế nhiều thành phần mới được phát triển ở nước ta ( khoảng hơn 10 năm trở lại đây ), việc phát triển kinh tế chủ yếu được tiến hành theo chiều rộng, tích luỹ chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như tĩch luỹ riêng của từng doanh nghiệp dân doanh còn rất nhỏ bé.
Trước hết, chúng ta xem xét mâu thuẫn giữa cơ chế kinh tế mới theo xu hướng hội nhập với Khu vực và Thế giới và quy mô quá nhỏ bé của các doanh nghiệp đã được hình thành ở nước ta. Các doanh nghiệp dân doanh với quy mô nhỏ và rất nhỏ đương nhiên không thể có vốn để đầu tư nhà xưởng, công nghệ cũng như trang thiết bị hiện đại, và đương nhiên cũng không thể có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng mở rộng đầu tư. Nếu so sánh số vốn bình quân của một doanh nghiệp dân doanh với giá trị một chiếc xe ôtô con ( 200 triệu đồng tương đương với giá trị một chiếc xe con rẻ tiền, còn 650 triệu đồng tương đương với giá trị một chiếc ôtô con loại khá ) mới thấy khả năng về vốn của doanh nghiệp dân doanh của nước ta quá eo hẹp. Quy mô nhỏ của doanh nghiệp nước ta thể hiện ở ngay cả với hệ thống các doanh nghiệp nhà nước:... Các Tổng công ty đã thu hút 2000 doanh nghiệp nhà nước, chiếm 1/3 số DNNN với số vốn là 60.000 tỷ đồng, bằng 95% tổng số vốn của doanh nghiệp trung ương và bằng 74% tổng số vốn của toàn bộ DNNN. Như thế, khoảng 4000 DNNN còn lại của nền kinh tế quốc dân cũng chỉ có tổng số vốn bằng 26% tổng số vốn của DNNN – các DNNN này cũng chỉ là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Trong khi cơ chế kinh tế mới- cơ chế kinh tế mở, nước ta phải từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới của nước ta đòi hỏi bức bách vai trò chủ đạo, làm hạt nhân dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh của các DNNN.
Thứ hai, cơ chế kinh tế mới theo hướng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi chúng ta phải đổi mới cơ cấu kinh tế, vì cơ cấu kinh tế cũ dựa trên cơ sở “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng...” đã không còn thích hợp. Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý về cơ cấu kinh tế ngành và tính hợp lý về cơ cấu kinh tế vùng ở các giai đoạn phát triển của đất nước. Yêu cầu xây dựng một cơ cấu kinh tế mới, hợp lý trong phạm vi nền kinh tế quốc dân lại mâu thuẫn với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của từng thành viên kinh tế. Nói cách khác không
phải lúc nào lợi ích của từng thành viên kinh tế ( tối đa hoá lợi nhuận ) cũng phù hợp với lợi ích của toàn xã hội ( lợi ích xã hội đạt tối đa ). Trong bối cảnh đó, chỉ có Nhà nước sử dụng các doanh nghiệp do mình lập ra ( DNNN ) mới có thể điều hoà được sự bất cập trong cơ chế kinh tế theo phương châm ở ngành nào, vùng nào có nhu cầu mở rộng năng lực sản xuất mà doanh nghiệp dân doanh không làm thì DNNN phải làm. Có như thế mới có thể nói đến việc hình tành một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, cơ chế kinh tế mới ở nước ta đòi hỏi phải quản lý nền kinh tế nói chung và các hoạt động kinh tế nói riêng bằng pháp luật. Đây là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản, vì trong nhiều năm qua chúng ta ít chú ý đến vấn đề này, ý thức chấp hành pháp luật của mỗi chủ thể kinh doanh còn quá thấp. Vấn đề càng phức tạp hơn khi số lượng các chủ thể kinh doanh quá nhiều, khi mà các doanh nhân đủ loại: có nhiều người đã được đào tạo, am hiểu pháp luật và kiến thức quản trị kinh doanh, và cũng có rất nhiều người tham ra vào quá trình kinh doanh song còn thiếu cả ý thức và kiến thức cần thiết. Trong tình hình đó, các DNNN trở thành lực lượng gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật nói chung và luật kinh doanh nói riêng. Thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp, hướng dẫn các vệ tinh của mình cùng thực hiện luật pháp là một đòi hỏi tất yếu của cơ chế kinh tế mới đối với các DNNN ở nước ta.
Đương nhiên, khi các doanh nghiệp dân doanh lớn mạnh đến một mức nào đó, khi ý thức kinh doanh theo pháp luật cũng như việc thực hiện pháp luật của các doanh nghiệp dân doanh ngày càng cao thì vai trò của DNNN trong lĩnh vực này cũng thay đổi theo.
DNNN đóng vai trò là công cụ thực hiện chức năng điều tiết.
Với đặc trưng của kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các đơn vị kinh doanh hoạt động theo cơ chế thị trường, Nhà nước đóng vai trò điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về nguyên tắc, trong cơ chế kinh tế đó mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể kinh tế, trực tiếp đối mặt với thị trường để quyết định các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Điều này tất yếu dẫn đến kết cục là ở đâu, khi nào, đối với mặt hàng nào có thể đem lại lợi nhuận cao thì ở đó, khi đó các doanh nghiệp có khả năng sẽ đổ xô vào sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó và ngược lại, nếu ở đâu, khi nào và đối với mặt hàng nào không có lãi hoặc lỗ vốn thì ở đó, khi đó sẽ có nhiều doanh nghiệp có khả năng rút khỏi thị trường sản xuất và kinh doanh mặt hàng đó. Do sự hạn chế của mỗi doang nghiệp về việc thu thập cũng như xử lý các thông tin cần thiết về thị trường để quyết định có tham gia hay rút khỏi một
thị trường kinh doanh nào đó, tất sẽ dẫn đến nguy cơ có thể phát sinh mâu thuẫn giữa cung và cầu ở mọi lúc mọi nơi và đối với mọi m,ặt hàng. Để chống lại nguy cơ đó, Nhà nước phải thực hiện chức năng điều tiết bằng nhiều công cụ khác nhau, trong đó DNNN được coi là một công cụ.
