Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi hội nhập WTO

MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Viết đầy đủ tiếng Việt ACFTA Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á GDP Tổng sản phẩm quốc nội NDT Đồng nhân dân tệ USD Đồng đô la Mỹ WTO Tổ chức thương mại thế giới NK Nhập khẩu XK Xuất khẩu KNXK Kim ngạch xuất khẩu EHP Chương trình thu hoạch sớm GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 1.1: Thuế quan bình quân đối với hàng nhập khẩu của Tru

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng Quốc giai đoạn 1982 – 2001 Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2000 Bảng 2.3: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 1992 – 2000 Bảng 2.4: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2006 Bảng 2.5: Tỷ trọng một số hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Trung Quốc năm 2005 Bảng 2.6: Cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc theo hình thức buôn bán. Giai đoạn 1991 – 1995 Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2008 Bảng 2.8: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2007 Bảng 2.9: Cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 – 2000 Biểu đồ 2.2: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006 Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chính của Việt Nam sang Trung Quốc (2001 – 2006) Biểu đồ 2.4: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang Trung Quốc (2001 – 2006) Biểu đồ 2.5: Các tỉnh chủ yếu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2006 Biểu đồ 2.6: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc LỜI CẢM ƠN Luận văn đuợc thực hiện bởi sự cố gắng nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn thực tập và các cán bộ tại Trung tâm thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia. Em xin cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Nguyễn Quỳnh Hoa - giảng viên khoa Kế hoạch và Phát triển đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo trong suốt quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp. Em cũng xin cảm chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ về mọi mặt của các cán bộ tại đơn vị thực tập Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia. Đặc biệt là sự giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị tại Ban Tổng hợp trong suốt thời gian thực tập tại Ban. Em xin chân thành cảm ơn! LỜI MỞ ĐẦU Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai khu vực, lớn thứ ba thế giới, theo dự báo sẽ tiếp tục đà phát triển tốc độ cao đến năm 2020, tiếp tục mở cửa hội nhập mạnh vào kinh tế khu vực và thế giới, chắc chắn sẽ tác động đến cục diện kinh tế của Việt Nam nói riêng, kinh tế thế giới nói chung. Sự phát triển tốc độ cao của nền kinh tế lớn này kéo theo sự gia tăng nhanh chóng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa về số lượng, chất lượng cũng như chủng loại dẫn đến nhu cầu nhập khẩu của thị trường Trung Quốc ngày càng tăng cao. Do vậy, Trung Quốc được đánh giá là thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhiều nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng giềng, việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa hai nước đã có từ lâu đời. Từ năm 1991 đến nay, sau gần 19 năm bình thường hóa quan hệ, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại số một, là bạn hàng nhập khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, sau Mỹ và Nhật Bản. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của hai nước mở ra một tiềm năng lớn đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn khi xâm nhập hàng hóa vào thị trường này trong quá trình hội nhập như: cạnh tranh gay gắt với hàng hóa của các nước khác và hàng hóa Trung Quốc, hoạt động xuất khẩu phải tuân theo quy định của WTO; sửa đổi hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế và thương mại… Những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận và phân tích một cách đúng đắn để có được biện pháp tích cực và chủ động nhằm khai thác hiệu quả thị trường đầy tiềm năng này. Đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi gia nhập WTO” nhằm đánh giá khách quan thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu này. Đề tài tập trung vào nghiên cứu đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1: từ năm 1991 đến 2006 và giai đoạn 2 là: hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, năm 2007 – 2008. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, đề tài nghiên cứu gồm ba chương: Chương 1: Xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với sự phát triển kinh tế Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay Chương 3: Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc. CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế Khái niệm xuất khẩu hàng hoá Thế giới đang bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hội nhập và phát triển. Mỗi quốc gia đã tự sản xuất được khối lượng hàng hóa lớn, phong phú và đa dạng. Để thành công trong nền kinh tế toàn cầu này đòi hỏi các quốc gia cũng như các nhà kinh doanh không chỉ sản xuất phục vụ cho nhu cầu trong nước mà cần phải tìm kiếm, mở rộng khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế. Để đưa hàng hóa, dịch vụ của quốc gia này sang phục vụ, buôn bán với quốc gia khác, các quốc gia cần thực hiện giao dịch buôn bán với nhau. Trên thực tế có nhiều hình thức thực hiện giao dịch nhưng phổ biến nhất là thông qua hoạt động xuất khẩu – phương thức đơn giản nhất để các chủ thể kinh tế mở rộng hoạt động của mình ra thị trường nước ngoài. Vậy xuất khẩu hàng hoá là gì? Theo “điều 28, mục 1, chương 2, luật thương mại Việt Nam 2005”: Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa này bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức và chính phủ của các quốc gia. Đây là những chủ thể không thể thiếu của một nền kinh tế. Các loại hình xuất khẩu hàng hoá Theo hình thức xuất khẩu * Xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là hình thức giao dịch trong đó người bán (nhà xuất khẩu) bán hàng trực tiếp cho khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Khi doanh nghiệp có đủ khả năng về tài chính, phát triển đủ mạnh để có thể thành lập một tổ chức hay một đơn vị bán hàng của riêng mình, có thể kiểm soát trực tiếp, nắm bắt được nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả từ đó có thể làm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường. Hình thức này đòi hỏi phải có cán bộ có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu có trình độ cao, am hiểu và có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo. Chi phí tiếp thị ở nước ngoài cao nên đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít vốn không nên áp dụng hình thức này. * Xuất khẩu gián tiếp: Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá, dịch vụ của công ty ra thị trường nước ngoài thông qua trung gian (qua người thứ ba) hay nói cách khác xuất khẩu gián tiếp là cách thức mà nhà sản xuất tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt tại quốc gia tiếp nhận xuất khẩu. Hình thức này có ưu điểm: Giảm chi phí bán hàng, chi phí tiếp thị. Những người trung gian thường có cơ sở vật chất nhất định, do vậy người uỷ thác giảm được một khoản chi phí cho việc đầu tư trực tiếp vào nước nhập khẩu. Người trung gian thường là những người bản địa, am hiểu thị trường, pháp luật, tập quán buôn bán của địa phương vì vậy họ có thể đẩy mạnh việc kinh doanh, buôn bán và tránh những rủi ro mà người uỷ thác có thể gặp phải. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là: Chủ thể tham gia kinh doanh xuất khẩu sẽ mất đi sự liên hệ với thị trường, lợi nhuận bị chia sẻ. Ngoài ra, bên phía trung gian thường đưa ra những yêu cầu đòi hỏi bên chủ thể xuất khẩu phải đáp ứng, tạo thế bị động cho bên xuất khẩu. Hình thức này thường được sử dụng khi xâm nhập vào thị trường mới hoặc khi mặt hàng khó bảo quản như các mặt hàng tươi sống … * Gia công xuất khẩu: Gia công xuất khẩu là hình thức bên nhận gia công sẽ nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để sản xuất ra thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và hưởng phí gia công. Ở Việt Nam hình thức này chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực gia công dệt may, giày dép. Hình thức này tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập và học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tiếp cận với công nghệ mới của nước ngoài. Mặt khác, với hình thức này thị trường tiêu thụ sẵn có vì vậy nó đem lại lợi ích tương đối lớn đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là tính bị động cao do toàn bộ hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc vào bên đặt gia công về thị trường, giá bán, giá đặt gia công, nguyên vật liệu, mẫu mã … Nhiều trường hợp bên ngoài lợi dụng gia công để bán máy móc cho nước nhận gia công, sau một thời gian không đặt gia công nữa gây tổn thất, lãng phí cho bên nhận gia công. * Buôn bán đối lưu: Là hình thức giao dịch buôn bán mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá trao đổi luôn tương