Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đói nghèo và Việc làm là một trong những vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn cầu. Giải quyết đói nghèo và việc làm ngày nay không còn là công việc riêng của từng quốc gia, mà trở thành một trong những chính sách được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn thế giới. Việt Nam là một trong số những nước có tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ lao động thiếu việc làm khá cao nên giải quyết vấn đề đói nghèo và việc làm ở

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta càng trở nên bức bách, là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Một trong những chính sách mang tính đột phá, đóng vai trò động lực quan trọng là hình thành định chế tài chính của Nhà nước, thực hiện giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) nhằm thống nhất các nguồn lực tài chính, thiết lập một cơ chế hổ trợ, góp phần thực hiện mục tiêu của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội.Tuy nhiên,có cơ chế chính sách nhưng tổ chức hoạt động để đưa chính sách đến đúng đối tượng cũng không kém phần quan trọng. Việc (NHCSXH) ra đời, trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách ra từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đáp ứng được yêu cầu tổ chức lại hoạt động phục vụ đối tượng chính sách, nhưng đòi hỏi phải xây dựng một cơ chế hoạt động phù hợp để Ngân hàng này có đủ năng lực thực hiện được các mục tiêu chính sách xã hội. Quảng Nam là một trong số những tỉnh nghèo,có tỷ lệ hộ đói nghèo cao hơn rất nhiều so với bình quân chung cả nước. Theo tiêu chí mới cả nước có tỷ lệ là 22% hộ đói nghèo thì Quảng Nam tỷ lệ là 30,2%, nhu cầu nguồn lực để đầu tư, phát triển, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn đang là mối quan tâm hàng đầu của các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh. Từ thực tiễn tổ chức thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn tỉnh trong những năm qua, đồng thời là người trực tiếp tham gia quản lý NHCSXH tác giả chọn đề tài: “Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ- chuyên ngành quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Liên quan đến đề tài đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố như: Hà Thị Hạnh, "Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội", Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2003. Võ Văn Lâm, "Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 1999. Võ Văn Lâm, "Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường", Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2003. Nguyễn Thị Liễu, "Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2006. Huỳnh Ngọc Thành, "Một số phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo Đà Nẵng", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Hà Nội, 2000. Các công trình trên đã tiếp cận và giải quyết nhiều nội dung về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động, chất lượng tín dụng của NHCSXH, và hoạt động tín dụng trên địa bàn Quảng Nam.Tuy nhiên trên địa bàn Quảng Nam và đối với chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về đề tài này. Để thực hiện đề tài, tác giả có kế thừa những ý tưởng về cơ sở lý luận và một số nội dung liên quan để phục vụ cho quá trình khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp của đề tài. Tác giả cũng xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu kết quả nêu trong đề tài này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Góp phần làm rõ cơ sở lý luận, khảo sát phân tích thực trạng, đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu luận giải những căn cứ về sự ra đời và hoạt động của NHCSXH, những vấn đề chung của chính sách tín dụng ưu đãi và quan điểm của Nhà nước ta về chính sách tín dụng ưu đãi. - Đánh giá thực trạng hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam qua 3 năm triển khai đi vào hoạt động và 6 năm hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo (tiền thân của NHCSXH). Qua đó rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất và kiến nghị các giải pháp để đổi mới hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi: Trong khuôn khổ luận văn Thạc sỹ đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức quản lý của NHCSXH tỉnh Quảng Nam thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi trong 9 năm hoạt động kể từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam, từ năm 1997 đến nay (6 năm Ngân hàng phục vụ người nghèo và 3 năm NHCSXH) về cơ cấu nguồn vốn cho vay cũng như thực trạng về chất lượng các chương trình tín dụng đang cho vay như cho vay hộ nghèo, cho vay giải quyết việc làm, cho vay xuất khẩu lao động, cho vay học sinh sinh viên, cho vay trồng rừng... 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tổ thống kê, phân tích hoạt động kinh tế và xử lý hệ thống. 6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng các chính sách phát triển kinh tế xã hội (nhất là các chính sách xã hội, chính sách tín dụng) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội 1.1 Ngân hàng chính sách xã hội trong hệ thống ngân hàng Nhà nước 1.1.1 Hệ thống Ngân hàng ở nước ta hiện nay ở nước ta hiện nay, hệ thống Ngân hàng gồm có Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác. * Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng nhà nước) là cơ quan của Chính Phủ và là Ngân hàng Trung ương của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. - Hoạt động của Ngân hàng nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Ngân hàng nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước; có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội. * Các tổ chức tín dụng Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gởi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Tổ chức tín dụng hợp tác là tổ chức kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Luật hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tổ chức tín dụng hợp tác gồm ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng và các hình thức khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gởi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. 1.1.2 Ngân hàng Chính sách xã hội * Khái niệm về Ngân hàng chính sách ã hội Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ tồn tại những ngành hàng, những khu vực, đối tượng khách hàng có sức cạnh tranh kém, không đủ các điều kiện để tiếp cận với dịch vụ tín dụng của các ngân hàng thương mại như các ngành hàng mang tính lợi ích công cộng, những khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện thời tiết khắc nghiệt, chi phí đầu tư cao, rủi ro lớn, do đó các Ngân hàng thương mại (NHTM) rất ít đầu tư vào khu vực này, mặt khác nhiều hộ dân, tổ chức kinh tế ở vùng này thiếu vốn nhưng không đủ các điều kiện để vay vốn các Ngân hàng thương mại. Tuỳ điều kiện và quan điểm của mỗi quốc gia, Chính phủ sẽ thiết lập các kênh tín dụng hoặc các ngân hàng chuyên biệt để thực hiện chính sách cho vay các nhóm đối tượng này. Như vậy, các khoản tín dụng chính sách là các khoản cho vay chỉ định để hổ trợ các chính sách kinh tế và ngành công nghiệp của Chính phủ. Đây là việc cho vay phi thương mại đối với các hoạt động bán tài chính mà không đáp ứng các tiêu chí thương mại nhưng lại có tác động xã hội và chính trị quan trọng trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Các Ngân hàng được thiết lập để chuyên thực hiện tín dụng chính sách của Chính phủ được gọi là loại hình Ngân hàng Chính sách. Ngân hàng Chính sách có 2 loại: - Ngân hàng Chính sách phục vụ các chính sách phát triển còn gọi là Ngân hàng phát triển - Ngân hàng Chính sách phục vụ các chính sách xã hội còn gọi là Ngân hàng Chính sách xã hội. Đối với nước ta Nhà nước thành lập các Ngân hàng Chính sách xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác; phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính phủ quy định chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạnvay vốn. 1.1.3. Quá trình hình thành Ngân hàng Chính sách xã hội ở nước ta 1.1.3.1. Giai đoạn hình thành Ngân hàng phục vụ người nghèo Đầu thập niên 1990 thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế chỉ có 2 thành phần: Quốc doanh và tập thể đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế đều bình đẳng tự chủ trong sản xuất kinh doanh cùng tiến đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kết quả giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã khởi sắc, từng bước kiềm chế được lạm phát, mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Đời sống kinh tế, văn hoá và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên theo quy luật phát triển không đồng đều trong xã hội, một số doanh nghiệp và bộ phận dân cư có vốn, có tri thức, nhạy bén với cơ chế thị trường đã nhanh chóng trở nên giàu có, họ là những doanh nghiệp và cá nhân tiên phong của thời đại các thành phần kinh tế đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó còn một bộ phận doanh nghiệp và dân cư do thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu vốn sinh sống ở các vùng khó khăn không hoà nhập kịp với cơ chế thị trường đã trở nên nghèo khó. Sự phân cực trải đều làm cho phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo ngày càng tăng trong xã hội. Cùng hoà nhập với tiến trình đổi mới của nền kinh tế, lĩnh vực tài chính Ngân hàng cũng bước sang một trang sử mới, từng bước xoá bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng, các Ngân hàng tự chủ về vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính, nguồn vốn tín dụng chủ yếu “đi vay để cho vay”. Trong hoạt động tín dụng, để bảo tồn nguồn vốn hoạt động của mình các Ngân hàng thực hiện cho vay có tài sản thế chấp, được lựa chọn khách hàng, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) còn mở rộng cho vay sản suất trong nông nghiệp nông thôn. Mâu thuẩn mới nảy sinh, một bộ phận dân nghèo không có tài sản thế chấp, không vay được vốn Ngân hàng. Để duy trì sản xuất nhiều hộ phải đi vay nặng lãi, bán lúa non, số khác cầm cố ruộng đất…làm cho người nghèo càng nghèo thêm. Trước thực trạng trên, theo sáng kiến của NHNo & PTNT Việt Nam và được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng ý, tháng 4 năm 1995, Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo đã được thiết lập với tổng số tiền ban đầu là 432 tỷ đồng, trên cơ sở góp vốn từ 3 Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 100 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 200 tỷ đồng, NHNo & PTNT Việt Nam 132 tỷ đồng. Quỹ được sử dụng để cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất theo cơ chế hộ nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản, lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất của Ngân hàng Thương Mại và giao cho NHNo & PTNT quản lý. Từ kinh nghiệm thực tiễn về quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo NHNo & PTNT đã đề xuất và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình với Chính phủ về sự cần thiết phải có một tổ chức tín dụng của Nhà nước cùng với hệ thống chính sách phù hợp để hỗ trợ tài chính đối với