Lời nói đầu
Đất nước ta sau mười lăm năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế trong đó có sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá luôn được xem là một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ. Đó chính là quá trình tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, quá trình cơ khí hoá, hiện đại hoá nền sản xuất. Bên cạnh đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. Mục
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu đặt ra cho quá trình này là biến nước ta từ một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Song để đạt được những mục tiêu này thì cần có những điều kiện nhất định mà một trong những tiền đề quan trọng hàng đầu là phải có sự tích luỹ về vốn. Việc đáp ứng vốn cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá có thể xuất phát từ vốn trong nước hoặc nước ngoài nhưng về cơ bản thì vẫn phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn trong nước nhằm tận dụng một cách tối đa tiềm lực sẵn có ở nước ta hiện nay. Hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng là nguồn cung cấp vốn lớn nhất phục vụ phát triển kinh tế. Ngân hàng với các nghiệp vụ của mình đã tập trung nguồn vốn nhàn rỗi để thoả mãn nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, cho vay đối với các dự án, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tuy vậy có một thực trạng nổi lên là nhiều doanh nghiệp cần vốn nhưng không được nhận vốn, hoặc thiếu vốn để đầu tư mở rộng sản xuất đổi mới trang thiết bị hoặc nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn của ngân hàng. Với vai trò to lớn của mình, ngân hàng cần phải nỗ lực để nghiệp vụ tài trợ có tác dụng phát huy tích cực cho nền kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước ta đi lên.
Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương, em nhận thấy tỷ trọng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh vẫn còn thấp, tỷ trọng tín dụng có tài sản đảm bảo chưa cân đối giữa các khu vực kinh tế. Những chỉ số này vẫn chưa phù hợp với tình hình thực tế, với xu hướng chung cũng như chủ trương của Nhà nước. Từ tính cấp thiết của vấn đề này nên em chọn đề tài “ Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương”.
Cơ cấu bài viết gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về điều chỉnh cơ cấu tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Chương III: Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Tuy nhiên do điều kiện và thời gian có hạn , bài viết này không tránh khỏi những sai sót. Em mong thầy cô cùng các bạn đóng góp ý kiến nhằm giúp em hoàn thành bài viết tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phan Thu Hà cùng các cô chú, anh chị tại phòng tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Chương I. Những vấn đề cơ bản về điều chỉnh cơ cấu tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.Tín dụng ngân hàng thương mại, phân loại tín dụng
1.1. Khái niệm tín dụng, tín dụng ngân hàng thương mại
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc Latinh (Creditum) có nghĩa là một sự tin tưởng lẫn nhau hay nói cách khác là lòng tin. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Trong thực tế, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có từng nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể được hiểu theo các cách sau:
+ Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được hiểu là phương pháp dịch chuyển quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty thương nghiệp hay thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định, theo thoả thuận, bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng đều thể hiện hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở hữu với một giá trị lớn hơn, phần chênh lệch lớn hơn đó gọi là lợi tức hay tiền lãi.
Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu đó là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính hoàn trả và tính thời hạn.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn:
Thứ nhất: phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Giai đoạn này, giá trị tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận được giá trị.
Thứ hai: sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thoả mãn nhu cầu sản xuất hay tiêu dùng của mình. Tuy nhiên người đi vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không được quyền sở hữu về giá trị đó.
Thứ ba: Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về với hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay.
Nếu xem xét tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại thì tín dụng ngân hàng thương mại có thể được hiểu như sau: “ tín dụng ngân hàng thương mại là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc tài sản khác) giữa ngân hàng thương mại và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp hay các chủ thể khác) trong đó bên cho vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán”.
1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin. Người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người đi vay thường xác định rõ thời gian cho vay. Việc xác định thời hạn đó dựa vào:
+ Quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển của đối tượng vay thì lúc đó người vay mới có điều kiện để trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khi đến hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ sẽ gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích và không có nguồn để trả nợ. Nhưng trong trường hợp này, nếu có nguồn thu nhập khác ngoài nguồn thu chính thì có thể thu hồi nợ từ nguồn đó. Vì vậy, thời hạn cho vay có thể ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh . Việc xác định thời hạn cho vay không chỉ dựa vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay mà còn phải dựa vào tính chất vốn của người cho vay: nếu vốn của người cho vay ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng .
+ Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa vốn nên sau một thời gian nhất định, ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm... nên ngưòi vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi.
1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại
1.3.1 Vai trò đối với doanh nghiệp
Ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là vì nguồn vốn vay từ ngân hàng là một nguồn vốn mang tính phổ biến và dễ tiếp cận, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ. Điều này không chỉ đúng với các nước đang phát triển mà còn đúng ở những nơi có thị trường tài chính phát triển. Chẳng hạn như Mỹ là một nước có thị trường chứng khoán phát triển nhất thế giới, các doanh nghiệp có thể tiến hành vay vốn thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu nhưng số liệu thống kê cho thấy rằng vốn vay từ ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn vay của các doanh nghiệp Mỹ. Sở dĩ như vậy là do không phải ai cũng có thể phát hành chứng khoán vào thị trường chứng khoán mà chỉ những doanh nghiệp lớn, có đủ uy tín mới tận dụng được nguồn vốn này. Hơn nữa, việc phát hành chứng khoán cũng cần nhiều thủ tục phức tạp không thể đáp ứng được những nhu cầu nhỏ hay có tính cấp thiết, sự phù hợp giữa nhu cầu về vốn và khả năng đáp ứng của vốn. Điều này cũng đúng với các doanh nghiệp Việt Nam, khi mà tình hình tài chính, sản xuất nhìn chung còn yếu kém, nhu cầu vốn lớn, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động và chưa phát triển. Bởi vậy, để có thể phát triển nhanh và ổn định, các doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng, vai trò đó thể hiện ở các mặt sau:
Một là: tín dụng ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nhìn chung trang thiết bị dây chuyền công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp, đặc biệt ở Việt Nam và các nước đang phát triển còn cũ kỹ, lạc hậu, chủ yếu từ những thập niên 60, 70. Do đó, sản phẩm có giá thành cao, số lượng và chất lượng hạn chế, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và với hàng ngoại nhập, đang gặp rất nhiều khó khăn. Ngân hàng với khả năng của mình hoàn toàn có thể hỗ trợ vốn giúp các doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, hoà nhập với thị trường thông qua việc cho các doanh nghiệp này vay vốn, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn. Hiện nay, tại Việt Nam một số công ty tài chính trực thuộc ngân hàng ra đời đã góp phần giúp các doanh nghiệp giải quyết những bức xúc về nhu cầu đổi mới công nghệ thông qua hình thức tín dụng thuê mua. Đây là hình thức mà ngân hàng mua theo yêu cầu của bên thuê. Bên thuê có quyền lựa chọn bên cung ứng hàng, thương lượng và thoả thuận về chủng loại giá cả, việc bảo hiểm, cách thức giao hàng ... và những vấn đề khác có liên quan đến tài sản thuê. Quyền hạn của mỗi bên được xác định dựa trên hợp đồng tín dụng thuê mua đã ký kết.
Hai là: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu qủa hơn.
Trong thời hạn của khoản vay, ngân hàng thực hiện chức năng giám sát hoạt động sử dụng vốn với tư cách là người chủ sở hữu vốn cho vay đối với doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, đôn đốc khách hàng vay vốn trả gốc và lãi đúng thời hạn theo thoả thuận đã ký kết bằng văn bản. Khác với vốn tự có là không phải trả chi phí vốn, những khoản vay từ ngân hàng phải chịu những điều kiện ràng buộc về lãi suất, thời hạn và mục đích sử dụng tiền vay nên các doanh nghiệp vay vốn phải có sự tính toán chi phí sản xuất hợp lý, tốc độ vòng quay vốn nhanh ... để đảm bảo cho việc trả nợ ngân hàng đúng thời hạn và có lợi nhuận giữ lại. Mặt khác trong quá trình kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay, ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện những nhược điểm, sai sót và từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp.
Có thể nói rằng, tín dụng ngân hàng đã ràng buộc trách nhiệm giữa người vay và người cho vay, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn và qúa trình sản xuất kinh doanh, giúp cho nguồn vốn đã đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất.
Ba là: Tín dụng ngân hàng tài trợ cho nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền dùng để mua nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, các công cụ lao động, chi phí trả lương nhân viên và một số chi phí cần thiết khác phục vụ quá trình sản xuất khinh doanh. Các doanh nghiệp có nhu cầu vốn lưu động cũng khá lớn, nhất là đối với các doanh nghiệp thương mại.
1.3.2.Đối với chính phủ
Từ thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu cách mạng công nghiệp, tín dụng ngân hàng đã có vai trò lớn đối với chính quyền. Ngân hàng cung cấp tín dụng cho chính quyền để tài trợ cho chính quyền trong chiến tranh.
Cho đến nay, tín dụng ngân hàng vẫn có vai trò lớn đối với Chính phủ. Tín dụng ngân hàng cấp vốn để bù đắp những thiếu hụt ngân sách. Chính phủ có thể đi vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ hoặc vay trực tiếp Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc vay từ Ngân hàng Nhà nước thì tiền sẽ được phát hành thêm, làm tăng khối lượng tiền tệ gây áp lực lạm phát tiềm tàng. Do đó Chính phủ sẽ vay từ thị trường tài chính. Để thực hiện điều này, nhất thiết phải thông qua các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức nắm giữ tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ nhiều nhất và cung cấp cho chính phủ một nguồn vốn lớn nhất trong các trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại cũng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do cơ quan địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng như hội trường, sân bóng đá, sân bay, đường cao tốc ...
1.3.3. Đối với người tiêu dùng
Nhu cầu tiêu dùng bao gồm nhiều loại như nhu cầu về lương thực thực phẩm, trang phục, chi phí về y tế giáo dục, văn hóa, hàng lâu bền, nhà ở và các chi phí xa xỉ khác. Nguồn tài chính của cá nhân nhiều khi không thể đáp ứng những nhu cầu này ngay tại thời điểm hiện tại. Các khoản tín dụng tiêu dùng có thể đáp ứng những nhu cầu này. Hiện nay, ngân hàng thương mại là loại hình trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất.
1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Mặt khác, để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh thì việc cấp tín dụng phải gắn liền với đối tượng vay, để tạo điều kiện cho sự vận động vốn phù hợp với sự vận động của vật tư hàng hoá thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại được huy động từ nền kinh tế, từ vốn tạm thời nhàn rỗi của cá nhân và của doanh nghiệp được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Các tổ chức kinh tế và các cá nhân khác nhau có thời hạn vốn nhàn rỗi khác nhau, vì thế nguồn vốn huy động của ngân hàng cũng bao gồm nhiều loại như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn ngắn hạn, tiền gửi có kỳ hạn dài hạn....Do đó phải tiến hành phân loại tín dụng để thực hiện cân đối vốn giữa sử dụng vốn trong ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình quản lý và điều hành có hiệu quả.
Có thể phân loại tín dụng theo nhiều tiêu thức khác nhau, song thực tế các nhà kinh tế học thường phân loại theo các tiêu thức sau:
1.4.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Theo căn cứ này, tín dụng ngân hàng được chia ra làm 3 loại:
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng. Loại tín dụng này thường được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động cho các doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
+Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến dưới năm năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, các khoản tín dụng trung hạn chủ yếu dùng để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...Ngoài ra, tín dụng trung dài hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mới thành lập.
