trường đại học kinh tế quốc dân
khoa thương mại
---------*****-----------
&!
đề án
thương mại quốc tế
Đề tài: Giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật bản của công ty Mỹ nghệ xuất nhập khẩu và trang trí nội thất.
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Duy Bột
Sinh viên thực hiện: Doãn Thị Hằng
Lớp: Thương mại quốc tế 41C
Hà nội, 2001
Phần 1
Mở đầu
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản của Công ty Mỹ nghệ XNK và trang trí nội thất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được xem là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để thúc đẩy tăng trưởng & phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam là một nước nông nghiệp, khí hậu nhiệt đới gió mùa nên thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp và nhiều cây khác phát triển phong phú. Bên cạnh đó, vị trí địa lý đã tạo ra cho chúng ta các nguồn tài nguyên đa dạng khác như: Đất sét, cát trắng, đá, các mỏ quặng, than. Thêm vào đó là nguồn lao động sẵn có của nước ta. Vì vậy, trong quá trình phân công lao động quốc tế, Việt Nam ham gia xuất khẩu chủ yếu các hàng nông sản và các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ, lắp ráp các linh kiện điện tử. Trong đó, hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng và được đánh giá cao trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta vốn có lịch sử phát triển rất lâu đời. Bằng khối óc thông minh và bàn tay khéo léo của mình, từ ngàn xưa ông cha ta đã tạo ra biết bao nhiêu sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của kinh tế xã hội, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn giữ được vị trí của nó vẫn duy trì và phát triển cho đến ngày nay. Không phải ngẫu nhiên mà mặt hàng này được nằm trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quốc gia. Ngoài ý nghĩa kinh tế, đó là xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thu được nguồn ngoại tệ không nhỏ, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, nó còn mang ý nghĩa xã hội rất lớn là góp phần tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống của người dân. Thông qua hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ với các sản phẩm tinh xảo, độc đáo, chúng ta đã giới thiệu được với bạn bè thế giới về đời sống văn hoá của con nguời Việt Nam, giúp cho họ hiểu rõ hơn về chúng ta để chúng ta tôn trọng, giữ gìn và phát huy nguồn tài sản quý giá mà ông cha ta để lại.
Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất là một công ty trực thuộc Tổng công ty Thương mại và Xây dựng. Mặc dù là một công ty nhỏ, mới ra đời, còn gặp nhiều khó khăn, thử thách do sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường nhưng Công ty đã đứng vững và đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ.
Đề tài này đề cập đến một số giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật bản của công ty Mỹ nghệ xuất nhập khẩu và trang trí nội thất. Với vốn hiểu biết hạn chế của mình em xin mạnh dạn trình bày quan điểm của mình về vấn đề này .
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Duy Bột đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này .
Phần 2
Nội dung
I.một số vấn đề về hàng thủ công mỹ nghệ và hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
1.Đặc điểm hàng thủ công mỹ nghệ
Hàng thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm được sản xuất bằng tay với những dụng cụ thô sơ hoặc những máy móc đơn giản nhưng lại chứa đựng những kỹ xảo mà máy móc hiện đại không thể làm được. Sản phẩm được làm từ những nguyên liệu xuất phát từ trong tự nhiên sẵn có, những nguyên liệu này nếu để không thì chúng có thể là những vật không có giá trị hoặc giá trị thấp, nhưng nếu chúng được qua bàn tay những người thợ thủ công thì chúng trở thành những sản phẩm có gía trị lớn hơn rất nhiều.
Hàng thủ công mỹ nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt, nó vừa mang tính chất thương mại như các hàng hoá khác vừa là một sản phẩm được kết tinh từ những nét văn hoá truyền thống độc đáo, từ đặc điểm cuộc sống hàng ngày của các quốc gia. Trước hết vì nó là một hàng hoá nên nó được sản xuất ra để đáp ứng nhu cầu của con người, ví dụ dùng để sử dụng, làm đồ trang trí nhà cửa, làm đồ lưu niệm, quà tặng. Và mỗi vùng, mỗi nước có lợi thế riêng trong sản xuất nên sản phẩm các vùng được trao đổi, phân phối, mua bán với nhau thông qua các phương tiện, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và các nhân tố kinh tế xã hội khác. Ngoài ra, nó còn là sản phẩm được kết tinh từ những truyền thống văn hoá, từ đặc điểm cuộc sống từng vùng được thể hiện: Mỗi vùng có những sản phẩm đặc trưng riêng của mình, từ kiểu dáng, màu sắc, nguyên vật liệu, vv... Đó cũng là lý do vì sao chúng ta chỉ cần nói đến tên sản phẩm là người ta biết được đó là sản phẩm của vùng nào, và nét văn hoá của vùng đó ra sao, ví dụ: Vải thổ cẩm là sản phẩm của dân tộc thiểu số Thái, Mường,Chàm; gốm sứ là sản phẩm của Bát Tràng, vv... Vì thế, hàng thủ công mỹ nghệ phải được làm bằng tay với những công cụ thô sơ nhưng lại mang tính thẩm mỹ rất cao.
