các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của việt nam sang thị trường mỹ
Lời nói đầu
Năm 1942 Crít-xtôp Cô lôm bô tìm ra Châu Mỹ. Năm 1776 bản tuyên ngôn nhân quyền đánh dấu sự ra đời của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ(USA) trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nền kinh tế Mỹ đã trở thành một trong những nền kinh tế có tiềm lực lớn nhất thế giới.
Hiện nay, với dân số trên 250 triệu người với bình quân thu nhập đầu người 30000 $ có thể nói thị trường Mỹ là thị trường có sức mua lớn nhất thế giới. Kim
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngạch xuất nhập khẩu(XNK) hàng năm của Mỹ chiếm gần 14% kim ngạch XNK toàn thế giới. Mỹ là thị trường có sức tiêu thụ lớn về các mặt hàng như giầy da, hàng thuỷ sản, dệt may…
Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ sau nhiều năm đóng băng đã bước sang trang mới khi chính phủ Mỹ tuyê n bố bỏ cấm vận đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, từ đó đến nay quan hệ giữa hai nước đã không ngừng phát triển. Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Mỹ được ký vào ngày 13/7/2000 đã hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Quan hệ thương mại giữa hai quốc gia đã có bước phát triển đáng kể, kim ngạch XNK tăng nhanh từ 224,4 triệu $ năm 1994 lên 879,2 triệu $ năm 1999. Mỹ đã và đang là thị trường có nhu cầ rất lớn về các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnhnhư thuỷ sản, giày dép, may mặc. Việc đẩy mạnh XK sang thị trường Mỹ sẽ góp phần tăng kim ngạch XK của Việt Nam, đa dạng hoá thị trường. Đẩy mạnh XK hàng hoá của Việt Nam nói chung,mặt hàng thuỷ sản nói riêng sang thị trường này không chỉ là vấn đề cần thiết về lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách trước mắt đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam đặc biệt là khi hiệp định thương mại song phương giưã hai nước đã được ký kết. Mỹ sẽ là thị trường XK quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế không nhỏ đối với Việt Nam. Tuy nhiên để làm được điều này chúng ta phải tìm cách giải quyết các vướng mắc cản trở hoạt động XK của Việt Nam sang thị trường Mỹ và tìm ra các giải pháp để đẩy mạnh XK mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này.
Mục tiêu của đề tài: trên cơ sở đánh giá tiềm năng và triển vọng XK mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam; phân tích đánh giá thực trạng XK mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh XK mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động XK thuỷ sản của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: đề án tập trung nghiên cứu thực tế hoạt động XK thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ từ năm 1994 trở lại đây. các giải pháp thúc đâỷ XK thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm cô giáo Nguyễn Thị Hà đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Phần I
vai trò của hoạt động xuất khẩu và một số đặc Điểm cần quan tâm khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ
I –Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1-Đối với các doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp đều hướng tới hoạt động xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp ra nước ngoài. Xuất khẩu được xem như là chiến lược kinh doanh quốc tế quan trọng, cơ bản của nhiều công ty kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi doanh nghiệp đã thực hiện được các hình thức cao hơn trong kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu như:
- Đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp do nâng cao được khối lượng sản xuất dẫn đến giảm chi phí cho một đơn vị sản phẩm
- Giảm được rủi ro, tối thiểu hoá sự dao dộng của nhu cầu
- Nâng cao vị thế của doanh nghiệp tạo thế và lực cho doanh nghiệp
- Hoạt động xuất khẩu có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất kinh doanh thông qua yêu cầu về số lượng hàng xuất khẩu, chất lượng hàng xuất khẩu…
2- Đối với nhà nước:
Với một nước đang phát triển như Việt Nam việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề sau:
Trước hết đẩy mạnh xuất khẩu là yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, mở rộng qui mô sản xuất của nhiều ngành nghề phục vụ cho xuất khẩu và nhiều ngành kinh tế khác.
Thứ hai: Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong nước. Sự phát triển các ngành công nghiệp hướng xuất khẩu làm quy mô sản xuất đươc mở rộng nhiều ngành nghề mới phát triển từ đó sẽ thu hút thêm nhiều lao động.
Thứ ba: Xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của đất nước, góp phần quan trọng cải thiện cán cân thanh toán tăng dự trữ ngoại tệ là nguồn vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu nhập khẩu để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ tư: Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của đất nước.
Thứ năm: Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
Như vậy xuất khẩu không chỉ đóng vai trò hỗ trợ phát triển mà nó còn là yếu tố bên trong của sự phát triển góp phần thực hiện các chiến lược kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước ta.