+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, thời hạn tối đa có thể lên tới 20, 30 năm, thậm chí 40 năm. Loại hình tín dụng này được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như cấp vốn xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng ( đường sá, sân bay, bến cảng ... ), cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
1.4.2. Căn cứ vào mức độ đảm bảo
Căn cứ vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
+ Tín dụng không có bảo đảm: là hình thức cấp tín dụng không có tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba đảm bảo cho khoản nợ vay mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân mà không cần nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Tín dụng có bảo đảm: là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo. Đảm bảo tín dụng được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng có thể chia thành hai hình thức đảm bảo:
- Đảm bảo đối nhân: là hình thức bên thứ ba (có thể là thể nhân hoặc cá nhân) bảo lãnh cho khách hàng vay vốn. Nếu không có tài sản thế chấp, khách hàng có thể nhờ bên thứ ba có khả năng tài chính mạnh, có uy tín với ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho khách hàng vay vốn tại ngân hàng. Hành vi bảo lãnh được chấm dứt khi người vay vốn đã trả hết nợ gốc và lãi, người bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ bảo lãnh hoặc hành vi bảo lãnh thay thế bằng biện pháp đảm bảo khác.
- Đảm bảo đối vật: là hình thức đảm bảo bằng tài sản của người vay vốn. Do trạng thái chuyển giao đối tượng đảm bảo khác nhau nên đảm bảo đối vật được chia thành hai loại:
.Thế chấp tài sản: là hình thức đảm bảo mà tài sản đảm bảo là bất động sản, do người vay vốn hoặc người thứ ba trực tiếp nắm giữ, còn ngân hàng chỉ giữ giấy tờ sở hữu thế chấp tài sản
. Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là hành vi giao nộp tài sản là động sản hoặc các chứng từ chứng nhận quyền sở hữu tài sản của người vay cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Đối với các khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.4.3. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này, tín dụng được chia thành hai loại:
+Tín dụng trực tiếp: là hình thức mà ngân hàng trực tiếp cho đối tượng có nhu cầu vay vốn.
Khách hàng
Ngân hàng thương mại
(1)
(2)
+Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính khác như NHTM. Ngân hàng thương mại cấp tín dụng gián tiếp thông qua các hình thức như chiết khấu thương mại, nghiệp vụ factoring
Khách hàng nhận vốn vay
Ngân hàng thương mại
Người thanh toán nợ
1.4.4. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Dựa vào tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
+Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá, đáp ứng các nhu cầu thanh toán chi trả giữa các doanh nghiệp.
+Tín dụng cá nhân: là hình thức tín dụng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa , xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền...Nhìn chung, các khoản vay này thường có giá trị nhỏ, thực hiện bằng hình thức trả góp.
1.4.5. Căn cứ vào phương thức tín dụng
+ Tín dụng theo hạn mức tín dụng: là hình thức mà ngân hàng và khách hàng cùng ký kết một hợp đồng hạn mức trong đó có sự thoả thuận một khối lượng tín dụng tối đa mà khách hàng được phép vay trong một khoảng thời gian nhất định.Nếu hết thời hạn mà khách hàng chưa sử dụng hết hạn mức ấy thì coi như không còn giá trị nữa. Trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực, khi có nhu cầu, khách hàng chỉ cần nộp đơn xin vay và lập hợp đồng vay là sẽ được ngân hàng xem xét cho vay.
+ Tín dụng từng lần: hình thức này thường được áp dụng đối với những khách hàng không thường xuyên của ngân hàng. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn thì ngân hàng và khách hàng phải thực hiện đầy đủ các bước của quy trình vay vốn và thoả thuận những điều khoản riêng cho từng lần đó về số lượng tín dụng, thời hạn, lãi suất cho vay, tài sản đảm bảo...
1.4.6. Căn cứ theo thành phần kinh tế
+ Tín dụng cho khu vực kinh tế quốc doanh: là việc ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: là việc ngân hàng cấp tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình, cá nhân.
2. Cơ cấu tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm cơ cấu tín dụng
Cơ cấu tín dụng của NHTM là tỷ lệ các loại tín dụng và quy mô các loại tín dụng đó. Dựa trên các cách thức phân loại khác nhau mà có cơ cấu tín dụng xét theo những tiêu thức khác nhau.
Đối với NHTM, chủ yếu là xem xét cơ cấu tín dụng theo các tiêu thức thời hạn, thành phần kinh tế và tài sản đảm bảo. Như vậy, khi xem xét cơ cấu tín dụng của mỗi NHTM, chúng ta phải xem xét quy mô của mỗi thành phần cấu thành cơ cấu tín dụng và tỷ trọng của nó.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng
Cơ cấu tín dụng đối với từng ngân hàng thường không giống nhau và không giống như cơ cấu tín dụng tổng hợp. Mỗi ngân hàng có cơ cấu tín dụng riêng vì nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
2.2.1 Nguồn vốn huy động
Đặc điểm riêng có của ngân hàng là nguồn vốn tự có (vốn chủ sở hữu) rất nhỏ so với tổng nguồn vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu với tính chất thường xuyên ổn định chủ yếu dùng để trang trải cho xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng, đầu tư và góp vốn liên doanh. Các ngân hàng thương mại tập trung vốn, trên cơ sở đó, phân phối vốn thông qua hoạt động tín dụng. Vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng, nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất (70%- 80%) trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do đó tất yếu đặc điểm của nguồn vốn huy động như tính ổn định, giá cả của nguồn chi phối một phần tới hoạt động tín dụng và cơ cấu tín dụng của ngân hàng thương mại.
* Tính ổn định của nguồn vốn huy động:
Vốn huy động của ngân hàng thương mại (nếu xem xét theo kỳ hạn) bao gồm tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn), tiền gửi có kỳ hạn và các nguồn khác như phát hàn chứng chỉ tiền gửi hay phát hành trái phiếu. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến hạn hay khi khách hàng có nhu cầu rút vốn. Mặc dù tính ổn định của nguồn phụ thuộc vào kỳ hạn thực tế của nguồn – kỳ hạn được tính cho cả một nguồn vốn trong một khoảng thời gian, nó là thước đo thời gian trung bình của dòng tiền dự tính đi ra khỏi ngân hàng. Tuy nhiên, kỳ hạn thực tế phụ thuộc nhiều vào kỳ hạn gửi tiền của khách hàng, mỗi loại khách hàng gửi vào ngân hàng đều nhằm một mục đích nhất định, mục đích này chỉ thay đổi khi có những biến cố lớn xảy ra như tin đồn ngân hàng sắp phá sản, kế hoạch sản xuất kinh doanh bị đảo lộn. Tiền gửi không kỳ hạn có tính ổn định thấp vì khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào, mục đích của khách hàng khi sử dụng sản phẩm này không phải là hưởng lãi mà là để thanh toán (séc, thẻ )hoặc gửi tiền có tính chất tạm thời và ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi có kỳ hạn, trái phiếu, kỳ phiếu thường có tính ổn định cao hơn. Đối tượng gửi tiền có kỳ hạn thường với mục đích hưởng lãi, nếu họ rút trước thời hạn thì sẽ không được hưởng lãi hoặc hưởng lãi thấp, do đó thông thường họ ít khi rút trước hạn. Nguồn vốn huy động từ trái phiếu, kỳ phiếu có tính ổn định và ngân hàng có thể dự tính được thời hạn của nó một cách chắc chắn. ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại quốc doanh thường phát hành kỳ phiếu theo những đợt nhất định, tuy nhiên nguồn vốn này vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Nguồn vốn ổn định thì sẽ đáp ứng và mở rộng được các khoản tín dụng dài hạn, cơ cấu tín dụng dài hạn sẽ tăng. Ngược lại, nếu tỷ trọng tiền gửi giao dịch quá lớn tức là nguồn vốn không ổn định, quy mô vốn huy động không lớn, ngân hàng sẽ không thể mở rộng tín dụng dài hạn, thậm chí quy mô tín dụng cũng không lớn vì tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn được phép cho vay nhỏ. Đặc biệt ở Việt Nam, khi mà mọi giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt chưa phổ biến, lượng tiền gửi giao dịch còn chiếm tỷ trọng nhỏ (10%). Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng dài hạn do nguồn vốn huy động chủ yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn. Do đó tính ổn định của nguồn làm biến đổi cơ cấu tín dụng xét theo thời hạn, nguồn vốn kém ổn định thì tỷ trọng tín dụng dài hạn sẽ giảm và ngược lại, nguồn vốn ổn định thì tỷ trọng tín dụng dài hạn tăng.
* Cơ cấu nguồn:
Đặc điểm kinh doanh ngân hàng là chủ yếu huy động tiền gửi để cho vay, ngân hàng thương mại có thể thu hút vốn từ nhiều nguồn như từ huy động tiền gửi, vay các tổ chức tín dụng khác, vay ngân hàng Nhà nước ... Nhìn chung giá cả của nguồn huy động thấp hơn so với các nguồn khác, nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng cao nhất và các ngân hàng “ưa thích” nguồn này nhất . Giá cả của nguồn huy động phụ thuộc vào cơ cấu nguồn xét theo kỳ hạn. Với loại tiền gửi không kỳ hạn như tiền gửi giao dịch, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn ..., ngân hàng có thể chịu một số chi phí như chi phí xử lý séc và chi phí quản lý tài khoản nhưng nhìn chung, việc ngân hàng không phải trả lãi hay chỉ phải trả lãi với một mức lãi suất không đáng kể so với tiền gửi có kỳ hạn, đây là nguồn vốn rẻ của ngân hàng . Hơn nữa, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tạo nên tồn khoản, cho phép ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh. Nếu ngân hàng ưu thế trong việc huy động tiền gửi không kỳ hạn thì chi phí nguồn vốn sẽ giảm, điều này tác động đến giá cả tín dụng.
Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh, đặc biệt là ngân hàng Ngoại Thương luôn có nguồn vốn rẻ tương đối so với các ngân hàng khác nhờ lượng vốn không kỳ hạn huy động được khá lớn do đó có ưu thế trong cạnh tranh lãi suất. Để cạnh tranh trong việc huy động vốn, các ngân hàng cổ phần thường phải đặt giá vốn huy động cao hơn so với các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng này cũng không thu hút được nhiều tiền gửi không kỳ hạn nên chi phí vốn luôn cao. Với chi phí vốn như thế, các ngân hàng thương mại cổ phần không thể đặt giá tín dụng thấp và có nhiều ưu đãi về lãi suất với khách hàng, vì thế thông thường khách hàng chính của các ngân hàng này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, người tiêu dùng. Các ngân hàng thương mại quốc doanh có ưu thế trong viêc thu hút các doanh nghiệp lớn như tổng công ty. Do đó chi phí vốn cũng tác động đến cơ cấu tín dụng xét theo đối tượng vay vốn.
Chi phí tín dụng cũng gián tiếp tác động đến cơ cấu tín dụng xét theo tài sản đảm bảo. Do đặc điểm của các doanh nghiệp Nhà nước nên tỷ trọng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước chi phối tỷ trọng tín dụng có đảm bảo trên tổng dư nợ. Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP và nghị định 85/2002/NĐ-CP thì ngân hàng được phép cho vay không có tài sản đảm bảo đối với các loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên, hiện nay hầu hết các ngân hàng mới chỉ cho vay không có tài sản đảm bảo đối với doanh nghiệp Nhà nước. Do đó nếu trong cơ cấu khách hàng mà tỷ trọng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh cao thì có thể dẫn tới tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo cao trọng dư nợ cho vay.
