Lời Mở Đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày,có khả năng thích ứng rộng,tính chống chịu với điều kiện bất lợi cao và mang giá trị kinh tế lớn do chất lỏng tiết ra từ cây hay còn goi là “mủ cao su” là nguyên liệu công nghiệp chính sản xuất ra cao su .Việt Nam và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á có được lợi thế vô cúng lớn từ khí hậu,đất đai thuận lợi cho sự phát triển của cây cao su.Bởi vậy cây cao su đã trở thành nguồn lợi kinh tế lớn đặc biệt cho ngành và
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho sự phát triển của đất nước.
Nhìn nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của cây cao su,Việt Nam đã chú trọng trồng trọt,khai thác chế biến cao su rộng rãi trên cả nước.Các sản phẩm cao su không chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và đồng thời đóng góp một tỷ trọng lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước,có mặt ở hầu hết tất cả các thị trường trên thế giới.
Tuy nhiên sản phẩm cao su của Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại năng lực cạnh tranh còn yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan,Malayxia,Indonexia.. cũng như năng lực cạnh tranh của ngành còn yếu kém so với các ngành kinh tế khác
Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cao su Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp.
Đề tài “Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cao su Việt Nam “ mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải quyết câu hỏi đó.
Em xin trân trọng cảm ơn Thầy giáo-Ths Nguyễn Hà Hưng về sự hướng dẫn hết sức tận tình và quý báu, giúp em trong suốt quá trình hoàn thánh báo cáo. Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú và anh chị trong Vụ kinh tế Nông nghiệp – Bộ kế hoạch đầu tư đã giúp em trong thời gian qua
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận về năng lực cạnh tranh,và phân tích năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam,đồng thời tìm ra điểm mạnh điểm yếu của ngành so với các đối thủ cạnh tranh và so với các ngành cạnh tranh khác.Đề tài sẽ đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng cao su Việt Nam trong thời gian tới
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Đối tượng nghiên cứu.Năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam
+Phạm vị nghiên cứu: năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam từ 2000-2009
4. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tê như chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp so sánh theo cách tiếp cận hệ thống để phân tích rõ thực trạng từ đó nhận định tình hình ,đưa ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cao su Việt Nam trong thời gian tới.
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần Lời mở đầu và kết luận chuyên đề gổm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của ngành cao su
Việt Nam
Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
cao su Việt Nam
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
1.1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm rất phổ biến của kinh tế, là một đặc trưng của nền sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh, hiểu theo nghĩa khái quát, là sự ganh đua giữa những người theo cuối cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình lợi thế nhiều nhất. Theo ý nghĩa kinh tế, cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua , tìm mọi biện pháp( cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị trường, tối đa hóa lợi ích, nâng cao vị thế…Trên bình diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh khiến cho các nguồn lưc được phân bổ một cách có hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực, hạn chế các méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới tổ chức, quản lý để thích ứng với những biến động của thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh đã trở thành tiền đề, động lực và mục tiêu theo đuổi liên tục trong suốt quá trình phát triển doanh nghiệp. Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn về chủng loại, chất lượng, giá cả, mẫu mã của hàng hóa và dịch vụ. Cạnh tranh bảo đảm rằng cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá cả một cách tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường và lành mạnh hóa các mối quan hệ xã hội. Trên bình diện quốc tế, cạnh tranh thúc ép các doanh nghiệp mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục đích như tiêu thụ, đầu tư, huy động vốn, lao động, công nghệ, quản lý…trên thị trường thế giới. Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được những lợi thế so sánh cùng những yếu kém của mình để hoàn thiện và phát triển. Như vậy, cạnh tranh cũng như các quy luật, hiện tượng kinh tế, xã hội khác chỉ xuất hiện và phát triển khi có các điều kiện như nhu cầu cạnh tranh, môi trường cạnh tranh và vận hành tốt khi có môi trường cạnh tranh hiệu quả .
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
1.1.2.1. Cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.Theo đó thì một quốc gia có khả năng cạnh tranh cao hay thấp so với các quốc gia khác trên thế giới thì phải cần xem xét tính bền vững ổn định của nền kinh tế đó,thu hút lượng đầu tư bao nhiêu và có đảm bảo ổn định,nâng cao đời sống người dân tại quốc gia đó hay không.
1.1.2.2 Cạnh tranh giữa ngành
Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm hai loại :
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quản lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành : là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
1.1.2.3. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Cạnh tranh giữa các doanh nghiêp trong ngành thực chất là cuộc cạnh tranh có sự thủ tiêu lẫn nhau để giành khách hàng và thị trường chiếm được thị phần lớn hơn,cuộc cạnh tranh dẫn đến là giá cả giảm xuống và có lợi cho người tiêu dùng,Trong khi đó đối với những doanh nghiệp khi tham gia thị trường không chịu được sức ép và sẽ phải từ bỏ thị trường,nhường thị phần của mình cho các doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh hơn
1.1.2.4. Cạnh tranh sản phẩm.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường của các doanh nghiệp, vấn đề sản phẩm bán tới tay khách hàng được coi trọng hàng đầu. Bởi sản phẩm là đại diện cho thương hiệu của doanh nghiệp, cho sự lớn mạnh hoặc yếu kém trong lĩnh vực cung cấp mặt hàng cùng công cụ sử dụng. Cạnh tranh về sản phẩm thường được thể hiện qua các mặt:
- Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: tuỳ theo những sản phẩm khác nhau để chúng ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định trình độ của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh nếu như lựa chọn trình độ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh về chất lượng: Tùy theo từng sản phẩm với đặc điểm khác nhau để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm phù hợp, lựa chọn cơ cấu hàng hóa và cơ cấu chủng loại hợp lý.
- Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng công cụ này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm. Sử dụng biện pháp này, doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
1.2. Một số vấn đề lý luận về khả năng cạnh tranh
1.2.1 Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Theo đề án quốc gia về “Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam” (do Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam thực hiện) thì năng lực cạnh tranh (hay khả năng cạnh tranh, tính cạnh tranh) được xem xét ở ba cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là năng lực của một nền kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững, đảm bảo ổn định kinh tế và nâng cao đời sống của dân cư. Đề án đưa ra 8 nhóm tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia dựa theo các tiêu chí của Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) bao gồm: Độ mở cửa nền kinh tế vai trò và hiệu lực của chính phủ. Sự phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệ. Trình độ phát triển công nghệ, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý doanh nghiệp. Số lượng và chất lượng lao động, trình độ phát triển thể chế, năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp là năng lực bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được thể hiện qua thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp được xác định trên cơ sở bốn nhóm yếu tố cơ bản bao gồm: Chất lượng và khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa đầu vào, công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ. Nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ và yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Mức độ cạnh tranh trên lĩnh vực mà ngành/doanh nghiệp kinh doanh và vị thế của ngành/ doanh nghiệp so với các ngành/ doanh nghiệp khác.
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ sở tạo nên sức cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp và tổng hợp năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ tạo nên sức cạnh tranh của một quốc gia. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thể hiện tập trung ở 4 yếu tố: Giá cả, chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp. Trên thực tế, cấp độ cạnh tranh này thường được phân tích lồng ghép với phân tích cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp. Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ mật thiết với nhau. Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các ngành/ doanh nghiệp trong khi năng lực cạnh tranh của ngành/ doanh nghiệp lại được phản ánh qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Đồng thời, năng lực cạnh tranh quốc gia có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp/ ngành. Còn năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ chịu tác động của cả năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp/ ngành và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tóm lại, hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa ba cấp độ này để thấy được sự khác biệt trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh ở từng cấp độ cũng như sự tác động qua lại giữa năng lực cạnh tranh ở một cấp với năng lực cạnh tranh ở hai cấp độ còn lại. Đối tượng của khóa luận là năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành. Do vậy, nó sẽ chịu tác động qua lại của cả năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong chính ngành cao su
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngành hàng nông sản
Năng lực sản phẩm của ngành hàng nông sản được thể hiện thông qua nhiều chỉ tiêu. Thật khó để xác định chỉ tiêu nào là bao quát, là quyết định. Ngành hàng có rất nhiều tác nhân tham gia nên để đánh giá vai trò và mức độ tác động của chúng quả là điều không đơn giản.