các hộ nghèo thiếu vốn sản xuất. Ngày 31 tháng 8 năm 1995 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 525/ TTg thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHNg) chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 500 tỷ đồng, bộ máy quản lý điều hành gọn nhẹ. Việc cho vay uỷ thác hoàn toàn qua hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. Phương thức quản lý, cho vay uỷ thác bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực, Nhà nước tiết kiệm được chi phí quản lý do tận dụng được mạng lưới, con người, cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của NHNo & PTNT, đội ngũ cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm cho NHNg được NHNo & PTNT trả lương. Toàn bộ nguồn vốn của NHNg đều tập trung cho vay hộ nghèo, vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Từ nguồn vốn ban đầu nhận bàn giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo là 518 tỷ đồng, sau 7 năm hoạt động 1996-2002 “ tổng nguồn vốn của NHNg đã lên tới 7.083 tỷ đồng, hơn 2 triệu hộ nghèo được vay vốn để phát triển sản xuất với tổng dư nợ 5.700 tỷ đồng vốn vay đã giúp cho hàng triệu hộ vươn lên thoát nghèo. NHNg thực sự trở thành địa chỉ tin cậy của người nghèo thiếu vốn sản xuất, là công cụ điều hành hữu hiệu của chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, là người bạn đồng hành của các tổ chức chính trị - xã hội trên khắp mọi miền đất nước. Có thể nói thành công của công tác tín dụng Ngân hàng phục vụ hộ nghèo cũng là thành công của chủ trương đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trên mặt trận chống đói nghèo. Thành tựu xoá đói giảm nghèo của Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế và các bạn bè trên thế giới công nhận. 1.1.3.2. Sự ra đời của Ngân hàng Chính sách xã hội Cuối năm 2002, trước yêu cầu của tiến trình hội nhập, đòi hỏi phải cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng, từng bước tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại để các ngân hàng thương mại rãnh tay vươn ra nắm giữ thị trường chuẩn bị cho tiến trình hội nhập thương mại khu vực và quốc tế. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đã nêu rõ “ Cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng thương mại Nhà nước, chức năng cho vay của Ngân hàng Chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thương mại [7]. Về mục tiêu xoá đói giảm nghèo, Đảng ta tiếp tục khẳng định trong nghị quyết IX: “ Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo” [7]. Vì vậy, việc thiết lập một loại hình Ngân hàng Chính sách cho mục tiêu xói đói giảm nghèo là một tất yếu khách quan cho tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngày 4/10/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 78/ NĐ-CP về tín dụng người nghèo và các đối tượng Chính sách khác nhằm sử dụng các nguồn lực tài chính do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng Chính sách khác vay ưu đãi phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN, ổn định xã hội. Nghị định cho phép tập trung các nguồn lực tài chính của Nhà nước để thực hiện tín dụng chính sách nhằm khắc phục những tồn tại của thời kỳ trước đây là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước nhưng do nhiều tổ chức cùng thực hiện nên việc đầu tư dàn trải theo nhiều phương thức với nhiều mức lãi suất khác nhau, dẫn tới chồng chéo, kém hiệu quả. Theo đó, Nghị định cho phép thành lập NHCSXH để thực hiện tín dụng Chính sách đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách ra khỏi hệ thống NHNo & PTNT. Với những kết quả và kinh nghiệm sau 7 năm hoạt động, trên cơ sở những vướng mắc và tồn tại về mô hình tổ chức quản lý và cơ sở hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo để thiết lập Ngân hàng Chính sách xã hội của Chính phủ dành riêng thực hiện mục tiêu xói đói giảm nghèo, phù hợp với điều kiện và thực tiễn của Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 131/2001/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thông qua phương thức tín dụng để tập trung nguồn lực tốt hơn với mục tiêu hỗ trợ tài chính đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, tạo cho họ có điều kiện tự cải thiện cuộc sống, từng bước xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.4 Đặc thù của Ngân hàng Chính sách xã hội 1.1.4..1 Đặc thù về mô hình tổ chức Sơ đồ 1.1: tổ chức hệ thống ngân hàng chính sách xã hội Ban chuyên gia tư vấn Uỷ ban nhân dân xã Phường, ban xoá đói Giảm nghèo xã, phường Tổ tiết kiệm và vay vốn Hội sởchính Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Chi nhánh tỉnh, thành phố Ban đại diện HĐQT tỉnh, thành phố Phòng giao dịch/ Chi nhánh quận, huyện Ban đại diện HĐQT quận, huyện Người vay Người vay Người vay Người vay Ghi chú: Quan hệ chỉ đạo Quan hệ báo cáo Phối hợp Là một tổ chức tín dụng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do đó mô hình tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội cũng có những đặc điểm riêng với các tổ chức tín dụng khác. Loại hình NHCSXH chủ yếu là Ngân hàng thuộc sỡ hữu Nhà nước, sử dụng một phần nguồn tài chính của Nhà nước tham gia hỗ trợ cho các ngành, các khu vực. Vì vậy, mô hình quản lý của loại hình ngân hàng này phải có sự hiện diện của một số cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan để tham gia quản trị ngân hàng, hoạch định các chính sách tạo lập nguồn vốn, chính sách đầu tư với các khu vực, các đối tượng trong từng thời kỳ cho NHCSXH. * Bộ máy quản trị NHCSXH Tại cấp Trung ương: Có Hội đồng quản trị gồm 12 thành viên, 9 thành viên kiêm nhiệm và 3 thành viên chuyên trách. 9 thành viên kiêm nhiệm gồm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Bộ tài chính, Bộ KH & ĐT, Bộ LĐTB & XH, Bộ NN & PTNT, Uỷ ban dân tộc, Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Hội nông dân, Hội phụ nữ; 3 thành viên chuyên trách gồm: 1 thành viên giữ chức vụ phó chủ tịch thường trực, 1 uỷ viên giữ chức Tổng giám đốc, 1 thành viên giữ chức Trưởng ban kiểm soát. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT NHCSXH là 5 năm và có thể bổ nhiệm lại. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch, các uỷ viên HĐQT và Trưởng ban kiểm soát Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã trực thuộc tỉnh được thành lập Ban đại diện HĐQT do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch ủy Ban nhân dân cùng cấp làm trưởng ban. Thành phần và số lượng Ban đại diện HĐQT như trung ương nhưng không có cơ cấu phó ban thường trực. Tuỳ tình hình ở từng địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định cơ cấu thành phần nhân sự và quyết định thành lập Ban đại diện HĐQT. Giúp việc Ban đại diện HĐQT có Ban chuyên gia tư vấn gồm chuyên viên các ngành là thành viên HĐQT do các ngành cử và một số chuyên gia do Chủ tịch HĐQT ra quyết định chấp thuận. Giúp việc Ban đại diện HĐQT các cấp do Giám đốc Chi nhánh NHCSXH cùng cấp, giám đốc phòng giao dịch đảm nhiệm. Tại cấp cơ sở xã, phường, cùng với cấp tổ chức chính trị - xã hội thiết lập các tổ vay vốn gồm các đối tượng chính sách có nhu cầu vay vốn ở các thôn bản tự nguyện hoạt động theo thoả ước tập thể, có trách nhiệm trong việc sử dụng vốn và đây thực sự là mạng lưới chân rết cho mạng lưới hoạt động NHCSXH. * Bộ máy điều hành NHCSXH NHCSXH có hệ thống mạng lưới hoạt động từ Trung ương đến tỉnh, thành phố, quận, huyện theo địa giới hành chính. Điều hành hoạt động của hệ thống NHCSXH là Tổng giám đốc, giúp việc cho Tổng giám đốc là một số Phó tổng giám đốc và các phòng chuyên môn nghiệp vụ tại Hội sở chính. - Tại Trung ương + Hội sở chính NHCSXH đặt tại thủ đô Hà Nội - Tại địa phương + Chi nhánh NHCSXH các tỉnh, thành phố và Sở giao dịch. + Các Phòng giao dịch NHCSXH cấp huyện. Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh: Là đơn vị trực thuộc Hội sở chính, đại diện pháp nhân theo uỷ quyền của Tổng giám đốc trong việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động của NHCSXH trên địa bàn. Điều hành Chi nhánh cấp tỉnh là Giám đốc, giúp việc Giám đốc là một số phó giám đốc và các phòng chức năng tại Hội sở tỉnh. Phòng giao dịch cấp huyện: là các đơn vị trực thuộc Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, đặt tại các Quận, Huyện, trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ của NHCSXH trên địa bàn. Điều hành Phòng dịch quận, huyện là giám đốc, giúp việc Giám đốc là phó giám đốc và các Tổ nghiệp vụ. Tổ tiết kiệm và vay vốn: NHCSXH thực hiện phương thức cho vay đến người vay thông qua các tổ chức nhận uỷ thác. Tổ tiết kiệm và vay vốn của các tổ chức nhận uỷ thác là cánh tay nối dài của NHCSXH đảm bảo vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến đúng người nghèo và các đối tượng chính sách cần vay vốn. 1.1.4.2 Đặc thù về cơ chế hoạt động * Về mục tiêu hoạt động: NHCSXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục tiêu hoạt động chính là nhằm XĐGN, giải quyết việc làm trên cơ sở bảo tồn vốn đầu tư. - Đối với khu vực kinh tế nông thôn: cho vay hỗ trợ kinh tế hộ gia đình từng bước cải thiện đời sống. - Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các cơ sở kinh doanh của người tàn tật, cho vay để tạo việc làm. - Đối với các tổ chức kinh tế, hộ sản suất kinh doanh thuộc những khu vực kinh tế kém phát triển vùng sâu, vùng xa: cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản suất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư và phát triển đời sống. - Đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: cho vay trang trải các chi phí học tập. * Về đối tượng khách hàng: Đối tượng khách hàng của NHCSXH có thể là: hộ gia đình nghèo, hộ sản suất, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở vùng nghèo và các đối tượng chính sách khác. Phần lớn khách hàng của NHCSXH rất ít có điều kiện để tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ các NHTM. Về nguồn vốn: Trong khi hoạt động đặc trưng của các Ngân hàng thương mại là “đi vay để cho vay”, hay nói cách khác là đi huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế thì nguồn vốn của NHCSXH lại được tạo lập chủ yếu từ Ngân sách Nhà nước như cấp vốn điều lệ; nguồn vốn ODA dành cho chương trình tín dụng chính sách của Chính phủ; nguồn vốn của Chính phủ vay; nguồn vốn NHCSXH huy động trên thị trường theo kế hoạch cấp bù từ ngân sách Nhà nước. * Về sử dụng vốn: Do đối tượng khách hàng chủ yếu là hộ nghèo và các đối tượng chính sách nên việc sử dụng vốn của Ngân hàng cũng có những đặc thù riêng như: - Món cho vay nhỏ, chi phí quản lý cao. - Tính rủi ro cao, khả năng sinh lời từ vốn thấp. - Vốn vay được ưu đãi về thủ tục, về lãi suất, thời hạn vay vốn. - Việc giải ngân thường được uỷ thác qua các tổ chức trung gian như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị - xã hội. 1.2. Ngân hàng chính sách xã hội với mục tiêu xoá đói giảm nghèo 1.2.1. Phạm vi, nội dung hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội * Nguồn vốn - Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước: + Vốn điều lệ; + Vốn cho vay XĐGN, tạo việc làm và thực hiện Chính sách xã hội khác; + Vốn trích một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách các cấp để tăng nguồn vốn cho vay trên địa bàn; + Vốn ODA được Chính phủ giao - Vốn huy động: + Tiền gửi có trả lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; + Tiền gửi các tổ chức tín dụng Nhà nước bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam có trả lãi theo thoả thuận; + Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; + Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiều gửi và các giấy tờ có giá khác; + Tiền gửi tiết kiệm của người nghèo; - Vốn đi vay: + Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; + Vay tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm xã hội Việt Nam; + Vay Ngân hàng Nhà nước; - Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước. - Vốn nhận uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước. - Các vốn khác. * Cho vay: - Phạm vi cho vay + Hộ nghèo; + Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang theo học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề; + Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); + Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; + Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo; thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (sau đây gọi là Chương trình 135); + Các đối tượng khác khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ. + Các đối tượng cho vay được quy định ở trên gọi chung là Người vay. - Vốn cho vay được sử dụng vào các việc sau: + Đối với hộ nghèo; hộ sản suất kinh doanh thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi và các xã thuộc Chương trình 135, sử dụng vốn vay để: Mua sắm vật tư, thiết bị, giống cây trồng, vật nuôi, thanh toán các dịch vụ phục vụ sản suất, kinh doanh; Góp vốn thực hiện các dự án hợp tác sản xuất, kinh doanh được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Giải quyết một phần nhu cầu thiết yếu về: nhà ở, điện thắp sáng, nước sạch, học tập. + Đối với các tổ chức kinh tế thuộc hải đảo, thuộc khu vực II, III miền núi và các xã thuộc Chương trình 135, sử dụng vốn vay để chi phí cho sản suất, kinh doanh theo chương trình, dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sử dụng vốn vay để mua sắm phương tiện học tập và các chi phí khác phục vụ cho việc học tập tại trường. + Người vay là đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, sử dụng vốn vay để trả phí đào tạo, phí dịch vụ, tiền đặt cọc, vé may bay. + Người vay là các đối tượng khác thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. + Vốn nhận uỷ thác cho vay ưu đãi được sử dụng theo hợp đồng uỷ thác. - Loại cho vay + Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng. + Cho vay trung dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng. + Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng. - Điều kiện để được vay vốn + Người vay là hộ nghèo phải có địa chỉ cư trú hợp pháp và phải có tên trong danh sách hộ nghèo được uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định theo chuẩn nghèo do Bộ Lao động-Thương binh và xã hội công bố, được Tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét, thành lập danh sách có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã. + Người vay là các đối tượng chính sách khác thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước và các quy định trong Nghị định của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. - Nguyên tắc tín dụng + Người vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích xin vay. + Người vay phải trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi. - Uỷ thác cho vay + NHCSXH thực hiện cho vay đến Người vay thông qua các tổ chức nhận uỷ thác. Bên nhận uỷ thác là người giải ngân và thu nợ trực tiếp đến Người vay và được hưởng phí uỷ thác. + Bên nhận uỷ thác là tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định hiện hành về uỷ thác và nhận uỷ thác cho vay vốn của tổ chức tín dụng. + Bên nhận uỷ thác là tổ chức chính trị - xã hội cần có các điều kiện sau Có đội ngũ cán bộ am hiểu nghiệp vụ cho vay. Có mạng lưới hoạt động đến vùng nghèo, hộ nghèo. Có uy tín trong nhân dân, có uy tín với Ngân hàng Chính sách xã hội. Có điều kiện tổ chức kế toán, thống kê, báo cáo theo các quy định cụ thể của NHCSXH; - Nội dung, phạm vi, mức độ, phí uỷ thác, quyền và nghĩa vụ của bên uỷ thác, bên nhận uỷ thác được thể hiện trong hợp đồng uỷ thác do hai bên thoả thuận; - Tổng giám đốc NHCSXH và Thủ trưởng đơn vị bên nhận uỷ thác là đại diện pháp nhân trong việc ký hợp đồng uỷ thác. Nếu bên nhận uỷ thác là pháp nhân ở cấp tỉnh, huyện, xã thì giám đốc Chi nhánh NHCSXH cấp tỉnh, cấp huyện, phòng giao dịch được Tổng giám đốc uỷ quyền ký hợp đồng uỷ thác. - Quy chế về uỷ thác cho vay, Quy chế hoạt động và trả thù lao cho Tổ tiết kiệm và vay vốn thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị trong phạm vi mức phí quản lý của NHCSXH được Thủ tướng Chính phủ quyết định. - Lãi suất cho vay + Lãi suất cho vay ưu đãi do thủ tướng Chính phủ quyết định cho vay từng thời kỳ theo đề nghị của Hội đồng quản trị NHCSXH, thống nhất một mức trong phạm vi cả nước. + Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay. - Rủi ro tín dụng và xử lý rủi ro: + Ngân hàng Chính sách xã hội được trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng vào chi phí nghiệp vụ để bù đắp những khoản rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan thuộc diện đơn lẻ, cục bộ. Mức trích được tính bằng 0,02% trên số dư nợ bình quân năm. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro tín dụng không sử dụng hết trong năm, được chuyển sang năm sau. Trường hợp quỹ dự phòng rủi ro không đủ bù đắp số rủi ro trong năm, Chủ tịch Hội đồng Quản trị trình Bộ trưởng Bộ tài ch._.ính giải quyết. + Người vay không trả được nợ do nguyên nhân khách quan gây ra như: thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, chính sách Nhà nước thay đổi, biến động giá cả thị trường được giải quyết như sau: Trường hợp xảy ra trên diện rộng, thực hiện theo quyết định Thủ tưởng Chính phủ; Trường hợp xảy ra ở diện đơn lẻ, cục bộ được cho gia hạn nợ hoặc được xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro của Ngân hàng Chính sách xã hội do Hội đồng quản trị quyết định. + Những thiệt hại do nguyên nhân chủ quan của Người vay, của tổ chức nhận uỷ thác, của cán bộ viên chức Ngân hàng Chính sách xã hội gây ra thì các đối tượng này phải bồi thường và bị xử lý theo quy định của pháp luật. - Mức cho vay Mức cho vay đối với một lần vay phù hợp với từng loại đối tượng được vay vốn tín dụng ưu đãi do Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội quyết định và công bố trên cơ sở nhu cầu vay vốn và khả năng có thể huy động được trong từng thời kỳ. - Thời hạn cho vay, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn: + Thời hạn cho vay được quy định căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay của Người vay và thời hạn thu hồi vốn của chương trình, dự án có tính đến khả năng trả nợ của người vay. + Trường hợp người vay chưa trả được nợ vay đúng kỳ hạn đã cam kết do chưa thu hoạch, bị kéo dài so với dự kiến hoặc chưa tiêu thụ được sản phẩm, Giám đốc chi nhánh ngân hàng nơi cho vay xem xét gia hạn nợ của các tổ chức nhận uỷ thác cho vay tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác ghi trong hợp đồng. + Trường hợp cho vay lưu vụ: thời hạn cho vay là thời hạn của chu kỳ sản xuất tiếp theo. + Trường hợp người vay sử dụng vốn vay sai mục đích; người vay có khả năng trả khoản nợ đến hạn nhưng chây ỳ không trả thì chuyển nợ quá hạn. Tổ chức cho vay kết hợp với chính quyền sở tại, các tổ chức chính trị - xã hội có biện pháp thu hồi nợ. - Thời hạn cho vay, gia hạn nợ, chuyển cho vay lưu vụ, chuyển sang nợ chờ xử lý, chuyển nợ quá hạn thực hiện theo quy định của Hội đồng quản trị Ngân hàng chính sách xã hội. * Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: - Ngân hàng Chính sách xã hội được mở tài khoản tiền gởi tại Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng khác trong nước nơi gần nhất theo địa giới hành chính để thuận tiện cho việc giải ngân và thanh toán. - NHCSXH được mở tài khoản tiền gởi cho khách hàng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. - NHCSXH được mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài theo quy định của Ngân hàng nhà nước để phục vụ hoạt động của ngân hàng. - NHCSXH được thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. - NHCSXH được nhận uỷ thác cho vay ưu đãi của chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân trong và ngoài nước. - Các dịch vụ trên được thực hiện từng bước phù hợp với điều kiện, khả năng và yêu cầu thực tế. 1.2.2. Vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội trong xói đói giảm nghèo Ngân hàng chính sách xã hội đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu của Chính phủ vì sự phát triển cân đối của nền kinh tế và vì một xã hội ổn định, dân giàu, nước mạnh thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất: tập trung được mọi nguồn vốn ưu đãi của nhà nước về một đầu mối là NHCSXH, là địa chỉ cần thiết để các tổ chức, cá nhân thể hiện mối quan tâm đối với người nghèo thông qua việc gửi vốn có lãi hoặc không lãi để cho người nghèo vay. Đồng thời, thông qua hoạt động huy động vốn để cho người nghèo vay, được triển khai rộng rãi trong cộng đồng dân cư và những hộ nghèo thông qua tổ nhóm tiết kiệm đã khơi dậy tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, phát huy nội lực bản thân, nội lực từng vùng và khu vực, để thực hiện thành công công cuộc xoá đói giảm nghèo. Có thể số lượng huy động vốn trong cộng đồng người nghèo không nhiều, song qua đó cũng hình thành dần ý thức tích luỹ đầu tư, tạo thói quen tiết kiệm và gửi tiền vào Ngân hàng, đồng thời làm quen với việc sử dụng các dịch vụ Ngân hàng như chuyển tiền, nhận tiền, gửi tiền... [18, tr.23]. Thứ hai: với nguyên tắc cho vay có hoàn trả cả gốc và lãi đã khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại khi nhận vốn cấp phát; tự nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để hoà nhập kinh tế thị trường. Đương nhiên điều này không có nghĩa là không cần tới phương thức cấp phát. Nhà nước cần phải có các giải pháp đầu tư cấp phát các công trình cơ sở hạ tầng, phúc lợi công cộng, tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách xã hội tiếp cận với nền sản xuất hàng hoá. Thứ ba: Cung cấp vốn tín dụng đối với người nghèo, góp phần cải thiện thị trường tài chính cộng đồng, nơi có hộ nghèo sinh sống: vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần cải thiện tình hình thị trường tài chính khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người, những vùng có nhiều hộ nghèo sinh sống, hạn chế được nạn cho vay nặng lãi, giảm bớt được tình trạng bán, gán, cầm cố ruộng đất hoặc tình trạng bán sản phẩm non ở các khu vực nông thôn. Khi có nhu cầu sản xuất kinh doanh họ phải vay nặng lãi, cầm cố ruộng đất hoặc nhận bán sản phẩm non để có vốn đầu tư sản xuất và chi phí cho cuộc sống gia đình, do vậy áp lực tài chính đối với những hộ nghèo rất nặng nề. Khi có nguồn vốn tín dụng đến với những hộ nghèo đã giải toả phần lớn các áp lực về tài chính. Nhất là khi hộ nghèo vay vốn bị rủi ro bất khả kháng, tuỳ mức độ thiệt hại, Nhà nước có chính sách xử lý gia hạn nợ, giãn nợ, khoanh hoặc xoá nợ. Như vậy, hộ nghèo không bị áp lực tâm lý về khoản nợ không trả được do rủi ro khách quan. Mặt khác nguồn vốn tín dụng đối với người nghèo cho vay với lãi suất ưu đãi cũng đã góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi thường xảy ra trước đây ở các vùng nông thôn. Thứ tư: Vốn tín dụng Ngân hàng dành cho người nghèo góp phần tạo nhiều cơ hội việc làm cho người nghèo: vốn tín dụng cho người nghèo đã góp phần tạo việc làm cho hàng vạn lao động, phát huy tiềm năng sẵn có của những hộ gia đình nghèo. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên đầu người hiện nay ở các vùng nông thôn của nước ta còn thấp. Trong khi đó, số lao động ở nông thôn ngày càng tăng, sản xuất thuần nông trên thời gian làm việc của một lao động trong năm gom lại chỉ khoảng 100 ngày. Còn hơn 2/3 thời gian lao động trong năm của nông dân là nông nhàn, thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp diễn ra khá phổ biến ở các vùng nông thôn. Đặc biệt hộ nghèo thường là những gia đình đông con, không có việc làm, thu nhập thấp không đảm bảo chi tiêu, là gánh nặng trong cuộc sống. Thông qua vốn tín dụng cho người nghèo đã hỗ trợ phát triển ngành nghề ở nông thôn, như chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống cũng như thủ công mỹ nghệ, ngành nghề truyền thống. Nhờ vậy đã giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, giải quyết phần lớn thời gian nông nhàn, tận dụng lao động để khai thác ngành nghề truyền thống, khai thác tiềm năng nội lực, tạo cơ hội cho người nghèo tự vận động, vượt qua khó khăn, vươn lên thoát khỏi đói nghèo hoà nhập dần dần vào cơ chế kinh tế thị trường. Thứ năm: Vốn tín dụng cho người nghèo góp phần nâng cao thu nhập của hộ nghèo: vốn cung ứng cho người nghèo thông qua hình thức tín dụng đã góp phần tạo cơ hội cho người nghèo tăng thu nhập, nâng cao đời sống và giúp nhiều hộ nghèo vượt qua ngưỡng đói nghèo [18, tr.24]. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước về phát huy tín dụng ngân hàng trong việc xoá đói giảm nghèo 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước ở Châu á 1.3.1.1. Kinh nghiệm về cung cấp vốn cho hộ nghèo trong xoá đói giảm nghèo ở Trung Quốc Theo kết quả khảo sát kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo tại Trung Quốc của đoàn cán bộ gồm Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Ban tổ chức cán bộ, Văn phòng Chính phủ và cơ quan hợp tác kỹ thuật GTZ (CHLB Đức) thì Trung Quốc có chính sách ưu đãi đặc biệt trong việc xoá đói giảm nghèo cho các vùng nghèo, cả cấp trung ương và cấp tỉnh. Cấp trung ương có chính sách vĩ mô như: đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi, chính sách miễn giảm thuế cho từng vùng... Địa phương có chính sách cụ thể phù hợp với tình hình xã hội và khả năng kinh tế của mỗi tỉnh, như chính sách thuế đối với vùng cây đặc sản, chính sách miễn giảm thuế cho hộ. Đối với lĩnh vực cung cấp vốn tại cấp trung ương có hai loại vốn xoá đói giảm nghèo cho các huyện trọng điểm trong toàn quốc. - Vốn cấp không hoàn lại: dùng để phát triển cơ sở hạ tầng, gọi là vốn phúc lợi. - Vốn vay có hoàn trả gồm: vốn cho hộ nghèo vay phát triển sản xuất, chú trọng cho vay chăn nuôi và vốn phục vụ phát triển cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ, xí nghiệp nhỏ trong vùng đói, nghèo. Kinh phí cho xoá đói giảm nghèo là mục chi của Ngân sách Nhà nước trung ương, có tài khoản riêng. Ngoài nguồn vốn tài chính trung ương cấp, địa phương phải huy động để đầu tư thêm vốn đối ứng cho xoá đói giảm nghèo ở địa phương khoảng 30-40% so với tổng số vốn đầu tư của Trung ương. Mặt khác, Trung Quốc cũng mở rộng hợp tác để tranh thu viện trợ của các tổ chức quốc tế. Để quản lý nguồn vốn hợp tác quốc tế được tập trung tại Văn phòng xoá đói giảm nghèo ở các cấp, từ trung ương đến cấp huyện đều có trung tâm quản lý các dự án hợp tác quốc tế. Kinh nghiệm thành công trong việc cung cấp vốn để thực hiện xoá đói giảm nghèo đó là việc phân chia phối kết hợp tốt giữa vốn không hoàn lại xây dựng cơ sở hạ tầng với nguồn vốn tín dụng cho hộ nghèo vay phát triển sản xuất. Nguồn vốn không hoàn lại là tiền đề thuận lợi để đảm bảo tính an toàn của vốn tín dụng, trên cơ sở hạ tầng vùng nghèo được cải thiện, giao thương kinh tế thuận lợi, thị trường phát triển làm đà cho việc phát huy hiệu quả vốn tín dụng. Đồng thời việc cân nguồn vốn đối ứng giữa trung ương và địa phương khoảng 30-40% trong tổng đầu tư như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc tạo nguồn vốn dành cho xoá đói giảm nghèo, không thụ động chờ đợi nguồn từ trung ương. Tại Trung Quốc ngoài việc phát huy nội lực huy động các nguồn lực từ trong nước còn mở rộng quan hệ hợp tác tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức quốc tế. 1.3.1.2. Kinh nghiệm phối hợp chương trình tín dụng với các chương trình khác trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở In-đô-nê-xi-a Inđônêxia là một đất nước đông dân (hơn 210 triệu người), điều kiện địa lý không thuận lợi (hàng ngàn đảo nhỏ), cho nên đất nước này gặp nhiều thách thức khi thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Giao thông liên lạc khó khăn, cản trở việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản. Xây dựng được chiến lược tổng thể quốc gia về xoá đói giảm nghèo là chìa khoá tháo gỡ vướng mắc nêu trên. Chính phủ In-đô-nê-xi-a đang vận động đông đảo các tầng lớp người dân tham gia góp ý xây dựng chiến lược, chương trình tạo khung tư vấn rộng rãi gồm: giới nghiên cứu; các tổ chức quốc tế; tổ chức phi chính phủ; chính quyền địa phương và đặc biệt là nhóm người nghèo. Chính phủ hỗ trợ họ về tài chính thông qua con đường tín dụng ngân hàng. Các địa phương, Bộ, Ngành được tự do hoạch định chương trình xoá đói giảm nghèo nhưng phải phù hợp chiến lược tổng thể của quốc gia. Kinh nghiệm về phát huy vai trò tín dụng ngân hàng trong chương trình xoá đói giảm nghèo ở In-đô-nê-xi-a đó là sự phối hợp đồng bộ các chương trình khác với chương trình tín dụng đối với hộ nghèo. Người nghèo thường thiếu về nhiều mặt, muốn lao động sản xuất họ cần có sức khoẻ, cần có kiến thức sản xuất, cơ hội việc làm, môi trường kinh tế xã hội...Nếu chỉ có cung cấp vốn tín dụng ngân hàng thì sẽ chưa đủ. Chính phủ tạo cơ hội cho họ lựa chọn và quyết định con đường thoát nghèo. 1.3.1.3. Kinh nghiệm cấp tín dụng đối với người nghèo ở Băng-la-dét Từ khi xuất hiện hình thức cấp tín dụng cho người nghèo vào năm 1976, do Ngân hàng Grameen thực hiện, những người nghèo ở đây được hưởng một chương trình trợ giúp có nhiều hiệu quả. Băng-la-đet là một nước có nền kinh tế nông nghiệp, có hơn 80% trong khoảng 120 triệu dân sinh sống tại các vùng nông thôn, chủ yếu bằng nghề nông. Tuy nhiên, có hơn 50% số hộ nông dân không có ruộng đất, phần lớn trong số họ có cuộc sống dưới mức nghèo khổ. Từ khi giáo sư Yumus, thuộc trường Đại học kinh tế Băng-la-đét, có sáng kiến thực hiện chương trình tín dụng đối với người nghèo thông qua ngân hàng Grameen đã giúp cho người nghèo có vốn khai thác nhiều ngành nghề từ đó có thu nhập, ổn định cuộc sống hơn so với trước. Đến năm 1995, Ngân hàng Grameen đã có hơn 2 triệu thành viên, đặc biệt đa số là thành viên nữ chiếm tỉ lệ 94%, vốn điều lệ của Ngân hàng Grameen tăng lên đạt gần 4 triệu USD. Cơ chế hoạt động của Ngân hàng Grameen cho phép bất cứ người nông dân nào không có đất canh tác, thu nhập dưới 2500 taka/năm (tương đương 100 USD) đều được vay vốn, không cần phải thế chấp, cầm cố tài sản để đảm bảo nợ vay. Mức tiền vay thấp nhất là 5000 taka (tương đương 200 USD). Cho vay theo lãi suất thị trường. Hoạt động của Ngân hàng Grameen rất kiên trì mục tiêu phục vụ và khai thác triệt để những đặc điểm của người nghèo, khơi dậy tính tích cực từ bản năng vượt nghèo của họ. Kinh nghiệm thành công từ hoạt động Ngân hàng Grameen đó là: xác định mục tiêu hoạt động của ngân hàng là vì người nghèo, đặc biệt quan tâm đến tầng lớp thấp nhất của xã hội, biết khai thác mặt tích cực của người nghèo, khẳng định mục tiêu chiến lược của tín dụng là giúp người nghèo thoát cảnh cùng cực, đối tượng phục vụ trước hết là phụ nữ, vì người nghèo khổ nhất ở nông thôn Băng-la-đét là phụ nữ. Tiếp đến việc cho vay của Ngân hàng Grameen thông qua tổ nhóm vay vốn, nhằm quản lý giám sát lẫn nhau, hạn chế tình trạng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, ngoài ra thông qua hoạt động tổ vay vốn đã huy động tiết kiệm bắt buộc mỗi tuần 1 taka, như thế vừa huy động được nguồn vốn, vừa tạo cho người vay có nguồn trả nợ khi gặp khó khăn và nhất là tạo thói quen tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo. Một kinh nghiệm khác đối với hoạt động Ngân hàng Grameen đó là cho vay hộ nghèo theo lãi suất thị trường, tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những ngân hàng thấp nhất ở Băng-la-đét, điều đó chứng tỏ việc cho vay người nghèo theo lãi suất thị trường có tác dụng thúc đẩy người nghèo hoà vào cơ chế kinh tế thị trường, chủ động cân đối chi phí sản xuất và giá thành để có lãi, có khả năng trả nợ gốc và lãi tốt. 1.3.1.4. Hệ thống tổ chức tín dụng chính sách của Nhật Bản Xuất phát từ tình hình nền kinh tế đất nước do bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế chậm phát triển ở một số ngành nghề và một số vùng khó khăn, nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nền kinh tế, Chính phủ Nhật Bản chủ trương hỗ trợ tài chính (bao cấp) đối với một số ngành nghề phục vụ cho lợi ích công cộng của quốc gia mà nền kinh tế tư nhân không thể đầu tư do nguồn vốn lớn, thời hạn dài, không có khả năng sinh lời. Để thực hiện vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết nguồn tài chính cho các lĩnh vực đầu tư dài hạn, Chính phủ Nhật Bản xác định: nhất thiết phải thiết lập một loại hình “ngân hàng chính sách” để thông qua đó hỗ trợ tài chính với chính sách ưu đãi (trong đó có ưu đãi lãi suất) đối với một số ngành nghề. Đây là các tổ chức tài chính thuộc Chính phủ được thiết lập để hỗ trợ tài chính cho những ngành nghề, và những vùng cần phải đầu tư dài hạn, vốn lớn, rủi ro cao, khả năng sinh lời thấp mà kinh tế tư nhân không đầu tư được hoặc không muốn đầu tư. Về cơ chế tạo lập nguồn vốn của các tổ chức tín dụng chính sách: Các tổ chức tài chính thuộc loại hình Ngân hàng chính sách của Chính phủ không được phép tổ chức trực tiếp huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn hoạt động của các tổ chức này được cấp từ tài khoản đặc biệt của Ngân sách Nhà nước. Tài khoản đặc biệt thuộc Chính phủ do Bộ tài chính được giao trách nhiệm quản lý, hình thành từ các nguồn sau: - Chính phủ vay của dân thông qua Quỹ tiết kiệm Bưu điện. Toàn bộ nguồn vốn do Quỹ tiết kiệm Bưu điện huy động được đều phải chuyển hết vào tài khoản đặc biệt. - Chính phủ phát hành các trái phiếu cho các chương trình đầu tư của Chính phủ nhằm thu hút vốn trên thị trường tài chính. Nguồn này được sử dụng để tạo lập Quỹ cho vay tài chính. Nguồn ngân sách đặc biệt: dành một phần từ nguồn thu thuế của Ngân sách Nhà nước, nguồn từ Quỹ Bảo hiểm lương hưu. Về cơ chế cho vay của các tổ chức tín dụng chính sách: - Về lãi suất: lãi suất cho vay tới khách hàng của các tổ chức tín dụng chính sách do Bộ tài chính ban hành từng thời kỳ nhưng đều thấp hơn lãi suất cho vay ưu đãi áp dụng đối với doanh nghiệp đặc biệt của các Ngân hàng thương mại lớn. Trường hợp bị thua lỗ thì Chính phủ bù lỗ cho các tổ chức tín dụng này. - Về điều kiện cho vay: điều kiện cho vay được ưu đãi và cũng khác với các điều kiện của các Ngân hàng thương mại, phù hợp với các khách hàng vay vốn không đáp ứng được các điều kiện vay vốn của các Ngân hàng thương mại. Đến nay khi mà nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển cao thì các tổ chức tài chính của Chính phủ vẫn khẳng định được vai trò quan trọng và sự cần thiết phải tồn tại của loại hình “Ngân hàng chính sách” trong nền kinh tế Nhật Bản, đồng thời khẳng định vai trò điều tiết của Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, các tổ chức này đã và đang tự hoàn thiện về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động nhằm từng bước giảm dần sự bao cấp của Nhà nước và tạo dựng tính bền vững trong hoạt động của mình trên thị trường tài chính. 