Qua đó ta có thể thấy mỗi loại nguồn vốn huy động có những đặc tính riêng có thể tác động đến cơ cấu tín dụng. Nếu như một ngân hàng muốn điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tăng tỷ trọng tín dụng dài hạn thì không thể không xem xét đến việc tăng tỷ trọng nguồn huy động dài hạn. Ngược lại, nguồn vốn có tính ổn định cao lại có chi phí cao, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh, đến hoạt động tín dụng của ngân hàng, ngân hàng không thể thu hút được những đối tượng khách hàng lớn do không thể có ưu đãi về lãi suất. Do đó, trên cơ sở thực tế, mỗi ngân hàng phải có kế hoạch chiến lược cân đối vốn để tạo thế mạnh trong cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu về hoạt động tín dụng của mình và cân đối với cơ cấu tín dụng.
2.2.2. Quy định pháp lý.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng có vai trò rất lớn đối với trạng thái rủi ro và an toàn trong hoạt động ngân hàng, do đó nó chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các quy định pháp lý. Một số loại hình, khoản cho vay bị hạn chế hoặc bị cấm. Ví dụ như các khoản cho vay kinh doanh bất động sản không được vượt quá quy mô vốn cổ phần và thặng dư vốn hay vượt quá 70% tổng dư nợ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn của một ngân hàng. Theo quyết định1627/01/QĐ- NHNN, tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của một tổ chức tín dụng, trừ những khoản vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Quy định hạn mức cho vay và bảo lãnh đối với mỗi chi nhánh ngân hàng, các tổng công ty 90, 91 vay vốn không cần đảm bảo sẽ tác động đến cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo cũng như theo đối tượng khách hàng. Các quy định về đối xử bình đẳng với khách hàng cũng tác động đến cơ cấu tín dụng.
Tuỳ theo mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể đưa ra những chính sách khuyến khích hoặc hạn chế đối với các lĩnh vực kinh tế. Nếu như Chính phủ muốn chú trọng đến một ngành nghề, lĩnh vực kinh tế nhất định như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, thì sẽ có các biện pháp tác động vào hoạt động tín dụng như bảo lãnh, cho vay theo chỉ định với lãi suất ưu đãi ... Điều này cũng làm thay đổi cơ cấu tín dụng. Hơn nữa, để phục vụ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ, hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng c._.hịu tác động của các chính sách như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn ... Nếu NHNH tăng lãi suất tái cấp vốn cao buộc các ngân hàng phải hạn chế các khoản cho vay để đề phòng thiếu hụt vốn, tất yếu sẽ làm thay đổi cơ cấu tín dụng.
2.2.3. Quy mô của ngân hàng
Quy mô của ngân hàng có thể xem xét theo các yếu tố như tổng tài sản, tổng nguồn vốn huy động, tổng vốn chủ sở hữu, nhưng yếu tố cơ bản nhất vẫn là vốn chủ sở hữu. Như trên đã trình bày, quy mô vốn chủ sở hữu được sử dụng để xác định mức cho vay tối đa đối với một khách hàng. Các ngân hàng lớn thường cung cấp chủ yếu các khoản tín dụng trị giá lớn cho các công ty lớn và các hãng kinh doanh do đó họ thu hút được lượng tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn lớn, giá cả nguồn vốn huy động sẽ thấp. Trong khi đó, các ngân hàng nhỏ thường tập trung vào các khoản cho vay cá nhân trị giá nhỏ, cho vay trả góp, cho vay mua nhà thế chấp, cho vay nông nghiệp. Quy mô vốn chủ sở hữu tác động đến nhiều yếu tố như quyền phán quyết tín dụng, khả năng chủ động trên thị trường về lãi suất , đến khả năng cạnh tranh.Thông thường, các ngân hàng quy mô vốn nhỏ chỉ quan hệ chặt chẽ với một vài lĩnh vực rất nhạy cảm, dễ bị tác động của môi trường.
Khách hàng đến với ngân hàng còn vì một yếu tố khác đó là uy tín của ngân hàng, khách hàng của các ngân hàng thường có tính trung thành cao. Do đó các ngân hàng có quy mô vốn lớn dễ dàng thu hút được cả những khách hàng lớn cũng như cá nhân người tiêu dùng. Đặc biệt ở nước ta, do đặc điểm lịch sử hình thành của các ngân hàng thương mại, do mới chuyển đổi cơ chế kinh tế, do tâm lý, do quy mô vốn, các Ngân hàng thương mại quốc doanh có ưu thế rất nhiều trong việc thiết lập quan hệ với khách hàng.
Như vậy, quy mô vốn của ngân hàng ảnh hưởng cả trực tiếp lẫn gián tiếp tới cơ cấu tín dụng xét theo nhiều khía cạnh đối tượng vay vốn, mục đích sử dụng vốn, thời hạn và tài sản đảm bảo.
2.2.4. Đặc điểm thị trường nơi ngân hàng hoạt động.
Mỗi ngân hàng có trách nhiệm trước hết là đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng trong thị trường của mình, nơi ngân hàng đặt trụ sở. Sự phát triển kinh tế cũng như cơ cấu kinh tế của thị trường tác động tới cơ cấu tín dụng của ngân hàng. Khác với nhiều ngành sản xuất, thường đặt cơ sở tại những địa điểm gần khu vực nguyên nhiên vật liệu, lao động, kinh doanh ngân hàng là một ngành dịch vụ, cung cấp các sản phẩm tài chính, mang lại những tiện ích cho khách hàng, hỗ trợ cho khách hàng về mặt tài chính, giúp khách hàng phát triển trên lĩnh vực kinh doanh của mình. Hơn nữa do yêu cầu về quản lý giám sát tín dụng, cũng như sự tiện lợi về mặt cung cấp, thụ hưởng tín dụng mà khách hàng thường chỉ giao dịch với ngân hàng trên địa cùng địa bàn. Những địa bàn tập trung đông dân cư, ít các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì nhu cầu chủ yếu là các khoản vay nhỏ như vay tiêu dùng, vay cho sản xuất nông nghiệp ..., thời hạn các khoản vay này thường không quá dài, ngắn hạn hoặc trung hạn. Do đó những ngân hàng ở đây sẽ phải phát triển tín dụng tiêu dùng, đối tượng khách hàng cũng như cơ cấu tín dụng về thời hạn sẽ kém đa dạng hơn so với của những ngân hàng ở vùng công nghiệp phát triển, ở trung tâm thành phố.
Tất nhiên, ngân hàng không phụ thuộc hoàn toàn vào khu vực hoạt động của mình, họ có thể mua lại các khoản vay hoặc toàn bộ hoặc một phần từ ngân hàng khác, hoặc cùng tham gia đồng tài trợ với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay nghiệp vụ mua lại các khoản vay chưa được các ngân hàng thương mại áp dụng mà chỉ được áp dụng ở Ngân hàng Nhà nước. Có thể nhờ ảnh hưởng của các yếu tố như uy tín, chiến lược cạnh tranh, tiềm lực của ngân hàng mà ngân hàng thu hút thêm được các khách hàng từ khu vực thị trường khác. Nhưng nhìn chung, các ngân hàng chủ yếu hoạt động trong thị trường đã lựa chọn và phần lớn các khoản tín dụng đều bắt nguồn từ thị trường này và đặc điểm thị trường là nhân tố khá quan trọng tác động đến cơ cấu tín dụng của ngân hàng thương mại xét trên nhiều khía cạnh.
2.2.5. Thu nhập dự tính từ các khoản vay
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ, với mục tiêu là lợi nhuận, nên yếu tố lợi nhuận hay thu nhập dự tính sẽ ảnh hưởng tới quyết định của mỗi hoạt động ngân hàng. Ngân hàng luồn muốn cung cấp những khoản tín dụng mang lại thu nhập dự tính cao nhất sau khi đã tính tới toàn bộ chi phí và rủi ro tín dụng. Thông thường lợi nhuận luôn tỷ lệ thuận với rủi ro nhưng có thể hạn chế rủi ro bằng cách nâng cao chất lượng thẩm định, giám sát các khoản vay ... Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng hơn, các ngân hàng đang phát triển các khoản cho vay thương mại, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay tiêu dùng vì chúng có tỷ lệ thu nhập ròng khá cao so với các khoản vay khác. Những khách hàng vay tiêu dùng dường như kém nhạy cảm với lãi suất, họ chỉ quan tâm tới khoản tiền mà họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất nên đây là một trong những sản phẩm có thu nhập cao mà nhiều ngân hàng trong quá trình đa dạng hoa dịch vụ đang theo đuổi. Điều này làm tỷ trọng các hình thức tín dụng thay đổi, từ đó làm thay đổi cơ cấu tín dụng.
ở Việt Nam các Ngân hàng thương mại quốc doanh giao dịch chủ yếu với các khách hàng lớn, dư nợ tín dụng của các khách hàng này chiếm tỷ trọng lớn( trên 50%), mặc dù phải có nhiều ưu đãi với đối tượng khách hàng này nhưng tính an toàn cao vì được Nhà nước đảm bảo, các khoản tín dụng có quy mô lớn nên thu nhập từ các khoản cho vay này có nhiều khả quan. Trong xu hướng cạnh tranh ngày càng gia tăng, sự phát triển của các nhu cầu và lợi ích từ các khoản cho vay tiêu dùng cho vay kinh doanh thương mại với các đối tượng ngoài quốc doanh, các Ngân hàng thương mại quốc doanh cũng đang mở rộng các hoạt động tín dụng của mình. Trong thời gian tới, tỷ trọng các khoản cho vay ngoài quốc doanh có xu hướng tăng.
Ngoài ra còn rất nhiều nhân tố tác động tới cơ cấu tín dụng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng, rủi ro của các loại hình tín dụng, bộ máy quản lý... Tất cả những yếu tố này tạo nên cơ cấu tín dụng đặc trưng cho mỗi ngân hàng
3. Điều chỉnh cơ cấu tín dụng
3.1. Khái niệm điều chỉnh cơ cấu tín dụng.
Điều chỉnh cơ cấu tín dụng là cơ cấu lại một hay một số yếu tố cấu thành tín dụng về quy mô, tỷ trọng cho phù hợp, hợp lý hơn.
Những yếu tố cấu thành nên tín dụng được xem xét tuỳ theo mỗi tiêu thức nhất định. Nếu xem xét cơ cấu tín dụng theo thời hạn thì tín dụng bao gồm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Nếu xem xét tín dụng theo thành phần kinh tế thì bao gồm tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh và tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu xem xét tín dụng theo mức độ đảm bảo thì bao gồm tín dụng có đảm bảo và tín dụng không có đảm bảo.
3.2. Mục đích điều chỉnh cơ cấu tín dụng
3.2.1. Nhằm phù hợp với cơ cấu nguồn
Tất cả các yếu tố như quy định pháp lý, quy mô ngân hàng, đặc điểm thị trường nơi ngân hàng hoạt động tác động làm biến đổi cơ cấu tín dụng. Những nhân tố đó kết hợp tạo nên đặc trưng riêng của cơ cấu tín dụng của mỗi ngân hàng, điều này tạo nên cầu riêng về nguồn vốn đối với mỗi ngân hàng thương mại. Các ngân hàng huy động vốn trên cơ sở đó phân phối vốn và chính hoạt động này quyết định hiệu quả hoạt động của toàn bộ ngân hàng. Do đó cung và cầu về nguồn vốn luôn có ảnh hưởng tương hỗ lẫn nhau. Cơ cấu nguồn vốn làm cơ sở cho việc mở rộng hay thu hẹp các khoản tín dụng, cơ cấu tín dụng định hướng cho ngân hàng để ngân hàng có chiến lược dài hạn trong huy động vốn. Nếu như cơ cấu của các khoản vay trung dài hạn, đặc biệt là dài hạn lớn thì cần có nguồn vốn đáp ứng được sự hoà hợp về kỳ hạn, vì vậy ngân hàng cần có chiến lược để huy động nguồn vốn ổn định hơn. Do đó, để đáp ứng được sự phù hợp giữa nguồn vốn và sử dụng vốn thì ngân hàng cần phai điều chỉnh cơ cấu tín dụng.