1.2.2.1 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Ta biết rằng sản phẩm là đại diện cho một ngành sản phẩm chỉ khi sản phẩm có năng lực cạnh tranh thì mới chứng tỏ ngành sản phẩm đó có khả năng tồn tại và phát triển được
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể hiện ở lợi thế cạnh tranh của nó tức là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng, cơ chế vận hành của nó trên thị trường, tạo nên sức hấp dẫn và thuận lợi cho khách hàng trong quá trình dùng sản phẩm. Một phẩm chất không thể thiếu được trong thời đại ngày nay là phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, tạo sự an toàn cho người tiêu dùng, không thể thiếu được trong đời sống thường nhật thì nó phải là sản phẩm có tính an toàn cao. Sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao được sản xuất ở các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao.
Điều mà người tiêu dùng quan tâm đầu tiên ở sản phẩm là chất lượng sản phẩm, giá cả, khối lượng. Một hàng hóa có khả năng cạnh tranh là hàng hóa đó phải thỏa mãn và tạo niềm tin cho khách hàng hiện tại, thuyết phục khách hàng trong tương lai ở trong và ngoài nước.
Như vậy để một ngành tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quốc tế thì giá cả của sản phẩm ( đã điều chỉnh theo chất lượng) phải tương đương hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm cạnh tranh.
Pj E < p
Trong đó Pj : giá cả của sản phẩm j tính theo đồng nội tệ
E : tỷ giá hối đoái
P : giá quốc tế của sản phẩm cạnh tranh
Quy mô của sản phẩm trên thị trường cũng thể hiện năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm. Quy mô đó có thể hiểu là sản phẩm đó có nhiều trên thị trường hoặc không? Dựa vào lợi thế về mặt quy mô và lợi thế tuyệt đối để phát triển quy mô sản phẩm đó lên.
Giá thành của sản phẩm là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí vật chất, dịch vụ, lao động và tiền tệ đã chi ra để sản xuất ra sản phẩm. Nó là căn cứ quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Giá thành 1 đơn vị sản phẩm mà cao thì chứng tỏ sản phẩm đó tiêu tốn nhiều các yếu tố khác, do đó nó khó có thể bán với giá mà có cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Chỉ tiêu giá trị sản phẩm quốc gia là một chỉ số thể hiện khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua mức độ liên kết bổ trợ đa ngành trong sản xuất. Giá rị sản phẩm của một quốc gia được tính bằng tỷ lệ chi phí nhập khẩu trong cơ cấu giá thành sản phẩm sản xuất trong nước. Nếu chỉ số này cao có giá trị cao chứng tỏ sản xuất sản phẩm còn phụ thuộc vào bên ngoài từ khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, phải nhập từ bên ngoài, kể cả vốn vay, cho đến đầu tư cơ bản cho xây dựng và vận hành máy móc chế biến do đó dẫn đến làm tăng chi phí sản xuất và phải chịu ảnh hưởng nhiều về biến động giá của các đầu vào phải nhập khẩu.
1.2.2.2 Mức huy động các yếu tố nguồn lực
Các yếu tố nguồn lực là yếu tố đầu vào quan trọng của mỗi quá trình sản xuất. Trong ngành hàng nông sản thì điều thì điều này thể hiện rõ nét hơn. Ngành hàng nào mà huy động được nhiều các yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất sản phẩm thì chắc chắn có điều kiện tạo ra năng lực cạnh tranh cho ngành.
Số lượng và chất lượng của các yếu tố nguồn lực được huy động vào quá trình sản xuất của một ngành hàng là nói lên khả năng phát triển của ngành đó. Tỷ lệ tham gia của mỗi yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất từng loại nông sản tùy thuộc vào các tính chất của quy trình kỹ thuật và tiến bộ công nghệ. Điều đó có nghĩa là tùy thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong ngành hàng đó mà quyết định những tỷ lệ về số lượng và chất lượng của mỗi yếu tố nguồn lực được huy động vào sản xuất.
Ngành hàng nông sản chịu tác động rất lớn của các yếu tố nguồn lực vì xuất phát từ những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Khả năng cạnh tranh của một ngành sản phẩm nông nghiệp tùy thuộc vào mức độ huy động được nhiều các yếu tố đó với chất lượng cao thì khả năng cạnh tranh của nó sẽ tăng lên. Nhưng đây chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là các chủ thể trong ngành hàng phải có trình độ quản lý, biết tổ chức sử dụng có hiệu quả các yếu tố nguồn lực.
1.2.2.3 Các mối liên kết
Ta biết rằng bất kỳ một chuỗi ngành hàng, hiệu quả của nó được quyết định bởi mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi. Các mối quan hệ này có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng do tác động trực tiếp đến chi phí trung gian, điều kiện giao nhận hàng và chất lượng của sản phẩm. Giá thành của sản phẩm cuối cùng là tổng chi phí của tất cả các khâu trong chuỗi cộng với chi phí giao dịch giữa các khâu và chi phí này được quyết định bởi mối quan hệ từng khâu. Ngành sản phẩm là chuỗi các tác nhân tham gia vào ngành. Giữa các tác nhân có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất của các tác nhân này là sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất của các tác nhân tiếp theo. Ngành hàng chỉ phát triển được khi quá trình sản xuất của các tác nhân được thông suốt, diễn ra liên tục, không bị gián đoạn ở bất kỳ tác nhân nào.
Một đặc điểm kinh doanh nông nghiệp là chịu nhiều rủi ro cao. Do đó ngoài việc sản xuất sản phẩm chuyên môn hóa cần phải sản xuất sản phẩm bổ trợ. Bên cạnh sản phẩm đem lại sự sinh lời nhiều nhất, người nông dân cũng phải phân phối sự đầu tư cho các sản phẩm khác để san sẻ rủi ro. Vì vậy cần lưu ý đến sự bổ sung của các ngành sản phẩm khác.
1.2.2.4 Trình độ quản lý, năng lực cạnh tranh của các tác nhân trong ngành
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm nông sản. Trong cơ chế thị trường hiện nay, chỉ những cơ sở kinh doanh nào có trình độ quản lý thực sự mới tồn tại và thích ứng được. Là các mắt xích trong ngành hàng, các tác nhân có trình độ tổ chức quản lý tốt thì ngành hàng mới phát triển bền vững. Trình độ tổ chức quản lý của các tác nhân mà tốt thì cũng thể hiện năng lực cạnh tranh của ngành. Nếu trong ngành mà có một tác nhân yếu kém thì tất yếu ảnh hưởng đến kết quả chung của toàn ngành. Vì vậy muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành thì phải nâng cao trình độ của tất cả các tác nhân.
1.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng cao su
Từ sự phân tích các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của ngành sản phẩm ta nhận thấy để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng ta phải nâng cao các chỉ tiêu đó.
1.2.3.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Có thể nói chất lượng của sản phẩm quyết định năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đứng về góc độ người tiêu dùng thì điều mà họ quan tâm nhất là chất lượng của sản phẩm. Một sản phẩm có chất lượng sẽ khiến cho người tiêu dùng cảm thấy an tâm khi sử dụng hơn là sản phẩm kém chất lượng, không có nguồn gốc. Một mặt hàng có những chuẩn mực riêng về chất lượng song đại thế đó là yêu cầu đẹp, tiện dụng, phù hợp thói quen tiêu dùng và văn hóa mỗi dân tộc, bao bì hấp dẫn, thương hiệu tin cậy.
Giá bán của sản phẩm cũng là mối quan tâm của người tiêu dùng, giá bán của sản phẩm mà thấp hơn giá bán của sản phẩm cùng loại mà chất lượng của nó cao hơn hoặc ngang bằng thì người tiêu dùng chắc sẽ lựa chọn sản phẩm mà giá thành thấp hơn. Muốn có giá bán thấp hơn thì giá thành của sản phẩm phải thấp. Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thì phải hạ giá thành của sản phẩm. Muốn làm được điều này thì tất cả các tác nhân trong ngành cùng tìm các biện pháp để hạ giá thành trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Với những sản phẩm nông nghiệp thì chất lượng sản phẩm thể hiện trên nhãn mác, bao bì, hương vị, mùi, cấu trúc bên ngoài và sự mới lạ, chúng làm tăng hoặc giảm tính hấp dẫn của sản phẩm.
Giá thành của sản phẩm nông nghiệp thường do nhiều tác nhân chi phối. Do đó muốn hạ giá thành của sản phẩm thì các tác nhân trong chuỗi ngành hàng nông sản cùng chủ động mổ xẻ, phân tích từng khâu trong quy trình sản xuất và tiêu thụ để phát hiện ra những mặt yếu kém, từ đó áp dụng những biện pháp hữu hiệu nhằm vừa nâng cao chất lượng sản phẩm vừa hạ giá thành sản phẩm.
Chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng lên, thị phần của sản phẩm được mở rộng, doanh thu bán hàng tăng…Khi một sản phẩm mà thị phần của nó tăng, doanh thu bán hàng không ngừng tăng lên là một tín hiệu tốt cho doanh nghiệp, chứng tỏ việc kinh doanh của doanh nghiệp đang tiến triển tốt đẹp nhưng cũng cần lưu ý xem xét đây là giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm để có phương án kinh doanh hợp lý.
1.2.3.2 Huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực
Việc huy động các yếu tố nguồn lực chủ yếu được các tác nhân ban đầu trong chuỗi ngành hàng thực hiện, đó là các hộ nông dân trực tiếp sử dụng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất sản phẩm. Cũng không thể không kể đến các doanh nghiệp thực hiện vai trò chế biến sản phẩm. Để huy động được nhiều yếu tố nguồn lực thì các doanh nghiệp phải biết tận dụng những nguồn lực sẵn có và không ngừng tìm kiếm các nguồn lực khác. Nhưng điều không kém phần quyết định trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh là phải sử dụng có hiệu quả của các nguồn lực đó. Điều đó lại tùy thuộc vào trình độ, năng lực tổ chức, quản lý của các doanh nghiệp, của các hộ nông dân.
1.2.3.3 Phát triển các mối liên kết
Như trên đã phân tích, các mối liên kết trong ngành hàng nông sản phẩm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hàng.
Để phát triển các mối liên kết, các tác nhân phải thấy được tầm quan trọng của mình cũng như tầm quan trọng của các tác nhân khác trong chuỗi ngành hàng, phải xây dựng cho mình mối quan hệ tốt với các tác nhân khác. Đặc biệt để các nhà máy sản xuất và chế biến cao su có thể tồn tại và phát triển, tiền đề không thể thiếu là phát triển các vùng cao su nguyên liệu. Xét về bản chất thì các nhà máy sản xuất và chế biến cao su với vùng cao su nguyên liệu là các tổ hợp nông - công nghiệp hoàn chỉnh, tức là nhà máy đường và những người nông dân trồng cao su nguyên liệu phải “cộng sinh” với nhau, bởi nghề trồng cao su nguyên liệu muốn phát triển thì không thể thiếu nhà máy chế biến cao su, và ngược lại, nhà máy sản xuất và chế biến cao su muốn tồn tại thì cũng không thể thiếu vùng cao su nguyên liệu. Nhưng trên thực tế, giữa hai thành phần này vẫn thiếu “sự kết dính” đủ chắc chắn bằng những quyền lợi và nghĩa vụ rành mạch và thỏa đáng.
1.2.3.4 Nâng cao trình độ, năng lực tổ chức, quản lý của các tác nhân trong ngành
Ngày nay công tác này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế trí thức đang hình thành và ành hưởng sâu rộng với tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất kinh doanh. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ công nhân trong các doanh nghiệp, đồng thời nâng cao trình độ sản xuất, cung cấp kiến thức nông nghiệp đối với người nông dân. Để nâng cao chỉ tiêu này, các hộ nông dân, các doanh nghiệp ngoài việc tự mình chủ động cải thiện năng lực của mình, phối hợp cùng nhau để học hỏi kinh nghiệm và bổ sung kiến thức, cũng cần sự hỗ trợ của Nhà nước.
1.2.4. Kinh nghiệm về nâng cao khả năng cạnh tranh ngành cao su của một số nước
Với mục đích có được định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển ngành cao su của Việt Nam một cách bền vững,dưới đây là kinh nghiệm của một số nước sản xuất và xuất khẩu cao su đã đạt được những thành công trong thời gian qua như Thái Lan,Indonexia,Malayxia để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên con đường phát triển
1.2.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
a) Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu cao su.
Thái Lan hiện nay là nước sản xuất và xuất khẩu cao su lớn nhất trên thế giới.Về khai thác mủ cao su hiện nay diện tích trồng cao su của Thái Lan lên đến 2,28 triệu ha(năm 2007),sản lượng tương ứng đạt trên 3,02 triệu tấn,xét cả giai đoạn từ năm 2002 trở về đây ,sản lượng cao su của Thái Lan thu được trung bình trên 2 triệu tấn với năng suất thu hoạch cao su là 1.600-1.800 kg/ha/năm.
Về công nghệ chế biến cao su,Thái Lan được đánh giá là nước có trình độ công nghệ chế biến cao và hiện đại nhất trong khu vực Đông Nam Á,điều này thể hiện rõ ràng qua chủng loại cao su được sản xuất ra,cao su RSS,STR là chiếm thị phần cao nhất trong các chủng loại cao su.Đấy là hai sản phẩm đã được chế biến ở mức độ cao.
Từ năm 2002-2008 sản lượng xuất khẩu cao su của Thái Lan luôn đạt mức doanh thu trung bình là 2,3 tỷ USD.Thị phần cao su xuất khẩu của Thái Lan luôn đạt khoảng 35% nhiều nhất so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thế giới.Thị trường nhập khẩu cao su của Thái Lan với số lượng lớn như Trung Quốc,Nhật Bản,Mỹ…tương ứng với mức xuất khẩu là 827.000 tấn,405.000 tấn,213.000 tấn
Đạt được những kết quả như trên nhờ vào chiến lược phát triển của Thái Lan cụ thể như sau:
b) Các công cụ biện pháp của chính phủ Thái Lan
Thái Lan xác định nông nghiệp là bệ phóng cho nền kinh tế quốc dân và không chỉ có thế,mục tiêu cốt lõi là tạo ưu đãi”tam nông”để ổn định chính trị xã hội.Trong chính sách nông nghiệp của Thái Lan có những công cụ biện pháp chung và riêng ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển sản xuất và chế biến cao su.Cụ thể như sau:
+ Quy hoạch trồng trọt
Mặc dù bình quân diện tích canh tác nông nghiệp Thái Lan gấp 4 lần Việt Nam nhưng nhờ những hướng đi đúng đắn trong đào tạo nguồn nhân lực nên những vùng đất hoang,địa hình đồi núi dốc và cả những vùng khô cằn không chỉ dành riêng cho cây ngô,lúa nương mà nhiều loại lúa cao sản đã được triển khai và cho năng suất cao.
+ Các biện pháp ưu đãi về vốn,các biện pháp về thuế,phi thuế,những trợ cấp sản xuất.
Nhà nước ưu đãi về vốn và tăng cường bảo hiểm cho người nông dân được thực hiện:thuế nông nghiệp được bãi bỏ.Năm 2007,chính phủ Thái Lan đã trợ cấp 31,3 tỷ Baht cho lĩnh vực nông sản(chủ yếu là trợ giá) bằng 157% mức cam kết trợ giá nông sản mà Thái Lan cam kết với WTO(theo giáo sư Nipon Poapongsakorn của Đại học Thammasat,Thái Lan).Mức trợ cấp này đã gia tăng hàng năm so với mức trung bình 50%(19 tỷ Baht/năm) mà Thái Lan đã cam kết với WTO,nông sản được trợ giá chủ yếu là gạo,cao su,trái cây
-Với cao su xuất khẩu,chính sách tỷ giá hối đoái được sử dụng như một công cụ đắc lực cho tăng cường xuất khẩu,chính sách tài chính tín dụng tập tung vào việc cung cấp tín dụng dài hạn,ngắn hạn,và hình thức tín dụng cả gói.Đây là một loại tín dụng thương mại trực tiếp tăng cường xuất khẩu cao su,đáp ứng nhu cầu xuất khẩu cao su trong giai đoạn cả trước và sau khi hàng hóa rời cảng.Bên cạnh đó,hệ thống ngân hàng trong đó có Ngân hàng Thương Mại và Ngân hàng Trung Ương tập trung lớn vào việc tài trợ cho các hoạt động xuất khẩu,trong đó có xuất khẩu cao su bằng hình thức triết khấu các hối phiếu
+ Xúc tiến thương mại và hỗ trợ xuất khẩu.
Chính phủ hỗ trợ các chương trình tiếp thị ,tìm hiểu và tìm kiếm địa điểm xuất khẩu những sản phẩm sau thu hoạch và chế biến nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho ngạch tiêu thụ nông sản phát triển bằng cách đẩy mạnh hình thức hợp đồng(chính phủ với chính phủ)
+Thúc đẩy phát triển công nghệ.