Đóng vai trò là công cụ điều tiết thứ nhất, các DNNN ở nước ta được hình htành ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và sự tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó không cố định, luôn được nhà nước thực hiện theo phương châm: ở đây, khi nào nền kinh tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ sức kinh doanh hoặc từ chối thì ở đó và khi đó cần sự có mặt của DNNN. Đến lúc nào đó, khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó, nhường cho các doanh nghiệp dân doanh. Quá trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân hình thành vai trò của DNNN.
Thứ hai, chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh tế trong phạm vi từng vùng. ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận, nên dẫn đến mất cân đối trong sản xuất kinh doanh vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết kinh tế vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn.
Như vậy chức năng điều tiết nền kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng DNNN như một công cụ cần thiết nhằm đảm bảo cho nền kinh tế luôn hoạt động thông suốt, đảm bảo lợi ích xã hội có thể đạt được tối đa trong cơ chế kinh tế thị trường. Tính hiệu quả lại đòi hỏi Nhà nước chỉ sử dụng DNNN như công cụ điều tiết ở những nơi, vào những thời điểm cần thiết. Điều này có nghĩa là không có quan niệm cố định về việc sử dụng DNNN với tư cách là một công cụ điều tiết nền kinh tế mà đòi hỏi các DNNN khi ra đời, tồn tại, mở rộng, thu hẹp một cách hết sức linh hoạt tuỳ theo sự biến động của kinh doanh nói chung và của kinh doanh trong lĩnh vực dân doanh nói riêng.
Xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhận thức rõ các ưu điểm và hạn chế của kinh tế thị trường, chủ trương của Đảng ta là không phủ nhận mà thừa nhận kinh tế thị trường, song không phải
là chủ trương xây dựng kinh tế thị trường đơn thuần mà là kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải xây dựng một lực lượng kinh tế nào đó đóng vai trò chủ đạo, làm tâm điểm ảnh hưởng đến các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực lượng kinh tế khác cùng phát triển.
Chúng ta đều biết, hiện nay trong nền kinh tế quốc dân nước ta đang tồn tại các đơn vị kinh tế quốc doanh và dân doanh dưới các hình thức pháp lý là DNNN, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã. Nếu xét trên phương diện kinh tế, lực lượng kinh tế mạnh nhất, đang chiếm giữ những lĩnh vực then chốt và nắm trong tay lượng vốn lớn nhất, công nghệ thiết bị hiện đại nhất, lực lượng lao động tinh nhuệ nhất hiện nay là các DNNN. Nếu xét trên phương diện xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở công bằng, dân chủ và văn minh thì cũng chỉ DNNN đảm đương được vai trò chủ đạo, bởi vì:
Thứ nhất, như trên đã phân tích, do các doanh nghiệp dân doanh còn rất nhỏ bé chưa quen và chưa có ý thức chấp hành pháp luật nên trong các hình thức pháp lý của doanh nghiệp đang tồn tại hiện nay, DNNN là lực lượng gương mẫu, đầu tàu trong việc thực hiện pháp luật của Nhà nước, là tấm gương để các thành phần kinh tế khác hoc tập.
Thứ hai, để thực hiện xoá bỏ từng bước sự cách biệt giữa miền núi và miền xuôi, có những vùng rất cần phát triển một số hoạt động kinh doanh nâng cao đời sống kinh tế xã hội ở vùng đó, song do mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp dân doanh không hoặc rất ít chú ý đến lợi ích toàn xã hội nên họ không sẵn sàng kinh doanh ở những vùng đó. Trường hợp này cũng chỉ có thể đòi hỏi được DNNN làm được việc đó.
Thứ ba, xuất phát từ nhiệm vụ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hạn chế và tiến tới xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo, cũng như sự vi phạm tính công bằng xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng các cộng cụ nhất định, một trong các công cụ đó chính là DNNN. Chính DNNN là lực lượng đóng vai trò hạt nhân trong quá trình xây dựng một trật tự xã hội mới công bằng, dân chủ và văn minh.
Để thực hiện vai trò hạt nhân, trước hết, nôi bộ DNNN phải xây dựng và hoàn thiện môi trường văn hoá lành mạnh theo các mục tiêu hướng đích cuả công ty, xây dựng tinh thần hợp tác giúp nhau trưởng thành toàn diện. Mặt khác, trong doanh nghiệp phải tạo hình mẫu phân phối công bằng, hợp lý các kết quả sản xuất kinh doanh nhằm động viên khuyến khích mọi người lao động gắn bó, nhiệt
tình và quyết tâm vì doanh nghiệp. Cuối cùng, doanh nghiệp phải là nơi đào tạo và rèn luyện người lao động mới: có kỷ luật, có kỹ thuật và có năng suất cao góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN, đồng thời thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH theo đường lối của Đảng.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên cơ sở phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế.
Như đã trình bày ở phần trên, theo chủ trương nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần sẽ huy động và phát huy được tiềm năng và sức mạnh của mọi thành phần kinh tế vào quá trình xây dựng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, không một nước nào lại xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước mình chỉ dựa trên các đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân- đều là các đơn vị kinh tế có quy mô nhỏ bé. Trong khi đó, thực trạng nền kinh tế nước ta cho thấy quy mô của các doanh nghiệp dân doanh hầu như đều rất nhỏ, mặt khác trong thời gian phát triển ngắn, các doanh nghiệp dân doanh ở nước ta cũng chưa đủ sức tích luỹ để trở thành các doanh nghiệp có quy mô đủ lớn có thể làm nòng cốt cho sự phát triển của đất nước. Trong điều kiện, đó chỉ có các DNNN mới có đủ điều kiện mở rộng quy mô, trở hành lực lượng nòng cốt, có đủ sức cạnh tranh trong khu vực, tạo cơ sở, chỗ dựa để dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng phát triển. Việc phát triển các DNNN có quy mô đủ lớn cũng là một đòi hỏi cấp bách của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Điều cốt lõi trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay ở nước ta là: xác định được một cơ cấu loại hình doanh nghiệp hợp lý, sao cho loại hình nào cũng có vị trí, vai trò xứng đáng, cũng phát huy được lợi thế và khai thác được khả năng để đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Theo đó, các DNNN phải tích lũy vốn phát triển trong các lĩnh vực then chốt, quan trọng, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Cần từng bước hình thành các Tổng công ty Nhà nước, các tập đoàn kinh doanh mạnh, tạo xương sống cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, gắn với các vùng nguyên liệu nhỏ lẻ, khai thác thế mạnh ở từng địa phương, làm địch vụ vệ tinh cho các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm và cho các DNNN quy mô lớn. Mặt khác, phát triển và củng cố các DNNN trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, các lĩnh vực tạo sản phẩm phục vụ sự phát triển của xã hội, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường và trong các lĩnh vực mà các loại hình doanh nghiệp khác không được phép làm. Nguyên tắc cơ bản để phát triển các loại hình doanh nghiệp là dựa vào tiêu chuẩn hiệu quả. Bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào mà pháp luật không cấm, nếu các doanh nghiệp dân doanh làm có hiệu quả thì nên khuyến khích phát triển. Theo cách này sẽ nâng cao hiệu quả tạo ra cơ cấu
doanh nghiệp hợp lý.