2.3.2.Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một thuật ngữ phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM, nó được cấu thành bởi hai yếu tố: mức độ an toàn tín dụng và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại. Như vậy nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc phải tối thiểu hoá rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời của các khoản tín dụng.
* Giảm thiểu rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng ngân hàng không thu hồi được một phần hay toàn bộ khoản thanh toán đúng hạn mà người nhận nợ cam kết. Trong các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, tín dụng là nguồn mang lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng ( lớn hơn 70%) nhưng rủi ro tín dụng có khả năng dẫn đến tổn thất lớn nhất cho ngân hàng.
Cơ cấu tín dụng nếu xét theo thời hạn tín dụng, đối tượng tín dụng, tài sản đảm bảo đều có những ảnh hưởng nhất định tới rủi ro tín dụng. Nếu xem xét theo thời hạn tín dụng, tỷ trọng tín dụng dài hạn càng lớn thì rủi ro càng tăng và ngược lại, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn càng cao, rủi ro càng thấp. Sở dĩ như vậy một phần là do giá trị thời gian của tiền, một phần do rủi ro đạo đức và những biến động kinh tế có thể dẫn đến những khoản tín dụng dài hạn khó có khả năng thu hồi được hơn những khoản tín dụng ngắn hạn. Mặc dù tín dụng dài hạn đã được thẩm định một cách chặt chẽ nhưng thời gian cho vay càng dài, việc dự báo về rủi ro càng kém chính xác hay rủi ro càng cao. Trong dài hạn, những biến động kinh tế, pháp lý ... tác động đến hiệu quả của việc sử dụng vốn vay do đó tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng. Giá cả của các khoản tín dụng dài hạn thường phải cộng thêm phần bù rủi ro, nếu ngân hàng có thể kiểm soát được rủi ro, có thế mạnh trong thẩm định dự án thì có thể tận dụng được thế mạnh này để mở rộng tín dụng trung và dài hạn.
Nếu xem xét cơ cấu tín dụng theo mức độ đảm bảo thì tín dụng được cấu thành bởi tín dụng có đảm bảo và tín dụng không có đảm bảo. tín dụng có tài sản đảm bảo không những hạn chế được tổn thất cho ngân hàng mà còn có tác dụng hạn chế rủi ro tín dụng. Khi cho vay trên cơ sở tài sản đảm bảo, ngân hàng chỉ cho vay với một tỷ lệ thường là thấp hơn so với giá trị tài sản đảm bảo, từ đó nó tạo điều kiện ràng buộc với đối tượng vay vốn phải trả nợ để nhận lại tài sản đảm bảo.
Từ đó, với mục tiêu an toàn, ngân hàng sẽ điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tăng tỷ trọng tín dụng có tài sản đảm bảo và tỷ trọng tín dụng ngắn hạn.
* Tăng khả năng sinh lời
Cơ cấu tín dụng tác động trực tiếp và gián tiếp tới khả năng sinh lời của ngân hàng. Như chúng ta đã biết, các khoản vay dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vay tiêu dùng, ở Việt Nam là dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường có lãi suất cao hơn và do điều kiện tiếp cận với nguồn vốn tín dụng nên các đối tượng này có thể chấp nhận được sự chênh lệch lãi suất nhất định, do đó nếu ngân hàng nâng cao được hiệu quả thẩm định và giám sát tín dụng thì khả năng sinh lời của các khoản vay này khá cao. Tương tự, đối với tín dụng trung và dài hạn, trên lý thuyết thì nó có tính rủi ro cao hơn nhưng cũng có tính sinh lời cao, ngày nay với sự phát triển của công nghệ ngân hàng, chúng ta có thể có nhiều cách để hạn chế rủi ro. Do đó cơ cấu tín dụng trực tiếp tác động tới lợi nhuận của ngân hàng theo tính chất của từng khoản vay, nó cũng tác động tới rủi ro tín dụng và từ đó tác động tới lợi nhuận của ngân hàng.
Với mục tiêu tăng khả năng sinh lời, ngân hàng sẽ hướng đến những khoản tín dụng tiêu dùng, tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh, tín dụng trung và dài hạn.
Qua đó ta có thể thấy cơ cấu tín dụng chịu tác động của nhiều yếu tố cũng như tác động tới nhiều yếu tố trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một cơ cấu tín dụng được xem là hợp lý khi nó phù hợp với điều kiện thực tế của ngân hàng cũng như của môi trường kinh tế.
3.3. Nội dung điều chỉnh cơ cấu tín dụng
Mỗi ngân hàng có một hướng điều chỉnh cơ cấu tín dụng riêng dựa trên cơ sở các yếu tố như nguồn vốn, nhu cầu vay vốn, mục tiêu của ngân hàng trong giai đoạn đó và các nhân tố ảnh hưởng khác.
Trên cơ sở các yếu tố khác, nếu mục tiêu của ngân hàng là sinh lời thì ngân hàng sẽ tập trung nhiều hơn vào các khoản tín dụng có tính sinh lời cao như cho vay tiêu dùng, cho vay trung và dài hạn... Nếu mục tiêu của ngân hàng là an toàn thì ngân hàng sẽ tập trung vào các khoản tín dụng có tính an toàn cao như tín dụng ngắn hạn, tín dụng có tài sản đảm bảo.... Mỗi ngân hàng đều muốn kết hợp các mục tiêu an toàn, sinh lời, phát triển trong hoạt động kinh doanh của mình, nhưng mỗi ngân hàng sẽ coi trọng những mục tiêu khác nhau. Và cũng tuỳ vào điều kiện thực tế mà mỗi ngân hàng phải điều chỉnh một hay nhiều chỉ tiêu:
+ Điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo
+ Điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng
+ Điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo thời hạn
....
Để điều chỉnh cơ cấu tín dụng, ngân hàng phải có những chính sách, biện pháp cụ thể để tăng hay giảm quy mô, tỷ trọng của các thành phần cấu thành nên tín dụng. Việc điều chỉnh cơ cấu tín dụng lại phải phụ thuộc nhiều vào nhu cầu tín dụng của khách hàng, do đó muốn điều chỉnh cơ cấu tín dụng của ngân hàng thương mại, những chính sách, biện pháp đó của ngân hàng phải tác động vào nhu cầu khách hàng, phải có tác dụng thúc đẩy hay hạn chế một hay nhiều loại nhu cầu tín dụng cần điều chỉnh.
Chương II. Thực trạng cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
1. Khái quát chung về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Năm 1986, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng một cấp không còn phù hợp, đòi hỏi ngành ngân hàng phải có sự đổi mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Hệ thống ngân hàng hai cấp ra đời theo nghị định 53/HĐBT. Cũng theo nghị định này, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương được tách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước huyện Gia Lâm và trực thuộc Ngân hàng Công Thương Hà Nội. Chi nhánh được thành lập chính thức vào năm 1993, trở thành chi nhánh cấp I, trực thuộc Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương có trụ sở tại km10 đường Nguyễn Văn Cừ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Chi nhánh có đặc điểm riêng biệt, có ưu thế là nằm trên địa bàn tập trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, hơn nữa ở đây các hoạt động thương mại dịch vụ cũng khá phát triển, mức sống dân cư khá cao so với mặt bằng chung của cả nước. Trên địa bàn này sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại còn chưa cao vì số lượng ngân hàng hoạt động còn ít, chỉ có ba ngân hàng thương mại quốc doanh là Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương, Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Gia Lâm, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Gia Lâm và một phòng giao dịch của ngân hàng Kỹ Thương. Ngân hàng mạnh trong lĩnh vực tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và có uy tín trên thị trường quốc tế như ngân hàng Ngoại Thương vẫn chưa có mặt tại đây. Do đó với ưu thế về công nghệ ngân hàng, vốn, đặc trưng của ngân hàng, Chi nhánh đã chiếm lĩnh được thị phần quan trọng trên địa bàn. Hơn nữa, Chi nhánh còn có hai quỹ tiết kiệm đặt tại quận Ba Đình_ trung tâm của thủ đô Hà Nội và hai phòng giao dịch ở Yên Viên và Sài Đồng hai khu công nghiệp phát triển khá mạnh, do đó Chi nhánh có điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường sang các quận nội thành và xâm nhập sâu vào thị trường của mình.
Là chi nhánh của ngân hàng Công Thương Việt Nam nên Chi Nhánh ngân hàng công thương Chương Dương là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Theo điều 30 của Điều lệ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng Công Thương Việt Nam (phê chuẩn theo Quyết định số 327/QĐ-NH5 ngày 4-10-1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì chi nhánh ngân hàng Công Thương Chương Dương là đại diện uỷ quyền của ngân hàng Công Thương, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của ngân hàng Công Thương, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với Ngân hàng Công Thương. Ngân hàng Công Thương chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ phát sinh do sự cam kết của các đơn vị này. Chi nhánh được ký kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực hiện các hoạt động kinh doanh, tổ chức và nhân sự theo sự phân cấp uỷ quyền của Ngân hàng Công Thương.
Hơn mười năm xây dựng và trưởng thành, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương đã gặp không ít khó khăn, thậm chí va vấp trong buổi đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Nhưng đến nay, Chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động kinh doanh của mình và liên tục trong ba năm 2000, 2001, 2002 là lá cờ đầu trong hệ thống Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
1.2.1. Tổ chức bộ máy
Với quy mô lao động gồm hơn 200 cán bộ, nhân viên, Chi nhánh có một lực lượng lao động trẻ, trình độ học vấn khá cao. Đặc điểm của đội ngũ nhân viên trong ngân hàng là cán bộ, nhân viên nữ chiếm tỷ lệ lớn, hơn 70% trong tổng số lao động.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHCT Chương Dương:
1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
Phòng nguồn vốn:
Phòng đầu vào của ngân hàng, có chức năng huy động vốn của các thành phần kinh tế , đặc biệt là trong dân cư – nguồn huy động vốn rất lớn xét trong tổng thể NHCT VN nói chung. Phòng này trực tiếp quản lý các quỹ (12 quỹ) và giao dịch với các khách hàng lớn là các doanh nghiệp
Phòng kinh doanh nội tệ:
Phòng có chức năng thực hiện cho vay và đầu tư các dự án đối với doanh nghiệp nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh có lãi. Nhiệm vụ chủ yếu của phòng là thực hiện nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh. Tất cả các cán bộ tín dụng của Chi nhánh đều có thể thực hiện các nghiệp vụ liên quan. Mỗi cán bộ tín dụng thực hiện quản lý một số khách hàng nhất định, chịu trách nhiệm cho vay, theo dõi các khoản vay, đôn đốc khách hàng vay vốn thực hiện việc hoàn trả các khoản vay theo đúng kỳ hạn của hợp đồng.
Phòng tài chính kế toán:
Thực hiện xử lý các giao dịch, hạch toán cho vay và bảo lãnh, hạch toán tài khoản vốn, đáp ứng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp như thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ, hướng dẫn và tư vấn cho khách hàng mở tài khoản tại Chi nhánh.