Tại hội chợ gạo năm 2007,Thủ tướng Thái Lan Sarayud Chulanon nhấn mạnh”Thái lan sẽ đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ kĩ thuật hiện đại đồng thời kết hợp kinh nghiệm truyền thống để ổn định sản lượng theo triết lỹ”kinh tế đầy đủ”.Có thể nói việc đầu tư áp dụng khoa học công nghệ mới đã quyết định tốc độ tăng trưởng của quốc gia Đông Nam Á này trong suốt thời gian qua.Do diện tích đất nông nghiệp có hạn nên Thái Lan không thể mãi tiếp tục theo đuổi phát triển nông nghiệp theo hướng mở rộng đất canh tác mà thay vào đó là đưa công nghệ áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật cải tạo đất trồng,lai tạo các giống cây mới siêu năng suất,có khả năng thích ứng với vùng đất canh tác bạc màu,khô hạn.Hữu cơ hóa đất nông nghiệp thông qua sử dụng các loại phân bón hữu cơ,phân vi sinh và thuốc trừ sâu sinh học cải tạo đất thoái hóa,nâng cao độ màu mỡ của đất.Điều này vừa giúp sử dụng quỹ đất hiệu quả,giảm nhập khẩu phân bón lại nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản sạch
+Thu hút đầu tư
Mở cửa thị trường khi thích hợp;chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất trong nước để phát triển ngành công nghiệp chế biến,thông qua việc mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh với các chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào cơ sở hạ tầng như:cảng kho lạnh,sàn đấu giá,đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển
1.2.4.2 Kinh nghiệm của Indonexia
a) Khái quát chung về tính hình sản xuất và xuất khẩu cao su
Indonexia là một đất nước quần đảo,bao gồm hơn 13.600 đảo lớn nhỏ với tổng diện tích đất tự nhiên lên đến 1,9 triệu km2.Hơn 2/3 dân số sống ở vùng nông thôn và lao động nông nghiệp chiếm 54% tổng lao động xã hội.Trong đó sản xuất và xuất khẩu cao su đã đóng góp rất lớn vào ngân sách Nhà nước.Trên thế giới Indonexia là nước sản xuất và xuất khẩu cao su lớn thứ 2 sau Thái Lan
Mỗi năm Indonexia khai thác được2791 triệu tấn cao su trên tổng số diện tích 3,43 triệu ha ,năng suất đạt 1.400 kg/tấn/năm.Sản phẩm cao su xuất khẩu của Indonexia có mặt ở hầu hết tất cả các thị trường chiếm 27,6% thị phần cao su thế giới.
b)Các biện pháp
Cũng giống như Thái Lan,Malayxia,Indonexia đều nhất quán chủ trương liên minh hợp tác toàn diện giữa 3 nước sản xuất và xuất khẩu cao su lớn nhất thế giới,đồng thời kêu gọi thêm các nước sản xuất,xuất khẩu cao su ở Đông Nam Á tham gia liên minh nhằm mục tiêu tạo thế lực điều tiêý thị trường cao su tự nhiên trên toàn thế giới
+Về thu hút đầu tư
Indonexia ưu tiên cho đầu tư nước ngoài trong khâu chế biến,sản xuất bao tiêu sản phẩm theo từng thị trường xuất khẩu trọng điểm.Tức là ưu tiên đầu tư công nghệ,kĩ thuật chế biến theo nhu cầu của thị trường đảm bảo gắn kết việc tăng cường kĩ thuật công nghệ chế biến cao su với thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu của từng thị trường cụ thể
+Về tổ chức hoạt động sản xuất chế biến
Thành lập khu công nghiệp cao su tập trung tạo ra sự liên hoàn và thuận lợi trong sản xuất,chế biến và giám sát các tiêu chuẩn chất lượng.Indonexia ưu tiên phát triển những trang trại đồn điền cao su trên quy mô lớn tạo ra sự thuận lợi,đồng bộ trong việc tăng cường và phát huy năng lực của hệ thống công nghệ mới.Thành lập các phòng thí nghiệm chuyên dụng cao su do Nhà nước quản lý thống nhất để đảm bảo chất lượng cao su theo tiêu chuẩn quốc tế,tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm cao su xuất khẩu
1.2.4.3 Kinh nghiệm của Malayxia
a) Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu cao su
Malayxia là nước thứ 3 đang chiếm lĩnh thị trường cao su thế giới.Với diện tích đất trồng cao su không lớn chỉ đạt khoảng 1,35 triệu ha nhưng cù._.ng với năng suất khai thác cao 1.430kg/ha/năm.Do vậy Malayxia thu được sản lượng khá lớn và ổn định ở mức trên 2.000 tấn cao su.Cao su của Malayxia được khai thác chủ yếu là phục vụ cho hoạt động xuất khẩu.Bởi vậy đến nay vị thế của Malayxia vẫn đứng vững so với tất cả các nước xuất khẩu cao su.
b) Các biện pháp và công cụ.
+Về tổ chức sản xuất
Các vườn cây cao su được tổ chức theo nhóm có thể được trợ giúp dưới hình thức tín dụng,được cung ứng các yếu tố đầu vào và các điêù kiện tiếp thị.Malyaxia đã thành lập hội đồng ngành cây cao su nhằm mục đích xúc tiến sự liên kết giữa các khu vực Nhà nước và tư nhân.Mạng lưới của Hội đồng ngành gồm có các đại diện của các cục,công ty,trường Đại học, và các đơn vị tư nhân có liên quan đến sự phát triển của ngành cao su,tạo nên sự liên kết chặt chẽ có trách nhiệm trong các khâu sản xuất,chế biến và xuất khẩu
+Về hỗ trợ sản xuất:
Nhận thức được tầm quan trọng của sản xuất cao su và những thuận lợi có được Chính phủ Malayxia đã đưa ra những chính sách đầy hấp dẫn về tài chính,đầu tư,thuế nhằm hỗ trợ và bảo hộ người sản xuất và nhiều chương trình hỗ trợ cho sự phát triển như hỗ trợ về tài chính,kĩ thuật,công nghệ và tư vấn sản xuất,tư vấn tiếp thị.Sau khi nhận thấy giới hạn của sự phát triển cao su với tốc độ cao Malayxia đã điều chỉnh chính sách khuyến khích về tài chính tiền tệ nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu những nông sản có quy mô lớn,đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.Tất cả các đơn vị tham gia vào việc trồng cây bao gồm HTX,các tổ hợp,các nông hội,các công ty cổ phần……đều có quyền được hưởng các khuyến khích về thuế.Chẳng hạn các đơn vị mới tham gia kinh doanh được miễn trừ thuế trong vòng 5 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện dự án nông nghiệp đi vào hoạt động,được bộ tài chính chấp thuận,các chi phí cơ bản ban đầu cũng được khấu trừ về khai hoang,trồng mới,xây dựng đường xá,cầu cống,xây dựng công trình thủy lợi.
1.2.4.4 Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam
Qua nghiên cứu các chính sách và các biện pháp của một số nước ta rút ra được những bài học kinh nghiệm đáng quý như sau:
-Về quy hoạch đất trồng. Học tập kinh nghiệm của Thái Lan,hạn chế việc mở rộng diện tích thâm canh trồng cây cao su thay vào đó Việt Nam cần tập trung vào việc cải thiện đất trồng,làm tăng độ màu mỡ cho đất bằng các biện pháp khoa học nhằm cải tạo đất.Bên cạnh đó,ở những nơi đất đai khô cằn không phù hợp cho sự phát triển cây cao su,Việt Nam cần tận dụng trồng những loại cây phù hợp hơn hoặc có những biện pháp khắc phục độ màu mỡ của đất như bón phân ,làm đất…
-Về tổ chức hoạt động sản xuất như Malayxia và Indonexia trong thời gian qua thực hiện khai thác chế biến cao su theo một chuỗi liên hoàn bằng cách tổ chức xây dựng các khu công nghiệp cao su bao gồm trang trại cao su với quy mô rộng lớn bởi vì cao su thường phát triển tốt khi trồng theo đồn điền rộng,tạo môi trường thuận lợi cho cao su.Bên cạnh đó,việc xây dựng cơ sở sản xuất liền kề sẽ giúp giảm thời gian và chi phí vận chuyển trong sản xuất.
-Về phát triển công nghệ:Việt Nam nên tập trung phát triển theo hướng cải tạo đất trồng,cải thiện và nâng cao chất lượng giống cây trồng và công nghệ sinh học giúp sản xuất chế tạo sản phẩm cao su đảm bảo vệ sinh an toàn,giữ môi trường sạch.Đây là những biện pháp hữu hiệu từ Thái Lan nhằm đưa ngành cao su đến vị trí hàng đầu như hiện nay
-Về các biện pháp hỗ trợ thuế và tài chính.Trước hết Nhà nước cần bảo hiểm cho người công nhân khai thác và chế biến cao su bởi cao su mang tới nguồn lợi lớn nhưng cũng là loại cây mang lại những độc hại lớn cho người tiếp xúc thường xuyên và nhiều.Tiếp theo đó Nhà nước có thể áp dụng chiến lược như của Thái Lan trong việc Nhà nước hỗ trợ cung cấp giống cây cao su,phân bón chất lượng cao và cuối cùng đảm bảo đầu ra,tập trung thu mua phân phối ra thị trường thế giới .
