mục lục
phần i: lời mở đầu
Trong lịch sử phát triển nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mô hình kinh tế là mô hình kinh tế chỉ huy. Đây là nền kinh tế chỉ với hai thành phần kinh tế là thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể.Mô hình kinh tế này đã kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất, làm mai một các nghành nghề truyền thống, không gắn kết được người sản xuất với công việc của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp ,thủ công nghiêp .v.v
Từ việc nhận
13 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp để tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức đúng đắn về thực tiễn cũng như lý luận, Từ Đại Hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã xác định: “chuyển đổi mô hình kinh tế sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nền kinh tế ở nước ta hiện nay gồm 6 thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, cùng với thành phần kinh tế tập thể dần sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế nước ta
Từ sau công cuộc đổi mới, nền kinh tế của nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng : Nền kinh tế hàng hoá đang hoạt động rất sôi động và hiệu quả, mở ra cho nước ta nhiều cơ hội mới,giải phóng năng lực sản xuất và khai thác các tiềm năng kinh tế của đất nước ,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thúc đẩy kinh tế hàng hoá
Là một sinh viên kinh tế, là một kế toán viên tương lai em nghĩ cần phải tìm hiểu thật kỹ các kiến thức về kinh tế thị trường mà trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo, đây là việc làm rất thiết thực. Đó là cơ sở, tiền đề vững chắc giúp cho quá trình lập nghiệp sau này của bản thân em.
Phần II: Giải quyết vấn đề.
I. Lý luận chung :
Có nhiều quan điểm nói về kinh tế nhà nước, nhưng kinh tế nhà nước không đơn thuần chỉ là các doanh nghiệp nhà nước . Mà kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,quỹ dự trữ quốc gia, ngân sách nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như: Đất đai, tài nguyên, ngân hàng .v.v…
II. Thực trạng nền kinh tế nhà nước
1, Thành phần kinh tế nhà nước
a. Khái niệm: thành phần kinh tế nhà nước Là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh. Là một thành phần kinh tế có nhiều bộ phận hợp thành . Toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước, hoặc phần của Nhà nước chiếm một tỷ lệ khống chế.
b. Sự hình thành: kinh tế nhà nước trước hết là các doanh nghiệp cổ phần được hình thành trên cơ sở :
-Nhà nước đầu tư xây dựng,Quốc hữu hoá những doanh nghiệp tư bản tư nhân ,góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra với tính chất xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta xác định: Đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng .v.v Do Nhà nước nắm giữ nhằm chi phối và điều tiết định hướng sự phát triển kinh tế xã hội.
c. Các đặc trưng của thành phần kinh tế nhà nước:
- Đặc trưng của thành phần kinh tế nhà nước là thuộc sở hữu của Nhà nước, tuy nhiên cần phân biệt sở hữu Nhà nước với quyền sử dụng của thành phần kinh tế nhà nước.
+ Phạm trù sở hữu Nhà nước rộng lớn hơn phạm trù KTNN, đã nói tới thành phần KTNN thì trước tiên nó phải thuộc sở hữu của Nhà nước. Nhưng sở hữu của Nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng, ví dụ như đất đai là tài sản mà Nhà nước đại diện cho toàn dân về sở hữu, nhưng kinh tế hộ gia đình , các hợp tác xã nông nghiệp, hay các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác vẫn được Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu dài, chính việc này đã giải thích được việc mua bán đất đai trên thị trường hiện nay. Ngược lại những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước thì không hẳn đã phải do thành phần KTNN sử dụng, mà các thành phần kinh tế khác vẫn có thể sử dụng, ví dụ như việc Nhà nước góp vốn, cổ phần ở các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác thông qua việc liên doanh, liên kết mà từ đó hình thành nên thành phần kinh tế tư bản Nhà nước
+ Các DNNN tổ chức kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế.
+Thực hiện phân phối theo lao động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là một đặc điểm rất quan trọng của các doanh nghiệp thuộc thành phần KTNN, là hình thức phân phối căn bản và là nguyên tắc phân phối chủ yếu, thích hợp với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
2. Vai trò của KTNN.
a Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
- kinh tế nhà nước nắm giữ những ngành ,những nền kinh tế chủ đạo,là chỗ dựa cho nền kinh tế nhà nước
- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội
- Mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô.
- Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Như vậy thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ:
+ Chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa).
+ Tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ những nghành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội.
+ Đóng góp phần lớn vào tổng GDP của toàn xã hội. KTNN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đây là chế độ phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất và phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Do đó đầu tư cho phát triển KTNN, chính là chúng ta đang tạo ra nền tảng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý thị trường.
- KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu của nền kinh tế do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt, để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư nhiều, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành : Giao thông vận tải, giáo giục, y tế, năng lượng..v.v.. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: Dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
3. Thực trạng nền kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay.
Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.
- Tạo dựng nền kinh tế ban đầu ,xây dựng tiềm lực kinh tế để nhà nước giảI quyết những vấn đề quản lý và kinh tế vĩ mô
- Đưa nước ta từ một nước kém phát triển thành nước có nhịp độ phát triển khá nhanh và ổn định, đặc biệt trong thời kỳ 1991 - 1995 chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 8,2%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, thu nhập của nhân dân tăng đáng kể, từ năm 1986 - 1995 GDP đã tăng gấp đôi và chúng ta đang phấn đấu tới năm 2005 GDP sẽ tăng gấp đôi so với năm 1995.
a. Quy mô và tổ chức của các DNNN:
Tính từ năm 1990 đến năm 2000, các DNNN đã trải qua ba lần cảI cách Lần thứ nhất chúng ta thực hiện vào những năm 1990 đến năm 1993, với mục tiêu là tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Lần thứ hai từ năm 1994 đến năm 1997, chúng ta đã thành lập 18 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN ngay sau đó là việc giao, bán, khoán và cho thuê các DNNN.
- Sau ba lần cảI cách so sánh với năm 1989 thì năm 2000 quy mô của các DNNN đã giảm từ 12.300 doanh nghiệp xuống còn 5.280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%.
- Mặc dù giảm về số lượng nhưng các DNNN vẫn tăng trưởng mạnh, tính từ năm 1991 đến năm 1995 tốc độ tăng bình quân hàng năm của các DNNN là 11,7%. Và đóng góp trung bình hàng năm khoảng 40,3% vào tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác quá trình tổ chức sắp xếp lại DNNN đã mở rộng quy mô vốn của mỗi doanh nghiệp, giảm được sự tài trợ đáng kể của ngân sách Nhà nước, một số nghành mới đã và đang áp dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả cao như : Dầu khí, năng lượng, bưu chính viễn thông..vv Trong đó quyền chủ động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được phát huy.
Tuy thế hiện nay cơ cấu tổ chức còn có nhiều bất hợp lý như :
- Việc doanh nghiệp hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành thì phân bố rất phân tán, manh mún, thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau
- Kinh doanh kém hiệu quả ở các doanh ngiệp nhà nước tương đối phổ biến. có tới 60% các doanh ngiệp nhà nước làm ăn không có lãi (các doanh ngiệp làm ăn có lãi chiếm 40%,40% là hoà vốn và 20% dn làm ăn thua lỗ )
b. Công nghệ.
ở nước ta sau một thời gian dài thực hiện công nghiệp hoá hướng nội (theo mô hình công nghiệp hoá của Liên Xô cũ). Nhờ đường lối đổi mới kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về công nghiệp hoá của các nước trên thế giới để chuyển sang mô hình kinh tế hướng ngoại. Điều này đã tạo cho KTNN nói riêng và tổng thể nền kinh tế nước ta nói chung có nhiều thuận lợi trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Song nhìn chung hiện nay trình độ công nghệ nước ta còn lạc hậu, thấp kém. So với các nước láng giềng công nghệ chúng ta còn thua kém xa, với Trung Quốc chúng ta còn chậm hơn 10 năm, với Đài Loan chúng ta còn chậm hơn từ 20 - 30 năm ở vào thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá.