Phòng kinh doanh ngoại tệ: có 5 chức năng chính:
- Hạch toán kế toán: hạch toán các nghiệp vụ phát sinh như chuyển tiền đi chuyển tiền đến; các vấn đề liên quan đến L/C nhập, L/C xuất; hạch toán viẹc nhờ thu xuất nhập khẩu; thanh toán thể; mua bán chuyển đổi ngoại tệ ...
-Thanh toán quốc tế: thực hiện việc chuyển tiền đi chuyển tiền đến , nhờ thu xuất nhập khẩu, mở L/C xuất, L/C nhập và chiết khấu chứng từ .
-Mua bán ngoại tệ: chi nhánh được phép thực hiện với Hội sở chính, với các đơn vị nhưng không được tham gia trên thị trường liên ngân hàng.
- Chi trả kiều hối: Chi nhánh nhận các bản kê có từ hội sở chính chuyển về cho chi nhánh, hạch toán vào tài khoản phải trả và thông báo cho khách hàng.
- Thanh toán séc thẻ
Phòng hành chính tổ chức:
Phòng này có nhiệm vụ xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được giám đốc chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương phê duyệt; lưu trữ các văn bản pháp luật có liên quan đến ngân hàng và các quy định của Ngân hàng Công Thương Việt Nam; trực tiếp quản lý con dấu của chi nhánh, thực hiện công tác hành chính văn thư, bảo vệ, y tế ..; thực hiện công tác xây dựng cơ bản, chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho cán bộ công nhân viên; làm công tác tham mưu cho ban giám đốc trong việc tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực, đề bạt lương cho cán bộ công nhân viên.
Phòng kiểm soát
Phòng này có chức năng kiểm tra giám sát việc chấp hành quy trình nghiệp vụ kinh doanh theo quy định của pháp luật và các văn bản liên quan, đặc biệt là các chỉ số về đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng; các nguyên tắc, chế độ chính sách kế toán theo quy định của Nhà nước, của ngành Ngân hàng. Ngoài ra phòng còn phục vụ yêu cầu phối hợp với thanh tra ngân hàng và kiểm toán quốc tế, thông qua công tác kiểm tra kiểm soát để kịp thời đề ra các biện pháp sửa chữa những sai lệch, xử lý các sai phạm.
-Phòng kho quỹ:
Phối hợp với các phòng khác thực hiện quản lý thu chi tiền mặt, bảo quản hồ sơ, tài liệu; thực hiện kiểm quỹ cuối ngày, cuối tháng, cuối quý; kiểm đếm chọn lọc,phân loại tiền; quản lý an toàn kho quỹ.
- Chi nhánh trực thuộc:
Tại các Chi nhánh này thực hiện hạch toán phụ thuộc và chịu sự quản lý của Chi nhánh NHCT Chương Dương. Hai Chi nhánh này được phép thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh theo chức năng của mỗi phòng hiện có.
-Quỹ tiết kiệm:
Thực hiện các nghiệp vụ về công tác nhận và chi trả tiền gửi của dân cư theo đúng thể lệ, chế độ, quy định hiện hành của Ngân hàng Công Thương; đảm bảo an toàn quỹ tiền mặt, các loại chứng từ có giá, thẻ phiếu trắng, hồ sơ lưu về khách hàngvà quản lý tốt tài sản, trang thiết bị làm việc; tuyên truyền , thu thập ý kiến, phản ánh kịp thời cho Giám đốc Chi nhánh.
1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Chương Dương trong thời gian vừa qua.
1.3.1. Công tác huy động vốn
Nguồn vốn đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Nhận thức rõ điều đó, ban lãnh đạo NHCT Chương Dương đã chủ động tích cực quan tâm phát triển nguồn vốn, mở rộng mạng lưới khách hàng với 12 quỹ. Các quỹ này được đặt ở những địa điểm thuận lợi cho khách hàng như gần chợ, ở những khu đông dân cư. Phòng nguồn vốn đã có nhiều biện pháp để thu hút khách hàng như đưa ra các dịch vụ tại quỹ như thu đổi ngoại tệ, thu tiền tại quỹ (gần doanh nghiệp), chính sách chăm sóc khách hàng được thực hiện tốt. Hơn nữa, nhờ sự chỉ đạo linh hoạt của NHCT Việt Nam nên công tác huy động vốn tăng trưởng khá.
Cụ thể tình hình huy động vốn và sử dụng vốn ở Ngân hàng Công Thương Chương Dương như sau:
Bảng1: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
TG tiết kiệm
TG doanh nghiệp
Trái phiếu kì phiếu
Tổng
Có KH
Không KH
Có KH
Không KH
2000
418,9
15,1
407
352
29
1212
2001
609
14
536
400
24
1667
2002
804,2
17,6
962
583,4
109
2476
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Như vậy tổng vốn huy động tăng mạnh, năm 2001 tăng 455 tỷ tức là tăng 37% so với năm 2000, năm 2002 tăng 809 tỷ tức là tăng 48,53% so với năm 2001, vượt 23,5% so với kế hoạch. Trong đó vốn huy động bằng VNĐ tăng hơn 70%.
Về cơ cấu vốn thì tiền gửi từ doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, năm 2000 chiếm62% năm 2002 chiếm 67% trong tổng nguồn vốn huy động và tăng với tốc độ khá cao, năm 2002 tăng 609.4 tỷ đồng - đây là thuận lợi lớn cho Ngân hàng vì các tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn khá rẻ cho chi nhánh có ưu thế hơn trong cạnh tranh về lãi suất so với các ngân hàng khác. Nguồn vốn tăng trưởng cả nguồn tiền gửi doanh nghiệp và tiền gửi dân cư, đảm bảo tính ổn định và lãi suất huy động hợp lý. Qua đó chung ta có thể thấy khách hàng chủ yếu của chi nhánh là doanh nghiệp, và tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn của doanh nghiệp khá lớn - đây là nguồn vốn rẻ cho Ngân hàng.
Hệ thống mạng lưới huy động vốn bao gồm 12 quỹ tiết kiệm, tăng so với đầu năm 2002 1 quỹ. Nhiều quỹ có mức tăng trưởng đạt mức dư tiền gửi trên 100 tỷ như quỹ 56, quỹ 58, quỹ 59.
Riêng hai chi nhánh mới thành lập, tổng nguồn vốn huy động đều tăng; tại chi nhánh Sài Đồng, tổng nguồn vốn huy động đạt 334 tỷ đồng, tăng 187 tỷ, tốc độ tăng 127 % so với năm 2001, trong năm có mở thêm 1 quỹ tiết kiệm; tại chi nhánh Yên Viên, tổng nguồn vốn huy động đạt 126 tỷ, tăng 40 tỷ, tốc độ tăng 45% so với năm 2001.
Trong tình trạng khó khăn về nguồn vốn huy động của hệ thống Ngân hàng, để đạt được những chỉ số như trên, chứng tỏ những nỗ lực Chi nhánh chủ động tìm mọi biện pháp khơi thông nguồn vốn. Đến 31/12/2002 Chi nhánh chỉ phải nhận vốn điều hoà từ NHCT Việt Nam là 49 tỷ đồng trên tổng đầu tư và cho vay là 2.525 tỷ đồng.
1.3.2. Công tác kinh doanh đối ngoại
* Kinh doanh ngoại tệ
Bảng 2: Kết quả kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh
Đơn vị: triệu
Năm
Doanh số mua
Doanh số bán
Thu CL mua&bán (1000vnd)
USD
JPY
NT khác
USD
JPY
NT khác
2000
87
263
2,350
85
259
2,350
1.722.297
2001
100
552
2,130
102
556
2,130
2.015.357
2002
103
889
2,960
102
889
2,960
1.275.851
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ biến động không đồng đều một phần là do tỷ giá các đồng tiền biến động thất thường. Năm 2002, thu chênh lệch mua bán ngoại tệ giảm mạnh là do tỷ giá đồng Dollar Mỹ tăng ít, cả năm tỷ giá chỉ tăng 321đ/USD so với năm 2001 là 566đ/USD, do giá một số mặt hàng xuất khẩu giảm. Ngoài ra theo sự chỉ đạo của Ban giám đốc để phục vụ cho công tác tín dụng có khi kinh doanh ngoại tệ không có lãi.
* Hoạt động chi trả kiều hối
Bảng 3: Doanh số chi trả kiều hối của Chi nhánh
Đơn vị: USD
Tổng số món
USD
NT khác quy USD
Tổng
Tăng so với năm trước
Năm 2000
281
241.000
107.820
348.820
15%
Năm 2001
390
581.231
164.769
746.000
114%
Năm 2002
412
769.981
185.792
955.774
28%
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Doanh số chi trả kiều hối liên tục tăng qua các năm, lượng khách mở tài khoản cá nhân để người thân đi lao động ở nước ngoài gửi về tăng. Chi nhánh đã cử cán bộ chuyên trách làm công tác chi trả kiều hối với thái độ phục vụ nhiệt tình, niềm nở nên vừa làm tốt công tác khách hàng vừa rút ngắn được thời gian chi trả tiền.
* Hoạt động thanh toán L/C
Bảng 4: Hoạt động thanh toán L/C
Đơn vị: 1000 USD
Năm
L/C
Nhờ thu
Phí thu từ HĐKDĐN (1000VND)
L/C nhập
L/C xuất
Nhờ thu đến
Nhờ thu đi
Lượng
Trị giá
Lượng
Trị giá
2000
739
80.500
77
2.780
77 bộ= 2.474
19 bộ= 211
5.843.129
2001
827
86.600
54
1.500
124 bộ= 3.300
17 bộ= 257
7.261.031
2002
792
86.600
81
3.100
168 bộ= 3.500
14 bộ= 214
5.993.158
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Hoạt động thanh toán quốc tế của Chi nhánh cũng biến động không đều, sở dĩ như vậy là so hoạt động này chịu ảnh hưởng gián tiếp của nhiều chính sách liên quan đến các doanh nghiệp. Trong hai năm qua, Nhà nước có một số chính sách thay đổi trong việc quản lý hàng nhập. Năm 2001 một số mặt hàng xuất, hàng gia công buộc phải hạ giá và chuyển đổi không sử dụng hình thức thanh toán L/C nên lượng và trị giá thanh toán L/C giảm.
Mặc dù có nhiều biến động bất lợi cho hoạt động kinh doanh đối ngoại nhưng bằng sự nỗ lực để làm tốt chính sách khách hàng, sự vận dụng uyển chuyển và điều hành tốt cơ chế, quy định của NHCT Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban nên hoạt động kinh doanh đối ngoại vẫn đảm bảo daonh số phát triển so với năm 2001, phí thu được tăng mạnh vào năm 2001, tuy có giảm vào năm 2002 nhưng vẫn cao hơn so với năm 2000.
1.3.3. Công tác tín dụng
Trong điều kiện nước ta hiện nay, quy mô tín dụng và đầu tư quyết định quy mô và hoạt động của ngân hàng thương mại; chất lượng tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến mức an toàn của vốn đầu tư và là nhân tố quyết định thu nhập của ngân hàng, tạo hình ảnh cho ngân hàng, tạo lập quan hệ cho ngân hàng. Trước tình hình đó, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương đã luôn chú ý đến nghiệp vụ tài trợ nhằm đảm bảo tăng trưởng tín dụng lành mạnh, vững chắc, cung cấp các khoản tín dụng có chất lượng cao, lựa chọn khách hàng có khả năng trả nợ, những dự án khả thi để cho vay, hạn chế nợ quá hạn và nợ khó đòi tới mức thấp nhất có thể được, tăng thu nhập cho ngân hàng từ nghiệp vụ tín dụng.