Việt Nam là một đất nước có nền nông nghiệp lâu đời, lao động thủ công là chính, điều này đã làm cho người lao động sáng tạo ra nhiều ngành nghề thủ công đặc sắc phản ánh đặc điểm của từng vùng. Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam thường có những đặc điểm sau:
1.1.Trước hết hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất chủ yếu bằng những nguyên liệu có sẵn trong nước như: Mây, tre, cọ, đá, đất sét,... Các cơ sở sản xuất thường được bố trí gần nguồn nguyên liệu. Vì vậy, nhu cầu nhập khẩu nguồn nguyên liệu phụ cho sản xuất là không đáng kể. Mặt khác, phần lớn sản phẩm thủ công mỹ nghệ được xuất phát từ làng nghề ở nông thôn nên quá trình sản xuất đơn chiếc mang tính thời vụ cao vì hầu hết các làng nghề làm nghề này chưa được hưởng các chính sách phát triển, do vậy người dân cho đây là nghề trong gia đình, làm thêm trong thời gian nông nhàn và họ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu vì những hàng thủ công mỹ nghệ thường có giá thành rất rẻ, không đảm bảo được cuộc sống cho họ.
1.2. Nguồn lao động dồi dào trong đó có đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi là một thuận lợi lớn để mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ không cần phải có trình độ học vấn cao mà chỉ cần khéo léo, cần cù. Do vậy sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thu hút được nhiều lao động ở nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo. Hơn nữa còn duy trì và phát triển được các ngành nghề truyền thống độc đáo được truyền từ đời này sang đời khác. Chính điều này làm cho hàng thủ công mỹ nghệ phong phú hơn về kiểu dáng và chủng loại, đặc biệt là nó chứa đựng những nét nghệ thuật độc đáo, tô đậm truyền thống văn hoá của mỗi dân tộc nói riêng và của nước Việt Nam nói chung.
1.3. Vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ là không lớn do nguồn tài nguyên sẵn có, máy móc, dụng cụ thô sơ,không cần hiện đại.Tổ chức theo quy mô nhỏ, cơ sở sản xuất xcó thể phân tán trong gia đình, không nhất thiết phải tập trung toàn bộ, chính vì vậy sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ mang tính không đồng đều rất cao
1.4.Một số hàng thủ công mỹ nghệ được làm bằng tự nhiên: Cỏ, cây, tre, mây,... được phơi và sấy khô trước khi đưa vào sản xuất. Vì thế mà trong quá trình sản xuất không thể tránh khỏi nguyên liệu hút ẩm, đặc biệt là với đặc điểm khí hậu Việt Nam có độ ẩm cao nên dễ làm cho sản phẩm bị mốc rất nhiều trong các mùa: Thu, Đông, Xuân. Bên cạnh đó, về mặt chủ quan cũng có những tác động rất lớn như: Hàng hoá bị mốc, cơ sở sản xuất còn rất kém, hệ thống bảo quản mang tính tạm bợ, cùng với đó là việc đóng gói bao bì không tốt đã làm cho không khí vào bên trong hàng hoá nhiều.
1.5. Những năm gần đây do nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ tăng cao đặc biệt là hàng xuất khẩu, do đó ngày càng có nhiều công ty tham gia kinh doanh, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Đối với các công ty kinh doanh, các công ty thương mại, họ thường đóng vai trò trung gian trong xuất khẩu, còn đối với các doanh nghiệp hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu thì họ là những người trực tiếp làm ra sản phẩm, tìm hiểu xem nhu cầu thị trường cần gì. So với sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề, thì sản xuất ở các doanh nghiệp này thường có qui mô, đồng bộ và phong phú hơn.
2. ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với sự phát triển kinh tế Việt nam.
Hàng thủ công mỹ nghệ là một loại hàng đặc biệt, nó vừa mang tính thương mại vừa chứa đựng yếu tố văn hoá dân tộc. Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, bên cạnh việc tạo công ăn việc làm, tạo nguồn thu ngoại tệ nó còn bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc.