III. Vai trò chủ đạo, chủ lực của DNNN trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò mở cửa cho mọi thành phần kinh tế khác.
- Trong cơ chế thị trường, để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận các doanh nghiệp dân doanh chỉ tập trung kinh doanh ở những ngành, những vùng có hệ số sinh lời cao và hệ số rủi ro thấp; các doanh nghiệp này luôn né tránh đầu tư vào một số ngành có hệ số sinh lời thấp và hệ số rủi ro cao, cũng như các ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Đó trước hết là các vùng sâu, vùng xa của đất nước. Trong tình hình đó đòi hỏi trước hết DNNN phải có mặt ở các ngành, các vùng có mức sinh lời thấp, độ rủi ro cao và đòi hỏi vốn đầu tư lớn để giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành và các vùng của nền kinh tế quốc dân. Sự có mặt của DNNN để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa sẽ là hạt nhân tạo các điều kiện tiền đề cho các loại hình doanh nghiệp khác ra đời và phát triển. ở các vùng sâu, vùng xa DNNN cần phải đảm nhận chức năng mở đường cho các doanh nghiệp khác phát triển.
Ngoài các vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng các vùng của nước ta hiện nay nói chung còn ở trìng độ rất thấp kém. Với cơ sở hạ tầng như hiện nay chúng ta chưa có đủ các điều kiện để các doanh nghiệp dân doanh sẵn sàng đầu tư phát triển kinh tế. Trong khi đó, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất lớn, thu hồi vốn chậm, độ rủi ro cao nên không phải là đối tượng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh. Đương nhiên, DNNN cũng phải có mặt trong lĩnh vực đầu tư này. Sự có mặt của DNNN trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản đóng vai trò tạo ra các điều kiện tiền đề cần thiết để các doanh nghiệp khác có thể hoạt động.
- Vai trò chủ đạo, chủ lực của DNNN ở nước ta còn thể hiện ở sự gương mẫu thực hiện pháp luật. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế đó, để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh phát triển bình thường, Nhà nước phải ban hành hệ thống pháp luật cần thiết, trong đó có pháp luật kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện các hoạt động kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. Nhà nước đóng vai trò trọng tài, tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh đối với các hoạt độgn kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay do một số rất lớn doanh nghiệp dân doanh có quy mô nhỏ và rất nhỏ, khi thành lập doanh nghiệp chủ doanh nghiệp không chỉ có rất ít kiến thức pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng, mà nhiều người trong số đó thậm chí thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Một thực tế hiển nhiên hiện nay là nhiều doanh nhân nhận thức sai lầm
rằng có thể thu được nhiều lợi nhuận bất chấp pháp luật.
Xét trên giác độ tài chính có thể thấy rằng Nhà nước không giám sát được tình hình tài chính của các doanh nghiệp, Nhà nước thất thu, thậm chí ngân sách thất thu nặng, hiện tượng khoán thuế, “ đàm phán về mức thuế ”, “ làm luật “, trốn lậu thuế, gian lận thương mại xảy ra phổ biến, không tạo ra được một luật chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp và doanh nhân. Trong bối cảnh đó chỉ có DNNN mới có thể và cần phải là lực lượng tiên phong trong việc kinh doanh theo pháp luật. Kinh doanh theo pháp luật của các DNNN sẽ là tấm gương cho các doanh nghiệp khác noi theo.
- Vai trò của DNNN ở nước ta hiện nay còn có thể xem xét ở góc độ đóng góp vào ngân sách nhà nước. Trong suốt quá trình phát triển nền kinh tê nước ta từ trước đến nay, DNNN đã, đang và sẽ là lực lượng tạo ra nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta hiện nay, DNNN còn đóng góp đáng kể vào việc tạo ra các hình thức mới trong nền kinh tế quốc dân. Đó là phần lớn các đối tác trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là DNNN, DNNN đi đầu trong các lĩnh vực công nghệ cao ( điện, điện tử, bưu chính viễn thông...), đi đầu trong việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các khu công nghệ cao, các ngành mũi nhọn, then chốt. DNNN cũng đảm nhiệm phần xây dựng cơ sở hạ tầng và xã hội, tạo đà cho phát triển kinh tế lâu dài. Mặt khác, DNNN đang tích cực và đi đầu trong phát triển kinh tế xã hội miền núi, vùng dân tộc ít người và có nhiều khó khăn... góp phần khắc phục chênh lệch về trình độ phát triển, tạo công bằng xã hội.