1.3.2. Kinh nghịêm thực hiện tín dụng chính sách đối với người nghèo của Ngân hàng Nhân dân Brazil ở Brazil tín dụng vi mô cho người nghèo thường có chi phí cao, rủi ro nhiều nhưng lại khó có thể đẩy lãi suất cho vay lên cao để bù đắp chi phí vì khả năng tài chính và kinh doanh của người nghèo không chịu nổi lãi suất cao như vậy. Đó là một lý do chính khiến các Ngân hàng thương mại không muốn cung cấp tín dụng cho người nghèo. Để giải quyết mẫu thuẫn trên, một mặt Chính phủ Brazil yêu cầu các ngân hàng thương mại phải có trách nhiệm đóng góp kinh phí để xoá đói giảm nghèo bằng hai cách: tự thực hiện hoặc chuyển kinh phí đó cho cơ quan nào hoạt động xoá đói giảm nghèo hiệu quả hơn. Các ngân hàng được dùng đến 2% dự trữ bắt buộc của họ (số tiền phải gửi vào một tài khoản không trả lãi tại NHTW) để cung cấp tín dụng vi mô cho người nghèo. Lãi suất cho loại hình tín dụng này không quá 2%/tháng so với lãi suất bình quân 10% đến 12%/ tháng mà các Ngân hàng thương mại áp dụng hầu khắp Brazil. Ngân hàng Nhân dân Brazil được thành lập và hoạt động độc lập từ năm 2004 như một ngân hàng phụ thuộc, chuyên cung cấp tín dụng vi mô cho người nghèo từ bộ phận trước đây phụ trách về chính sách xã hội của Ngân hàng Brazil.. Ngân hàng Nhân dân Brazil ký hợp đồng với các doanh nghiệp như các Tổng công ty dược, thực phẩm, các công ty phân phối hàng. Các điểm giao dịch của Ngân hàng Nhân dân Brazil đặt tại cửa hàng của các doanh nghiệp này sẽ là nơi tiếp xúc khách hàng của Ngân hàng Nhân dân Brazil. Ngân hàng Nhân dân Brazil chỉ cho vay món nhỏ, từ 50 Riel (20 USD) cho tới 1000 Riel (400 USD), thời hạn cho vay bình quân là 6 tháng, tuy nhiên cũng có những khoản vay thời hạn dài hơn như người dân cần sửa chữa nhà có thể vay tới 2 năm. Ngân hàng Nhân dân Brazil không phân biệt rõ ràng mục đích là cho vay tiêu dùng hay sản xuât. 1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Một là, các quốc gia đều chú trọng xây dựng chính sách xã hội, trong đó có chính sách xoá đói giảm nghèo và tổ chức hoạt động tín dụng hổ trợ cho các hộ nghèo. Hai là, mô hình tổ chức hoạt động tín dụng cho đối tượng hộ nghèo có khác nhau, cơ chế hổ trợ khác nhau nhưng là lĩnh vực được coi trọng và đều hướng tới việc cung ứng tín dụng cho hộ nghèo được thuận lợi và có hiệu quả. Ba là, cơ chế hổ trợ tín dụng được phân biệt đối tượng khá cụ thể từ cho vay cho sán xuất hay cho vay tiêu dùng; thời hạn được vay, mức vay... Bốn là, để phát huy tốt vai trò hiệu quả vốn cho vay đối với hộ nghèo trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, cần phải cơ cấu hợp lý giữa vốn dành để xây dựng cơ sở hạ tầng (Vốn do Ngân sách trung ương hoặc vốn do Ngân sách địa phương cấp không hoàn lại) với vốn vay để hộ nghèo phát triển sản xuất, hợp lý cho từng vùng, từng địa phương và như vậy tạo môi trường kinh tế phát triển theo xu hướng thị trường, giúp người nghèo tiêu thụ sản phẩm làm ra thuận lợi, phát huy hiệu quả đồng vốn. Kết luận chương 1 Xoá đói giảm nhèo là một chủ trương, chính sách xã hội mang tính nhân văn sâu sắc và đã trở thành mục tiêu hàng đầu không chỉ của Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà mỗi quốc gia có các giải pháp và chính sách cụ thể để hỗ trợ cho mục tiêu XĐGN khác nhau như: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho các vùng khó khăn, đào tạo nghề, trợ cấp việc làm, chính sách tín dụng...Trong đó chính sách tín dụng luôn được xem như một trong những giải pháp đúng đắn nhất, khoa học nhất nhằm hỗ trợ tài chính cho người nghèo, trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm khơi dậy bản năng vượt nghèo khó của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu XĐGN. Trong chương 1 luận văn đã nêu lên được những lý luận chung nhất về hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngân hàng chính sách xã hội, vai trò của NHCSXH trong mục tiêu XĐGN và từ kinh nghiệm về tín dụng chính sách ở một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.Đây là cơ sở tiền đề để nghiên cứu những chương tiếp theo của luận văn. Chương 2 Thực trạng hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Nam Quảng Nam là một tỉnh nằm ở trung độ của đất nước, có diện tích tự nhiên là 10.406 km2, trong đó diện tích rừng, đồi núi chiếm khoảng 78%, chỉ có 22% diện tích tự nhiên ở đồng bằng và vùng cát ven biển. Có nhiều sông suối phân bổ đều ở các vùng trong tỉnh, đặc biệt có những con sông lớn như sông Vu gia, Thu Bồn, Sông Tiên, Sông Tranh với nguồn thuỷ năng lớn có thể xây dựng được nhiều công trình thuỷ điện lớn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời cung cấp một lượng phù sa đáng kể cho các vùng đồng bằng ở các huyện phía Bắc tỉnh và tạo thuận lợi cho việc phát triển hệ thống giao thông đường thuỷ phục vụ cho việc đi lại, giao lưu kinh tế của nhân dân ở một số vùng phía Bắc và Tây Bắc tỉnh. Là tỉnh mới được tái lập từ đầu năm 1997, Quảng Nam hiện có 15 huyện và 2 thị xã, trong đó có 8 huyện miền núi và 2 huyện trung du, dân số khoảng gần 1,4 triệu người, gồm 233 xã, phường, thị trấn. Theo điều tra vào quý II/2005 toàn tỉnh có 71 xã nghèo đặc biệt khó khăn, có 11 xã chưa có trạm y tế xã để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, có 14 xã chưa có điện thắp sáng, 45 xã chưa có trường trung học cơ sở, 29 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, 88 xã chưa có trạm truyền thanh, 53 xã chưa có điện thoại. Là một tỉnh nghèo, có điểm xuất phát về kinh tế thấp, song Quảng Nam có truyền thống văn hoá, truyền thống cách mạng kiên cường, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, thách thức đã đạt được những thành quả đáng khích lệ trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế tỉnh nhà trong những năm qua, nội lực của nền kinh tế bước đầu được khơi dậy và phát huy, GDP tăng 19,6%, dịch vụ tăng 12,1%, kim ngạch xuất khẩu tăng 28%, huy động vốn đầu tư cho xã hội tăng 32% … đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt, giảm hộ đói nghèo từ 27,04% năm 1997 xuống còn 9,5% năm 2005 (theo chuẩn cũ). Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, một số lĩnh vực phát triển chậm, một số yếu tố thiếu vững chắc, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh thấp, chuyển biến trong nông nghiệp, nông thôn chậm, hiệu quả trong nông nghiệp chưa cao, chưa tháo gỡ được những khó khăn về kinh tế - xã hội ở nông thôn, nhất là vùng cát, vùng trung du, miền núi nông dân còn nghèo. Sản xuất công nghiệp phát triển nhưng tăng lên trong cơ cấu còn thấp, thị trường tiêu thụ chưa được mở rộng. Trong sản xuất - kinh doanh thiếu những tổng công ty mạnh, còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thấp. Kinh tế du lịch gắn với phát triển các giá trị văn hoá và sinh thái chưa được đầu tư đúng mức. Những thuận lợi, thời cơ đan xen với khó khăn, thách thức của nền kinh tế tỉnh nhà, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành Ngân hàng trên địa bàn nói chung và NHCSXH nói riêng. song, cùng với tiến trình xây dựng và phát triển của nền kinh tế tỉnh nhà, hoạt động của NHCSXH đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo của địa phương trong những năm qua. 2.1.2. Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Quảng Nam được thành lập theo Quyết định số 49/QĐ-HĐQT ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội (HĐQT-NHCSXH) trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo, tách ra từ NHNo & PTNT. Mô hình tổ chức của Chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam được triển khai từ Ban đại diện Hội đồng quản trị đến bộ phận tác nghiệp từ tỉnh đến cơ sở. BĐD-HĐQT ở tỉnh có 11 người, do Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban và 10 thành viên là lãnh đạo các sở, ban, ngành và hội đoàn thể của tỉnh. ở các huyện, thị BĐD-HĐQT cũng được thành lập có từ 9 đến 10 thành viên, do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND huyện, thị làm Trưởng ban. Về mạng lưới tổ chức Chi nhánh NHCSXH tỉnh Quảng Nam đến 31/12/2005 gồm 1 hội sở tỉnh và 16 Phòng giao dịch huyện, thị và 216 điểm giao dịch tại xã, phường. Điều hành tác nghiệp NHCSXH tỉnh Quảng nam có Ban Giám đốc và các phòng chuyên môn. Các Phòng Giao dịch ở huyện, thị cũng được tổ chức, bố trí giao dịch trực tiếp với khách hàng để huy động vốn, cho vay thu nợ, thu lãi. Ngoài ra ở các xã, phường, thị trấn còn có đội ngũ cộng tác viên là cán bộ chuyên trách công tác xoá đói, giảm nghèo tham gia tư vấn trong việc bình xét cho vay, quản lý và xử lý nợ được NHCSXH trả thù lao hàng tháng trên cơ sở khối lượng tín dụng quản lý và hiệu quả đạt được. 2.1.3. Chương trình mục tiêu về giảm nghèo 2006-2010 của tỉnh Quảng Nam 2.1.3.1 Thực trạng hộ nghèo, xã nghèo * Tiêu chí xác định hộ nghèo giai đoạn 2006-2010 Theo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 như sau: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực nông thôn và từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống đối với khu vực thành thị là hộ nghèo. * Thực trạng hộ nghèo: Kết quả cuộc điều tra vào quý II/2005 theo tiêu chí mới, toàn tỉnh đã xác định được 101.160 hộ/391.182 khẩu nghèo, chiếm 30,29% so với tổng số hộ dân. Trong đó: Hộ nghèo có thành viên hưởng chính sách người có công có 3.350 hộ/14.564 khẩu, chiếm tỷ lệ 1%, chính sách xã hội có 2.929 hộ/7.166 khẩu, chiếm tỷ lệ 0,88%; hộ nghèo có chủ hộ là nữ giới 39.492 hộ/115.923 khẩu, chiếm tỷ lệ 11,83%; dân tộc thiểu số nghèo có 15.470 hộ/78.981 khẩu, chiếm 4,63% [34, tr.9]. Nếu chia theo khu vực thì: Thành thị (2 thị xã) có 5.033 hộ nghèo/17.756 khẩu, chiếm tỷ lệ 12,31%; Nông thôn có 96.127 hộ/373.426 khẩu, chiếm 32,80% so với tổng số dân từng khu vực (trong đó nông thôn miền núi 8 huyện có 27.101 hộ/130.255 khẩu, tỷ lệ khu vực này là 52,17% và nông thôn đồng bằng trung du 7 huyện 69.026 hộ/243.171 khẩu, tỷ lệ khu vực này là 28,63% so với tổng hộ dân từng khu vực) [34, tr.9]. Như vậy, khu vực nông thôn tỷ lệ hộ nghèo cao