-Trước hết, sản xuất và phát triển hàng thủ công mỹ nghệ đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Theo kinh nghiệm thực tế đã hình thành, nếu xuất khẩu 1 triệu USD thì thu hút khoảng 3500-4000 lao động chuyên nghiệp/năm. Chỉ tính riêng sự tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã tạo thêm hơn 20 vạn chỗ làm cho người lao động.
-Nước ta là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Số lao động trong nghề nông lớn và có xu hướng ngày càng gia tăng trong khi đất canh tác ngày càng thu hẹp, vả lại những lao động này phần lớn là các lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Trong khi đó ngành thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi người lao động có trình độ cao, mà chỉ cần chăm chỉ, cần cù và có thêm một chút khéo léo. Xét một cách rộng hơn, phát triển ngành thủ công mỹ nghệ sẽ ngăn chặn được dòng người di dân, di chuyển tự do từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm gây xáo trộn xã hội, quá tải đô thị, ô nhiễm môi trường,... Có thể nói đây là ý nghĩa xã hội to lớn nhất của việc phát triển hàng thủ công mỹ nghệ.
-Với những điều kiện rất thuận lợi của Việt nam về tự nhiên, khí hậu, tài nguyên,... thì việc phát triển hàng thủ công mỹ nghệ là một cơ hội tốt cho Việt nam khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ giúp Việt nam khai thác được tối đa lợi thế so sánh của mình, kéo theo các ngành khác phát triển. Đây là cơ hội để thúc đẩy nền sản xuất phát triển trong điều kiện eo hẹp về vốn của chúng ta như hiện nay.
-Thông qua quá trình gia công hàng xuất khẩu, các công ty đã chú trọng đến công tác nhập khẩu máy móc và các linh kiện để gia công các mặt hàng như: Thêu ren, dệt thảm, làm đồ chơi bằng thạch cao, gốm sứ,... Những máy móc này đều là máy móc hiện đại, năng suất cao, do vậy các cơ sở có điều kiện tiếp cận với những máy móc hiện đại tạo điều kiện nâng cao tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản lý của cán bộ quản lý. Từ đó chúng ta có thể tự sản xuất hàng xuất khẩu nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ làm tăng thu ngoại tệ cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu thu được từ hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm khoảng 1,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Nếu so sánh với các mặt hàng xuất khẩu khác thì đây là mặt hàng có tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu cao và hiệu quả kinh tế lớn, đứng thứ 8 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
-Mặt khác, mặt hàng này được nhà nước coi trọng trong đường lối phát triển kinh tế vì phát triển mặt hàng thủ công mỹ nghệ giúp chúng ta giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc. Đây là một truyền thống được lưu truyền từ đời này sang đời khác, với mỗi sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ là một tác phẩm nghệ thuật, nó chứa đựng trong đó những nét văn hoá tinh xảo không chỉ thể hiện dưới sự khéo léo của các nghệ nhân mà quan trọng hơn nó phản ánh được lịch sử, truyền thống văn hoá, nếp sống của con người Việt nam. Đó là các hoạ tiết trên các đồ gốm, trên các bức tranh sơn mài, đồ gỗ chạm khảm, trên các bộ búp bê dân tộc,... với những đôi bàn tay kỳ diệu của người thủ công mà đời nào cũng có, các tác phẩm này đã thực sự có tiếng nói trong làng thủ công mỹ nghệ thế giới. Nó đã gián tiếp giới thiệu Việt nam với bạn bè thế giới, khẳng định vị thế của chúng ta trên trường quốc tế.
Tóm lại, có thể nói rằng hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế xã hội. Trong tương lai, hy vọng với những ưu điểm vốn có của mình, mặt hàng này sẽ được quan tâm đầu tư hơn nữa để có thể huy động được tối đa hiệu quả của nó.
II.tổng quan về nhu cầu nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường nhật bản .
Khái quát về thị trường nhật bản.
Nhật bản nằm trong số 10 nước đông dân nhất thế giới, dân số của Nhật Bản hiện nay xấp xỉ 130 triệu người. Ngày nay các gia đình ở Nhật Bản thường chỉ sinh 1 con trong khi tuổi thọ ngày càng cao, do đó số lượng người già đang ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu dân số Nhật Bản. Theo Bộ y tế và phúc lợi xã hội thì số dân từ 65 tuổi trở lên vào thời kỳ 2020-2025 là khoảng 26% số dân. Điều này chắc chắn ảnh hưởng đến kinh tế cũng như xu hướng tiêu dùng của Nhật Bản.
Kinh tế Nhật Bản là một nền kinh tế lớn nhất Châu á và lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ. Trình độ giáo dục ở Nhật Bản cao, tỷ lệ biết chữ là 99%.