-Về thu hút đầu tư. Việt Nam nên tập trung thu hút đầu tư từ các nước nhập khẩu cao su lớn của Việt Nam như Trung Quốc,Hàn Quốc…..Bên cạnh đó nên tăng cường thu hút đầu tư từ các nước có nhu cầu nhập khẩu cao su lớn của Việt Nam nhưng thị phần của Việt Nam tại các nước này còn thấp.Từ đó ta sẽ hiểu được nhu cầu thị trường và đáp ứng được một cách hiệu quả tối đa.Cuối cùng là việc thu hút đầu tư chủ yếu vào việc phát triển dây chuyền chế biến và sản xuất cao su
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH CAO SU VIỆT NAM
2.1.Tổng quan về ngành cao su thế giới
Tình hình Cung – Cầu cao su tự nhiên thế giới tương đối cân bằng trong năm 2009. Nguồn cung cao su tự nhiên toàn thế giới năm 2009 đạt 9,36 triệu tấn, giảm 6,21% so với năm 2008 do các nước sản xuất chính cùng nhau cắt giảm sản lượng để nâng đỡ giá. Nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên tiếp tục sụt giảm 1,7% so với năm 2008 đạt 9,56 triệu tấn.
Giá cao su tự nhiên biến động mạnh trong năm 2008 theo biến động của giá dầu. Sau khi đạt đỉnh vào giữa năm đã quay đầu rớt mạnh và duy trì ở mức thấp. Tuy nhiên, từ quý 2/2009 giá cao su tự nhiên có xu hướng tăng lại.
Ngành cao su chia làm 2 mảng chính: cao su tự nhiên và cao su nhân tạo. Thành phần chính của cao su tự nhiên là mủ khai thác từ cây cao su. Cao su nhân tạo có nguồn gốc từ dầu mỏ. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên chiếm khoảng 40-45% tổng nhu cầu cao su toàn thế giới.
Nguồn gốc cây cao su có xuất phát từ các nước Nam Mỹ nhưng các quốc gia ở Châu Á mới là các nước sản xuất chính
Chu kỳ sinh trưởng cây cao su trung bình 26-28 năm (xây dựng vườn cây cơ bản 6-8 năm, thời gian khai thác mủ 20 năm). Phần lớn mủ khai thác dùng làm nguyên liệu cho ngành sản xuất ô tô, các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm cao su khác như găng tay, sản phẩm y tế, các mặt hàng giàydép, nệm cao su… Hết thời gian khai thác mủ sẽ tiến hành thanh lý vườn cao su khai thác gỗ phục vụ cho các ngành khác
2.1.1. Nguồn cung cao su thế giới
Tổ chức nghiên cứu cao su thế giới (IRSG) dự báo sản lượng cao su tự nhiên toàn thế giới năm 2009 đạt 9,36 triệu tấn, giảm 6,21% so với năm 2008. Nguyên nhân chính do các nước sản xuất chính cùng nhau cắt giảm sản lượng để nâng đỡ giá sau khi giá cao su xuống mức thấp vào những tháng cuối năm 2008.
Trong 7 nước sản xuất cao su tự nhiên lớn của thế giới, IRSG dự báo Trung Quốc tăng sản lượng cao su tự nhiên trong năm 2009 chủ yếu do sản lượng của nước này năm trước đã giảm 9,9% (ảnh hưởng của thời tiết). Năm 2009 sản lượng cao su tự nhiên của Trung Quốc tăng 13,73% so với năm 2008. Thực tế 6 tháng đầu năm 2009, sản lượng đạt 202 nghìn tấn, tăng 77.97% so với cùng kỳ.
Diện tích cao su tự nhiên tại 7 quốc gia sản xuất cao su lớn nhất thế giới trong năm 2009 được giữ ở mức ổn định tương đương năm 2008. Tuy nhiên tổng sản lượng cao su tự nhiên khai thác tại các nước này năm 2009 được dự báo sẽ giảm 3,2% so với năm 2008
Diện tích cao su tự nhiên tại 7 quốc gia sản xuất cao su lớn nhất thế giới trong năm 2009 được giữ ở mức ổn định tương đương năm 2008. Tuy nhiên tổng sản lượng cao su tự nhiên khai thác tại các nước này năm 2009 đã giảm 3,2% so với năm 2008.
2.1.2. Nhu cầu cao su thế giới
Năm 2008 tổng mức tiêu thụ cao su toàn thế giới khoảng 22,15 triệu tấn, giảm 3,7% so với năm 2007. Riêng mặt hàng cao su tự nhiên, mức tiêu thụ chỉ đạt 9,72 triệu tấn, giảm 1,6% so với năm trước đó. Đây cũng là lần giảm sút đầu tiên trong những năm gần đây. Nguyên nhân chính từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Năm 2009, kinh tế thế giới tiếp tục sụt giảm làm giảm nhu cầu hàng hoá, trong đó có mặt hàng ô tô. Nhu cầu tiêu thụ cao su từ các nhà sản xuất ô tô tại các thị trường quan trọng như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản giảm trong năm nay cộng với giá cao su tổng hợp giảm do giá dầu thô đứng ở mức thấp đã tác động mạnh đến nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên.
Trung Quốc là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất trên thế giới, tỷ lệ tiêu thụ chiếm hơn 26% tổng mức tiêu thụ cao su toàn cầu. Thị trường Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu cao su năm 2008 lớn nhất thế giới, ở mức 39,27%. Năm 2009, trong khi các thị trường tiêu thụ chính như Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Hàn Quốc… đều có sự sụt giảm lớn nhưng Trung Quốc vẫn là thị trường tiềm năng nhập khẩu cao su lớn trên thế giới
Mỹ là thị trường tiêu thụ cao su tự nhiên lớn thứ hai thế giới, trong 6 tháng đầu năm 2009 thị trường này sụt giảm mạnh về nhu cầu tiêu thụ. Nhập khẩu cao su tự nhiên giảm 78,7% về lượng, giảm 34,7% về giá trị. Tình hình này cũng diễn ra tương tự ở Nhật Bản, thị trường tiêu thụ cao su lớn thế ba thế giới. Tổng tiêu dùng cao su tự nhiên của Ấn Độ (thứ tư thế giới về tiêu thụ cao su) năm 2009 dự kiến giảm hơn 2% so với năm 2008 do sự giảm sút đáng kể của ngành ô tô nước này.
Nhập khẩu cao su tự nhiên của các nước (nghìn tấn)
Nguồn: báo cáo ngành cao su quý 3/2009,AGRO
2.1.3.Giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới
Từ năm 2002 giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới tăng liên tục và đạt mức đỉnh vào cuối quý 2/2008 (trên 3000USD/tấn). Tuy nhiên, bước sang quý 3/2008 giá cao su quay đầu giảm mạnh. Tại thời điểm cuối năm 2008, giá cao su tự nhiên chỉ còn 1.200-1.300USD/tấn, giảm gần 60% so với mức đỉnh. Sự thay đổi đột ngột này bắt nguồn từ giá dầu thô tăng cao kỷ lục vào tháng 6, tháng 7/2008 (gần 147USD/thùng) và sau đó giảm mạnh, chỉ còn 40-42USD/thùng vào cuối năm 2008 khiến xu hướng sử dụng cao su tổng hợp từ dầu tăng trở lại.
Nguồn:MHBS tổng hợp từ IRSG
Diễn biến giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới có xu hướng tăng trở lại từ tháng 1/2009 đến nay. Tháng 1/2009, giá cao su RSS2 (FOB Bangkok) ở mức 1.455 USD/tấn, tăng 6,8% so với mức 1.362 USD/tấn vào tháng 12/2008. Giá cao su RSS 3 (FOB Bangkok), trong tháng 1/2009, cũng đã tăng 19,1% so với tháng 12/2008. Sang quý 2, giá cao su RSS2 (FOB Bangkok) đạt mức 1.718 USD/tấn, tăng 13,1% so với mức 1.518 USD/tấn của quý 1. Tương tự, giá cao su RSS3 (FOB Bangkok) cũng đạt 1.729 USD/tấn, tăng 12,4%.