II- Một số đặc điểm về thị trường Mỹ
1- Vai trò kinh tế của Mỹ trên trường quốc tế:
Thứ nhất: Mỹ là một nền kinh tế lớn và hiệu quả nhất. Năm 1996 GDP của Mỹ là 7600 tỷ USD trong khi Nhật Bản chỉ có 5100 tỷ USD, Tây Đức 2500USD. Sản xuất công nghiệp của Mỹ chiếm 20% sản lượng công nghiệp toàn thế giới. Lao động nông nghiệp chỉ chiếm 2% dân số nhưng nó đã đáp ứng hoàn toàn nhu cầu trong nước đồng thời còn xuất khẩu mỗi năm 50 tỷ USD. Với đân số 250 triệu dân và thu nhập bình quân đầu người trên 30000 USD làm cho thị trường Mỹ có sức mua lớn nhất thế giới. Hiện nay kim ngạch XNK của Mỹ đạt trên 14000 tỷ USD chiếm koảng 14% giá trị thương mại thế giới.
Thứ hai: Mỹ là quốc gia chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, IMF…Mỹ đã sử dụng các tổ chức quốc tế là phương tiện để gián tiếp tác động đến chính sách kinh tế đối ngoại và các quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước khác.
Thứ 3: Đồng USD có vai trò thống trị thế giới, là đồng tiền được lưu hành rộng rãi nhất trên thế giới, là đồng tiền tự do chuyển đổi và là ngoại tệ mạnh được sử dụng trong hầu hết các hoạt động thanh toán. Mọi sự biến động của đồng USD và hệ thống tài chính Mỹ đều có ảnh hưởng đến nền tài chính quốc tế
2 –Vài nét về chính sách thương mại Mỹ:
2.1- Đặc điểm của chính sách thương mại Mỹ
Việc hoạch định chính sách thương mại của Mỹ trong quan hệ thương mại với các nước đựoc thực hiện trên hai nguyên tắc sau:
Nguyên tắc không phân biệt đối sử (hay qui chế tối huệ quốc)theo nguyên tắc này thì tất cả các bạn hàng phải được đối xử cùng một tập quán về hải quan và thuế quan được giàng cho các nước ưu đãi nhất (MFN).
Nguyên tắc có đi có lại (nguyên tắc đối đẳng) nguyên tắc này chỉ ra rằng một quốc gia không thể điều chỉnh các quan hệ bên trong của mình lớn hơn so với các nước khác khi thực hiện các hiệp định thương mại. Theo nguyên tắc này Mỹ sẽ hạn chế sự thâm nhập vào thị trường Mỹ các hàng hoá của bất kỳ nước naò không cho phép hàng hoá của Mỹ xuất khẩu sang.
Đây là hai nguyên tắc đàm phán xuyên suốtư trong quá trình hoạch định chính sách thương mại của Mỹ tuy nhiên mức độ và phạm vi áp dụng hai nguyên tắc này khác nhau trong từng thời kì.
2.2 – Các công cụ chính sách thương mại:
Biểu thuế nhập khẩu: nhình chung mức thuế nhập khẩu của Mỹ đều thấp trung bình khoảng 7% cho các loại sản phẩm nhưng cách đánh thuế của Mỹ rất phức tạp như thuế đánh theo khối lượng, thuế đánh theo % giá trị, biểu thuế có MFN và không có MFN.
Các biện pháp phi thuế quan:
+ Hạn ngạch nhập khẩu ( import quota) quota có nhiều kiểu nhưng hay dùng hình thức này đẻ giới hạn số lượng hàng hoá nhập vào Mỹ. Nếu vược quá mức qui định thì phải chịu thuế cao hơn gọi là thuế hạn ngạch. Ví dụ: đạo luật thương mại năm 1970 của Mỹ qui định áp dụng hạn ngạch với các sản phẩm dệt. Đạo luật này cũng có các qui định áp dụng trong trường hợp cácc nhà sản trong nước bị thiệt hại “lớn” do hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh.
+ Biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện: Mục tiêu của biện pháp này là nhăm hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành sản xuất tương tự trong nước Mỹ.
+ Các đạo luật khác liên quan đến thương mại: Mỹ cũng thường xuyên áp dụng các điều luật của các bộ luật không liên quan đến hoạt động thương mại nhưng có khả năng hạn chế hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ như luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ động, thực vật, luật về y tế hay các luật khác.