Trước hết đó là sự phát triển đa dạng hoá các loại quy mô kinh doanh mà chủ yếu tập trung vào phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh với quy mô vừa và lớn. Mặc dù cho đến nay còn tồn tại rất nhiều các niệm khác nhau về quy mô song có thể nói rằng, với trình độ phát triển kinh tế hiện nay của nước ta không thể không tính đến việc phải phát triển loại hình sản xuất kinh doanh với quy mô lớn ở một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế quốc dân bởi rất nhiều lẽ: thứ nhất, trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, chúng ta sẽ không thể tính đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta nếu không xây dựng các doanh nghiệp ở một quy mô nhất định nào đó, vì chỉ có các doanh nghiệp đó mới có thể có tiềm lực kỹ thuật và sử dụng lợi thế về quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại có thể tham gia vào quá trình cạnh tranh kinh tế khu vực và thế giới. Thứ hai, trong khi chủ yếu các doanh nghiệp nước ta vẫn đang ở trình độ thủ công, lạc hậu, hiệu quả kinh tế thấp thì đòi hỏi của nền kinh tế hiện đại là phải phát triển kỹ thuật và ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại vào sản xuất. Nếu thiếu một số doanh nghiệp làm hạt nhân có quy mô lớn thì không thể nói
đến nâng cao trình độ kỹ thuật của mọi doanh nghiệp đang hoạt động. Thứ ba, trong điều kiện trình độ quản lý và ý thức pháp luật hiện thời, không thể không tính đến việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp ở một quy mô tối thiểu nào đó vì như thế sẽ giảm bớt được số đầu mối càn phải quản lý. Như vậy có thể nói nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi phải duy trì một số doanh nghiệp có quy mô lớn ở một số lĩnh vực nhất định, chỉ có các DNNN mới có đủ tiềm lực để đáp ứng đòi hỏi này. Bên cạnh đó, DNNN còn phát triển ở rất nhiều các quy mô khác nhau và đặc biệt là ở quy mô vừa.
Kinh tế tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Vai trò tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển được thể hiện chủ yếu qua các hướng sau đây:
Thứ nhất, thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Để tạo đà cho mọi doanh nghiệp cùng góp phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế, DNNN phải giữ vị trí then chốt trong một số ngành cũng như một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các ngành, các lĩnh vực tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc trước hết vào tiềm năng kinh tế của đất nước cũng như quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế. Chính vì vậy, để DNNN luôn luôn đóng vai trò tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế, vấn đề hết sức quan trọng đặt ra là phải xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế theo hướng hội nhập, trong đó xác định chính xác các ngành, các lĩnh vực then chốt trong từng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nươc. Khi vai trò tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế đã thay đổi, Nhà nước cần chuyển dịch vốn đầu tư sang ngành mới.
Thứ hai, DNNN đóng vai trò thúc đẩy, chuyển giao và phát triển công nghệ kỹ thuật hiện đại. Các ngành thuộc lĩnh vực này có liên quan với các ngành đóng vai trò tạo đà, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cần chú ý rằng trong nhiều lĩnh vực việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại không phải và không thể phát huy ngay được tác dụng trong một thời gian ngắn và cũng xảy ra nhiều trường hợp trong đó việc chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại vào ngành này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật và tăng trưởng ở các ngành khác có liên quan.
Thứ ba, vai trò giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Môi trường và bảo vệ môi trường đang là vấn đề thời sự nóng hổi không phải chỉ đối với nước ta mà đối với toàn thế giới và cũng không phải chỉ ngày một ngày hai mà là cả một sự nghiệp lâu dài. DNNN cũng phải thể hiện vai trò chủ đạo của mình trong việc giải quyết vấn đề này. Trước hết, việc nhập khẩu._. công nghệ kỹ thuật phải đảm bảo giảm thiểu ô nhiễm môi trường. DNNN phải và chỉ được phép cung cấp cho các doanh
nghiệp dân doanh công nghệ kỹ thuật đảm bảo chống ô nhiễm môi trường. DNNN phải là lực lượng đi đầu trong việc chấp hành luật bảo vệ môi trường.
Tạo điều kiện các mối quan hệ hợp tác và giúp đỡ các doanh nghiệp khác.
Như đã phân tích ở trên, nền kinh tế nước ta đến nay bao gồm chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ, vốn đầu tư thấp, kỹ thuật thủ công, lạc hậu. Đặc điểm này dẫn đến kết quả là cho đến nay phần lớn các doanh nghiệp nước ta không đủ khẳ năng sản xuất một sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh với kỹ thuật cao; thông thường mỗi doanh nghiệp dân doanh chỉ đủ sức làm vệ tinh, gia công hàng cho một DNNN nào đó. Hệ thống các DNNN ở nước ta từ trước tới nay luôn đóng vai trò làm hạt nhân trong một nhóm sản phẩm nào đó. Cho đến nay, mặc dù cơ cấu kinh tế có nhiều thay đổi, song vai trò tạo điều kiện hình thành các nhóm sản phẩm, hiệp hội, thực hiện các mối liên kết dọc, ngang trong nền kinh tế vẫn thuộc về các DNNN. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay càng đòi hỏi các doanh nghiệp nước ta phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất. Yêu cầu sẽ không thể giải quyết được nếu DNNN có quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại không đảm đương vai trò là lực lượng nòng cốt, đảm nhiệm các khâu công việc đòi hỏi kỹ thuật cao trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm, tạo ra xung quanh mình các vệ tinh sản xuất hoặc theo xu hướng liên kết dọc hoặc theo xu hướng liên kết ngang. Các doanh nghiệp dân doanh trở thành một mắt, khâu nào đó trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm. Trong mối liên hệ liên kết dọc, ngang này DNNN không chỉ đảm nhiệm những khâu, những công việc đòi hỏi kỹ thuật cao mà còn có trách nhiệm hướng dẫn các doanh nghiệp thành viên của mình từng bước nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ.
Trong các mối liên doanh, liên kết kinh tế, DNNN có đủ sức thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài hình thành các doanh nghiệp liên doanh. Cho đến nay, chủ yếu các doanh nghiệp liên doanh ở nước ta được thực hiện giữa một hoặc các bên Việt Nam là DNNN và một hoặc các bên nước ngoài. Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài hình thành doanh nghiệp liên doanh, DNNN đã đóng vai trò làm cầu nối hình thành doanh nghiệp tư bản nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn đang thiếu vốn và kỹ thuật trầm trọng như hiện nay, việc hình thành các doanh nghiệp tư bản nhà nước được coi là một trong các điều kiện quan trọng để tạo vốn và kỹ thuật ban đầu cần thiết cho sự phát triển kinh tế cũng như để phát huy nội lực, lôi kéo ngoại lực. Vai trò này của DNNN đòi hỏi phải xác định đúng đắn các lĩnh vực, ngành cần có sự liên doanh, liên kết nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển tại các vùng kinh tế cụ thể của đất nước.