đương với nhau về giá trị. Mục đích của việc xuất khẩu ở đây không phải là thu về một lượng ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá cần thiết có giá trị xấp xỉ lô hàng xuất khẩu. Khi tiến hành thực hiện hình thức này các bên cần phải tôn trọng nguyên tắc cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện: Cân bằng về mặt hàng: hàng quý hiếm đổi lấy hàng quý hiếm, hàng ế thừa đổi lấy hàng ế thừa. Cân bằng điều kiện giao dịch: cùng giao dịch FOB - cảng đi hay cùng giao dịch CIF - cảng đến. Cân bằng giá cả: cùng tính cao hơn hay thấp hơn giá cả quốc tế. Cân bằng về tổng giá trị hàng hoá mà các bên giao cho nhau. * Tạm nhập tái xuất: Đây là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu đi qua một số nước trung gian rồi mới đến nước nhập khẩu và trong đó nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh lệch giữa khoản tiền bỏ ra để nhập khẩu và khoản tiền thu được khi xuất khẩu. Ưu điểm của hình thức này là rủi ro ít do nhà xuất khẩu chỉ đóng vai trò xuất khẩu hàng hoá sang nước thứ hai, nước thứ hai có vai trò là một trung gian vì thế rủi ro lúc này được san sẻ. Tuy nhiên lợi nhuận thu được của các nhà xuất khẩu là thấp do các chi phí về dịch vụ vận tải, bến bãi … là tương đối lớn. * Xuất khẩu tại chỗ: Xuất khẩu tại chỗ là hình thức bán hàng cho nước ngoài ngay trên lãnh thổ nước mình. Đây là hình thức xuất khẩu mới nhưng ngày càng phát triển trong nền kinh tế thị trường mở cửa. Loại hình này ở Việt Nam chủ yếu diễn ra dưới hình thức bán hàng cho các khu chế xuất. Hình thức xuất khẩu này có đặc điểm là hàng hoá không bắt buộc phải vượt qua biên giới quốc gia mới đến tay của khách hàng. Ngoài ra, các thủ tục xuất khẩu thì đơn giản hơn, chi phí xuất khẩu cũng như rủi ro thấp. Tuy nhiên thị trường đối với loại hình này là không lớn, chỉ gồm những người nước ngoài đi du lịch hoặc làm việc tại nước xuất khẩu tiêu thụ. Tóm lại, mỗi một hình thức xuất khẩu hàng hóa đều có ưu nhược điểm nhất định. Vì vậy, để thu được hiệu quả kinh tế cao nhất đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi nhà xuất khẩu cần có những chiến lược, định hướng lựa chọn phù hợp với sự phát triển kinh tế, khả năng, năng lực của mình. Theo phương thức xuất khẩu Gồm có: * Thương mại chính ngạch * Thương mại tiểu ngạch * Buôn bán của cư dân biên giới Thương mại chính ngạch là hình thức mà các hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới theo giấy phép của Bộ Thương mại. Những hàng hóa xuất nhập khẩu phải được thông qua cửa khẩu quốc tế và quốc gia và phải tuân thủ các thủ tục xuất khẩu quốc tế. Còn những hàng hóa xuất nhập khẩu theo giấy phép của Uỷ ban nhân dân các tỉnh biên giới thì được gọi là thương mại tiểu ngạch. Hình thức buôn bán thứ 3 là hoạt động trao đổi của cư dân biên giới, do nhân dân hai vùng biên thực hiện. Các hàng hóa được trao đổi thường do họ tự sản xuất ra, đem trao đổi trực tiếp. Hình thức thương mại này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân vùng biên. Do điều kiện địa hình không thuận lợi, chi phí vận chuyển hàng hóa từ dưới xuôi lên cao và khó khăn, họ tiến hành trao đổi hàng hóa ở những chợ vùng biên với giá cả rẻ hơn và hàng hóa sẵn có hơn. Đối với hình thức này, khối lượng trao đổi hàng hóa thường không nhiều. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế Xuất khẩu hàng hoá phát huy lợi thế so sánh của đất nước Chúng ta biết rằng, mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và mức sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm là những nhân tố quan trọng quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh (lợi thế so sánh). Mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá sản xuất vào các ngành sử dụng nhiều yếu tố sẵn có trong nước. Với những ngành này, nếu mặt hàng của nó chỉ giới hạn tiêu thụ trong nội địa thì không thể khai thác, tận dụng hết lợi thế của nó, và khó có thể phát triển hơn được. Như vậy, mỗi một quốc gia để có thể phát huy lợi thế so sánh của mình cần phải tiến hành xuất khẩu hàng hóa đó ra thị trường rộng lớn hơn – thị trường quốc tế. Xuất khẩu hàng hóa đóng góp vào ổn định và tăng trưởng kinh tế Kết quả hoạt động của ngoại thương của một nước được đánh giá qua “cán cân thanh toán xuất - nhập khẩu”. Cán cân này tác động trực tiếp đến tổng cầu của nền kinh tế. Xuất khẩu thuần (XKT) = Xuất khẩu (XK) - Nhập khẩu (NK). Xuất khẩu thuần là một bộ phận của tổng cầu: AD = C + I + G + XKT Khi cán cân thương mại ở mức xuất siêu (NK > XK) sẽ làm tăng thu nhập của quốc gia nên làm tăng GDP và nền kinh tế tăng trưởng. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa chính là việc tạo điều kiện thuận lợi để bán được nhiều nhất những hàng hóa mà một quốc gia có lợi thế. Khi doanh số bán hàng tăng lên, lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài nhiều hơn, nó sẽ tác động trở lại, đó là nhu cầu mở rộng sản xuất, đẩy mạnh quá trình tạo ra sản phẩm, quy mô sản xuất của từng mặt hàng, từng ngành nghề, lĩnh vực cũng như quy mô toàn bộ nền kinh tế được mở rộng, khi đó xuất hiện hiệu ứng tính kinh tế nhờ quy mô. Khi quy mô sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của nhiều ngành hàng mới vừa để bổ trợ cho các ngành xuất khẩu chính, vừa để khai thác các tiềm năng của đất nước, GDP của nền kinh tế không ngừng tăng lên, quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. 1.1.3.3. Xuất khẩu hàng hóa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới luôn luôn thay đổi một cách mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá là tất yếu đối với nước ta. Xuất khẩu hàng hóa tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “mối quan hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này. Bên cạnh đó khi vốn tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra “mối liên hệ xuôi” là nguyên liệu cung cấp cho đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và “mối liên hệ xuôi” này được tiếp tục mở rộng. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của những người lao động, tạo ra “mối liên hệ gián tiếp” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Xuất khẩu hàng hóa tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác kể cả vốn vay và đầu tư nước ngoài. Đối với nhiều nước đang phát triển, xuất khẩu đã trở thành nguồn tích lũy vốn chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa. Đồng thời có ngoại tệ đã tăng khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển của ngành công nghiệp. Xuất khẩu hàng hóa tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cải thiện đời sống nhân dân Trước hết hoạt động xuất khẩu tạo thêm việc làm, thu hút hàng triệu lao động và làm tăng thu nhập cho người lao động, nhất là trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm hải sản, công nghiệp dệt - may, giày - da. Nhiều ngành xuất khẩu đã tạo thêm việc làm phi nông nghiệp cho lao động khu vực nông thôn, góp phần tăng thu nhập và giảm bớt tình trạng nghèo đói. Xuất khẩu hàng hóa còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu nhiều sản phẩm trung gian, một số ngành công nghiệp như dệt – may, sản xuất hàng tiêu dùng được mở rộng, tạo việc làm cho dân cư thành thị đặc biệt là lao động thanh niên đang ngày càng gia tăng. Ngoài ra, còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của người dân. Xuất khẩu hàng hóa tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô và tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời tạo thêm việc làm cho người lao động. Xuất khẩu còn giúp nâng cao chất lượng lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, thay đổi phong cách làm việc theo hướng tích cực. 1.1.3.5. Xuất khẩu hàng hóa nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Xuất khẩu hàng hóa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì khi hướng vào thị trường quốc tế làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn là thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của Nhà nước, song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định được vị trí của mình. Mặt khác thị trường thế giới rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn. Xuất khẩu hàng hóa còn tạo điều kiện nâng cao khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng hóa Để thực hiện tốt các hoạt động xuất khẩu hàng hóa thì việc xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá là một vấn đề cần thiết. Thực hiện được điều này sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà sản xuất tìm ra được mặt hạn chế, yếu kém trong hoạt động xuất khẩu của mình, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu để khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu, đáp ứng mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà quốc gia đã đề ra. Sau đây là những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hoạt động xuất khẩu của một quốc gia: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất hàng hóa của một nước cho biết nước đó đã xuất khẩu được bao nhiêu hàng hóa, khối lượng và giá trị bao nhiêu. Nếu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa càng cao thì chứng tỏ hoạt động xuất khẩu của nước đó càng phát triển. Mặt khác nếu kim ngạch xuất khẩu cao và giá trị của hàng hóa đem xuất khẩu là lớn thì điều đó chứng tỏ quốc gia đó đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa là sự gia tăng về khối lượng và giá trị hàng hóa được xuất khẩu của một nước trong một khoảng thời gian nhất định. Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Sự cân bằng trong cán cân thương mại Cán cân thương mại (cán cân trao đổi) là bảng đối chiếu giữa tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa với tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa của một nước với nước ngoài trong một thời kỳ xác định, thường là một năm. Tình trạng của cán cân thương mại (thâm hụt hay thặng dư) thể hiện trạng thái của nền kinh tế; dữ liệu trên cán cân thương mại có thể được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một nước. Thâm hụt cán cân thương mại là sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, tức là nhập khẩu vượt quá xuất khẩu. Đối với các nước đang phát triển đang trong thời kỳ CNH và mở cửa hội nhập kinh tế, thâm hụt là một hiện tượng khá phổ biến. Tuy nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho thấy, sự yếu kém trong điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt là yếu kém trong lĩnh vực xuất khẩu và hậu quả đối với nền kinh tế là rất trầm trọng. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Thông qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ta cũng có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động xuất khẩu của một nước. Khi phần lớn hàng hóa xuất khẩu là những hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, áp dụng khoa học hiện đại, những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ mang lại nguồn thu lớn cho đất nước. Ngược lại nếu hàng xuất khẩu là các mặt hàng có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ ít thì tăng trưởng xuất khẩu là rất khó. Bởi vì, các hàng hóa dưới dạng thô, chỉ sơ chế thường giá trị rất thấp, cung cầu không ổn định; hơn nữa nó còn là mầm mống làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên của nước xuất khẩu. Và cũng thông qua cơ cấu mặt hàng này ta có thể thấy được sự phát triển của các quốc gia. Những quốc gia phát triển, có trình độ, khoa học hiện đại thì sẽ sản xuất ra những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao. Ngược lại, các nước kém phát triển, chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên sẵn có; vì vậy họ sẽ xuất khẩu những hàng hóa có nguồn gốc từ thiên nhiên, chỉ qua sơ chế, thậm chí là sản phẩm thô. Hình thức buôn bán Khi nước tham gia xuất khẩu chủ yếu qua hoạt động buôn bán chính ngạch (là hợp đồng xuất khẩu theo giấy phép của Bộ Công Thương lưu thông qua các cửa khẩu quốc tế và quốc gia, phải chấp hành đẩy đủ các thủ tục theo thông lệ và tập quán quốc tế) thì sẽ giảm thiểu được những rủi ro trong thương mại, tránh thiệt hại cho nước mình. Khi tham gia hoạt động buôn bán này, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ tuân thủ những quy định pháp luật của hai nước mà còn phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế nói chung. Do vậy có thể giảm thiểu được rủi ro trong các hợp đồng kinh doanh, mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, khi nước tham gia xuất khẩu chủ yếu thông qua hoạt động buôn bán tiểu ngạch (là hình thức xuất khẩu theo giấy phép của UBND các tỉnh biên giới) thì rủi ro mang lại là rất lớn, và nó có thể làm giảm đi rất nhiều hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc Tổng quan về thị trường Trung Quốc Thị trường Trung Quốc được đánh giá là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng. Với số dân đông nhất thế giới lên tới 1,3 tỷ người, chiếm 21% tổng dân số toàn thế giới. Tổng diện tích là 9,6 triệu km2 (rộng hơn Úc, nhỏ hơn Nga và canada), độ dài đường biên giới đất liền là 22.143,34 km, đường bờ biển: 14.500 km, giáp với các nước: Afghanistan, Bhutan, Myanmar, Ấn Độ, Kazakhstan, bắc Triều Tiên, Kyrgyzstan, Lào, Macao, Mông Cổ, Nepal, Pakistan, Nga, Tajikistan và Việt Nam. Với đặc điểm này, Trung Quốc rất thuận lợi cho việc mở rộng các hoạt động buôn bán qua biên giới với các nước láng giềng. Riêng đối với Việt Nam, xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc sẽ có những thuận lợi hơn so với các nước khác. Hai nước Việt – Trung sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông, lý tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan đã giúp cho Việt Nam hiểu được cặn kẽ hơn những nhu cầu, đòi hỏi của thị trường Trung Quốc, từ đó