Tính đến cuối tháng 8/2009, giá cao su RSS2 (FOB Bangkok) đã đạt 1.930USD/tấn, tăng hơn 14% so với tháng trước đó và tăng 32,6% so với đầu năm 2009. Giá cao su RSS3 (FOB Bangkok) cuối tháng 8 đạt 2020USD/tấn, tăng 30,7% so với đầu năm.
Giá cao su trên thị trường thế giới tăng trở lại do một số nguyên nhân tác động: Nhu cầu tiêu thụ cao su trên thế giới đang trên đà hồi phục, trong khi sản lượng cao su của các nước sản xuất cao su lớn trên thế giới đều suy giảm; suy thoái kinh tế thế giới chạm đáy và bắt đầu hồi phục kéo theo sự hồi phục của giá dầu thô; nhu cầu tăng dự trữ cao su của Trung Quốc….
2.2. Thực trạng khả năng cạnh tranh ngành cao su Việt Nam
2.2.1. Tổng quan về ngành cao su Việt Nam
2.2.1.1 Cây cao su và điều kiện sản xuất cao su ở Việt Nam
Ngành cao su là một trong những ngành sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam,đã có lịch sử hình thành và phát triển trên 100 năm.Cây cao su được trồng ở Việt Nam từ năm 1897 đã đang và sẽ là một cây công nghiệp quan trọng của nước ta.Ngành cao su đang dần trở thành ngành sản xuất và xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam.Theo thống kê hàng năm cho thấy lượng cao su xuất khẩu luôn đứng ở vị trí thứ 4 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.Mỗi năm đem lại nguồn lợi ,doanh thu lớn khoảng 1,3 tỷ USD và tăng lên nhanh chóng giữ tỷ trọng ở mức 4% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.Diện tích trồng cao su cũng tăng lên 750.000 ha trong năm 2008 gấp 2 lần so với năm 2002.Cao su là ngành sản phẩm có định hướng sản xuất để xuất khẩu so vậy khoảng 85-95%là xuất khẩu chiếm 5,4% thị phần cao su toàn thế giới.Cao su được đánh giá là ngành có năng lực cạnh tranh khá.
Cây cao su là cây công nghiệp dài ngày, có khả năng thích ứng rộng, tính chống chịu với điều kiện bất lợi cao và là cây bảo vệ môi trường nên được nhiều nước có điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội thích hợp quan tâm phát triển trên qui mô diện tích lớn. Hiện nay, Việt Nam chỉ trồng và khai thác cây cao su tự nhiên. Các giống cao su đang được trồng là GT1, PR 225, PR 261, Hevea brasiliensis…. và một số giống mới như RRIV 4, RRIV 2.
Thời gian khai thác của cây cao su thường kéo dài khoảng 20 năm. Giai đoạn thiết kế cơ bản của lô cao su tính từ năm trồng được qui định tuỳ theo mức độ thích hợp của vùng đất canh tác, trung bình giai đoạn này kéo dài từ 6-8 năm. Giai đoạn này đòi hỏi nhiều sự đầu tư về vật chất, kỹ thuật, phân bón cũng như là sự chăm sóc. Tuy nhiên, đây là giai đoạn cây cao su cho ít mủ nhất. Lô cao su kiến thiết cơ bản
Vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và một số khu vực tại Nam Trung Bộ là những nơi có điều kiện khí hậu và đất đai phù hợp với cây cao su, nên diện tích cao su phần lớn được trồng ở các khu vực này. Trong đó, Đông Nam Bộ là khu vực có diện tích lớn nhất.
Mặc dù cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, nhưng các quốc gia ở Châu Á mới là các quốc gia sản xuất chính ngành hàng này. Trong đó Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam là các nước sản xuất chính. Các nước xuất khẩu chính là Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam. Thái Lan là quốc gia đứng đầu trên thế giới về diện tích, năng suất và sản lượng cao su. Đứng vị trí thư hai và thứ ba là Indonesia và Malaysia. Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về nguồn cung cấp cao su thiên nhiên có từ 70% trở lên số cây hữu hiệu đạt tiêu chuẩn mở cạo thì được đưa vào cạo mủ.
2.2.1.2 Tình hình sản xuất cao su.
2.2.1.2.1 Về diện tích
Diện tích trồng cao su cả nước và tại các vùng trồng cao su chính của Việt Nam liên tục tăng trong những năm vừa qua. Từ năm 2000 đến 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân về diện tích cao su của cả nước đạt hơn 4%/năm. Diện tích cao su cả nước năm 2008 đạt 601,8 nghìn ha và năng suất bình quân của cả nước đạt 10,7 tạ/ha.
Do diện tích trồng mới và diện tích khai thác cao su từ năm 1995-2008 của cả nước liên tục tăng, cùng với việc tăng năng suất nên sản lượng cao su của cả nước tăng mạnh từ 290,8 nghìn tấn năm 2000 lên đạt 644,2 nghìn tấn năm 2008. Với mức sản lượng của năm 2008, sản xuất cao su của Việt Nam hiện đứng thứ 5 thế giới (chiếm khoảng 5,4% sản lượng cao su thế giới), đứng sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ.
2.2.1.2.2 Năng suất ngành
Do điều kiện canh tác, đất đai khác nhau nên năng suất cao su của Việt Nam có sự khác nhau giữa các vùng, dẫn đến chi phí sản xuất, chế biến ở một số tỉnh cũng khác nhau tương đối lớn, ảnh hưởng rất lớn tới lợi nhuận từ quá trình sản xuất chế biến cao su. Trong thời gian qua, ngành cao su Việt Nam đã chú trọng đầu tư thâm canh nên đã nâng cao đáng kể được năng suất trên mỗi diện tích vườn cây, từ 1,73 tấn/ha năm 1995, tăng lên 1,96 tấn/ha năm 2006 và 2,07 tấn năm 2007, đưa Việt Nam xếp thứ 2 trên thế giới về năng suất.
Năng suất cạo mủ của công nhân, có ảnh hưởng lớn đến năng suất khai thác mủ cao su, tùy thuộc vào kinh nghiệm và sức khỏe của công nhân. Nguồn lực lao động dồi dào, chi phí lao động thấp cộng với việc áp dụng phương pháp canh tác hiệu quả nên đã tạo ra lợi thế cạnh tranh của ngành cao su so với các ngành khác.
Các giống cây cao su được trồng chủ yếu ở Việt Nam:
STT
Tên giống
Năng suất trung bình
(kg/ha/năm)
1
PB235
1.685
2
GT1
1.225
3
PB260
1.522
4
RRIM600 (ươm trồng tại Tây
1.275
Nguyên)
5
VM515
1.708
6
PB255
1.918
2.2.1.3 Tình hình tiêu thụ sản phẩm.
a) Thị trường tiêu thụ trong nước
Thị trường tiêu thụ cao su tự nhiên trong nước khá nhỏ bé so với thị trường xuất khẩu. Nhu cầu tiêu thụ cao su tự nhiên của thị trường trong nước chiếm khoảng 10-15% tổng sản lượng mủ cao su sản xuất hàng năm. Do công nghiệp chế biến cao su còn thấp nên hiện nay chỉ có khoảng 20% cao su tự nhiên được chế biến để xuất khẩu. Các sản phẩm chế biến từ cao su tiêu thụ tại thị trường trong nước chủ yếu bao gồm: các loại săm lốp, găng tay y tế, băng chuyền, đai, phớt dùng trong sản xuất công nghiệp…
Trong nước có 3 doanh nghiệp lớn sản xuất các sản phẩm từ cao su: Công ty cao su Sao Vàng (SRC), Công ty cao su Miền Nam (CSM) và Công ty cao su Đà Nẵng (DRC). Ngoài ra các công ty liên doanh sản xuất các sản phẩm từ cao su gia tăng đáng kể những năm gần đây.
b) Thị trường xuất khẩu.
Liên tục trong 3 năm (từ 2006 đến 2008), kim ngạch xuất khẩu cao su luôn đạt trên 1 tỉ USD và là một trong 11 mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD mỗi năm. Số lượng và giá trị xuất khẩu cao su tự nhiên tăng đều qua các năm. Trong giai đoạn 2004-2008, tỷ trọng giá trị cao su xuất khẩu chiếm 2,2-3,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Các thị trường xuất khẩu cao su tự nhiên của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2009 đều có sự sụt giảm mạnh về kim ngạch. Xuất khẩu cao su vào thị trường Hàn Quốc và Liên Bang Nga có mức giảm cao nhất (trên 60%). Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu cao su tự nhiên lớn nhất của Việt Nam chiếm 70,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cao su, kế đến là Hoa Kỳ với 4,6%, đứng thứ 3 là Nhật Bản chiếm 4,0% .