- Song song với quá trình tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, KTNN ở nước ta còn đang xây dựng cho mình chiến lược phát triển mang tính tổng thể lâu dài bao gồm cả nghiên cứu, ứng dụng, thử nghiệm..vv...Điều này đã và đang mang lại hiệu quả to lớn và thiết thực. Hiện đã có nhiều ngành thuộc thành phần KTNN tạo ra những loại sản phẩm, không chỉ có sức canh tranh mạnh ở thị trường nội địa mà còn có sức cạnh tranh mạnh ngay cả trên thị trường thế giới như : Dệt may, chế biến thuỷ hải sản..vv... Ngoài ra ở nước ta còn đang hướng một số nghành KTNN đi nhanh vào một số lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao như : Tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá. Bằng việc Nhà nước có những chính sách khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Đây là yếu tố vật chất quan trọng tạo đà cho các DNNN giữ vững vị trí then chốt, đi đầu về ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
- Tuy nhiên ở nước ta hiện nay chính sách phát triển công nghệ còn nhiều bất hợp lý, vì thế trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ cần phải tránh không để cho Việt Nam trở thành “ bãi phế thải công nghệ ” của các nước phát triển. Trong các DNNN cần có chính sách hợp lý để khuyến khích người tài giỏi bởi vì thời gian vừa qua với sự phát triển mạnh của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đã xuất hiện xu thế bỏ DNNN để ra làm ngoài với đồng lương cao hơn. Trong khi đó các DNNN rất cần những người có khả năng để tiến hành nghiên cứu, ứng dụng, thí nghiệm..v.v Các loại công nghệ mới.
d. Quản lý.
Các vấn đề về cơ cấu tổ chức còn nhiều bất cập do đó dẫn đến tình trạng quản lý hoạt động của các DNNN chồng chéo về ngành nghề kinh doanh và cấp quản lý
Ngoài ra một vấn đề trong các DNNN rất nóng bỏng hiện nay đó là các cán bộ quản lý lợi dụng chức quyền để tham nhũng, tham ô, hối lộ
e. Tình hình các DNNN trong thời gian tới.
- DNNN trong thời gian tới phải đối mặt với hai sức ép cạnh tranh lớn, sức ép cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn kinh tế mạnh .có ưu thế hơn các DNNN về vốn, công nghệ hiện đang được Nhà nước ta khuyến khích và ưu đãi, đang len lỏi vào một số các lĩnh vực kinh tế lớn của nước ta như : Dầu khí, chế biến thuỷ hải sản, xây dựng công nghiệp, sản xuất hoá chất, xi măng .v.v do đó trong thời gian tới nếu nước ta không có biện pháp để củng cố sức mạnh của các DNNN thì DNNN sẽ bị lấn át ngay trên thị trường nước nhà.
III. Các giải pháp để tăng cường vai trò chủ đạo KTNN.
Ta phải khẳng định rằng, DNNN nhất thiết phải hoạt động có hiệu quả hơn các thành phần kinh tế khác. Việc hiện nay DNNN hoạt động kém hiệu quả là một thực tế do có nhiều nguyên nhân, tìm biện pháp để làm cho các DNNN hoạt động có hiệu quả là một trong những nội dung và yêu cầu cấp bách của việc đổi mới DNNN trong thời kỳ mới. Do đó theo em những giải pháp chính nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của KTNN là :
1. Tập trung mọi nguồn lực để phát triển KTNN.
- Để chi phối và khống chế nền kinh tế, thì nhất thiết DNNN phải có đủ sức mạnh, nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, để hướng dẫn nền kinh tế. Như vậy số lượng các doanh nghiệp không cần nhiều, chỉ ở mức cần thiết đủ để khống chế. Cho nên về vốn Nhà nước nên ưu tiên tập trung vào các doanh nghiệp có vị trí then chốt, các mạch máu chính của nền kinh tế đất nước như : Công nghệ thông tin, điện lực, bưu điện, tin học..v..v.. Ngoài ra Nhà nước cần có chính sách hợp lý, khuyến khích các doanh nghiệp tự mở rộng sản xuất và đầu tư vào các công trình mới thông qua việc ưu đãi vay vốn, miễn giảm thuế trong một số năm đầu đi vào hoạt động.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế giao quyền tự chủ hạch toán kinh doanh cho các doanh nghiệp, có cơ chế phân biệt quản lý Nhà nước với quản lý kinh doanh, tạo được động lực cho DNNN phát triển, đồng thời có chính sách nhằm giải quyết thoả đáng 3 lợi ích đó là : Lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân.
2. sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý.