Bên cạnh đó, DNNN còn đóng vai trò tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp nhỏ của các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, vốn ít, kỹ thuật thủ công, lạc hậu, trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý còn rất hạn chế cho nên sự giúp đỡ của DNNN đối với các doanh nghiệp nhỏ là cần thiết. Sự giúp đỡ của các DNNN đối với các doanh nghiệp nhỏ được thực hiện trước hết thông qua các mối quan hệ kinh tế giữa DNNN và doanh nghiệp nhỏ.
Chương II: Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở việt nam hiện nay
I. Kết quả bước đầu của DNNN.
1. Các kết quả chủ yếu của quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện 3 đợt sắp xếp lớn các DNNN: 1990 – 1993; 1994-1997 và từ giữa năm 1998 tới nay. Và đã đạt được đạt được những kết qủa đáng khích lệ:
a) Nội dung của quá trình sắp xếp, đổi mới các DNNN (chủ yếu là đợt 3):
Một là, đổi mới cơ chế, chính sách: DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực sự hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường; đổi mới cả về kế hoạch, về tài chính, về tổ chức bộ máy, cán bộ và đổi mới quản lý nhà nước theo hướng xoá bỏ chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính nhà nước đối với DNNN.
Hai là, sát nhập, giải thể, cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Cơ cấu DNNN bước đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nghệ cao và có sức cạnh tranh.
Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các Tổng công ty nhà nước (TCTNN) nhằm tập trung nguồn lực của nhà nước vào các ngành then chốt mà nhà nước cần chi phối... Thời gian qua đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập 17 Tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý 77 Tổng công ty 90. Các TCTNN có 1534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 27,5% tổng số doanh nghiệp cả nước, 61% về lao động (riêng 17 tổng công ty 91 có 491 doanh nghiệp tành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8% số lượng DNNN, 35% lao động). Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước điểu tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu tư, đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đến ngày 15/8/2000 cả nước cổ phần hoá được 369 bộ phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỉ đồng (tăng 12% so với trước khi cổ phần), bằng 1,6% tổng số vốn nhà nước trong các DNNN. Nhìn chung, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng công nhân viên trong các doanh nghiệp cổ phần hoá đều tăng so với trước. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ trương để một số DNNN đầu tư một phần vốn lập công ty cổ phần mới. Đến ngày 15/8/2000, DNNN đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với tổng số vốn nhà nước là 868,8 tỉ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy: 267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn.
Năm là, thực hiện giao khoán, bán và khoán kinh doanh, cho thuê những DNNN có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản nhà nước, bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VIII), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/1999/NĐ-CP về giao bán, cho thuê và đã thực hiện được27 DNNN có vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này đều trở thành công ty cổ phần và có kết quả sản xuất kinh doanh khá lên rõ rệt. Thực tế cho thấy, việc thực hiện giao, bán, khoán cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục được tình trạng giải thể, phá sản doanh nghiệp, bán phát mại tài sản của nhà nước; khắc phục được tình trạng người lao động mất việc làm, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được phát huy, xoá được bao cấp, bù lỗ của Nhà nước, tăng khả năng huy động nguồn vôn trong dân.
b) Một số kết quả quan trọng của quá trình sắp xếp và đổi mới và phát triển DNNN:
Các DNNN đã được tổ chức sắp xếp lại theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20-11-1991 cổ phần hoá một số DNNN và thành lập các Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91. Đến tháng 5- 2001, tổng số có 502 DNNN đã được cổ phần hoá, trong đó có 349 doanh nghiệp đã bán trên 65% cổ phần cho các cổ đông ngoài Nhà nước. Số doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá tăng liên tục trong 3 năm qua. Kết quả đó được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: số dnnn hoàn thành cổ phần hoá (CPH) đến tháng 5- 2001
1998
1999
2000
5tháng2001
Tổng
Số doanh nghiệp có quy định CPH
126
247
206
63
642
Bán dưới 51% cổ phần
13
19
46
7
85
Bán 51%- 65% cổ phần
12
15
37
4
68
Bán trên 65% cổ phần
27
117
142
63
349
Số doanh nghiệp hoàn thành CPH
52
151
225
74
502
Nguồn: Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương
Đó là tiến bộ quan trọng trong việc cơ cấu lại và tổ chức lại DNNN theo hướng tập trung vào những ngành, lĩnh vực và vùng quan trọng; tăng quy mô và thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Vấn đề liên doanh liên kết giữa DNNN với các thành phần kinh tế trong nước, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài nộp ngân sách nhà nước từ 20- 24%, tạo ra việc làm cho khoảng 1,7 triệu lao động
Công nghệ, phương tiện, phương pháp sản xuất kinh doanh và quản lý một số doanh nghiệp nhà nước ngày càng hiện đại hơn, quy mô lớn hơn.
Tốc độ tăng trưởng chung của DNNN nhanh hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tỷ trọng GDP và tích luỹ của DNNN cao nhất trong các thành phần kinh tế và đang chi phối sự phát triển của các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước ta xác định.
Số lượng DNNN hoạt động có hiệu quả nhiều hơn, hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Các DNNN gương mẫu đi đầu trong việc nộp thuế và tích luỹ đầu tư. Nhờ đó DNNN đã nộp ngân sách, trả lãi suất vay ngân hàng chiếm tỷ trọng cao nhất so với các thành phần kinh tế khác.