Người Nhật Bản rất tôn trọng các mối quan hệ gia đình, họ hàng và đề cao việc tham dự các lễ kỷ niệm như: Lễ mừng thọ, lễ cưới, lễ tang và các dịp thờ cúng tổ tiên. Đạo giáo phổ biến nhất của Nhật Bản là đạo Phật, ngoài ra cũng có một số tôn giáo khác như đạo thiên chúa, đạo tin lành,...
Đặc trưng của văn hoá Nhật Bản: Hình thành trên nền tảng văn hoá Trung Hoa nhưng mang bản sắc riêng, là một nền văn hoá được pha trộn từ ảnh hưởng của nhiều nước nhưng sự kết hợp đó rất hài hoà và điêu luyện.
Những sản phẩm nghệ thuật truyền thống như: Dụng cụ dùng trong thuật vẽ chữ, sản phẩm sơn mài, đồ gốm sứ, hàng dệt, hàng mây tre đan, đồ bằng kim loại, đồ gỗ.
Lịch sử của đồ mỹ nghệ truyền thống: Ngày xưa các đồ mỹ nghệ này chỉ có tầng lớp cao trong xã hội như tầng lớp quý tộc và võ sĩ mới sử dụng, nhưng về sau từ thời EDO1603-1867, xã hội phát triển phồn thịnh hơn xuất phát từ tầng lớp thương nhân rồi dần dần đến người dân thường cũng bắt đầu sử dụng các mặt hàng này. Sau đó chúng được nhân rộng khắp, nhưng kể từ sau khi các sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng thì ngược với xu hướng này các nghệ nhân làm hàng mỹ nghệ giảm dần. Khoảng 20 năm gần đây, ở Nhật Bản đang có phong trào vận động bảo tồn bản sắc truyền thống dân tộc, rất trân trọng các nghệ nhân còn sót lại. Chính vì số nghệ nhân quá ít nên những mặt hàng họ làm ra được xem là rất có giá trị, từ đó dẫn đến giá thành sản phẩm rất cao. Xuất phát từ lịch sử phát triển này nên người Nhật Bản có cách đánh giá sản phẩm mỹ nghệ truyền thống rất cao và rất khắt khe.
Theo từng lứa tuổi thì sở thích sẽ khác nhau, một ví dụ về sở thích đối với nhóm hàng trang trí trong nhà và tạp hoá sẽ cho ta thấy rõ về vấn đề này:
+Trên 50 tuổi: Thích những mặt hàng mỹ nghệ truyền thống sản xuất từ xưa (Antique) của:
*Nhật Bản
*Hàng cổ cao cấp của Châu Âu
*Đồ cổ của Châu á
+Từ 30-40 tuổi: Thích đồ mỹ nghệ cao cấp của:
*Nhật Bản
*Toàn bộ hàng của Châu Âu
*Sản phẩm chất lượng cao của Châu á
*Toàn bộ hàng của Mỹ
+Lứa tuổi 20: Thích hàng có mẫu mã hiện đại của:
*Nhật Bản
*Hàng Châu Âu
*Hàng của Mỹ
*Sản phẩm gia dụng dùng trong sinh hoạt hàng ngày của Châu á.
Suy nghĩ của người Nhật Bản về Việt Nam: Khoảng 10 năm trước đây thì nhiều người Nhật Bản vẫn luôn nghĩ Việt Nam là một đất nước vẫn còn chiến tranh. Họ thường xuyên xem trên tivi và chỉ thấy toàn những hình ảnh của những người vượt biên bằng tàu biển, hình ảnh một đất nước còn nghèo nàn và có một nền chính trị bất ổn. Từ sau năm 1995 bắt đầu xuất hiện những mặtt hàng gốm sứ Bát Tràng truyền thống được khôi phục lại. Những sản phẩm tạp hoá của Việt Nam tại Nhật Bản, xem Việt Nam là “vương quốc của hàng tạp hoá “.
Những vấn đề mà thị trường Nhật Bản đòi hỏi ở Việt Nam:
-Mẫu mã: Những nét mang tính phương Đông, những nét mang tính Châu á, những nét của nước Pháp.
-Chất lượng: Cần coi trọng những vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm.
-Số lượng tối thiểu khi đặt hàng: Nên tiếp nhận cả những đơn hàng có số lượng nhỏ.
-Thời hạn giao hàng: Phải luôn đảm bảo được như hợp đồng.
-Tiền hàng mẫu: Cần tự giác chịu chi phí hàng mẫu.
-Các vẫn đề khác:
+ Cần bỏ đi thói quen cam kết vội khi nhận đặt hàng, nói sẽ làm được nhưng sau đó không thực hiện được.