2.3 – Những qui định hải quan Mỹ để xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Mỹ:
Sau khi nghiên cứu thị trường, tìm bạn hàng và kí kết hợp đồng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. để đưa hàng sang Mỹ thì ngoài những công việc phải làm như xin thêm giấy phếp xuất khẩu, đăng kí tầu chuyên trở, các thủ tục bảo hiểm thì nhà xuất khẩu phải chú trọng đến rất nhiều qui đinhj và thủ tục nơi cửa khẩu đến. Mỹ là nước có các qui định hải quan rất phức tạp, chi tiết và tự động hoá cao. Để hàng hoá được nhập cảnh thuận lợi nhà xuất khẩu khẩu phải tuân thủ theo các thủ tục hải quan sau:
+ Ghi vào tờ khai hải quan tất cả các thông tin theo yêu cầu trùng với các giấy tờ liên quan khác như phiếu đóng gói, vận đơn, hoá đơn thương mại.
+ Chuẩn bị kĩ lưỡng các hoá đơn, đánh máy rõ ràng và để khoảng trống giữa các câu ghi rõ các số liệu ở các hàng cột.
+ Đóng gói kĩ càng theo những tiêu chuẩn đóng gói của hải quan Mỹ
+ Ghi rõ tên sản phẩm, nơi xuất xứ và những ghi chú khác theo điều luật ghi chú của Mỹ.
+ Ghi rõ trên hoá đơn, mỗi loại hàng được đóng gói tách rời nhu nội dung của mỗi loại hàng được ghi rõ trong hoá đơn không được thiếu sót hoặc dư thừa.
+ Lưu ý đến các điều khoản đặc biệt của luật pháp Mỹ, pháp lệnh về quản lý thực phẩm, dược phẩm về quản lý nông sản liên quan tới thực phẩm, dược phẩm; nước uống có cồn và các vật liệu có chất phóng xạ. Những qui định này rất nghiêm ngặt, áp dụng triệt để để tránh ô nhiễm và ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng.
+ Cần lưu ý tới các qui định của Mỹ về nhãn hiệu tên hàng và bản quyền bất cứ sự vi phạm nào cũng dẫn tới việc bị tịch thu.
+ Có những hình phạt dân sự và hình sự rất nghiêm khắc về lừa đảo khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ. Cần tránh thiếu sót và những lỗi vì thiếu cẩn trọng. Những nhân viên công vụ hoạt động trên khắp nước Mỹ và các trung tâm thương mại lớn trên thế giới.
+ Nên trở hàng trên những chiêc tàu trong hệ thống AMS hoặc gửi các phụ lục điện tư thông qua tổ chức có sẵn NACP. Trong trường hợp sử dụng công ty môi giới có giấy phép trong các thủ tục hải quan nên chọn công ty đã gia nhập ABI về hải quan. Mỹ đứng đầu thế giới về tự động hoá khâu xử lý.
+ Chuyển hoá đơn theo nhu cầu của Mỹ đúng lúc bằng không nhà nhập khẩu của bạn phải chịu trách nhiệm về khai báo hải quan nếu họ không trình được hoá đơn trong vòng 20 ngày sau khi hành đã đến. Ngoài ra nhà xuất khẩu phải theo dõi thông tin của Mỹ về biểu thuế, chế độ ưu đãi, hoàn thuế nhập khẩu, những loại hành bị cấm và miễn thuế.
PHầN II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ
I - Tiềm năng thuỷ sản và tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua.
1 - Tiềm năng thuỷ sản của Việt Nam:
Việt Nam là một nước có truyền thống lâu đời trong nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản. Với bờ biển dài hơn 3260 km đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên cho việc tiếp cận ngư trường đánh cá ở khu vực. Dọc biển là các vịnh eo và hơn 112 cửa sông. Diện tích vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khoảng 1 triệu km2.
Theo tính toáncủa vụ nghề cá chúng ta có khoảng 1.7 triệu ha mặt nước có khả năng uôi trồng thuỷ sản trong đó riêng vùng biển là 660000 ha, ruộng trũng là 580000 ha, hồ chưa và mặt nước lớn là340000 ha...hơn 600000 ha đang được sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản. Do đó có thể nói Việt Nam là một nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nghề cá không thua kém bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Chế độ khí hậu và các điều kiện tự nhiên đa dạng là điều kiện thuận lợi cho nhiều loài thuỷ sản phát triển. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu biển cho thấy Việt Nam có khoảng 2100 loài hải sản trong đó có 1700 loài cá biển khác nhau thì có khoảng 170 loài có giá trị kinh tế. Khoảng 30 loài có tầm quan trọng đặc biệt đối với nghề cá như: tôm,cá thu ,cá hồng,cá ngừ...