Tất cả các tiến bộ quan trọng trên của DNNN có thể minh hoạ bằng những số liệu sau: Trong 15 năm qua, số lượng DNNN đã giảm từ 12.300 (trước năm 1990) còn 5.571 doanh nghiệp (giảm 54,7%) vào năm 2000. Cơ cấu DNNN đã được điều chỉnh hợp lý hơn, quá trình tích tụ, tập trung vốn đã có bước cải tiến đáng kể. Nếu năm 1994 số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 50% thì đến năm 2000 số đó chỉ còn 25%. Số DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng tăng tương ứng là 10% lên 20%. Vốn bình quân của tất cả các DNNN tăng 7lần, từ 3,3 tỷ đồng (năm 1994) lên 22 tỷ đồng (năm 2000). Phần đóng góp của DNNN chiếm gần 40% tổng nộp ngân sách và trên 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ nộp ngân sách trên một đồng vốn tăng từ 14,7% (năm 1991) lên 28% (năm 2000). Tỷ trọng đóng góp của DNNN trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng tương ứng từ 6,8% (năm 1993) lên 12% (năm 2000). Từ năm 1995 đến nay, hàng năm DNNN đóng góp từ 26- 28% nguồn thu thuế nội địa. Nếu tính tất cả các khoản thu thuế và phí (thuế xuất nhập khẩu, phí sử dụng tài nguyên...) được thu thông qua DNNN, thì đóng góp khoảng 60% các nguồn thu thuế và phí của ngân sách nhà nước. DNNN cũng đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp.
Những năm đổi mới do có những chủ trương, chính sách, cơ chế đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, với nỗ lực của mình DNNN đã tồn tại và phát triển trong cơ chế mới, được xã hội thừa nhận. Nhờ đó, DNNN đạt tỷ trọng lớn nhất trong GDP, tăng tích luỹ và sản phẩm, dịch vụ chủ yếu trong nền kinh tế, có tác động quyết định đến xu thế phát triển kinh tế xã hội, góp phần quan trọng trong việc giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội của doanh nghiệp, của ngành, của địa phương và toàn xã hội. Có thể nói, DNNN đã có những tiến bộ về chất trong hoạt động đó là: về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế tổ chức sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh trên giao; vai trò tự chủ trong kinh doanh và tự chủ tài chính được xác lập và mở rộng, doang nghiệp được giao vốn, tự chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; chức năng quản lý sản xuất của Nhà nước được xác định ngày càng rõ và hoàn thiện; Nhà nước từng bước quản lý doanh nghiệp bằng pháp luật, nên môi trường và hành lang pháp lý được xác định rõ ràng hơn.
Những tiến bộ quan trọng cả về số lượng và chất lượng nói trên của DNNN đang làm cho kinh tế nàh nước bước đầu phát huy vai trò chủ đạo trên một số mặt cụ thể: hệ thống kinh tế nhà nước với các thể chế thống nhất đang làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá. Trong nhiều năm DNNN là đối tác chủ yếu thực hiện liên doanh với nước ngoài, giải quyết ngày càng tốt hơn nhiều vấn đề xã hội, như bảo đảm công ăn việc làm, góp phần xoá đói, giảm nghèo, chính sách bảo hiểm, công bằng xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục, v.v... Sự đổi mới của kinh tế nhà nước đang mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ và hợp tác để phát triển kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ. Kinh tế nhà nước đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trường. Kinh tế nhà nước chủ động trong xây dựng con người mới, thể hiện ở việc thu hút ngày càng nhiều đội ngũ lao động có trình độ ngày càng cao từ đó tạo điêù kiện phát huy vai trò của giai cấp công nhân, thực hiện liên minh công-nông- trí thức đảm bảo tăng trưởng ổn định xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
2. Nguyên nhân của những kết quả bước đầu đã đạt được.
Nguyên nhân đạt được những kết quả bước đầu của DNNN bao gồm nhiều mặt, nhưng có thể tóm tắt những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Quan điểm và chủ trương đổi mới đúng đắn của Đảng về đổi mới kinh tế nhà nước, DNNN, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn nên nhanh chóng đi vào cuộc sống. Quan điểm và chủ trương đúng đắn xuyên suốt trong toàn bộ đường lối đổi mới kinh tế nhà nước trong 16 năm qua được thể hiện trong các Văn kiện và Nghị quyết của Đảng từ Đại hội VI, VII, VIII, IX. Đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX đã khẳng
định: “Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có Nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững chắc”.
- Những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế nhà nước, DNNN ngày càng hoàn thiện. Nhà nước đã thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, DNNN thành các văn bản pháp quy như: Quyết định 217/HĐBT ngày 14-11-1987 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách đổi mới cơ chế hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh; Nghị định 50/HĐBT ngày 22-3-1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh; Quyết định 322/HĐBT ngày 23-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh đối với các DNNN; Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Luật DNNN năm 1995; Nghị định 59/CP ngày 3-10-1996 của Chính phủ ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN; Luật thương mại năm 1997; Chỉ thị 20/1998/CT-TTg ngày 21-4-1998 về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN; Nghị định 103/1999/NĐ-CP ngày 10-9-1999 của Chính phủ giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN; chính sách mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế. Những văn bản pháp quy đó là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý vĩ mô đối với DNNN và là môi trờng pháp lý cho phép DNNN phát huy quyền chủ động của mình trong đổi mới và phát triển sản xuất kinh doanh.
- Tính năng động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, công nhân viên trong một số DNNN được nâng cao hơn. nhờ các chủ trương đúng đắn về đổi mới DNNN trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội hủ nghĩa nên nhiều cán bộ, công nhân viên đã tích cực, chủ động vượt qua khó khăn, hưởgn ứng chấp hành chính sách, chế độ của Nhà nước, thực hiện các biện pháp để chuyển sang hạch toán kinh doanh theo chế độ mới, như chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, thay đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, tinh giản biên chế theo Quyết định số 176/HĐBT, đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ, đánh giá và lựa đội ngũ cán bộ có trình độ và năng động hơn trong kinh doanh.
- Sự hợp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu của DNNN được phát triển cả về quy mô và hiệu quả. Thực hiện chủ trương hợp tác đa phương, đa hình thức, chúng ta đã tranh thủ được bằng mọi cách, mọi hình thức sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế, các chủ doanh nghiệp nước ngoài cho các thành phần kinh tế, mà chủ yếu trước hết được thực hiện trong việc tạo lập thị
trương tiêu thụ, đổi mới công nghệ, phương tiện, phương pháp trong sản xuất
kinh doanh và quản lý; thu hút nguồn vốn của nước ngoài thông qua các hình thức đầu tư liên doanh và hợp tác kinh doanh...
II. Những tồn tại, yếu kém của DNNN hiện nay.
Những tồn tại, yếu kém của DNNN.