+ Cần có trách nhiệm trong vấn đề hàng vỡ, xước, hàng kém phẩm chất.
+ Cần xác nhận với khách hàng rõ ràng rồi hãy tiến hành, tránh tình trạng tự ý quyết định những vấn đề chưa rõ ràng.
Điểm quan trọng: Nên có cái nhìn về lợi ích lâu dài hơn, tránh suy nghĩ chạy theo lợi ích trước mắt.
2.Đặc tính và thái độ của người tiêu dùng Nhật bản về hàng thủ công mỹ nghệ.
2.1.Đặc tính của người tiêu dùng:
Trước hết để hiểu biết về thái độ tiêu dùng của người tiêu dùng Nhật Bản thì ta cần phải biết rằng bất chấp tốc độ của quá trình toàn cầu hoá, người tiêu dùng Nhật Bản vẫn có những thị hiếu tiêu dùng rất riêng của họ, thị trường Nhật Bản vẫn giữ được tính đặc thù của nó.
Người tiêu dùng Nhật Bản có tính đồng nhất rất cao, họ luôn có xu hướng sử dụng những hàng hoá mà những người trong cùng công sở, trong cùng trường học, cũng như những người thân quen đang sử dụng. Đồng thời hiện nay ở Nhật Bản có tới 90% người tiêu dùng cho rằng họ thuộc về “tầng lớp trung lưu“, từ đó đã làm cho cách tiêu dùng của họ có tính tương tự nhau cả về loại hàng hoá, cũng như chất lượng hàng hoá, họ không mấy quan tâm tới giá cả hàng hoá nếu như những thứ hàng hoá đó làm họ thoả mãn. Một vài tiêu chuẩn về màu sắc khác nhau cũng tồn tại ở Nhật Bản, dựa trên sự kết hợp các tiêu chuẩn truyền thống với các ảnh hưởng của phương tây.
Người Nhật Bản có thói quen tiêu dùng một loại hàng hoá nào đó trong một thời gian ngắn, rồi sau đó thị hiếu về loại hàng này sẽ nhanh chóng biến mất và thay vào đó là một loại hàng hoá khác. Như vậy, một loại hàng hoá nào đó nếu chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản thì cũng có thể chỉ tồn tại được trong thị trường này một thời gian ngắn. Nhưng đặc tính tiêu dùng quan trọng nhất của người tiêu dùng Nhật Bản đó là họ sẽ sử dụng những hàng hoá đã được kiểm tra theo những tiêu chuẩn JIS, JAS hoặc ECOMARK. Với những tiêu chuẩn này thì họ không cần biết hàng hoá này có xuất xứ từ đâu.
2.2.Thái độ của người tiêu dùng Nhật Bản.
-Người Nhật Bản là người tiêu dùng khắt khe nhất:
Nhật Bản là một trong những nước trên thế giới đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Những khiếm khuyết mà ở các quốc gia khác không thành vấn đề như một vết xước nhỏ, đường viền không cân hay màu sơn bị mờ trong một sản phẩm thì ở Nhật Bản đều bị coi là hàng hỏng. Nhu cầu về bảo hành hàng hoá là rất cần thiết, người tiêu dùng muốn những hàng hoá có thể tin cậy và những dịch vụ sau bán hàng giúp họ hài lòng. Khi người tiêu dùng đã thấy mình mua được một hàng hoá không như ý, họ sẽ ngay lập tức chuyển sang mua sản phẩm nhãn hiệu mới. Nếu có một vấn đề nào đó đối với sản phẩm sản xuất thì người tiêu dùng Nhật Bản muốn được giải quyết ngay lập tức.
-Người tiêu dùng Nhật Bản rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa:
Thời tiết ảnh hưởng rất nhiều tới tiêu dùng. Mức tiêu dùng của một loại hàng hoá, đồ trang sức, đồ nội thất trong gia đình,... chịu ảnh hưởng của khí hậu và thời tiết. Mùa hè ở Nhật thường nóng và ẩm trong khi đó mùa đông lạnh và khô, từ đó những hàng hoá chịu ảnh hưởng của thời tiết thì chất liệu, màu sắc cũng như kiểu dáng cần phải phù hợp. Các nhà sản xuất và bán buôn nếu tung ra những hàng hoá phù hợp với mỗi mùa nhưng khí hậu không thay đổi theo đúng như dự tính thì những sản phẩm này sẽ bán không chạy.