Sơ bộ đánh giá trữ lượng hải sản ở vùng biển Việt Nam có khoảng 4 triệu tấn sản lượng khai thác có thể đạt 1.7 triệu tấn .
Với diện tích có thể nuôi trồng thuỷ sản khoảng 1,7 triệu ha và khoảng 500 loài cá nước ngọt, 186 loài cá nước nợ trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao và có khả năng nuôi trồng nhân tạo.
Chính vì vậy mà Đảng và chính phủ đã xác định thuỷ sản là một nghành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
2 – Khai thác và nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu :
Ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật từ khi tổng cục thuỷ sản ra đời vào năm 1960. Từ năm 1990 đến nay ngành thuỷ sản liên tục tăng trưởng, hoàn thành vượt mức kế hoạch. Tốc độ tăng bình quân về sản lượng là 6.9 %năm.
Sản lượng thuỷ sản :
* 1991-1995 đạt từ 714253 tấn-954460 tấn/năm
* 1996-1999 đạt từ 1373500 tấn-1783650 tấn/năm
* Năm 2000 ước đạt 1940000 tấn trong đó khai thác 1220000 tấn, nuôi trồng 720000 tấn.
Tính đến cuối năm 1999 cả nước có 73397 chiếc tàu thuyền với công suất 2518493 mã lực. Trong tổng sản lượng thuỷ sản khai thác được có nhiều loài có giá trị kinh tế cao phục vụ cho xuẩu khẩu. Phương pháp bảo quản có nhiều tiến bộ, bảo quản bằng đá thay cho muối đặc biệt hiện nay chúng ta đang đưa công nghệ làm đá từ nước biển có thể sản xuất đá ngay trên tàu.
Tuy nhiên với tốc độ khai thác mạnh mẽ như hiện nay nguồn lợi thuỷ sản ngày càng suy giảm, một số loài hải sản quí có nguy cơ cạn kiệt do đó chúng ta đã có chủ trương hạn chế khai thác gần bờ nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi ven bờ, đẩy mạnh đánh bắt xa bờ. Chính phủ đã cho triển khai chương trình khai thác hải sản xa bờ với số vốn trong các năm 1997-1999 là 1300 tỷ đồng. Chương trình này đã đang từng bước thực hiện chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền theo hướng thay thế dần những phương tiện đánh bắt nhỏ, lạc hậu bằng các phương tiện có công suất lớn, hiện đại bước đầu đưa nghề khai thac hải sản theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá góp phần tái tạo và bảo vệ nguồn lợi hải sản tạo thêm nguồn hàng có giá trị xuất khẩu, góp phầnbảo vệ chủ quyền, tài nguyên biển của đất nước.
Nuôi trồng thuỷ sản là một lĩnh vực quan trọng trong khi sản lượng khai thác hải sản biển đã gần đến giới hạn cho phép thì diện tích nuôi trồng còn có khả năng mở rộng về diện tích và khả năng thâm canh. Nuôi trồng có thể chủ động trong vụ mùa, cơ cấu sản phẩm để khâu chế biến chủ động tìm nguồm tiêu thụ. Nuôi trồng thuỷ sản tạo ra nguồn nguyên liệu xuất khẩu lớn và ổn định cho ngành chế biến thuỷ sản xuất khảu, chủ động chọn lựa những sản phẩm có nhu cầu lớn để đầu tư nuôi như tôm, cá ba ba, cá bống tượng, cá chép...
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản hiện nay mới chỉ khai thác được hơn 1/3 diện tích mặt nước có thể nuôi trồng.
Diện tích nuôi trồng thuỷ sản qua một số năm:
Năm 1990: 491723 ha
Năm 1995: 575000 ha
Năm 1999: 640000 ha
Nguồn:TBKTVN số75năm1999 và số122 năm2000.
Với diện tích nuôi trồng ngày càng được mở rộng, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản ngày càng tăng. Sản lượng nuôi trồng năm 1999 đã đạt 600 nghìn tấn tăng 30,4 % so với năm 1998 với chủng loại nuôi trồng cũng rất đa dạng từ cá nước ngọt, cá biển, tôm, nhuyễn thể.Trong đó nghề nuôi tôm đã trở thành nghề sản xuất chính đem lại thu nhập cao cho nông, ngư dân ven biển và là nguồn xuất khẩu thu ngoại tệ lớn. Năm 1997 tỷ trọng nuôi tôm xuất khẩu đã chiếm 62% sản lượng và 68% giá trị xuất khẩu của ngành.