hơn gấp 2,5 lần so với khu vực thành thị. Nếu so sánh thành 3 khu vực thì khu vực nông thôn miền núi tỷ lệ hộ nghèo cao xấp xỉ 2 lần khu vực đồng bằng trung du và gấp 4,3 lần so với khu vực thành thị. 2.1.3.2 Nguyên nhân đói nghèo a. Nguyên nhân khách quan: Là tỉnh mới chia tách năm 1997, xuất phát điểm của nền kinh tế khó khăn, hậu quả chiến tranh nặng nề, nguồn thu ngân sách còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, điều kiện tự nhiên và diễn biến thời tiết không thuận lợi ở một số vùng. b. Nguyên nhân chủ quan: Ngoài một số cơ chế, chính sách vẫn còn bất cập, chậm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp từ phía các ngành chức năng, còn có nguyên nhân nghèo bắt nguồn trực tiếp từ phía hộ nghèo. Qua phân tích kết quả điều tra hộ nghèo theo chuẩn mới, có 5 nhóm nguyên nhân nghèo chính như sau: - Nhóm thứ nhất: Do gia đình thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, do gia đình có người ốm đau tàn tật, không có khả năng lao động và hộ gia đình già cả neo đơn: 58.550 hộ, chiếm tỷ trọng 57,88% trong tổng số hộ nghèo. - Nhóm thứ 2: Do thiếu việc làm và thiếu lao động: 15.593 hộ, chiếm tỷ trọng 7,95 %; Do đó thiếu lao động: 7.551 hộ, chiếm tỷ trọng 7,46% [34, tr.10]. - Nhóm thứ 3: Nhóm nguyên nhân nghèo do gia đình có đông con (đông trẻ em, nhiều người ăn theo): 12.415 hộ, chiếm tỷ trọng 12,27% [34, tr.10]. - Nhóm thứ 4: Do thiếu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn và thiếu đất sản xuất: 11.209 hộ, chiếm tỷ trọng 11,08%. Thực tế số hộ thiếu đất sản xuất tập trung chủ yếu ở các huyện miền núi cao và một số huyện đồng bằng. Nguyên nhân là do quá trình giao đất cho dân còn chậm (miền núi), một số hộ nghèo ở đồng bằng do quỹ đất ở một số địa phương chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất sản xuất của nhân dân, quá trình đô thị hoá đã làm mất đất sản xuất (Núi Thành, Tam Kỳ, Điện Bàn) [34, tr.10]. - Nhóm thứ 5: Nhóm nguyên nhân khác như tai nạn rủi ro, thất nghiệp, chay lười lao động, mắc tệ nạn xã hội: 3.393 hộ, chiếm tỷ trọng 3,36%. Đây là nhóm nguyên nhân nghèo chiếm tỷ lệ ít nhất nhưng lại là nguyên nhân phức tạp nhất, rất khó xoá nghèo. Vì vậy đòi hỏi phải có sự can thiệp của toàn xã hội [34, tr.10]. 2.1.3.3. Mục tiêu và giải pháp thực hiện chương trình * Mục tiêu chương trình: - Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền và giữa các khu vực trong tỉnh. Đảm bảo cho các hộ nghèo đều được hưởng các chính sách về giảm nghèo của Nhà nước. - Giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, đến năm 2010 còn dưới 18% (theo tiêu chí mới). Mức giảm bình quân mỗi năm từ 3-4% (tương ứng khoảng 10.000 hộ), trong đó khu vực thành thị giảm 2-3%, khu vực nông thôn giảm 4-5% (nông thôn miền núi giảm 5-6%/năm). Không còn xã có t._.ức hội, đoàn thể vì các tổ chức này đã có mạng lưới sẵn ở khắp các xã, phường, thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, cánh tay đắc lực giúp NHCS XH thực hiện có kết quả nhiệm vụ của Chính Phủ giao. Với phương thức này Nhà nước không phải cấp kinh phí để mở rộng mạng lưới, tăng thêm cán bộ nên có thể tiết kiệm được chi phí cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng hoạt động uỷ thác của các tổ chức chính trị - xã hội phải không ngừng nâng cao công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ đoàn thể thực hiện công tác này. Bên cạnh công tác đào tạo tập huấn cần xây dựng các mô hình thí điểm trình diễn để học tập phổ biến kinh nghiệm giữa các tổ chức hội, đoàn thể thực hiện việc ủy thác cho vay, giữa các địa phương trong toàn quốc. * Về điều kiện cho vay Để nguồn vốn vay có hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba nhà, NHCSXH (đầu tư vốn), Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm (hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi,trồng trọt) và các tổ chức hội đoàn thể (quản lý vốn vay, chuyển giao kỹ thuật…)giúp hộ nghèo nắm vững kỹ thuật ngành nghề mà họ bỏ vốn đầu tư. Từ đó vốn đầu tư có hiệu quả hơn, tăng thu nhập cho hộ nghèo, thời gian xoá đói giảm nghèo được rút ngắn hơn. Để dự án tín dụng cho người nghèo có hiệu quả, đảm bảo sự giám sát của xã hội, của cộng đồng đúng với mục tiêu của dự án thì việc điều tra, phân loại hộ nghèo tại các địa phương thông qua việc củng cố Ban xoá đói giảm nghèo của xã, Huyện là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Điều tra phân loại rõ từng nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của từng hộ để có những giải pháp phù hợp, chẳng hạn những hộ đói nghèo không có sức lao động do già cả, tàn tật, neo đơn… phải dùng các biện pháp hỗ trợ khác chứ không thể dùng phương pháp tiếp cận bằng vốn tín dụng được. Hoặc những hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa mà ở những nơi đó chưa có cơ sở hạ tầng, không có chợ, sức mua hạn chế… thì trước khi được sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội phải được hỗ trợ từ các giải pháp khác phù hợp. Vì vậy, hộ thuộc diện đói nghèo không đồng nghĩa với việc nhất thiết phải được cung cấp vốn tín dụng. Việc phân loại đúng đối tượng đòi hỏi trách nhiệm cao của các cơ quan chức năng để đạt được mục đích vốn đến đúng đối tượng. Mặt khác, không lấn sân sang các đối tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Về nguyên tắc hộ nghèo vay vốn không phải đảm bảo bằng tài sản nhưng đối với hộ vay món lớn, dự án nhóm hộ gia đình, thời hạn cho vay dài, NHCSXH có thể yêu cầu hộ vay vốn bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Về cho vay giải quyết việc làm nên sữa đổi cơ chế giao cho NHCSXH chịu trách nhiệm thẩm định, cho vay bảo toàn vốn, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ thực hiện chức năng ban hành cơ chế và giám sát hoạt động không tham gia trực tiếp thẩm định và quyết định cho vay như hiện nay. Đối với cho vay xuất khẩu lao động đề nghị Chính Phủ tăng mức cho vay đối với người lao động thuộc vùng có điều kiện khó khăn lên mức 100% chi phí phục vụ cho XKLĐ và có biện pháp mở rộng loại vay này tạo điều kiện cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách tăng thu nhập, xói đói giảm nghèo. Đối với cho vay HSSV nên chuyển sang cho vay thông qua hộ gia đình và cải tiến quy trình cho vay thích hợp, không nên gộp chung với hộ nghèo như hiện nay là chưa hợp lý. * Về lãi suất cho vay Qua kinh nghiệm tại một số nước cho thấy, lãi suất cho vay hộ nghèo của họ ngang bằng mức lãi suất thị trường và họ cho rằng khi thực hiện cho vay hộ nghèo với mức lãi suất như vậy có nhiều tác dụng tích cực hơn như: đối với người nghèo sẽ có tác dụng làm cho họ có ý thức tiết kiệm giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành, không chủ quan ỷ lại, đối với ngân sách không phải tốn một khoản kinh phí hàng năm để cấp bù cho những tổ chức tín dụng làm dịch vụ cho vay hộ nghèo; đối với tổ chức tín dụng cho vay hộ nghèo có thể huy động được nguồn vốn trong xã hội, thực hiện đầy đủ chức năng của một tổ chức tín dụng. Riêng đối với Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, còn nhiều tổ chức, nhiều thành phần trong xã hội chưa quen với cơ chế thị trường nhất là những hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, họ cần được sự hỗ trợ nhiều mặt trong đó có hỗ trợ lãi suất vì vậy từ những kinh nghiệm của nhiều nước và từ thực tiễn kinh tế - xã hội Việt Nam nên có những quy định về lãi suất phù hợp. Trong những năm đầu chúng ta nên hỗ trợ hộ nghèo vay vốn với lãi suất thấp, sau đó nâng dần lãi suất lên ngang bằng với mức lãi suất thị trường Lãi suất cho vay vốn đối với hộ nghèo nên từng bước theo hướng lãi suất thị trường, bởi vì: Một mặt, việc áp dụng lãi suất ưu đãi không tránh khỏi hiện tượng người không nghèo lại được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Mặt khác, người nghèo được nhận vốn vay ưu đãi họ dễ hiểu lầm đó là nguồn trợ cấp và đôi khi họ dùng vốn đó để cho vay lại các đối tượng khác hoặc gửi tiền tiết kiệm để kiếm chênh lệch. Cũng chính từ chính sách ưu đãi tín dụng là người nghèo được bao cấp qua lãi suất nên gây ra tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, họ chưa nhận thức rõ được đấy là sự trợ giúp của Nhà nước để cho họ tự phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Ngoài ra nó còn làm tăng nhu cầu vay vốn đây là một nhược điểm của tín dụng ưu đãi. Để được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi này, vấn đề người nghèo quan tâm đó là được vay vốn một cách thuận lợi, được vay nhiều lần và kèm theo đó là được tiếp nhận các dịch vụ chuyển giao kỹ thuật, tiếp thu cách thức làm ăn và chỉ dấn thị trường tiêu thụ sản phẩm làm ra từ các tổ chức hỗ trợ khác nhau. Quan điểm của tác giả cho rằng, lãi suất cho vay đối với hộ nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay không nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi quá ưu đãi nhưng cũng không nên áp dụng lãi suất tính đủ mà nên thống nhất hài hoà giữa lãi suất cho vay người nghèo và lãi suất cho vay thông thường của các Ngân hàng thương mại và có thể áp dụng các hình thức giảm lãi suất như là đòn bẩy khuyến khích người vay trả nợ, trả lãi. Hoặc có thể quy định mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thị trường một chút. Song về lâu dài, để hoạt động của ngân hàng bền vững thì mức lãi suất cho vay cũng cần tính đủ các yếu tố đầu vào. * Về mức cho vay Nhu cầu vốn cho vay đối với hộ nghèo rất phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào điều kiện và khả năng canh tác của từng vùng và của từng địa phương. Đối với các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc…mà điều kiện cơ sở hạ tầng thấp và hầu như chưa có, điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, đất đai canh tác ít, trình độ thâm canh thấp, chủ yếu thực hiện việc chăm bón theo thời vụ hoặc theo từng công đoạn của cây trồng theo kinh nghiệm cổ truyền. Họ ít chú trọng đến việc thâm canh, đầu tư chiều sâu. Do đó, vốn đầu tư vào sản xuất của hộ nghèo còn ở mức thấp. Nhưng về lâu dài, khi năng lực sản xuất, kỹ thuật thâm canh của hộ nghèo tăng lên thì ngân hàng cũng cần phải nâng mức cho vay tối đa đối với một hộ nghèo tăng lên, khắc phục tình trạng cho vay có tính cân bằng, thời gian cho vay không phù hợp với khả năng trả nợ của người vay như hiện nay. Hiện nay mức cho vay tối đa đối với một hộ nghèo là 7 triệu đồng. Đối với những hộ nghèo có điều kiện đầu tư vào những đối tượng như: chăn nuôi đại gia súc lấy thịt, lấy sữa, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản, cải tạo chuồng trại, đầu tư phát triển ngành nghề thì có thể được đầu tư đến 10 triệu đồng một hộ. Về lâu dài đối với những đối tượng này có thể nâng mức cho vay tối đa lên 15 triệu đồng một hộ nhưng kèm theo đó cũng cần có những điều kiện nhất định như phải có dự án cụ thể, phải nằm trong vùng quy hoạch kinh tế trên địa bàn, phải có cấp có thẩm quyền phê duyệt… * Đơn giản hoá thủ tục và quy trình cho vay Hộ nghèo và hộ chính sách phần lớn cư trú ở những vùng sâu, vùng xa do phương tiện đi lại, thông tin liên lạc khó khăn tốn kém, số tiền vay không lớn, chưa làm quen với thủ tục giấy tờ hành chính do đó để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ chính sách dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn cho vay trước hết ngân hàng phải thực hiện nghiêm túc việc giao dịch tại xã phường, để người dân thuận tiện đi lại. - Về thủ tục cho vay cần đảm bảo tính nguyên tắc nhưng phải hết sức đơn giản để phù hợp với trình độ dân trí của hộ nghèo. Hộ nghèo chỉ cần làm đơn xin vay do ngân hàng in sẵn phát cho từng hộ vay, hộ vay chỉ cần điền những chi tiết cần thiết như họ tên, địa chỉ, mục đích xin vay, số tiền xin vay và thời hạn vay vốn. - Phê duyệt cho vay: việc phê duyệt cho vay cần đảm bảo nguyên tắc xác định đúng đối tượng cho vay là hộ nghèo, xác định đúng mục đích xin vay, nhu cầu vay vốn phù hợp với mục đích xin vay của hộ nghèo nhưng phải tránh gây phiền hà cho hộ nghèo. - Việc cung ứng vốn cho hộ nghèo cần kịp thời và thuận tiện: đây là yêu cầu cơ bản và cần thiết vì với bản chất của người nghèo là thật thà, chất phác song cũng rất tự trọng. Khi thiếu vốn họ tha thiết được vay ngân hàng một cách nhanh chóng, đơn giản và thuận tiện để phục vụ kịp thời nhu cầu của sản xuất. Họ rất e ngại và cảm thấy phiền hà khi phải đến ngân hàng nhiều lần để làm các thủ tục vay vốn phức tạp và khó khăn. Trong thực tế, hộ gia đình nghèo sẵn sàng chấp nhận vay tư nhân với lãi suất cao vì nhu cầu vốn của họ được đáp ứng kịp thời, nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện còn hơn là phải chờ đợi để nhận được vốn rẻ của ngân hàng khi cơ hội kinh doanh đã mất và thời vụ sản xuất đã qua. Để đảm bảo cung ứng vốn kịp thời và thuận tiện cho hộ nghèo vay vốn NHCSXH cần phải: + Chủ động phân bổ vốn kế hoạch cho các Chi nhánh ngay từ đầu năm. + Đơn giản hoá quy trình và thủ tục vay vốn, đảm bảo cho hộ nghèo vay vốn dễ nhớ, dễ hiểu và dễ thực hiện. + Đội ngũ cán bộ ngân hàng phải có lòng nhiệt tình, tận tuỵ, sẵn sàng vượt khó khăn để đến với hộ nghèo, đồng thời phải có kiến thức về sản xuất, về khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn cách thức làm ăn cho hộ nghèo và cách sử dụng vốn vay có hiệu quả… * Xây dựng mạng lưới Tổ tiết kiệm và vay vốn Thực hiện cơ chế cho vay trực tiếp đến người vay thông qua tổ, nhóm là phương thức cho vay phù hợp với điều kiện về mô hình tổ chức và số lượng biên chế cán bộ của Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay. Chính vì vậy, việc xây dựng và củng cố mạng lưới Tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động có chất lượng là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. Tổ vay vốn phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện và bầu ra Ban quản lý tổ (từ 1 đến 3 người), Ban quản lý tổ, nhất là tổ trưởng có vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho Ngân hàng về việc bình xét và đề nghị cho vay, giám sát việc sử dụng tiền vay của các tổ viên, vận động các tổ viên tham gia gởi tiền tiết kiệm, đôn đốc các thành viên trả nợ gốc, lãi đúng thời hạn, cùng với ngân hàng xử lý những vấn đề phát sinh trong công tác tín dụng. Do vậy, để hình thành được mạng lưới, Ban quản lý tổ phải hoạt động có hiệu quả, thật sự là cầu nối hữu hiệu giữa ngân hàng và người vay. Ngân hàng Chính sách sách xã hội phải phối hợp với UBND, Ban xói đói giảm nghèo, hội đoàn thể xã, phường để làm tốt việc thành lập tổ và bầu ban quản lý tổ. Mặt khác phải thực hiện tốt việc chi trả tiền hoa hồng cho Ban quản lý tổ trên cơ sở khối lượng tín dụng quản lý và kết quả đạt được trong thu nợ, thu lãi, nhằm tạo động lực và tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng với ban quản lý tổ vay vốn. 3.2.2.3. Các giải pháp khác Một là: Do tính chất ưu đãi về lãi suất cho vay, do đó việc bình xét các hộ được vay vốn một cách dân chủ và công khai. Như chúng ta đã biết một trong những trở ngại và băn khoăn của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách cho vay hộ nghèo là làm thế nào để đầu tư vốn đúng đối tượng, đúng địa chỉ hộ nghèo. Do vậy, cùng với việc giải ngân trực tiếp đến tay hộ nghèo, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay còn cần phải thực hiện một chế độ tín dụng công khai và dân chủ trong cộng đồng dân cư và trong từng nhóm vay vốn. Việc bình xét, giám sát của cộng đồng xã hội, của các cấp chính quyền và của cán bộ tín dụng ngân hàng để lựa chọn hộ vay phải được xem như một nguyên tắc đối với kênh tín dụng chính sách này nhằm mục đích vốn cho vay đúng đối tượng, hạn chế thấp nhất những tiêu cực có thể xảy ra đối với nguồn vốn ưu đãi, thể hiện tính xã hội hoá về đầu tư tín dụng hộ nghèo. Hai là: Tăng cường công tác quản lý và kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của hộ nghèo vay vốn. Đầu tư tín dụng cho hộ gia đình nghèo là loại hình tín dụng có mức rủi ro lớn hơn bất kỳ một chương trình tín dụng nào khác. vì những lý do như sau: - Hộ nghèo thường là những người có trình độ văn hoá thấp, lại được vay vốn không phải thế chấp do vậy mà ý thức trách nhiệm về mặt pháp lý của họ đối với món vay thấp, đó là một trong những nguyên nhân đẫn tới họ sẵn sàng sử dụng vốn sai mục đích nếu không được kiểm soát chặt chẽ. - Phần lớn hộ nghèo thường thiếu kiến thức làm ăn, do vậy họ rất dễ bị thua lỗ trong sản xuát kinh doanh nếu không được hướng dẫn và giúp đỡ cách thức làm ăn. Ngoài ra do chính sách bao cấp về lãi suất nên gây ra tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, họ chưa nhận thức rõ được đây là sự trợ giúp của Nhà nước để cho họ tự phấn đấu vươn lên, các chương trình văn hoá, giáo dục, y tế… cần đi trước một bước mở đường cho chương trình tín dụng của NHCSXH. Phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát bằng nhiều hình thức như: kiểm tra tại chỗ, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chéo… nhằm phát hiện và có biện pháp sử lý thích hợp với những sai sót đã xảy ra và phòng ngừa những sai phạm mới. Việc kiểm tra phải được tiến hành cùng với việc tư vấn cho hộ vay vốn về cách thức làm ăn, biết tiết kiệm và sử dụng vốn đúng mục đích. Việc kiểm tra phải được tiến hành thường xuyên, rộng khắp từ các tổ viên được vay vốn, Tổ trưởng Tổ Tiết kiệm và vay vốn đến các tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác cho vay và bản thân cán bộ ngân hàng trong hệ thống NHCSXH và các Ban, Ngành liên quan. Ba là: Chú trọng và quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực của hệ thống NHCSXH, do là đơn vị vừa mới được thành lập, cán bộ đa phần là mới tuyển dụng, tỷ lệ (85%) nhìn chung được đào tạo cơ bản nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, nên rất hạn chế trong thực thi nhiệm vụ. Từ thực tế này đặt ra cho NHCSXH phải có kế hoạch chi tiết trong việc đào tạo cán bộ với nhiều phương pháp và hình thức khác nhau, phải tổ chức đánh giá phân loại cán bộ để có hình thức đào tạo cho phù hợp như đào tạo dài hạn, ngắn hạn, tấp huấn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề; bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức pháp luật và kiến thức về quản lý nhà nước… Bên cạnh đó còn phải thường xuyên thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, bố trí sắp xếp hợp lý cán bộ. Tiếp tục kiện toàn và củng cố bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa phương cho phù hợp với nhu cầu hoạt động. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại, nâng cao nhận thức, nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ thuộc các tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác cho vay, thành viên Ban quản lý Tổ Tiết kiệm và vay vốn của NHCSXH. Việc đào tạo, tấp huấn phải được phân loại theo từng đối tượng cụ thể cho phù hợp với trình độ và công việc đảm nhận với phương châm cầm tay chỉ việc. Kiến nghị 1. Đối với Nhà nước và Chính phủ Đề nghị Chính phủ cấp đủ vốn điều lệ ban đầu cho NHCSXH là 5.000 tỷ đồng theo Quyết định thành lập và cấp bổ sung hàng năm theo quy mô hoạt động nhằm tạo điều kiện để NHCSXH có đủ nguồn vốn cho vay, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và những phương tiện cần thiết khác phục vụ cho yêu cầu hoạt động của toàn hệ thống. - Những hộ ở ngưỡng cửa nghèo và vừa mới thoát nghèo thường sẽ dễ tái nghèo nếu như gia đình họ gặp phải thiên tai, hoạn nạn, có người ốm đau. Để XĐGN bền vững, đề nghị Chính phủ có cơ chế thủ tục vay đối với đối tượng này thêm vài chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo lập khả năng tài chính, đủ sức vươn lê thoát nghèo bền vững. - Cần có một môi trường kinh tế kinh doanh thuận lợi: Nhà nước luôn có một chính sách tạo điều kiện cho Ngành Nông nghiệp phát triển, có như vậy mới tạo cơ sở cho vốn tín dụng bền vững. Chẳng hạn, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm thúc đẩy việc tiêu thụ và chế biến sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp chính sách tiếp thị, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, chính sách bảo hộ xuất khẩu...Khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần được chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát triển cho người dân sinh sống ở những vùng này cả về trình độ dân trí, nhận thức xã hội, trình độ sản xuất, kinh doanh. Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn phát triển, cần khuyến khích hỗ trợ, tạo cơ sở pháp lý cho các Công ty tài chính ra đời phát triển dịch vụ tới mọi người dân, đặc biệt là bảo hiểm tín dụng. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách có hạn, Nhà nước có chính sách cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho Ngân hàng Chính sách xã hội khai thác và tập trung các nguồn vốn ổn định, không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp như: trích một phần nguồn tín dụng tài trợ thuộc nguồn vốn ODA, nguồn vốn tiền gửi kết dư ngân sách hàng năm; các quỹ Bảo hiểm xã hội, Kho bạc Nhà nước mở tài khoản tiền gửi tại NHCSXH nhất là tại các phòng Giao dịch NHCSXH cấp huyện. Tiếp tục thực hiện chủ trương: các tổ chức tín dụng nhà nước có trách nhiệm duy trì số dư tiền gửi tại NHCSXH bằng 2% số dư nguồn vốn huy động tại thời điểm 31 tháng 12 năm trước theo quy định tại Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Mở rộng chủ trương này ở tất cả các tổ chức tín dụng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài việc dành một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch ngân sách hàng năm của các địa phương, những địa phương không phải trợ cấp ngân sách từ trung ương, các doanh nghiệp và cá nhân sản xuất kinh doanh có lãi, có thu nhập lớn, cần có kế hoạch tăng nguồn vốn để cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách khác trên địa bàn, NHCSXH nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay theo các chương trình chỉ định của chủ đầu tư tại địa phương. Có kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt dộng của Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp, củng cố mối liên kết phối hợp và lồng ghép giữa các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động có hiệu lực thực sự. Cơ chế tài chính đối với NHCSXH Nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát huy cơ chế quản lý dân chủ trong công tác quản lý tài chính, đề nghị xem xét điều chỉnh cơ chế tài chính theo hướng gắn lợi ích của Ngân hàng với tách nhiệm thu lãi và giữ ổn định mức