-Người tiêu dùng Nhật Bản thường chọn nhiều sản phẩm:
Với những hàng hoá có màu sắc khác nhau thì người tiêu dùng rất muốn các nhà tư vấn đưa ra các lời khuyên về màu sắc thích hợp nhất với thị hiếu cá nhân. Người bán cần cung cấp thông tin cụ thể về sản phẩm và dịch vụ sau khi bán vì đối với người tiêu dùng Nhật Bản như đã nói ở trên thì họ rất quan tâm tới tiêu chuẩn chất lượng của hàng hoá, đồng thời nhu cầu về bảo hành là rất cần thiết, người tiêu dùng muốn những hàng hoá có độ tin cậy và những dịch vụ sau bán hàng giúp họ hài lòng.
3.Tập quán kinh doanh và những quy định về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Nhật bản
3.1.Các tập quán kinh doanh của Nhật Bản:
-Sơ lược về cơ cấu tổ chức của một công ty Nhật Bản
Phần lớn các công ty Nhật Bản, công việc thường được tiến hành từ dưới lên trên. Trong công việc kinh doanh, các quyết định có thể do một trưởng phòng là người có quyền ra quyết định trên một phạm vi nhất định, tuỳ thuộc vào qui mô giao dịch và nội dung của hợp đồng. Những giao dịch vượt quá quyền hạn của trưởng phòng sẽ được quyết định dựa trên nguyên tắc thống nhất, vì vậy có thể mất nhiều thời gian để đưa ra một quyết định cuối cùng. Chế độ “ Ringi “ là điểm đặc trưng của quá trình ra quyết định theo nguyên tắc nhất trí. Theo chế độ này thì một phòng trong công ty muốn ký kết một hợp đồng giao dịch sẽ phải chuyển một bản đề nghị còn gọi là “ Ringisho “ lần lượt tới các phòng ban liên quan trong công ty. Vì Vậy để tiến hành công việc với các công ty Nhật Bản được dễ dàng thì nhà doanh nghiệp trước tiên cần xác định mình sẽ làm gì, đi đâu để lấy thông tin và cần phải chuẩn bị những gì trước khi đàm phán ký hợp đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện cho quá trình đàm phán diễn ra nhanh chóng và tránh được những hiểu lầm.
-Thiết lập mối quan hệ kinh doanh với các công ty Nhật Bản:
Để thiết lập mối quan hệ kinh doanh với các công ty Nhật Bản thì điều kiện đầu tiên mà các doanh nghiệp cần phải biểu hiện được đó là sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau. Đây cũng có thể nói là yếu tố quyết định thành công trong quan hệ kinh doanh.
Các công ty Nhật Bản tin tưởng rằng chất lượng là yêu cầu cơ bản và họ duy trì các tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt. Việc sử dụng các dấu hiệu chất lượng này đã tạo điều kiện cho việc kiểm tra chất lượng hàng hoá trong quá trình sản xuất cũng như phân phối được tốt hơn. Bên cạnh đó việc sử dụng các dấu hiệu này trên các nhãn hiệu không chỉ cung cấp sự bảo đảm về chất lượng sản phẩm khi người tiêu dùng lựa chọn mua hàng. Ngoài việc bảo đảm về chất lượng hàng hoá, khách hàng Nhật Bản còn rất quan tâm tới các điều kiện giao dịch khác như giá cả, khả năng cung cấp hàng hoá ổn định của công ty, điều kiện thời gian giao hàng,... Do đặc tính của người tiêu dùng Nhật Bản thường xuyên thay đổi, nên hàng hoá cung cấp cần phải phong phú về chủng loại, số lượng ít và vòng đời ngắn.
-Cách kinh doanh kiểu Nhật Bản:
+Quan hệ cá nhân rất quan trọng.
+Việc thâm nhập thị trường cần có thời gian.
+Việc ra quyết định mất nhiều thời gian nhưng việc thực hiện lại rất nhanh chóng.
-Phương thức mua bán:
Thị trường Nhật Bản sử dụng nhiều phương thức mua bán nhưng phổ biến nhất là phương thức mua bán đứt đoạn, gửi bán, gia công hàng.
Các giao dich thường sử dụng 3 phương thức thanh toán:
+Thư tín dụng
+Thanh toán trên cơ sở D/A hoặc D/P
+Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền
3.2.Các phương thức thâm nhập thị trường Nhật Bản:
-Hợp đồng đại lý nhập khẩu:
Đại lý nhập khẩu giải quyết các thủ tục hải quan và giao lại hàng cho các kênh phân phối hoặc trực tiếp cho người tiêu dùng. Loại hình này thường chiếm được các hợp đồng tiêu thụ đặc biệt, có chuyên môn về sản phẩm hoặc nắm giữ thông tin đối với việc phân phối sản phẩm ở Nhật Bản.