Trong việc phát huy vai trò chủ đạo của DNNN còn có những mặt tồn tại. Chưa thực sự làm đòn bẩy để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bền vững ổn định; chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản về mặt xã hội đang đặt ra; vai trò mở đường, hướng dẫn, giúp đỡ các thành phần kinh tế khác và vai trò đối tác chính của DNNN trong liên doanh còn yếu chưa tạo đầy đủ vật chất để đảm bảo vững chắc những cân đối lớn của nền kinh tế và để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tình trạng tham ô lãng phí, tham nhũng trong DNNN còn gia tăng... Đặc biệt khả năng cạnh tranh thấp của các DNNN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trên thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế.
Những tồn tại trên chưa khắc phục được vì chính bản thân DNNN còn có những yếu kém sau đây:
Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của một bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại 40% số doanh nghiệp kinh doanh chưa có hiệu quả, khi lỗ khi lãi. Không ít doanh nghiệp xây dựng dự án, kế hoạch không phù hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít doanh nghiệp chưa tốt, còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn. Những mặt hạn chế trên của các DNNN được thể hiện rất rõ qua tình hình hoạt động kinh doanh của các Tổng công ty nhà nước (Tổng công ty 90, 91). Tính đến tháng 2 năm 2000, cả nước có 17 Tổng công ty 91 và 76 Tổng công ty 90. Trong đó có những lĩnh vực chỉ có 1 Tổng công ty 91 như Bưu chính viễn thông, Dầu khí và Hàng không. Các Tổng công ty nhà nước có 1392 doanh nghiệp thành viên, bằng 24% tổng số doanh nghiệp cả nước, nắm giữ 66% về vốn, 55% về lao động. Trong đó, riêng 17 Tổng công ty 91 có 532 doanh nghiệp thành viên, bằng hơn 10% số DNNN, nắm giữ 56% tổng số vốn kinh doanh và 35% lao động. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của các DNNN, đặc biệt là các công ty 90, 91 còn kém hiệu quả, không đồng đều. Những yếu kém đó được thể hiện qua bảng kết quả kinh doanh của các Tổng công ty 91 dưới đây:
Kết quả kinh doanh của các Tổng công ty 91
(giai đoạn 1996-1999; triệu đồng)
A. Doanh thu:
Tổng công ty
1996
1997
1998
1999
Hàng hải Việt Nam
2. Thép Việt Nam
3. Điện lực Việt Nam
4. CN tàu thuỷ Việt Nam
5. Giấy Việt Nam
6. Cao su Việt Nam
7. Cà phê Việt Nam
8. Than Việt Nam
9. Lương thực miền Nam
10. Xi măng Việt Nam
11. Dầu khí Việt Nam
12. Lương thực miền Bắc
13.Hàng không Việt Nam
14. Thuốc lá Việt Nam
15. Hoá chất Việt Nam
16. Dệt- May Việt Nam
17. Bưu chính viễn thông
Tổng cộng
1.724.210
5.160.120
10.077.899
445.844
1.281.912
2.060.487
1.149.514
3.658.226
9.316.147
6.340.957
3.470.000
1.787.414
5.439.367
4.162.562
3.938.839
4.961.850
7.168.006
72.143.354
2.042.738
5.498.802
12.439.459
454.649
1.644.844
1.857.083
1.700.000
4.254.795
10.727.317
6.499.200
4.423.000
1.643.953
6.067.021
5.030.156
4.545.038
5.360.402
8.272.200
82.460.657
2.386.650
5.786.000
14.868.140
655.090
2.205.477
1.862.487
1.950.000
4.558.177
12.820.938
6.576.761
19.817.000
2.565.594
6.346.000
5.951.083
5.128.125
5.916.926
10.803.600
110.197.988
2.305.784
5.520.000
13.815.000
765.000
2.304.000
1.947.980
1.800.000
4.015.000
12.543.000
5.818.609
30.676.000
3.573.000
6.797.000
5.730.000
5.200.000
6.583.000
13.067.000
122.460.373
Nguồn: Ban Đổi mới và quản lý doanh nghiệp trung ương; trong: Kinh tế xã hội (Trung tâm thông tin, Bộ kế hoạch và đầu tư); Số 30 (663), ngày 11-08-2000, tr.26-27.
B. Lãi trước thuế
Tổng công ty
1996
1997
1998
1999
1. Hàng hải Việt Nam
2. Thép Việt Nam
3. Điện lực Việt Nam
4. CN tàu thuỷ Việt Nam
5. Giấy Việt Nam
6. Cao su Việt Nam
7. Cà phê Việt Nam
8. Than Việt Nam
9. Lương thực miền Nam
10. Xi măng Việt Nam
11. Dầu khí Việt Nam
12. Lương thực miền Bắc
13.Hàng không Việt Nam
14. Thuốc lá Việt Nam
15. Hoá chất Việt Nam
16. Dệt- May Việt Nam
17. Bưu chính viễn thông
Tổng cộng
155.425
-
2.598.551
5.947
33.970
627.759
41.675
107.450
179.606
640.390
2.679.000
31.989
323.830
174.250
167.823
10.766
1.872.987
9.651.318
157.342
-
2.009.575
5.811
56.600
281.247
45.760
137.418
164.391
495.590
2.218.000
37.824
62.483
119.191
160.000
66.996
2.198.744
8.279.972
201.520
27.000
1.690.115
9.178
77.012
87.067
55.000
40.160
298.311
575.114
3.129.000
40.198
-
128.107
201.680
48.419
3.273.000
9.880.881
135.136
49.000
1.950.000
3.981
43.000
143.000
-
8.000
76.000
580.000
5.587.000
80.000
339.000
85.000
130.000
80.000
2.900.000
12.189.117
Nguồn: Ban Đổi mới và quản lý doanh nghiệp trung ương; trong: Kinh tế xã hội (Trung tâm thông tin, Bộ kế hoạch và đầu tư); Số 30 (663), ngày 11-08-2000, tr.26-27.