Tuy nhiên, việc tăng sản lượng chủ yếu là nhờ tăng diện tích, năng xuất nuôi trồng còn thấp được phát triển tự phát, thiếu qui hoạch đã dẫn đến nguy cơ huỷ hoại môi trường tự nhiên. Do đó Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng năng xuất cao và bền vững nhằm tạo nguyên liệu chủ yếu và ổn định cho xuất khẩu. Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1999-2010 đã được chính phủ phê duyệt với tổng vốn đầu tư là 40.204 tỷ đồng. Theo đó sẽ đẩy mạnh và qui hoạch lại nuôi trồng thuỷ sản gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nuôi trồng thuỷ sản trên cơ sở đảm bảo cung cấp giống đủ về số lượng, chất lượng đảm bảo thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng, nâng cấp các nhà máy chế biến và xuất khẩu để giải quyết thị trường tiêu thụ sản phẩm.
3 - Tình hình xuất khẩu thuỷ sản từ năm 1995 trở lại đây:
Trong những năm gần đây xuất khẩu thuỷ sản đã có sự phát triển mạnh mẽ đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy ngành thuỷ sản phát triển giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng lên từ 550 triệu USD lên 979 triệu USD năm 1999, đóng góp đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thời kì 1995 – 1999.
Đơn vị: triệu USD
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Kim ngạch XK-TS
550
670
776
850
979
Tổng kim ngạch XK
5448.9
7255.9
9185
9362
11540
Tỉ trọng
10.09%
9.2%
8.4%
9.5%
8.4%
Nguồn: Bộ thuỷ sản
Với kim ngạch 979 triệu USD năm 1999 thuỷ sản đã vươn lên đứng thứ năm trong số các mặt hàng xuất khẩu cuả Việt Nam, đứng sau dầu thô 2017 triệu USD, dệt may 1682 triệu USD, giày dép 1406 triệu USD, gạo 1035 triệu USD.
Theo thống kê của FAO hiện nay Việt Nam là 1 trong số 20 nước có sản lượng đánh bắt thuỷ sản lớn và đứng trong hàng ngũ 25 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới. Trong khu vực Việt Nam đứng thứ tư về sản lựơng sau Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia và cũng đứng thứ tư về giá trị xuất khẩu sau Thái Lan, Inđonêxia và Singapo.
Sự nỗ lực trong tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng nay. Theo báo cáo của Bộ thuỷ sản thì Việt Nam từ chỗ chỉ xuất khẩu qua 2 thị trường trung gian là Hồng Kông và Singapo thì hiện nay đã xuất khẩu sang 49 nước với 5 thị trường chính là Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc và khu vực Đông Nam á. Thị trường Nhật Bản trong những năm đầu của thập kỉ 90 chiếm từ 65- 75 % tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản song do sự biến động trong khu vực và đồng yên mất giá nên thị trường này đã giảm xuống mặc dầu vậy cho đến năm 1999 đay vẫn là thị trường lớn nhất chiếm 40,7 %, với kim ngạch xuất khẩu 381.3 triệu USD. Đứng sau Nhật Bản là Mỹ thị trường này đang được cải thiện từ 5,9% năm 1997 lên 13,2 % năm 1999 đạt giá trị 130 triệu USD. Tiếp đến là thị trường EU chiếm tỷ trọng 10 % và 9,65% tương ứng với năm 1998, 1999 ngoài ra, ta còn có các thị trường khác như Trung Quốc, Hồng Kông, H àn Quốc …
Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh còn nhờ vào tăng khối lượng, chủng loại hàng hoá và tăng tỷ lệ hàng chế biến. Ban đầu chủ yếu là xuất khẩu tôm dưới dạng tươi, ướp đá trong lồ, xuất khẩu sang mạn tầu. Sau đó chuyển sang xuất khẩu dưới dạng đông lạnh với khoảng 5-7 chủng loại. Hiện nay đã có trên 100 mặt hàng thuỷ đặc sản với cơ cấu khoảng 70% khối lượng xuất khẩu dưới dạng thô, sơ chế, 30% thuỷ sản chế biến sâu, riêng thuỷ sản đông lạnh có 80 chủng loại hàng khác nhau. Nhờ hoạt động chế biến sâu bước đầu một số loại thuỷ sản Việt Nam như tôm sú hấp, tôm hùm luộc mực file… đã bán trực tiếp tới siêu thị nước ngoài (thường mang nhãn hiệu nươc ngoài). Tỷ lệ sản lượng nuôi trồng tham gia xuất khẩu so với sản lượng đánh bắt đã tăng dần hàng năm. trước đây xuất khẩu chủ yếu là thuỷ sản đánh bắt thì đến nay nó đã chiếm hơn 51% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản .
Bảng 2: Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính .
Đơn vị tính: %
STT
Năm
Mặt hàng
1998
1999
1
Hàng khô
7
5
2
Cá đông lạnh
10
8
3
Tôm đông lạnh
59
35
4
Nhuyễn thể đông lạnh
11
9
5
Các loại khác
13
43
Tổng số
100
100
Nguồn: Bộ thuỷ sản.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy thị trường xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam còn chưa ổn định, chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu còn nghèo nàn chủ yếu là tôm, mực đông lạnh sơ chế, tỉ lệ sản phẩm có giá trị cao còn ít, chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế, chưa phù hợp với yêu cầu của các nước nhập khẩu lớn. Do đó, mặc dù giá sản phẩm thấp chỉ bằng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Indonexia nhưng vẫn không đủ sức cạnh tranh. Thêm vào đó chúng ta lại chưa đẩy mạnh được xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường chính mà chủ yếu vẫn phải tái xuất qua trung gian môi giới và các trung tâm tái xuất như Singapo, Hongkong, chưa đủ khả năng bán hàng theo giá CIF, chưa sử dụng được hình thức đại lý bán hàng thuỷ sản ở các nước tiêu thụ lớn như Nhật Bản, EU… cho đến nay chúng ta vẫn thiếu một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến bán hàng thuỷ sản Việt Nam ở nước ngoài. Mặc dù có tiến hành một số hoạt động xúc tiến như: tham gia các hội chợ thương mại, cử các đoàn cán bộ đi khảo sát ở nước ngoài nhưng nhìn chung những hoạt động này còn mang tính tự phát và chưa có thể coi là hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự nên xét về mặt mục tiêu lên kế hoạch, áp dụng các hoạt động xúc tiến và đánh giá kết quả của hoạt động này.
II - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ:
1- Quan hệ thương mại Việt–Mỹ kể từ khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam :
Ngay sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ( 3/2/1994) kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đã tăng lên 222,4 triệu USD vào năm 95, năm 96 tổng giá trị hàng hoá trao đổi giữa hai nước chiếm gần 1% trong tổng số hơn 100 tỷ USD kim ngạch buôn bán giữa ASIAN và Mỹ. Như vậy sau 2 năm bỏ cấm vận tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Mỹ đã tăng lên gần 4 lần, là điều chưa từng có trong lịch sử quan hệ giữa hai nước.
Năm 1997 – 1998 ghi nhận bước tiến quan trọng giữa hai nước đại sứ Việt Nam và đại sứ Mỹ nhận chức tại thủ đô mỗi nước ngày 7/3/1997 hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao song phương, tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ xung Sacksonvanik đối với Việt Nam ngày 10/3/1998, góp phần thúc đẩy bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên kết quả buôn bán song phương trong 2 năm 97-98 vẫn dừng lại ở con số khiêm tốn 630 và 789 triệu USD. Năm 1999 trao đổi buôn bán Việt Nam Mỹ có gia tăng hơn so với 2 năm trước đạt 879 triệu USD nhưng vẫn chưa vượt qua mức 924 triệu của năm 96. Năm 1999 ghi nhận dấu ấn đặc biệt trong quan hệ thương mại Việt Mỹ với việc chính phủ 2 nước ký thoả thuận sơ bộ về hiệp định thương mại. Chính phủ Mỹ tuyên bố dừng áp dụng chính sách Sacksonvanik đối với Việt Nam. Về phía Việt Nam, chính phủ đã tuyên bố giành cho Mỹ quy chế tối huệ quốc(MFN), trong buôn bán được gia hạn hàng năm. Động thái trên đã khích lệ các nhà kinh doanh vững tin vào triển vọng bình thường hoá quan hệ kinh tế Việt Nam Mỹ. Nhờ vậy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giữa hai nước từ đầu năm 2000 đã có nhiều diễn tiến tích cực. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ ngay trong quí I năm 2000 đã tăng 240.41% so với quí I năm 99. Trong khi nhập khẩu tăng 132,39% đưa kim ngạch buôn bán song phương 6 tháng đầu năm lên 665 triệu USD.