Cụ thể, tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh thể hiện qua số liệu sau:
Bảng 5: Hoạt động tín dụng của Chi nhánh
Đơn vị: triệu đồng
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Doanh số cho vay
1.609.219
2.623.631
2.982.294
2. Doanh số thu nợ
1.237.111
2.412.273
2.412.273
3. Dư nợ
979.507
1.632.358
2.187.967
Phân theo thời hạn
+ Ngắn hạn
631.012
940.647
1.287.702
+Trung và dài hạn
348.495
691.731
910.645
Phân theo loại tiền
+VNĐ
833.560
1.380.876
1.920.608
+ Ngoại tệ
145.946
267.359
Phân theo TPKT
+ Nhà nước
815.850
1.475.174
1.977.450
+ Ngoài quốc doanh
163.657
31.083
210.517
Phân theo TSĐB
+ Có TSĐB
260.413
207.191
265.037
+ Không có TSĐB
718.398
1.425.194
1.922.930
Nợ quá hạn
42.725
31.083
20.545
Nguồn: Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
Tổng doanh số cho vay của Chi nhánh đã liên tục tăng qua các năm, năm 2001 tăng 1.014.412 triệu đồng (tức là tăng 94,8%) so với năm 2000, năm 2002 tăng 358.663 triệu đồng (tức là tăng 13,7%) so với năm 2001. Chỉ số này cho thấy khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của Chi nhánh ngày càng tăng.
Doanh số thu nợ của Chi nhánh qua các năm luôn đạt mức khá cao so với doanh số cho vay, tỷ lệ thu nợ so với doanh số cho vay trong năm 2000 đạt 77%, năm 2001 đạt 75%, năm 2002 đạt 81%. Doanh số thu nợ liên tục tăng trong 3 năm, năm 2001 tăng 59% so với năm 2000, năm 2002 tăng 47,8% so với năm 2001. Doanh số thu nợ cao phần nào chứng tỏ hoạt động tín dụng của Chi nhánh tăng cả về quy mô và chất lượng.
Một chỉ tiêu quan trọng khác phản ánh hoạt động kinh doanh của ngân hàng là dư nợ. Dư nợ cũng tăng mạnh qua các năm, trong đó dư nợ ngắn hạn luôn cao hơn so với dư nợ trung và dài hạn, tỷ lệ dư nợ ngắn hạn so với tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn năm 2000 là 64,4%, năm 2001 là 57,6%, năm 2002 là 58,4%. Đây là đặc điểm chung của các ngân hàng thương mại. So với một số ngân hàng khác, tỷ trọng các khoản vay trung và dài hạn trọng tổng đư nợ khá cao, có thể giải thích được điều này là do khách hàng vay vốn của Chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có nhu cầu đầu tư cho những dự án lớn, có tính dài hạn.
Bảng 5 cho thấy đặc điểm nổi bật của Chi nhánh là chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước, tỷ trọng dư nợ của khu vực này trên tổng dư nợ chiếm hơn 90% trong hai năm 2001 và 2002, năm 2000 chỉ số này là 83,3%; tỷ trọng tín dụng có tài sản đảm bảo thấp, chỉ có năm 2000 đạt 26,6%, hai năm 2001, 2002 chỉ đạt hơn 12% quá thấp so với chỉ tiêu của NHCT giao là 25% trên tổng dư nợ.
1.3.4. Kết quả hoạt động kinh doanh
Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tổng thu
104.829
129.315
153.183
Tổng chi
93.792
112.615
127.506
Lợi nhuận
11.307
16.700
25.678
Nguồn: Chi nhánh N._.a tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh, chuyển đổi cơ cấu tín dụng theo hướng tăng dần tỷ trọng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nỗ lực thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn. Làm được điều này, nhất thiết phải có những nới lỏng đối với khu vực ngoài quốc doanh, dặc biệt trong vấn đề tài sản đảm bảo, từ đó sẽ điều chỉnh được cơ cấu tài sản đảm bảo theo hướng tăng tỷ trọng cho vay không có tài sản đảm bảo của khu vực này, và điều chỉnh cân đối hơn nữa cơ cấu tài sản đảm bảo giữa hai khu vực nhà nước và ngoài quốc doanh. Để làm được điều này cần có những thay đổi nhất định trong nhiều mặt
2. Giải pháp đối với Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
2.1. Xây dựng chiến lược Marketting hỗn hợp
Marketting là một khái niệm khá mới mẻ đối với thị trường Việt Nam, nó thường bị nhầm lẫn với khái niệm “tiếp thị ”, nhưng thực hiện Marketting tức bao hàm nhiều hoạt động, phải kết hợp tất cả các công cụ kĩ thuật như chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính sách giao tiếp khuyếch trương. Mặc dù hiện nay Chi nhánh vẫn chưa có phòng Marketting riêng biệt nhưng việc xây dựng và thực hiện Marketing vẫn rất cần thiết và phải được thực hiện ở tất cả các công đoạn, tất cả mọi cán bộ ngân hàng đều phải ý thức thực hiện Marketting. Hiện nay Chi nhánh cũng đang từng bước áp dụng marketing vào kinh doanh bằng nhiều hình thức như ưu đãi với khách hàng truyền thống, da dạng hoá sản phẩm ... nhưng vẫn chưa có một chiến lược mang tính tổng thể và lâu dài. Bên cạnh việc duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ với ngân hàng, Chi nhánh cần xây dựng cho mình một chính sách khách hàng, chiến lược kinh doanh có định hướng vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, xây dựng cơ cấu cho vay kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ cấu chung của ngân hàng, đa dạng hoá đối tượng cho vay, mở rộng hơn nưa đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ gia đình dù đây là khách hàng nhỏ nhưng số lượng ngày càng đông đảo. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần chú trọng thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để làm được những điều này, Chi nhánh cần có một phòng hay một bộ phận Marketing riêng. Với mục tiêu điều chỉnh cơ cấu tín dụng, Chi nhánh cần quan tâm đến một số khía cạnh chủ yếu :
* Có một chính sách giá cả linh hoạt, hợp lý
Giá cả sản phẩm tín dụng của ngân hàng là lãi suất. Đối với ngân hàng, giá mua là chi phí các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động, giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá cả là lợi nhuận của ngân hàng. Khách hàng sẽ chọn mức lãi nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau.
Đặc điểm của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương là một Chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam – một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh có uy tín ở nước ta. Ngân hàng có nguồn tiền gửi thanh toán lớn từ các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp nhà nước khác. Đồng thời Chi nhánh có mạng lưới 12 quỹ nằm rải rác trên địa bàn do đó có một nguồn vốn khá dồi dào, có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng và có thể có được lãi suất cạnh tranh trên thị trường.Trong một số trường hợp, cấp tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường chịu nhiều rủi ro hơn và trong lãi suất cho vay có chứa phần bù rủi ro, lãi suất đối với khu vực này thường cao hơn các doanh nghiệp nhà nước, mức chênh lệch thường là từ 0,01- 0.03%. Tuy nhiên để thu hút khách hàng ngoài quốc doanh có khả năng tài chính mạnh, Chi nhánh cần tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tê và nên áp dụng một chính sách lãi suất thống nhất giữa hai khu vực kinh tế trên cơ sở lựa chọn những khoản vay có chất lượng tốt. Bên cạnh đó, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng ngành nghề, từng món vay, từng đối tượng khách hàng mà điều chỉnh linh hoạt lãi suất ưu đãi với từn khoản vay. Việc định giá chỉ nên dựa vào chất lượng khoản vay và phải triệt để xoá bỏ chênh lệch lãi suất vẫn tồn tại từ trước đến nay.
Đây chỉ là biện pháp mang tính chất thời điểm vì dễ bị bắt chước, các ngân hàng khác cũng có thể hạ lãi suất để thu hút khách hàng. Vì thế, ngân hàng cần chú trọng đến những khía cạnh khác của quá trình thực hiện Marketing.
* Thu thập thông tin và chủ động tìm đến khách hàng
Chi nhánh có thể thu thập thông tin về tình hình tài chính, năng lực quản lý của khách hàng từ nhiều nguồn như các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan quản lý nhà nước như thuế, hải quan, trung tâm thông tin tín dụng, các đối tác làm ăn với doanh nghiệp và từ chính bản thân doanh nghiệp. Muốn vậy, ngân hàng cần tạo mối quan hệ mật thiết với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp, với trung tâm thông tin tín dụng ...Làm được việc này, ngân hàng sẽ chuyển từ đối tượng bị động sang chủ động tìm kiếm khách hàng, từ đó tránh được sự phân tán vào các thông tin khách hàng cung cấp, nhiều khi là hấp dẫn đối với ngân hàng do khách hàng đã có sự điều chỉnh. Việc chủ động tìm kiếm khách hàng là biện pháp tiếp thị có hiệu quả, nhất là đối với doanh nghiệp mới thành lập, khách hàng mới quan hệ với ngân hàng lần đầu, kể cả khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Để chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng, Chi nhánh cần chú trọng đến chính sách giao tiếp khuyếch trương. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cái mà họ quan tâm là uy tín của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng mang lại. Vì thế, Chi nhánh cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách chế độ, thể lệ, thủ tục, điều kiện vay vốn, chính sách tín dụng của ngân hàng, giới thiệu các tiện ích để doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới đối với các thành phần kinh tế để khách hàng thấy được thiện chí của Chi nhánh và lợi ích khi quan hệ tín dụng với Chi nhánh. Chi nhánh có thể thu hút khách hàng dựa vào chính khách hàng của ngân hàng thông qua việc cải tiến thủ tục nhanh gọn về thời gian, tiến bộ về phong cách giao tiếp để khách hàng giới thiệu với bạn hàng của họ. Để được vay vốn, ngân hàng phải tiến hành các thủ tục từ khi lập hồ sơ đến khi hợp đồng tín dụng được ký kết, quá trình này đòi hỏi rất nhiều công đoạn, nhiều chữ ký, con dấu. Mặc dù đây là những quy định mang tính chất bắt buộc nhưng nhiều khi khách hàng không hiểu, họ cho đó là phiền hà, vì thế cán bộ tín dụng phải khéo léo giải thích cho họ hiểu, đồng thời cán bộ tín dụng cũng phải tiến hành hoàn tất thủ tục một cách nhanh chóng. Cán bộ tín dụng có thể hỗ trợ khách hàng trong việc lập dự án trên cơ sở thực tiễn để đáp ứng được những điều kiện vay vốn, trong một số trường hợp, việc này rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Để có thể tiếp cận khách hàng rộng hơn, Chi nhánh có thể triển khai việc giải thích các loại hình tín dụng, các dịch vụ ngân hàng trên mạng, kết hợp với việc giải đáp thắc mắc cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến thể lệ tín dụng hoặc tổ chức các hội nghị khách hàng. Điều quan trọng nhất là phải tạo dựng được niềm tin của khách hàng thông qua đội ngũ cán bộ và phải làm cho khách hàng hài lòng ngay cả khi họ không đạt được mục đích vay vốn của mình.
* Chiến lược sản phẩm
Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng. Ngược lại, nếu một sản phẩm không có tính hấp dẫn thì sẽ không thu hút được khách hàng. Trong hoạt động ngân hàng, rất khó có thể đưa ra một sản phẩm mới mà phải tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay, khi mà cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng diễn ra gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại.