Qua hai bảng trên ta thấy doanh thu cũng như lãi trước thuế giữa các Tổng công ty 91 là không đồng đều, kinh doanh kém hiệu quả so với năm trước, điển hình là năm1999: số Tổng công ty có doanh thu giảm so với năm 1998 là 8 công ty (chiếm 47,06%), có lãi trước thuế giảm so với năm 1998 là 6 công ty (chiếm35,29%). Trong đó có những Tổng công ty tuy doanh thu có tăng nhưng
lãi trước thuế lại giảm như: Tổng công ty Thép Việt Nam, Điện lực Việt Nam, Bưu chính viễn thông...
Theo số liệu thông kế của Ban Đổi mới và quản lý doanh nghiệp trung ương năm 2001 thì năm 2000 các Tổng công ty 90, 91 nói chung và các Tổng công ty 91 nói riêng đã tăng số Tổng công ty có lãi trước thuế cao hơn so với năm 1999. Tuy nhiên, kết quả đó chưa khắc phục được nhiều những yếu kém của các Tổng công ty
Thứ hai, đầu tư đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, thì trừ một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của Thế giới và Khu vực (sản xuất thiết bị đo điện, lắp ráp điện tử, sản xuất sợi dệt...) còn lại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các DNNN của ta còn lạc hậu so với thế giới và khu vực từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi); trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng... có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đường thô cao hơn 70% - 80%. Tính đến nay trong số 237 doanh nghiệp cả nước được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng ISO/9000 thì mới có 132 (55,6%) là DNNN.
Thứ ba, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nước có 5 571 doanh nghiệp với tổng số vốn khoảng 116 000 tỉ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỉ đồng; số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỉ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN chưa tập trung vào những ngành và lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN nhất thiết phải chi phối. Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu vực DNNN với nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng. Sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với doanh nghiệp nhà nước thuộc các thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành nền nếp.
Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong một thị trường còn chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối.
Thứ tư, lao động thiếu việc làm và dôi dư có xu hướng ngày càng tăng là khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh- Xã hội, hiện nay, số lao động không có việc làm thường xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp lên tới 40%.
Thứ năm, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường; nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trước cơ chế thị trường. Do vậy liên doanh với các chủ đầu tư nước ngoài bị thua thiệt lớn, thậm chí mất vốn. Tuy DNNN liên doanh với nước ngoài có tác dụng thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào Việt Nam, nhưng mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu không thực hiện được, vốn của DNNN bị lỗ, tỷ trọng giảm, vì các chủ đầu tư nâng giá đâu vào của thiết bị và vật tư (C1 và C2) lên có loại đầu vào tăng đến 1,5 thậm chí 2 lần. Bằng cách đó nhà đầu tư tăng thu nhập riêng cho họ và không ai kiểm soát được, về thực chất, chủ đầu tư đã lấy vào lợi nhuận thông qua hình thức tăng chi phí đầu vào mà phía Việt Nam không kiểm soát được... Nhìn bề ngoài là lỗ nhưng thực chất là lãi, lãi này chủ đầu tư thu được. Đó là hậu của việc thiếu cơ chế quản lý, kiểm tra, kiểm soát, nhất là về mặt hạch toán và tài chính. Đây là sự thiếu cơ chế bảo đảm chủ quyền của Việt Nam trong liên doanh với nước ngoài.
Thứ sáu, mặt hàng đơn điệu, cơ hàng hoá không hợp lý, năng suất chất lượng hàng hoá thấp, số doanh nghiệp vi phạm pháp luật tăng. Điều đó thể hiện ở chỗ năng suất, chất lượng hàng hoá, hiệu quả còn thấp, giá thành cao nên khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực thấp, sản lượng và giá xuất khẩu không cao. Số giám đốc vi phạm pháp luật, chính sách, chế độ qui định của Nhà nước tăng lên, có vụ nghiêm trọng như vụ TAMEXCO, dệt Nam Định... Việc quy định về tính giá trị tài sản, vấn đề công khai tài chính, giao vốn và bảo toàn vốn, tính giá thành, hạch toán còn có mặt chưa hợp lý, còn sơ hở nên dẫn đến tình trạng báo cáo “lỗ giả, lãi giả”, làm cho việc tính toán và đánh giá hiệu quả chưa chính xác. Chính vì kinh doanh hiệu quả thấp nên sức cạnh tranh của DNNN và khả năng tự tái đầu tư yếu.
Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ.
- Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình DNNN hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho
đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng và phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển vốn thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc
nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích luỹ vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động. Chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp), tiền thu sử dụng vốn...
- Về đầu tư, việc phân cấp, giao quyền quyết định đầu tư cho doanh nghiệp chưa rõ ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phương án đầu tư không hiệu quả và chưa có cơ chế kiểm soát đầu tư.
- Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý của Nhà nước đối với DNNN; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và chủ động kinh doanh của doanh nghiệp; còn quá nhiều văn bản pháp qui chồng chéo, thiếu khả thi; cơ chế phá sản doanh nghiệp còn chưa được thực hiện theo luật phá sản doanh nghiệp, bởi cả ba chủ thể đều không tự nguyện đề nghị phá sản (ngân hàng sợ mất vốn; đại diện công nhân viên chức sợ không giải quyết được chế độ đối với công nhân; lãnh đạo doanh nghiệp sợ mất quyền lợi và sợ truy cứu trách nhiệm). Đối với Tổng công ty, mô hình quản lý còn nhiều mặt chưa phù hợp như việc qui định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị và của Tổng giám đốc chưa rõ ràng; mối quan hệ của nhiều thành viên đối với các đơn vị thành viên vẫn là hành chính, chưa dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi; quan hệ giữa các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học.
- Tổ chức, quản lý cán bộ và lao động chưa có chính sách phù hợp. Đối với Tổng công ty nhà nước, cơ chế quyết định nhân sự hiện hành chưa phát huy được trách nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của Tổng giám đốc. Tổng giám đốc không có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên, giám đốc có quyền tuyển dụng lao động không hạn chế, nhưng không có quyền sa thải; Tổng giám đốc, Giám đốc, Hội đồng quản trị không được chủ động bô trí bộ máy doanh nghiệp.
Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém của DNNN hiện nay.
Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém của DNNN trong những năm đổi mới được phân tích cụ thể trên các mặt sau:
2.1. Những mặt yếu và khó khăn của DNNN hiện có so với doanh ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0141.doc