-Công ty thương mại chuyên doanh:
Các công ty này chỉ nhập khẩu một chủng loại sản phẩm nhất định có các kiến thức chuyên môn với chủng loại mà họ kinh doanh và có khả năng thực hiện nhiều chức năng maketing như dịch vụ sau bán hàng, đào tạo,... Đây là loại hình kinh doanh rất hiệu quả đối với các nhà sản xuất nước ngoài vì họ thường chuyên vào một sản phẩm nhất định. Bên cạnh đó họ còn có khả năng cung cấp các dịch vụ phù hợp và hiệu quả do có quan hệ rộng rãi trong khu vực phân phối.
-Công ty thương mại tổng hợp:
Các công ty thương mại tổng hợp ở Nhật Bản có ảnh hưởng đáng kể đối với việc phân phối các sản phẩm nhập khẩu. Do có khả năng cung cấp nhiều hình thức tài trợ khác nhau, họ thường xuyên tham gia vào việc phát triển các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của thị trường Nhật Bản và giúp các nhà sản xuất trong việc cấp giấy phép sản xuất ở nước ngoài.
-Chi nhánh hoặc liên doanh:
Một phương pháp khác để tiêu thụ sản phẩm là liên doanh với một công ty Nhật Bản, ban đầu chỉ nhập và bán các hàng hoá nhưng sau đó có thể xây dựng nhà máy sản xuất tại Nhật Bản.
-Hợp tác sản xuất trong lĩnh vực liên quan:
Đây là hình thức sử dụng các kênh phân phối sẵn có của một nhà sản xuất trong lĩnh vực liên quan hoặc một nhà sản xuất có chủng loại sản phẩm khác.
3.3.Một số chú ý về thủ tục nhập khẩu:
-Chế độ cấp giấy phép nhập khẩu :
Theo mục 6 điều 15 của luật kiểm soát ngoại thương và ngoại hối Nhật Bản quy định một số mặt hàng cần có giấy phép nhập khẩu . Vì Vậy , việc ký hợp đồng nhập khẩu các mặt hàng này phải được sự cho phép của một số ngành , bộ có liên quan . Việc thanh toán hàng nhập khẩu cần giấy phép chỉ có thể thực hiện sau khi giấy phép nhập khẩu đã được cấp .
-Chế độ hạn ngạch nhập khẩu :
Chế độ này được quy định nhằm định ra hạn ngạch về số lượng và giá trị hàng hoá nhập vào Nhật Bản . Khi nhập khẩu một mặt hàng theo hạn ngạch,nhà nhập khẩu sẽ không được cấp giấy phép của ngân hàng ngoại hối hay các cơ quan khác nếu họ chưa xin được hạn ngạch của Chính phủ .
-Chế độ thông báo nhập khẩu :
Hàng hoá nhập khẩu nếu không phải là “ mặt hàng tự do nhập khẩu “ thì các nhà nhập khẩu muốn nhập khẩu hàng hoá phải đệ trình lên Chính phủ một văn bản thông báo nhập khẩu thông qua ngân hàng quản lý ngoại hối thanh toán cho lô hàng đó .
-Hệ thống ưu đãi thuế quan :
Hệ thống này nhằm mục đích tăng kim ngạch xuất khẩu thúc đẩy công nghiệp hóa và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của các nước đang phát triển . Các mặt hàng được quy định thường là các loại nông-lâm sản và nguyên liệu thô được xuất từ các nước đang phát triển .
4.Điều cốt yếu dẫn đến thành công tại thị trường nhật bản về kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
4.1.Thâm nhập thị trường Nhật bản cần chiến lược lâu dài :
Thị trường Nhật Bản đòi hỏi một chiến lược với tầm nhìn sâu rộng . Điều này đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như : dung lượng thị trường , các đối thủ cạnh tranh , kênh phân phối , mức giá , giới hạn thời gian , những diễn biến đối với người sử dụng và người tiêu dùng , những xu hướng nghiên cứu và phát triển . Trước khi có thể thâm nhập thị trường Nhật Bản , các công ty phải điều tra , nghiên cứu thị trường này .
Do đặc điểm của công việc, chính sách kinh doanh và thành lập công ty ở Nhật Bản, việc đưa ra quyết định ở Nhật Bản thường tốn nhiều thời gian hơn so với các nước khác. Việc tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng tại thị trường Nhật Bản là điều không thích hợp. Điều cốt yếu là không được bỏ cuộc giữa chừng, muốn thành công phải có sự quyết đoán và lòng kiên trì.