2.2.1.4 Về nhân lực
Nhờ tạo được công ăn việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn định thường xuyên nên ngành cao su đã thu hút hàng ngàn lao động. Trong đó chiếm một lượng lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi có điều kiện tự nhiên thuận lợi như các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, Gia Lai, Đăk Lăk,Bình Phước,Đồng Nai… và tỉnh Bình Phước là một ví dụ điển hình. Đến năm 2007, diện tích cao su của tỉnh trồng được là 117.400 ha với 3213 hộ gia đình tham gia ở 46 xã cung cấp 8600 lao động. Từ đây có thể thấy rằng nguồn lao động trong ngành cao su Việt Nam rất phong phú và dồi dào.Qua nhìn nhận lại thực trạng phát triển ngành cao su Việt Nam những năm qua cho thấy ngành đã đạt được nhiều thành tựu đáng ca ngợi. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị có ảnh hưởng lớn đến ngành cao su ,gây ra nhiều khó khăn cho toàn ngành.
2.2.2 Thực trạng khả năng cạnh tranh ngành cao su Việt Nam
2.2.2.1 Về diện tích
Trong tổng diện tích 500.000 ha trồng cây cao su ở nước ta tính đến năm 2007, có 63% diện tích đang ở độ tuổi khai thác. Dự kiến năm 2010, diện tích cây cao su đạt mức 700.000 ha. Vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và một số khu vực tại Nam Trung Bộ là những nơi có điều kiện khí hậu và đất đai phù hợp với cây cao su, nên diện tích cao su phần lớn được trồng ở các khu vực này. Cụ thể: Đông Nam Bộ là 339.000 ha; Cao Nguyên là 113.000 ha; Trung tâm phía Bắc là 41.500 ha và Duyên Hải miền Trung là 6.500ha. Tuy nhiên, quỹ đất trồng mới cao su tại Việt Nam hiện còn không nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam để mở rộng sản xuất đã chuyển hướng sang trồng và khai thác tại nước bạn Lào và Campuchia nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2015, Tập đoàn Cao su Việt Nam sẽ đạt diện tích trồng cây cao su ở Lào và Campuchia là khoảng 100.000 ha/nước.
2.2.2.2 Chi phí và giá cả sản phẩm cao su
2.2.2.2.1.Chi phí sản xuất cao su.
Tuy năng suất mủ cao su của Việt Nam cũng tương đối cao nhưng giá thành sản xuất cao su của Việt Nam tương đối thấp so với một số nước đối thủ cạnh tranh trong khu vực.Giá thành sản xuất cao su của Việt Nam thấp chủ yếu do sử dụng nguồn lao động dồi dào,chi phí lao động thấp cùng với việc áp dụng phương pháp canh tác đơn giản trong giai đoạn 1994-1997,chi phí sản xuất cao su trung bình của Việt Nam khoảng 650$/tấn chỉ bằng khoảng 60% chi phí sản xuất cao su của Malayxia và 70% chi phí sản xuất của Indonesia và Thái Lan.Trong những năm gần đây,giá thành sản xuất cao su của Việt Nam đã tăng mạnh.Theo số liệu của tổng công ty cao su Việt Nam giá thành sản xuất cao su trong năm 2004 lên đến 11 triệu đồng tăng 1-1,5 triệu đồng/tấn so với năm 2002.Nguyên nhân chủ yếu do tổng công ty đưa 0,8% giá bán vào giá thành để tạo quỹ bình ổn giá cả điều chỉnh khấu hao vườn cây từ 25 năm xuống còn 20 năm.Trong cùng thời gian tiền lương của công nhân cao su tăng lên do tính theo mức lương 340 đồng/1000 đồng doanh thu.Tuy nhiên nếu xét về chỉ số DRC(1995-2000) bằng 1,030 chứng tỏ rằng sản xuất và kinh doanh cao su của Việt Nam chưa có hiệu quả cao.Năm 2007,theo nghiên cứu của Bộ NN & PTNT cao su Việt Nam có chỉ số chi phí nguồn lực nội địa DRC >1.Như vậy khả năng cạnh tranh theo chỉ số DRC của Việt Nam vẫn rất thấp
2.2.2.2.2.Giá cao su xuất khẩu.
Qua nghiên cứu,giá cao su xuất khẩu trên thị trường biến động vô cùng mạnh và phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động cũng như sự biến của cung cầu,chi phí sản xuất,mức độ độc quyền trên thị trường,sự biến động tỷ giá hối đoái,mức độ và biện pháp xử lý cao su tồn kho tại nước sản xuất và tiêu thụ cao su.
a. Xét sự biến động theo từng giai đoạn.
- Trong giai đoạn 2000-2005 giá cao su trên thị trường thế giới đã liên tục tăng với tốc độ cao tăng bình quân 22-25%/năm.Giá xuất khẩu cao su của Việt Nam cũng tăng lên theo giá cao su trên thị trường thế giới,song thường thấp hơn so với giá cao su của các nước trong khu vực từ 15-50% .Mặc dù đã có sự thu hẹp lại trong những năm gần đây,giá cao su xuất khẩu của Việt Nam trung bình là 800-1000$/tấn.Đây là sự gia tăng vượt bậc về giá trị cao su xuất khẩu cùng với xu thế của thế giới.Năm 2004 giá cao su xuất khẩu bình quân của Việt Nam là 1.356USD/tấn bằng 92% giá thế giới
- Giai đoạn 2005-2008 giá cao su Việt Nam dao động trong khoảng1400-1800 USD/tấn.
+ Năm 2006,giá cao su xuất khẩu bình quân tăng lên 1.954 USD/tấn tăng 33% so với năm 2005.Năm 2006,Việt Nam được nhóm 3 nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới gồm Thái Lan,Indonesia và Malayxia mời gia nhập tổ chức cao su quốc tế(IRCO) để cùng hợp tác giữ bình ổn gía cao su trên thị trường thế giới.Hiện IRCO đang chiếm tới 75% tổng sản lượng cao su thế giới và sự tham gia của Việt Nam thì thị phần của IRCO sẽ tăng lên tới 80%.Bởi lẽ vậy tận dụng những lợi thế từ hoạt động này Việt Nam đang trên con đường tăng năng lực cạnh tranh và phát triển thương hiệu cao su Việt Nam trên toàn thế giới.
- Sự biến động lớn nhất đối với cao su Việt Nam là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới xảy ra vào năm 2007,điều này dẫn đến sự tụt giảm nghiêm trọng về cầu cao su trên thế giới.Các nước có xu hướng giảm dần việc sản xuất săm lốp xe ôtô bên cạnh đó giá dầu giảm làm sụt giảm giá cao su trên thị trường thế giới.
- Nhưng ngược lại,đến năm 2008 đầu năm 2009 nhu cầu tiêu thụ cao su trên thế giới đang dần phục hồi nhanh trong khi đó sản lượng cao su hiện tại lại không đủ cung cấp do đang trong thời kì ngừng khai thác mủ.Bởi vậy đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đẩy giá cao su lên đỉnh điểm 3000USD/tấn vào giữa năm 2008.Ngay sau đó với những ảnh hưởng nặng từ cuộc khủng hoảng của Mỹ giá cao su thế giới đã giảm đi 50% so với giữa năm 2008 đạt trung bình khoảng 1701 USD/tấn.Trong đó giá cao su xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 1400-1500 USD/tấn tăng 100-150 USD/tấn so với năm 2007.Với mức giá này các doanh nghiệp Việt Nam thu lời khoảng 200-300 USD/tấn.Trong đó giá cao su xuất khẩu trung bình khối SVR 3L đạt 1515 USD/tấn tăng 200 USD/tấn,RSS3 tăng 348 USD/tấn đạt 1672 USD/tấn còn lại các chủng loại cao su khác đều tăng từ 40-100 USD/tấn
b. Xét trên thị trường chung.
Hiện nay,Việt Nam xuất khẩu bốn chủng loại cao su như sau:
- Cao su khối(SVR)đây là loại cao su mủ khối gồm các loại 3L;5L;SVR 10;SVR 20;SVRCV 50;SVRCV 60.Hiện nay loại cao su SVR 3L,SVR 5L chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu(71,7%).Ngoài ra còn các loại thuộc cao su khối như SVR 10; SVR20 cũng đáp ứng tiêu chuẩn của Việt Nam nhưng chất lượng không ổn định do đó chỉ chiếm tỷ trọng 4-5%(SVR10 là 4.5%;SVR20 là 5,39%).Việc sản xuất SVRC50;SVRC60 tuỳ theo yều cầu của khách hàng.