Đối với các doanh nghiệp, Chi nhánh chủ yếu cho vay theo hai hình thức đó là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng có nhiều ưu điểm, phù hợp với những khách hàng không thời vụ, vay vốn và trả nợ thương xuyên. Hình thức này sẽ tiết kiệm vốn tối đa cho người vay vì khi bán hàng là ghi thẳng vào bên có để trả nợ, không phải vừa vay vừa đọng tiền như ở hình thức vay từng lần, nó cũng tạo điều kiện cho cán bộ nắm tình hình đơn vị vay, vì doanh số cho vay thể hiện qua doanh số mua vào, doanh số thu nợ thể hiện qua doanh số bán ra. Với phương thức cho vay này, doanh nghiệp và ngân hàng sẽ gắn bó với nhau hơn, ngân hàng có thể góp ý cho doanh nghiệp nếu thấy doanh nghiệp có những biều hiện chệch hướng trong hoạt động kinh doanh hay sử dụng vốn sai mục đích. Thông qua hình thức cho vay này, ngân hàng có thể giám đốc bằng tiền đối với doanh nghiệp. Nhìn chung, cho vay theo hạn mức là cách phản ánh tình hình kinh doanh của đơn vị rõ rệt vì thanh toán không dùng tiền mặt chưa phát triển nên doanh số cho vay thu nợ sẽ phản ánh đối tượng mua bán. Tuy nhiên hiện nay hình thức này chưa được áp dụng nhiều đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù họ có nhu cầu và đáp ứng đủ điều kiện để được vay vốn theo hình thức này (doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, vay vốn trả nợ thường xuyên, có tín nhiệm đối với ngân hàng). Nhiều doanh nghiệp chỉ được vay theo hình thức từng lần nên phải xé nhỏ tuần hoàn vốn tường xuyên thành những thương vụ riêng lẻ, có trường hợp họ phải lập tới 2-3 hợp đồng tín dụng một ngày để vay vốn mua hàng hoá phục vụ sản xuất, điều này gây nhiều phiền phức vì có nhiều thủ tục hành chính không cần thiết.
Ngoài các hình thức cho vay theo truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như cho vay đảm bảo bằng các khoản thu, bằng các giấy tờ có giá. Mặc dù nhà nước đã quy định cho phép cho vay đảm bảo bằng sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng bảo hiểm tiền gửi, hợp đồng khiến cho nhiều nhận thầu nhưng hiện nay, Chi nhánh chỉ mới áp dụng hình thức cho vay cầm cố sổ tiết kiệm do chính Chi nhánh phát hành. Điều đó có thể đảm bảo an toàn cho ngân hàng một cách tuyệt đối nhưng gây nhiều khó khăn cho khách hàng cũng như hạn chế việc mở rộng, đa dạng hoá khách hàng của ngân hàng. Trong nhiều trường hợp ngân hàng có thể đa dạng hoá các hình thức đảm bảo nhưng vẫn đảm bảo sự an toàn cho mình. Có thể tuỳ vào hình thức bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, thời hạn đáo hạn hợp đồng hay tuỳ từng ngân hàng phát hành sổ tiết kiệm mà Chi nhánh có những mức cho vay khách nhau trên cơ sở giá trị của những giấy tờ đó. Chi nhánh cũng có thể áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng các khoản thu theo tỷ lệ phần trăm so với khoản phải thu với điều kiện các doanh nghiệp phải trình đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình nhằm hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp. Những hình thức này được áp dụng sẽ không những thu hút được các đối tượng thuộc khu vực ngoài quốc doanh vì giúp họ giải toả được những khó khăn về tài sản đảm bảo, về điều kiện vay vốn, đáp ứng được những nhu cầu của họ mà còn tu hút được thêm nhiều khách hàng lớn là các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, việc thực hiện một cách tổng hợp các chính sách này sẽ giúp ngân hàng điều chỉnh được cơ cấu tín dụng và mở rộng tín dụng.
Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà” đây là một dịch vụ mà chưa có một ngân hàng nào cung ứng. Thực hiện dịch vụ này sẽ giúp ngân hàng có điều kiện đánh giá được tận nơi cơ sở vật chất, trang thiết bị của doanh nghiệp, đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho những khoản vay này có thể sẽ cao hơn bình thường nhưng với những tiện lợi của nó, chắc chắn khách hàng sẽ chấp nhận một chênh lệch lãi suất nhất định
Điều đáng chú ý là cần phải kết hợp đồng bộ các chính sách, chính sách giá cả linh hoạt, chính sách sản phẩm đa dạng sẽ không thể đến với khách hàng nếu không có chính sách giao tiếp khuyếch trương, ngược lại chính sách giao tiếp khuyếch trương sẽ không có hiệu quả nếu sản phẩm không đáp ứng đưọc nhu cầu của khách hàng, nhất là hiện nay, nhiều đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh vẫn còn e ngại việc tiếp xúc với NHTM quốc doanh, chưa thấy rõ được những đổi mới trong chính sách khách hàng của các ngân hàng hoặc gặp nhiều khó khăn để thoả mãn điều kiện vay vốn. Việc một số lượng đông đảo khách hàng đến với Chi nhánh sẽ khiến cho khách hàng phải tự cạnh tranh với nhau và hoàn thiện hơn để được sử dụng những tiện ích của Chi nhánh.
2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra
Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt ra trong quá trình thẩm định dự án , giúp ngân hàng chủ động trong việc ngăn chặn những dự án xấu, tài trợ cho những dự án có hiệu quả. Điều cốt yếu để mở rộng tín dụng đối với khu vực ngoài quốc doanh, thay đổi cơ cấu tài sản đảm bảo của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng như mở rộng tín dụng trung và dài hạn- hình thức tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro là phải nâng cao chất năng lực thẩm định dự án đầu tư
Trong quá trình thẩm định , cán bộ ngân hàng phải kiểm tra và đánh giá là:
+ Tư cách pháp lý
+ Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động sản xuất kinh daonh trong hai năm gần nhất
+ Khả năng quản lý, điều hành của các chủ doanh nghiệp
+ Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp
+ Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh
Ngân hàng căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tư cách pháp lý, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của doanh ngiệp và khả năng quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp.
Yếu tố tài sản thế chấp cũng được Chi nhánh quan tâm xét đến nhưng trên góc độ quản lý ngân hàng, thì đây không phải là yếu tố quan trọng nhất vì ngân hàng không trông đợi vào việc xiết nợ bằng cách thu hồi tài sản thế chấp của họ, ngân hàng luồn mong muốn thu hồi gốc và lãi vốn vay từ hoạt động kinh doanh của chính dự án mà họ đã cho vay. Đặc biệt, hiện nay đối với các doanh nghiệp nhà nước, hầu hết các khoản vay đều không có tài sản đảm bảo, Chi nhánh chỉ xem xét dựa vào tình hình tài chính và hiệu quả của dự án. Nhưng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì đây vẫn là một tiêu chí để Chi nhánh xét duyệt cho vay.
Yếu tố hiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định hơn cả, vì thế việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng. Nhưng trên thực tế, để thẩm định một dự án tốt hay xấu, có hiệu quả hay không, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có sự hiểu biết rộng trong nhiều lĩnh vực mà không thuộc phạm vi lĩnh vực nghiên cứu của ngân hàng. Vì thế, cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những quy định của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Tuân thủ những quy định của pháp luật về đầu tư còn giúp cho Chi nhánh có thể bảo vệ lợi ích của mình trong một số lĩnh vực mà nhìn chung các ngân hàng không đủ khả năng chuyên môn để thẩm định như trong các lĩnh vực kỹ thuật, xây dựng, môi trường... Nếu cần thiết, ngân hàng có thể nhờ vào các chuyên gia trong các lĩnh vực này.
Ngoài những thông tin về tình hình tài chính, quản lý, pháp lý của khách hàng, ngân hàng còn cần phải thu thập những thông tin như vị trí và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mức cầu về sản phẩm cùng loại trong những năm qua, thông tin về giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế..
Ngân hàng cũng cần phải tăng cường giám sát, kiểm tra khách hàng vay vốn để kịp thời nhắc nhở hoặc có biện pháp xử lý. Hiện nay, phòng tín dụng đã phân chia mỗi cán bộ tín dụng quản lý một số khách hàng, điều này góp phần tạo điều kiện dễ dàng cho việc giám sát các khoản vay. Tuy nhiên, để tránh tình trạng phối hợp giữa cán bộ tín dụng với khách hàng, ngân hàng nên luân chuyển cán bộ theo một khoảng thời gian nhất định hoặc khi thấy cần thiết trên cơ sở phân loại ngành nghề. Những nhóm cán bộ giám sát một loại ngành nghề nhất định.
Để góp phần thực hiện tốt những công việc trên, ngân hàng cần chú trọng đến việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, muốn vậy thì không thể không chú trọng tới công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Cơ cấu tín dụng công tác đào tạo cần tập trung theo trong điểm và đào tạo một cách toàn diện để thức sự có những cán bộ có đủ năng lực, trình độ, hiể biết về các sâu, rộng. Dưới con mắt khách hàng, cán bộ ngân hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đầu tiên của ngân hàng, nó phản ánh khả năng và năng lực của ngân hàng. Tác phong làm việc và giao tiếp, năng lực, nghiệp vụ, trình độ hiểu biết, là những yếu tố quan trọng cho việc lựa chọn ngân hàng của khách hàng, nó có tính chất quyết định sự gắn bó của khách hàng với ngân hàng.
Vì vậy ngoài việc khuyến khích cán bộ tín dụng tự nâng cao trình độ, ngân hàng còn phải thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích hoạt động kinh tế hay tổ chức các khoá học về kiến thức pháp lý như luât dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu. Ngân hàng cần nhờ đến sự giúp đỡ của cácchuyên gia về các lĩnh vực pháp luật, các cán bộ ngân hàng giỏi tham gia các buổi nói chuyện, toạ đàm....Ngân hàng cũng cần thường xuyên kiểm tra đánh giá và có khuyến khích về mặt vật chất đối với cán bộ công nhân viên.
2.3. Xem xét cho vay bằng không có tài sản đảm bảo đối với khu vực ngoài quốc doanh
Hiện nay, đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh mới chỉ cho vay không có tài sản đảm bảo với hai đối tượng là sinh viên theo quy định của Nhà nước và cán bộ công nhân viên của Chi nhánh. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa tiếp cận được với hình thức mới này. Thức tế, tài sản đảm bảo cũng chứa nhiều rủi ro khi có biến động về giá hoặc khi phát mại tài sản, giá trị bị giảm đi rất nhiều, đây chỉ là phương án thu nợ cuối cùng. Chi nhánh cần quan tâm đến quá trình trước, trong và sau khi cho vay hơn là xét đến tài sản đảm bảo. Mặc dù sẽ có nhiều rủi ro khi cho vay không có tài sản đảm bảo đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng ngân hàng có thể hạn chế một cách tối đa bằng việc lựa chọn khách hàng cho vay, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, giám sát sau khi cho vay một cách chặt chẽ hơn.
Ngân hàng có thể lựa chọn khách hàng đã được kiểm toán độc lập để cho vay không bảo đảm bằng tài sản. Kết quả kiểm toán độc lập sẽ loại bỏ đáng kể các sai lệch trong báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp ngân hàng nhận biết được năng lực thực về tài chính của người vay. Ngân hàng có thể lựa chọn và thử nghiệm dần với những khách hàng có uy tín đối với Chi nhánh, và có thể khuyến khích các khách hàng của mình làm việc với các tổ chức kiểm toán có uy tín hiện nay ở Việt Nam.