khoán cho cả thời kỳ 2006-2010, nhằm góp phần cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện vận chuyển: Để tạo điều kiện cho NHCSXH có trụ sở làm việc ổn định, đặc biệt là chi nhánh các tỉnh, huyện mới chia tách ở vùng sâu, vùng xa, vùng dặc biệt khó khăn; đồng thời, giải ngân kịp thời vốn vay đến người vay một cách an toàn. nhanh chóng và hiệu quả, kính đề nghị Nhà nước cho đầu tư: - Cấp vốn để xây dung trụ sở cho những tỉnh, huyện mới chia tách ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. - Những nơi khác tiếp tục thực hiện Chỉ thị 09/2004/CTTg của Thủ tướng Chính phủ và văn bản của Bộ Tài chính, ưu tiên chuyển các trụ sở, các phương tiện làm việc dôi ra do sắp xếp tổ chức lại có nguồn gốc ngân sách chuyển cho NHCSXH làm trụ sở, mua sắm phương tiện ô tô để giải ngân cho hộ nghèo ở xã, phường. Nhà nước có chính sách cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho NHCSXH khai thác và tập trung các nguồn vốn ổn định, không phải trả lãi hoặc trả lãi thấp để cho vay hộ nghèo. Những hộ ở ngưỡng cữa nghèo và vừa mới thoát nghèo thường sẽ dễ tái nghèo nếu như gia đình họ gặp phải thiên tai hoạn nạn, có người ốm đau… do đó để xoá đói giảm nghèo bền vững, đề nghị Chính phủ cho cơ chế tiếp tục cho vay đối với hộ này thêm vài chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo lập khả năng tài chính, đủ sức vươn lên thoát nghèo bền vững. 2. Đối với các Bộ, Ngành - Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính căn cứ vào phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ về XĐGN đến năm 2010, xác định rõ nhu cầu về vốn tín dụng và khả năng tài chính của Nhà nước phục vụ mục tiêu này; đồng thời có giải pháp cụ thể huy động các nguồn vốn có lãi suất thấp (vốn ODA, vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế, tiền gửi của các quỹ tài chính trong và ngoài nước....) để tạo điều kiện cho NHCSXH ổn định, bền vững. - Đối với Ngân hàng Nhà nước: có chính sách hỗ trợ NHCSXH sớm hoàn thiện hệ thống thanh toán hiện đại, cho phép NHCSXH thực hiện thêm một số dịch vụ ngân hàng, nhằm giúp NHCSXH trong tương lai có thể cung cấp cho khách hàng vùng II, vùng III có những sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. - Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: cần xây dựng một chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… dành riêng cho hộ nghèo, có cán bộ chuyên trách hướng dẫn cụ thể đối với người nghèo cách làm ăn, có những mô hình trình diễn thí điểm, làm mẫu ở những vùng nghèo, xã nghèo để hộ nghèo học tập. Phối hợp chặt chẽ các chương trình này với chương trình tín dụng hộ nghèo, có như vậy hộ nghèo vay vốn mới có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, ổn định và cải thiện cuộc sống xoá đói giảm nghèo. 3. Đối với Uỷ ban nhân dân các cấp - Thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Chi nhánh NHCSXH trên địa bàn. - Chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành, UBND các huyện, thị phối hợp với các tổ chức hội đoàn thể tổ chức lồng ghép các chương trình, chuyển giao công nghệ, khuyến nông, khuyên lâm, khuyến ngư, hướng dẫn thị trường với việc sử dụng vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn để người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả. - Tiếp tục dành một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch ngân sách hàng năm để tăng nguồn vốn tín dụng cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn. - Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng cường năng lực hoạt động cho các đơn vị NHCSXH trên địa bàn. - Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát, uốn nắn kịp thời những việc làm lệch lạc, sai chính sách, chế độ. đồng thời có kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp. Kết luận chương 3 Trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động của NHCSXH, quan điểm về tín dụng đối với hộ nghèo trong thời gian tới và từ mục tiêu hoạt động của NHCSXH tỉnh Quảng Nam giai đoạn 5 năm (2006-2010), tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của NHCSXH Quảng Nam. Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị đối với nhà nước và chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, UBND các cấp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của NHCSXH. Kết luận Là một tổ chức tín dụng đặc thù, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với nhiệm vụ chủ yếu là chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách, Ngân hàng Chính sách xã hội ra đời và được tổ chức hoạt động theo những chuẩn mực của một tổ chức tín dụng có hiệu quả kinh tế - xã hội, an toàn và phát triển đúng hướng để Ngân hàng thực sự trở thành một công cụ chính sách quan trọng, bảo đảm tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động của một ngân hàng, luận án đã đạt được mục tiêu nguyên cứu đề ra và có những đóng góp sau: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của hệ thống Ngân hàng, Ngân hàng Chính sách Xã hội và vai trò của nó trong việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo. Phân tích những vấn đề cơ bản về tín dụng và vai trò của tín dụng trong Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo. Làm rõ những nguyên tắc, nội dung cơ bản của cơ chế tín dụng đối với người nghèo. nghiên cứu và đề xuất cơ chế tín dụng thích hợp đối với người nghèo. Nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện tín dụng chính sách phục vụ mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở một số nước trên thế giới; rút ra những bài học kinh nghiệm có khả năng áp dụng vào thực tiễn Việt Nam. Phần thực trạng thông qua số liệu phân tích các năm (từ năm 1997 đến năm 2005) đã đưa ra được những nhận xét xác thực, phù hợp với thực tế hoạt động của NHCSXH, rút ra những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại hạn chế và nguyên nhân,đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới hoạt động của chi nhánh. Kết quả nghiên cứu sẽ là tư liệu có ích để NHCSXH xây dựng các cơ chế chính sách cho hoạt động của NHCSXH nói chung và chi nhánh Quảng Nam theo hướng ổn định và bền vững. Hoàn thành bản luận văn này tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào lĩnh vực nghiên cứu các giải pháp để đổi mới hoạt động của chi nhánh góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên địa bàn. Tuy nhiên, đây là một vấn đề còn rất phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều Bộ, Ngành, Đoàn thể... mà khả năng về nhận thức, lý luận và thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy, những nội dung thể hiện trong bài viết chắc chắn còn phải bổ sung nên tác giả rất mong muốn nhận được nhiều sự đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các cơ quan, các đồng nghiệp và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này để có thể tiếp tục tu chỉnh và hoàn thiện. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu, các thầy cô giáo Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và bạn bè đồng nghiệp đã giúp tác giả hoàn thành luận văn này. Danh mục Tài liệu tham khảo 1. Bộ môn kinh tế - chính trị đại học kinh tế quốc dân (1993), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2005), Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn (2006-2010), Hà Nội. 3. Chính phủ (2002), Nghị định 78/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Hà Nội. 4. Chính phủ (2002), Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, Hà Nội. 5. Chính Phủ (2004) Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg Thủ tướng Chính phủ 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. TS Đàm Hữu Đắc (2005), "Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Lao động và xã hội, số chuyên đề tháng 10/2005, tr.1-2. 10. Hoàng Xuân Đại (7/2006), "Tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng của nhà nước- Một nguồn vốn quan trọng của NHCSXH", Thông tin NHCSXH, tr.15. 11. Đặng Văn Điền (5/2006), "Tăng lãi suất cho vay, những suy nghĩ của người nghèo", Thông tin NHCSXH, tr.5, 10. 12. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Khoa học quản lý, Hà Nội. 13. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình kinh tế học phát triển, Hà Nội. 14. Hà Thị Hạnh (2003), Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, Hà Nội. 15. TS Nguyễn Hải Hữu (10/2005), "Định hướng chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010", Tạp chí Lao động và xã hội, tr.10,11,12. 16. Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng năm 2003,2004. 17. Nguyễn Thị Liễu(4/2005), "Công tác tổ chức cán bộ NHCSXH 3 năm thành lập", Thông tin NHCSXH, tr.7, 8. 18. Nguyễn Thị Liễu (2006), Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt Nam, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng Hà Nội, Hà Nội. 19. Các Mác (1960), Tư bản quyển 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 20. E.wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. 21. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1994), Báo cáo kết quả khảo sát mô hình Grameen Bank ở Bangladesh, Hà Nội. 22. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (1996), Báo cáo khảo sát mô hình Ngân hàng Nhân dân Indonesia, Hà Nội. 23. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động (1996-2000), Hà Nội. 24. Ngân hàng phục vụ người nghèo Quảng Nam (2002), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động (1997-2001),Tam Kỳ. 25. Ngân hàng Chính sách xã hội (2006), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội (2003-2005), Hà Nội. 26. Ngân hàng Chính sách xã hội Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động (2003-2005),Tam Kỳ. 27. ThS Phạm Kim Nhuận (2005), "Bài học cho vay hộ nghèo từ uỷ thác qua các tổ chức chính trị xã hội", Tạp chí Lao động và xã hội, (10), tr .15, 16. 28. Phan Cử Nhân (7/2006), "ứng dụng ngân hàng điện tử ở các tổ chức tài chính vi mô trên thế giới", Thông tin NHCSXH, tr.29, 30. 29. Phan Cử Nhân (4/2005), "Braxin: Ngân hàng nhân dân hướng vào tầng lớp người nghèo", Thông tin NHCSXH, tr.10, 12. 30. Trần Lan Phương (2006), "Một số kinh nghiệm học tập từ Tập đoàn Ra Bo-Hà Lan", Thông tin NHCSXH, tr.11, 12. 31.Nguyễn Kim Phung (2006), "Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện kế hoạch tín dụng năm 2006", Thông tin NHCSXH, tr.30. 32. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. TS Cao Viết Sinh (10/2005), "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, thành công và thách thức", Tạp chí Lao động và xã hội, tr.3, 5, 6. 34. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Quảng Nam (10/2005), Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010, Tam Kỳ. 35. Phạm Thanh (7/1994), "Chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp ở Thái lan và Indonesia", Tạp chí kinh tế dự báo, (225). 36. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 37. Hoàng Nghĩa Tứ (8/2005), "Ngân hàng chính sách xã hội là công cụ quan trọng, hữu hiệu để góp sức XĐGN", Thông tin NHCSXH, tr.1-2. 38. Trần Hữu ý (2006), "Thử bàn về cơ chế cho vay đối với vùng nghèo của NHCSXH", Thông tin NHCSXH, tr.1-2. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2588.doc
Tài liệu liên quan