Ngày 13/7/2000 theo giờ Mỹ hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đã được ký kết và hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ. Với sự kiện này theo dự đoán của các chuyên gia bộ thương mại Việt Nam thì năm 2000 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Mỹ có khả năng đạt 2 tỷ USD tăng 2 lần so với năm 1999
Số liệu cụ thể về kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ được thể hiện trong bảng sau
Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Mỹ.
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
94
95
96
97
98
99
6 tháng đầu năm 2000
Xuất khẩu
50.4
200
308
372
319.5
661.9
_
Nhập khẩu
172.0
252
616
287
269.5
277.3
_
Tổng
222.4
452
924
659
789
875.2
665
Nguồn: Bộ thương mại
Do sự khác biệt giữa hai nên kinh tế đã giúp Việt Nam tìm được chỗ đứng cho các hàng hoá giá trị thấp, chất lượng vừa phải trên thị trường Mỹ. Các mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là nông lâm và thuỷ sản chế biến, hàng dệt may đồ dệt giày da. Trong những năm 94-95 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là hàng thuộc nhóm nông lâm sản (76%) trong nhóm này cafe chiếm phần lớn với kim ngạch 29,969 triệu USD năm 94 và 145,74 triệu USD năm 95. Năm 95 hàng công nghiệp nhẹ của Việt Nam cũng bước đầu đặt chân vào thị trường Mỹ với kim ngạch 24,4 triệu USD trong đó dệt may chiếm chủ yếu.
Bảng 4: Cơ cấu xuất nhập khẩu Việt Nam sang Mỹ:
Đơn vị tính: triệu USD
Năm
1994
1995
1996
Tổng giá trị hàng hoá
50.4
200
132.2
Nông nghiệp
38.3
151.6
132.8
Phi nông nghiệp
12.1
48.3
173.8
Nguồn:Số liệu thống kê của phòng thương mại Mỹ
Năm 98-99 tuy có sự biến động đôi chút về tỷ lệ các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Mỹ nhưng nhìn chung những mặt hàng chính như cà phê, giày dép, thuỷ sản dầu mỏ tiếp tục khẳng định vị chí của mình trên thị trường Mỹ. Trong đó mặt hàng cà phê xuất khẩu sang Mỹ đã đạt kỷ lục vào năm 1998 với 142 triệu USD đưa Mỹ trở thành nước tiêu thụ cà phê hàng đầu của Việt Nam. Năm 1998 xuất khẩu giày dép sang Mỹ đã lần đầu vượt ngưỡng 100 triệu USD đạt 114 triệu USD và tăng lên 145,7 triệuUSD năm 99. Cùng với cà phê và giày dép năm 1999 thuỷ sản cũng có giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD.
Bảng 5: Các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ
Đơn vị tính: Triệu USD
STT
Mặt hàng
1995
1996
1997
1998
1
Cà phê, chè,gia vị.
144
110
108
147
2
Giày dép và phụ kiện
33
39
98
115
3
Nhiên liệu, dầu mỡ
0.015
80
37
107
4
Thuỷ sản
19
34
46
80
5
Dệt may và phụ kiện
16
23
23
28
6
Hoa quả, quả có vỏ
0.9
8
16
23
7
Rau quả, hạt, thựcphẩm #
0.2
2
3
3
8
Ngũ cốc, bột mì, sữa
0.9
1
2
3
Nguồn: Số liệu thống kê của phòng thương mại Mỹ tại HN
2 - Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ từ năm 1994 trở lại đây.
Nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản có xu hướng tăng mạnh ở tất cả các quốc gia đặc biệt là những nước phát triển bình quân tăng 3% năm. Thị trường thuỷ sản thế giới bị chi phối chủ yếu vẫn là các quốc gia có khả năng khai thác chế biến và tiêu thụ thủy sản với khối lượng lớn như các nước châu á Nhật Bản, Thái Lan, ấn Độ, các nước Bắc Mỹ và EU. Tuy vậy sự chi phối chủ yếu vẫn là thị trường tiệu thụ lớn hoặc tái chế xuất khẩu là Mỹ, Nhật và EU (tập trung vào Tây Ban Nha và Italia).
Mỹ là một trong những quốc gia lớn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Từ một nước nông nghiệp, Mỹ đã trở thành một nước công nghiệp vượt xa các nước khác, đứng đầu thế giới về qui mô xuất nhập khẩu hàng hoá, chiếm gần 14% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới. Đối với mặt hàng thuỷ sản, Mỹ là một trong 3 thị trường lớn nhất thế giới, hàng năm nhập khẩu khoảng 5,6 – 6,2 tỷ USD (Chiếm 13-14% nhập khẩu thuỷ sản của thế giới, năm 1994 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản là 7 tỷ USD) xuất khẩu trên 3,2 tỷ USD.