3. Kiến nghị
Trong thời gian qua, một số chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng đã được Nhà nước nói chung và ngành ngân hàng nói riêng sửa đổi, bổ sung nhằm phát huy vai trò của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn mới. Phần lớn các chính sách đó đã góp phần ngày càng hoàn chỉnh hơn cho cơ chế hoạt động của ngân hàng. Chẳng hạn như luật các tổ chức tín dụng, nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; thông tư 06/2000/TT-NHNH1 ngày 04/04/2000; quyết định 1627/2001/QĐ-NHNH1 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được áp dụng từ ngày 01/02/2002 thay cho quyết định 284/2000/QĐ-NHNH1 và gần đây nhất là nghị định 85/2002/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung nghị định 178 về bảo đảm tiền vay. Nghị đinh 85 là bước đột phá, cởi bỏ được nhiều tồn tại và nới lỏng nhiều đối với các vấn đề liên quan đến vay vốn như việc định giá tài sản thế chấp, vay, việc vay vốn không có tài sản thế chấp... . Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn nhiều bất cập trong các quy định, cơ chế vận hành và chậm trễ trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của cơ quan cấp trên.
3.1. Kiến nghị về một số chính sách, văn bản
+ Theo nghị định 85/NĐ-CP quy định, tài sản hình thành từ vốn vay phải xác định được quyền sở hữu hặc quyền quản lý, sử dụng, xác định được giá trị, số lượng,được phép giao dịch. Tuy nhiên một số loại vật thế chấp rất khó xác định giá trị hoặc phải chụi những rủi ro mang tính khách quankhó lường trước được do đó sản phẩm làm ra giá thấp, không đủ bù đắp chi phí và lãi vay ngân hàng. Kết quả ngân hàng phải gia hạn nợ, miễn giảm lãi khi có sự can thiệp của Chính Phủ. Do vậy Nhà nước cần có những hình thức bảo lãnh tín dụng để các ngân hàng thương mại mạnh dạn giải ngân vốn
+ Theo công văn số 1219/CV-NHCT hướng dẫn thực hiện bảo đảm tiền vay không cho phép cho vay cầm cố các chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm do các NHTM cổ phần phát hành, đây là một bất hợp lý. Có thể nó chứa dựng một mức rủi ro nhất định nhưng để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, NHCT cần quy định một mức vay vốn nhất định hoặc trao quyền cho các Chi nhánh quyết định mức vay vốn.
+ Cũng theo công văn 1219, đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, yêu cầu doanh nghiệp hàng ngân hàng năm phải được kiểm toán và có xác nhận của tổ chức kiểm toán, quy định này chưa rõ ràng và khắt khe vì nhiều doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập, ngay cả đối với doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng đủ điều kiện này vì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu được kiểm toánthì cũng chỉ trong năm gần đây nhất.
3.2. Kiến nghị với UBND, ban ngành các cấp
Sở nhà đất và sở địa chính cần khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các giao lưu dân sự nói chung và điều kiện cần thiết cho việc thế chấp tài sản nói riêng. Đề nghị các cơ quan ban ngành, UBND tạo điều kiện hỗ trợ các hoạt động của ngân hàng như trong việc chứng nhận các thủ tục, hợp pháp hoá tài sản thế chấp, hỗ trợ khi kê biên và đấu giá tài sản...
+ Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng. Nâng cao chất lượng phân tích tổng hợp được và phải chủ động phản hồi cho các ngân hàng những vấn đề cần lưu ý đến các doanh nghiệp đã và đang là khách hàng của các ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần quy định chặt chẽ kỷ luật cung cấp thông tin tín dụng của các ngân hàng vê trung tâm thông tin tín dụng, áp dụng các chế tài cần thiết để thúc đẩy các ngân hàng quan tâm đầy đủ về nội dung và thời gian cung cấp thông tin tín dụng, chẳng hạn ngân hàng nào chấp hành không tốt có thể nâng cao lãi suất tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc. Hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thông tin tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của thông tin tín dụng để cung cấp thông tin phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Thông tin tín dụng phải bao gồm tất cả các thông tin về hoạt động vay vốn của doanh nghiệp.
+ Củng cố và phát triển hệ thống các thị trường. Trên cơ sở đó, tiếp tục củng cố hoàn thiện những thị trường đã có như thi tườgn huy động itền gửi, thị trường cho vay , thị trường bảo hiểm, thị trường dịch vụ kế toán kiểm toán, thị trường dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ tư vấn đầu tư cho doanh nghiệp, thị trường bất động sản.
Bên cạnh đó cần có sự hoàn thiện hơn nữa các chính sách kinh tế như chính sách thuế, chính sách đầu tư ...nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh, công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp
3.3 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nhgiệp ngoài quốc doanh cần tạo tự lập một khả năng tín chấp của mình khi tiếp cận với các nhà tài trợ và tranh thủ sự hỗ trợ từ các tổ chức của chính phủ. Các tổ chức này cần phát huy vai trò hỗ trợ doanh nghiệp trên các mặt quảng bá sản phẩm, hỗ trợ nâng cao chất lượng sản phẩm, đào tạo nâng cao tay nghề, kiến thức quản trị doanh nghiệp. Đây là những hoạt động rất cần thiết nhằm nâng cao khả năng tín chấp của doanh nghiệp vì chúng tạo nên những nguồn thông tin phản hồi dến các nhà tài trợ
Các doanh nghiệp này cũng cần tranh thủ các dịch vụ tư vấn hay sự hỗ trợ từ các chuyên gia để xây dựng các dựa án mang tính thuyết phục cao. Đối với nhà tài trợ, một phương án được coi là khả thi khi hội đủ những điều kiện về khả năng thực hiện hiệu quả như vị trí thuận lợi, theo quy hoạch của Nhà nước, tận dụng nhiều nguồn lực tại chỗ, sản phẩm có khả năng cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận...Khi lập dự án, có thể nhờ sự trợ giúp của các cán bộ tín dụng, muốn vậy, doanh nghiệp cần thiết lập một mối quan hệ tốt đối với ngân hàng. Ngoài ra, khi tiếp cận với cán bộ tín dụng cần tránh sơ suất có thể làm cho đề nghị vay vốn có thể bị bác bỏ như thiếu sự chuẩn bị chu đáo, thiếu thông tin, cách diễn đạt mơ hồ gây ra sự thiếu tin tưởng.
Kết luận
Thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước thực chất cũng là để góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta. Trong những năm qua, toàn hệ thống ngân hàng đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ các hoạt động của mình như chú trọng hơn đến việc đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng tín dụng, hiện đại hoá ngân hàng....Những việc này đã góp phần thúc đầy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những tồn tại gây cản trở đến hoạt động ngân hàng cũng như toàn bộ nề kinh tế như sự mất cân đối trong cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế, cơ cấu tín dụng theo thời hạn, cơ cấu tín dụng theo tài sản dảm bảo. Hiện nay các nguồn vốn trung dài hạn đang rất cần thiết cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng, nguồn vốn này giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Trong xu thế hiện nay, việc chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tăng tỷ trọng tín dụng ngoài quốc doanh, tăng tỷ trọng tín dụng dài hạn là rất cần thiết, nó hứa hẹn mang lại cho ngân hàng nguồn lợi lớn, giúp ngân hàng mở rộng được thị phần, tạo điều kiện tăng trưởng tín dụng. Ngân hàng cũng cần phải nới lỏng các điều kiện vay vốn, điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng giảm tỷ trọng tài sản có đảm bảo đối với khu vực ngoài quốc doanh, làm được điều này thì mới mở rộng được tín dụng ngoài quốc doanh. Tuy nhiên để thực hiện được điều này, ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bài viết này trên cơ sở phân tích hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương để đưa ra những giải pháp tổng thể với hy vọng trong những năm tới, hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngày một tăng trưởng và cơ cấu tín dụng hợp lý hơn với điều kiện thực tế và với xu hướng phát triển của nền kinh tế.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I. Những vấn đề cơ bản về điều chỉnh cơ cấu tín dụng của NHTM 3
1. Tín dụng NHTM, phân loại tín dụng 3
1.1. Khái niệm tín dụng, tín dụng NHTM 3
1.2.Đặc trưng của tín dụng NHTM 4
1.3. Vai trò của tín dụng NHTM 5
1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng 8
2. Cơ cấu tín dụng của NHTM 12
2.1. Khái niệm cơ cấu tín dụng 12 2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng 12
2.2.1. Nguồn vốn huy động 12
2.2.2. Quy định pháp lý 15
2.2.3. Quy mô ngân hàng 16
2.2.4. Đặc điểm nơi thị trường hoạt động 17
2.2.5. Thu nhập dự tính từ các khoản cho vay 18
3. Điều chỉnh cơ cấu tín dụng của NHTM
3.1. Khái niệm điều chỉnh cơ cấu tín dụng. 19
3.2. Mục đích điều chỉnh cơ cấu tín dụng 19
3.2.1. Nhằm phù hợp với cơ cấu nguồn 19
3.2.2. Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng 20
3.3. Nội dung điều chỉnh cơ cấu tín dụng 22
Chương II. Thực trạng cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng Công Thương Chương Dương 27
1. Khái quát chung về Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương
Dương 23
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương ơng Dương 23
1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 24
1.3 Tình hình hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương trong thời gian vừa qua 28
2. Thực trạng cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 34
2.1. Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế 34
2.2. Cơ cấu tín dụng theo thời hạn 38
2.3. Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo 42
3. Đánh giá cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 44
3.1. Ưu điểm 44
3.2. Hạn chế 45
3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 52
3.3.1. Nguyên nhân bên ngoài 52
3.3.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 55
Chương III. Giải pháp điều chỉnh cơ cấu tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương 57
1. Phương hướng điều chỉnh 57
2. Giải pháp điều chỉnh đối với Chi nhánh 58
2.1. Xây dựng chiến lược marketing hỗn hợp 58
2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, tăng cường công tác giám sát kiểm tra 63
2.3. Xem xét cho vay không có tài sản đảm bảo đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 66
3. Kiến nghị 66
3.1. Kiền nghị về một số chính sách, văn bản 67
3.2. Kiến nghị với UBND, các ban ngành các cấp 68
3.3. Kiến nghị đối với doanh nghiệp 69
Kết luận 70
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Quản trị ngân hàng thương mại. Peter S.Rose. NXB Tài Chính – 2001
2. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. TS Tô Ngọc Hưng. NXB Tài Chính – 2000
3. Tín dụng ngân hàng. TS Hồ Diệu. NXB Thống Kê - 2000
4. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Frederic S.Mishkin. NXB Khoa học và kỹ thuật – 1999
5. Từ điển kinh tế thị trường
6. Luật các tổ chức tín dụng. NHNN Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia – 1998
7. Tạp chí ngân hàng, tạp chí thị trường tài chính, tạp chí thông tin tài chính...
8. Các báo cáo kết quả kinh doanh, bảng tổng kết tài sản ...của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Chương Dương
9. Các văn bản khác có liên quan.
Danh mục chữ viết tắt
NT : Ngoại tệ
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHCT : Ngân hàng Công Thương
NQH : Nợ quá hạn
KĐ : Khó đòi
DN : Doanh nghiệp
KV : Khu vực
NQD : Ngoài quốc doanh
NN : Nhà nước
CT : Công ty
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TSĐB : Tài sản đảm bảo
KTNN : Kinh tế Nhà nước
DS : Doanh số
TPKT : Thành phần kinh tế
HĐKDDN: Hoạt động kinh doanh đối ngoại
CL : Chênh lệch
KH : Kì hạn
UBNN : Uỷ ban nhân dân
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0246.doc