- Để đổi mới và tiếp tục phát triển KTNN cần phải phân loại sắp xếp và quản lý DNNN theo hướng:
+ Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích, không vì mục tiêu lợi nhuận là chính, ví dụ như các doanh nghiệp phục vụ: An ninh, quốc phòng, trường học, bệnh viện..v.v Nhà nước cần có chính sách, cơ chế phù hợp để khuyến khích và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực này, đảm bảo vững chắc các mục tiêu kinh tế - xã hội, trong quá trình phát triển theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
+ Đối với những doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, Nhà nước cần tập trung kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động. Với mục tiêu những doanh nghiệp này phải trở thành những doanh nghiệp vững mạnh toàn diện, đầu đàn về công nghiệp - kỹ thuật và chất lượng sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mũi nhọn có khả năng cạnh tranh và tham gia thị trường thế giới.
+ Còn những doanh nghiệp nhỏ, những doanh nghiệp không có vai trò quan trọng, làm ăn thua lỗ, yếu kém cần dứt điểm xử lý như chuyển hình thức sở hữu bằng cách tiến hành cổ phần hoá, cho thuê, khoán hoặc giải thể theo luật định. Còn đối với các doanh nghiệp mang tính chất độc quyền hoặc những doanh nghiệp có chức năng ổn định thị trường, giá cả, thì Nhà nước cần xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của họ, nhằm tạo ra môi trường tự do cạnh tranh và phục vụ cho sự định hướng nền kinh tế.
+ Mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng các hình thức tổ chức quản lý trong các DNNN, như việc chuyển một bộ phận các DNNN sang hình thức hoạt động công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần
+Nhà nước cần thúc đẩy hơn nữa việc cải cách thủ tục hành chính, nhằm xoá bỏ việc quản lý chồng chéo đối với các doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
+Cổ phần hoá các DNNN là một chủ trương lớn có vai trò rất quan trọng, trong việc đổi mới các doanh nghiệp quốc doanh, nó mang lại rất nhiều hiệu quả thiết thực, nếu ta dùng cùng một đồng vốn đầu t vào các DNNN thì chỉ tạo đợc lợi nhuận bằng 45,8% so với các công ty cổ phần đợc chuyển đổi từ các DNNN.
3. Chuyển hình thức sở hữu các DNNN.
- Hoàn thiện cơ sở, tiền pháp lý cũng như chăm lo về tổ chức cho quá trình về cổ phần hoáDNNN.
- Nhà nước cần có những chính sách thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, mở rộng để có thể nhiều công ty cổ phần có thể huy động được vốn.
- Nhà nước cần ưu đãi đối với các công ty đã cổ phần hoá như việc vay vốn ngân hàng, miễn giảm một số loại thuế, về chế độ sử dụng mặt bằng trong sản xuất..v.v
phần iiI: Kết luận.
Từ những lập luận kể trên rút ra KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan. KTNN là một chủ thể kinh tế quan trọng nhất trong nền kinh tế, sức mạnh của KTNN là tổng hoà các sức mạnh và hoạt động có hiệu quả. KTNN là thành phần kinh tế then chốt tạo chiều hướng phát triển cho các thành phần kinh tế khác. ở nước ta trong thời kỳ đổi mới ngày nay chính sự phát triển của KTNN đã xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, đưa nước ta thoát khỏi vòng luẩn quẩn, lạc hậu hình thành nên cơ chế thị trường. Từ đây đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới với sự đổi thay trên mọi mặt của đời sống xã hội, trên mọi lĩnh vực của đời sống nhân dân như: Y tế, giáo dục, kinh tế, văn hoá ..v.v Điều này trước hết phải kể đến vai trò của KTNN, KTNN trong thời kỳ đổi mới tích cực để thích ứng được với cơ chế thị trường, KTNN đóng vai trò là một tác nhân quyết định cho sự phát triển của mô hình kinh tế thị trường chuyển biến vững chắc theo quỹ đạo cuả chủ nghĩa xã hội.
Các tài liệu tham khảo
Kinh tế chính trị mac - lênin tập I và II.( ĐHKTQD )
Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VII và IX.
Lịch sử các học thuyết kinh tế. ( ĐHKTQD ).
Tạp chí kinh tế và dự báo.
Lịch sử kinh tế quốc dân ( ĐHKTQD ).
Tạp chí công sản.
Tạp chí thị trường chứng khoán.
8. Internet va cac tai lieu lien quan
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27185.doc