-Loại mủ cô đặc như mủ kem,mủ li tâm.Đây là loại thường dùng để cung cấp chủ yếu cho sản xuất găng tay,bong bóng…. chiếm tỷ lệ 3-4,7%
- Loại cao su xông khói và tờ đánh đông ở nguyên thuỷ chiếm khoảng 1,4%(RSS;ICR)
- Cao su Crep 2,3,4 loại này sản xuất ở mức độ rất ít chỉ vào khoảng 0.2%.
Trong những mặt hàng thị trường cần và có giá cao như cao su ly tâm SVR 10;SVR20… thì Việt Nam sản xuất rất ít,ngược lại các loại SVR 3L;SVR 5L giá thấp ,thị trường trên thế giới cần ít thì lại là sản phẩm xuất khẩu chính của nước ta.Chủng loại cao su được xuất khẩu nhiều nhất trong giai đoạn từ 2002-2008 là SVR3L(43,5%)kế đến là SVR10(17,2%) ; latex là 7,9%.Đối với các nước xuất khẩu cao su hàng đầu thế giới như Thái Lan,Indonexia,Malayxia các sản phẩm được xuất khẩu như SVR10;SVR20 đều có giá cao.Xét trong cùng chủng loại và chất lượng thì giá cao su xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn hẳn giá tại NewYork từ 150-500 USD/tấn,tại Kualalumpur từ 100-250 USD/tấn,tại Singapore từ 100-200 USD/tấn.Nguyên nhân vấn đề này là do chúng ta chưa có được các hợp đồng lớn và dài hạn để bán cho các nhà sản xuất săm lốp hàng đầu thế giới,thị trường với khối lượng giao dịch nhỏ và bán cho các nhà môi giới nên không thể có được giá cao và ổn định
So sánh giá cao su xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan,Indonexia,Malayxia ta thấy giá cao su của Thái Lan,Indonexia,Malayxia đều có sụ tương đồng,nguyên nhân chính là do sự hợp tác chặt chẽ trong tổ chức IRCO nhằm đạt được mục đích bình ổn giá cao su trên thị trường thế giới.Năm 2006,Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức IRCO điều này cũng ảnh hưởng tích cực đến giá cao su của Việt Nam từ năm 2006-2008,giúp giá cao su của Việt Nam có sức cạnh tranh cao hơn và bám sát các đối thủ cạnh tranh lớn
2.2.2.3. Chất lượng cao su xuất khẩu
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa không những là thước đo quan trọng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa càng trở nên quan trọng hơn khi sản phẩm, hàng hóa đó hướng nhiều đến xuất khẩu. Khi đó, sản phẩm đó không chỉ đại diện cho doanh nghiệp sản xuất ra nó mà còn là uy tín, là danh dự quốc gia.
Với mặt hàng cao su thiên nhiên, hiện VN là nước sản xuất xếp thứ 5 về sản lượng và thứ 4 về xuất khẩu cao su trên thế giới. Năm 2008, cao su VN đã xuất khẩu sang hơn 70 thị trường trên thế giới, từ Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc; mở rộng sang Đông Âu, Trung Đông, Nam Mỹ và đến cả châu Phi.
Liên tục trong 3 năm (từ 2006 đến 2008), kim ngạch xuất khẩu cao su luôn đạt trên 1 tỉ USD và là một trong 11 nhóm mặt hàng chủ lực của nước ta đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD mỗi năm.
Những năm qua, chất lượng cao su VN ngày càng được nâng cao, khẳng định được uy tín trên thị trường quốc tế, được khách hàng tin cậy và đánh giá cao.
Tuy vậy, công nghiệp chế biến cao su của VN hiện nay mới tập trung chủ yếu vào gia công cao su thô khô nên cơ cấu mặt hàng và khối lượng sản phẩm của ta ít hơn nhiều so với Thái Lan và Malaysia. Thiết bị và công nghệ sơ chế mủ cao su tuy đã được hiện đại hóa, cơ cấu sản phẩm đã được điều chỉnh theo hướng “sản xuất cái khách hàng cần chứ không phải cái ta có”, nhưng nhìn chung, chất lượng cao su VN vẫn chưa thực sự thỏa mãn nhu cầu của thị trường và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng.
Tại VN, ngoài đơn vị chủ lực là Tập đoàn CNCS VN với 40 nhà máy, thiết bị công nghệ khá hiện đại, năng lực chế biến hàng năm lên đến 354.000 tấn thì mặt hàng cao su còn được sản xuất bởi nhiều thành phần kinh tế khác. Một số thành phần làm ăn theo kiểu “nửa mùa”, chưa giám sát chặt chất lượng nguyên liệu latex, kém chú trọng đến đầu tư trang thiết bị chế biến và công tác kiểm phẩm v.v… nên chất lượng cao su không cao và kém ổn định. Điều này ảnh hưởng chung đến uy tín chất lượng cao su xuất khẩu của VN. Đó cũng là một trong những lí do khiến tính cạnh tranh của cao su của VN thấp và thường xuyên bị ép giá.
Sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp xuất khẩu cao su nguyên liệu VN được lợi hơn khi thuế nhập khẩu vào các nước giảm. Chúng ta được bình đẳng với các nhà xuất khẩu khác trên cùng thị trường, nhưng yêu cầu về chất lượng tỏ ra nghiêm ngặt hơn và phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay giá cao su đã giảm mạnh so với trước khi xảy ra khủng hoảng kinh tế. Yêu cầu của khách hàng ngày càng khắt khe hơn, nhất là tính ổn định của các cấp hạng cao su. Vì vậy, việc tiêu thụ sẽ thêm khó khăn. Để giữ vững và mở rộng thị trường, tạo uy tín với khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh, việc duy trì và nâng cao chất lượng là vấn đề sống còn đối với sản phẩm cao su VN.
Bởi về lâu dài, ngành cao su không thể mãi mở rộng diện tích và tăng sản lượng mà phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng, nghiên cứu các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Như vậy cao su VN mới đuổi kịp và vươn đến đỉnh cao của chất lượng và cạnh tranh ngang sức với cao su thế giới.
2.2.2.4 Mức độ vệ sinh công nghiệp và đảm bảo môi trường.
Ngày nay,môi trường sống của chúng ta đang gặp những vấn đề nguy hại nghiêm trọng do tác động của sự phát triển mạnh mẽ về khoa học-công nghệ.Do vậy,một loạt các tiêu chuẩn về quy trình sản xuất đảm bảo môi trường của các nước được đưa ra quy định một cách khắt khe,đặc biệt là với ngành công nghiệp chế biến cao su.
Công nghiệp chế biến cao su nếu không đúng quy cách và tiêu chuẩn vệ sinh thì sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái bởi tính độc hại của cây công nghiệp cao su.
Trong những năm qua,Việt Nam đã đưa rất nhiều chiến lược như bảo vệ môi trường quốc gia nhằm định hướng đến năm 2020,100% sản phẩm,hàng hoá xuất khẩu và 50% hàng hoá tiêu dùng nội địa trong nước được ghi nhãn sinh thái theo tiêu chuẩn ISO 14021.Nhà nước đã ban hành các tiêu chuẩn Việt Nam có liên quan đến môi trường cụ thể như 502 TCVN.Việt Nam đã không ngưngd nâng cao mức độ hài hoà tiêu chuẩn với khu vực và quốc tế.Theo thống kê,hiện tiêu chuẩn Việt Nam hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế vào khoảng 20%(so với Malayxia 38%;Trung Quốc 43%;Nga 30%;Hàn Quốc 32,5%) kế hoạch trong thời gian tới là nâng lên con số 30%.Đây là những quy định chung đối với vệ sinh công nghiệp được ban hành bởi chính phủ.
Tuy nhiên,bên cạnh sự cố gắng của Nhà nước,hầu hết các doanh nghiệp đều vi phạm các quy định pháp luật về môi trường và tiêu chuẩn môi trường.Còn phần lớn các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ đều gây ô nhiễm và chưa có biện pháp giải quyết.Minh chứng cho điều này,xin đưa ra một vài vụ việc vi phạm nghiêm trọng tới vệ sinh công nghiệp chế biến cao su.Năm 2008,Công ty chế biến cao su Hoà Lâm,thuộc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã bị cơ quan chính quyền địa phương xử phạt bởi việc xả thải bẩn vào nguồn nước sinh hoạt của người dân thuộc khu vực đó,điều này ảnh hưởng nghiêm trọng cuộc sống của người dân.Sau vài lần cảnh cáo và xử phạt,công ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25490.doc