4.2.Lựa chọn đúng đối tác:
Khi thành lập một chi nhánh để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, chiến lược quản lý của phía đối tác Nhật Bản sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của công ty . Câu hỏi chính luôn được đặt ra là liệu có hay không sự tương đồng về triết lý và chủ thuyết kinh doanh giữa hai bên. Nếu hai bên có sự tương đồng thì việc hợp tác kinh doanh sẽ diễn ra trôi chảy, nhưng nếu hai bên có sự bất đồng, khác biệt thì cần có sự bàn bạc để tăng cường hiểu biết lẫn nhau.
4.3.Coi trọng chất lượng và hoạt động kinh doanh:
Đối với các loại sản phẩm, người tiêu dùng Nhật Bản đòi hỏi cao về tiêu chuẩn. Có một số công ty nước ngoài phàn nàn là những tiêu chuẩn người Nhật Bản đề ra quá cao và việc đáp ứng những tiêu chuẩn và yêu cầu đó là không thể được vì quá tốn kém. Tuy nhiên những công ty nước ngoài đã thành công tại thị trường Nhật Bản đều nhận ra rằng người Nhật Bản không bao giờ bỏ qua mặt chất lượng. Các công ty này đều nhận về mình trách nhiệm phải đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và độ an toàn của hàng hoá đối với người tiêu dùng Nhật Bản.
4.4.Nét độc đáo và khác biệt:
Sự thật là một sản phẩm độc đáo tất nhiên sẽ hấp dẫn khách hàng. Nhưng khách hàng sẽ còn bị thu hút hơn khi công ty đó và sản phẩm của nó độc đáo, khác biệt với các đối thủ cạnh tranh. Để có được tính độc đáo của sản phẩm thì cần đầu tư cho các khâu quảng cáo, tiếp thị, trình độ công nghệ, nghiên cứu phát triển. Điều cốt yếu là phải tạo sự khác biệt giữa công ty mình và đối thủ cạnh tranh , bí quyết ở đây chính là sự sáng tạo.
4.5.Đầu tư cho công nghệ, nghiên cứu và phát triển:
Trong ngành công nghiệp sản xuất chế tạo, công ty cần phải quan tâm tới các hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ. Rất nhiều công ty khi thâm nhập thị trường Nhật Bản đã đầu tư khá nhiều tiền của và bguồn nhân lực cho bộ phận nghiên cứu-phát triển.
4.6.Hiểu rõ những nhu cầu của thị trường Nhật Bản:
Nhiều công ty nước ngoài cho rằng sản phẩm của mình tiêu thụ được ở thị trường nội địa thì chẳng có lý do gì lại không bán được ở Nhật Bản. Tuy nhiên những sản phẩm và dịch vụ đó không đáp ứng được nhu cầu tại thị trường Nhật Bản nên kết cục thường thất vọng.
Trường hợp khác, một công ty liên doanh vốn nước ngoài chuyên sản xuất đồ nội thất đã thành công khi sản xuất ghế sô-pha có gầm thấp sát dưới sàn, phù hợp với thói quen ngồi dưới sàn nhà của người Nhật. Một cán bộ của công ty giải thích “ sản xuất đồ nội thất là ngành liên quan mật thiết đến đặc điểm từng khu vực và những khách hàng sống ở khu vực đó “ chúng tôi thiết kế và làm ra những sản phẩm mà người tiêu dùng địa phương đó mong muốn. Đây là một kinh nghiệm rất quan trọng đối với tất cả những công ty hay những doanh nghiệp nào có ý định thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
III. thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty.
1.Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty sang thị trường Nhật bản.
1.1.Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta.
Những năm gần đây, hàng thủ công mỹ nghệ đã có những bước khởi sắc rất đáng tự hào: Liên tục được xếp là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từ chỗ chỉ có thị trường Nga và Đông Âu (trong thời kỳ bao cấp) sang hơn 50 thị trường khác nhau trên thế giới. Hàng thủ công mỹ nghệ của ta khá phong phú về chủng loại cũng như kiểu dáng: gốm sứ mỹ nghệ, sắt mỹ nghệ, chiếu cói, thảm đay, kimônô, khăn trải bàn, mây tre đan, thêu ren, thổ cẩm,...Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta trong những năm gần đây được thể hiện ở bảng sau:
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Năm
Trị giá xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
(triệu USD)
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam
(triệu USD)
Tỷ trọng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (%)
1995
102
5448
1,87
1996
124
7255
1,71
1997
160
9185
1,74
1998
158
9356
1,67
1999
168
11523
1,46
2000
235
14500
1,62
Thị trường xuất khẩu loại hàng này trong mấy chục năm qua có những bước thăng trầm, nhưng gần đây có chiều h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35222.doc