Từ 1994 ngành thuỷ sản đã nhận thấy việc mở rộng thị trường xuất khẩu là rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng giá trị xuất khẩu trong mặt hàng này, đồng thời giảm bớt rủi ro nếu chỉ phụ thuộc vào thị trường Nhật Bản. ngành đã chủ trương mở rộng sang thị trường EU và Mỹ đặc biệt là thị trường Mỹ khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được bãi bỏ 3/2/1994.từ đó đến nay xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ đã cò bước tiến đáng kểthể hiện qua một số nội dung sau:
2.1 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ
Ngay sau khi chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì hàng hoá của Việt Nam cũng bắt đầu thâm nhập vào thị trường rộng lớn này. Một trong các mặt hàng đầu tiên thâm nhập vào thị trường Mỹlà hàng thuỷ sản. Ngay trong năm 1994 giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ đạt trên 5.8 triệu USD chiếm 11.5% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Năm 1995giá trị thuỷ sản đã tăng 3.3 lấno với năm 1994 đạt 19.5 triệu USD. Từ năm 1994 đến 1999 bình quân tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào mỹ là 60.8% đến năm 1999 đạt 130 triệu USD tăng gấp 22 lần so vớinăm 1994. Dù Việt Nam chưa được hưởng qui chế tối hụê quốc hoặc chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) nhưng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam .
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ 1995-1999:
Đơn vị tính triệu USD
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
1997
1998
1999
KNXKTS sang mỹ
5.8
19.5
33.9
46.3
80.2
130
Tổng KNXK sang Mỹ
50.4
200
308
372
319.5
661.9
Tỷ trọng(%)
11.5
9.75
11
12.4
25.1
19.6
Nguồn :Bộ thuỷ sản
Trong 6 tháng đầu năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đã đạt 122.5 triệu USD tăng 210% so với cùng kì năm 1999.
Cùng với sự tăng mạnh về kim ngạch xuất khẩu tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỷtong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản cuả Việt Nam cũng có bước phát triển đáng kể đưa mỹ trở thành bạn hàng lớn thứ hai trong số các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam .
Bảng 7:Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỷ trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam :
Đơn vị
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng KN XKTS
Triệu USD
530
670
776
850
979
KN XKTS sang Mỹ
Triệu USD
19.5
33.9
46.3
80.2
130
Tỷ trọng
%
3.5
5.0
5.9
9.4
13.2
Nguồn:Số liệu thống kê của phòng thươnh mại Mỹ
2.2 Cơ cấu và chất lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ:
Trong cơ cấu thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua thì tôm đông lạnh chiếm 67.2%, cá đông lạnh chiếm 10.8%, các sản phẩm thô chiếm 11.8 %, mực đông lạnh 5.6%, các sản phẩm khác là 4.6%. riêng thị trường Mỹ vốn rất ưa chuộng tôm đông lạnh( sức tiêu thụ ước tính tăng 5%/ năm). Sản phẩm tôm nhất là tôm hùm, tôm sú năm trong loaị hải sản được ưa chuộng nhất tại Mỹ với mức tiêu thụ đầu người khoảng 1,14 kg nên trong thời gian qua tỷ trọng tôm đông lạnh trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm trên 80%. Năm 1997 giá trị tôm đông lạnh xuất khẩu đạt gần 90 triệu USD chiếm 86% giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ.
Do trình độ khoa học và công nghệ chế biến thuỷ sản còn thấp nên thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ chủ yếu ở dạng đông lạnh, tỷ trọng hàng chế biến sâu như các sản phẩm dưới dạng đồ hộp còn ít. Hơn nữa hiện nay trong khoảng hơn 200 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì mới chỉ có khoảng 50 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vì đây là thị trường đỏi hỏi chất lượng cao và các tiêu chuẩn an toàn về vệ sinh thực phẩm. Từ sau ngày 18/12/97 Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. theo qui định này hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập trung vào việc đảm bảo an toàn thực phẩm, các yếu tố chất lượng được gắn với hệ thống qui phạm sản xuất (GMD và các yếu tố vệ sinh(SSOP). Các mặt hàng thuỷ sản khi xuất vào thị trường Mỹ phải tuân theo qui định của các cơ quan thực phẩm và dược phẩm (FDA), qui chế tiêu thụ đặc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0680.doc