tạo ra một cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hợp lý cho thị trường xuất khẩu này. Nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc Theo số liệu thu thập được của Cục xúc tiến thương mại – Bộ Công thương Việt Nam cho biết: Tổng chi tiêu của người tiêu dùng Trung Quốc năm 2008 đạt 10,4 tỷ nhân dân tệ tương đương với 1,52 tỷ đôla Mỹ. Hiện nay, các gia đình Trung Quốc thường gửi tiết kiệm hoặc dùng một  nửa tổng thu nhập của mình để đầu tư và chi cho thực phẩm. Thế hệ trẻ Trung Quốc có mức thu nhập ngày càng cao và có xu hướng chi khá nhiều vào thời trang và vui chơi giải trí. Vì thế họ chính là những “thượng đế” mà rất nhiều nhà bán lẻ Trung Quốc nhằm tới. Khi người tiêu dùng Trung Quốc ngày càng giàu lên nhờ chính sách của chính phủ nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng thu nhập bình quân trên đầu người thì việc quảng bá hình ảnh và hàng hoá cho giới thượng lưu vẫn sẽ tiếp tục và có xu hướng phát triển hơn, vì những chính sách này sẽ kích thích người dân tiêu dùng với số lượng hàng hóa nhiều hơn, giá trị cao hơn. Trung Quốc hiện nay là nước đứng thứ ba trên thế giới chỉ sau Nhật Bản và Hoa Kỳ về số lượng người tiêu dùng các hàng hóa xa xỉ, chiếm 12% tổng tiêu dùng của thế giới. Hiện nay, trung bình một năm, thị trường Trung Quốc bán được hơn 2 triệu đôla Mỹ hàng tiêu dùng xa xỉ và doanh thu bán hàng có xu hướng tăng từ 20-30% / năm. Theo WB, trong năm 2007, xuất khẩu ròng chỉ chiếm 0,4 % trong GDP của Trung Quốc, trong khi đó tăng trưởng của nước này là 11,5 % nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhu cầu nội địa. Tăng trưởng xuất khẩu Trung Quốc giảm từ 28 % quý 1 xuống còn 22% ở quý 4 năm 2007, trong khi đó tốc độ nhập khẩu lại tăng từ 18 % lên 26 %. Đó phần lớn là do nhu cầu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc ngày càng có chiều hướng tăng mạnh dẫn đến nhu cầu nhập khẩu của nước này tăng khá cao. Một điều đáng nói ở đây là nhu cầu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc khá đa dạng và dễ tính do các tầng lớp dân cư khác nhau có thu nhập khác nhau nên sức mua rất phong phú. Trên thị trường cùng tồn tại các loại hàng hóa có quy cách, chất lượng khác xa nhau đến mức giá cả chênh lệch hàng chục thậm chí đến hàng trăm lần. Với sự chênh lệch đó phần nào phản ánh được sức mua của từng người, từng vùng là khác nhau do sự chênh lệch thu nhập. Năm 2008, mức chênh lệch về thu nhập giữa người dân thành thị với người nông là 3,28 : 1. Theo tiêu chuẩn mà quốc tế cùng đồng thuận thì mức chênh lệch về thu nhập giữa người dân thành thị và nông dân 1,5 :1 là tương đối hợp lý, vượt quá 2,1 : 1 là đã hiếm thấy. Như vậy, mức chênh lệch như hiện nay của Trung Quốc là quá cao. Thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua, do vậy sức mua giữa thành thị và nông thôn cũng rất chênh lệch. Sức mua phần lớn là của dân thành thị như Thâm Quyến, vào khoảng 1.210 đến 12.097 USD, còn ở nông thôn như các vùng miền Tây sức mua trung bình từ 1.000 đến 10.000 NDT tức vào khoảng 121 đến 1210 USD. Sức mua của người tiêu dùng Trung Quốc được chia làm ba nhóm sau: Nhóm người tiêu dùng có thu nhập cao: Mức thu nhập trung bình của nhóm người này là từ 18.840 NDT trở lên. Số lượng này vào khoảng 14 triệu, chiếm 10% dân số đô thị và 3,5% dân số toàn quốc. Sức mua của nhóm người này là 840 tỷ NDT, chiếm 15% tổng sức mua của toàn quốc. Giỏ hàng hóa mà nhóm này tiêu dùng là những hàng hóa chất lượng cao, hàm lượng công nghệ cao, kiểu dáng phong phú, đẹp, sang trọng. Giá cả không phải là yếu tố quan trọng đối với các quyết định tiêu dùng của họ. Vì vậy các nhà sản xuất cho xuất khẩu cần có mặt hàng cao cấp phục vụ nhu cầu cho tầng lớp dân cư này vì chắc chắn một điều rằng lợi nhuận thu được từ họ là không nhỏ. Nhóm người tiêu dùng có thu nhập trung bình: Thu nhập trung bình của nhóm người này từ 6.000 – 7.000 NDT, họ chiếm khoảng 445 triệu dân, khoảng 10% dân số nông thôn và 80% dân số thành thị. Sức mua của nhóm người này là 2,89 nghìn tỷ NDT, chiếm gần 55% sức mua của toàn quốc, phần lớn là dân thành thị. Hàng hóa mà họ lựa chọn là những mặt hàng có chất lượng vừa phải, hàm lượng công nghệ tương đối cao, mẫu mã đẹp. Giá cả là một nhân tố làm ảnh hưởng tới quyết định tiêu dùng của nhóm người này. Với khả năng thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam thì đây là nhóm khách hàng tiềm năng cần được khai thác. Nhóm người có thu nhập thấp: là những người có mức thu nhập khoảng 2000 NDT, số lượng này vào khoảng 689 triệu người, chiếm 10% dân thành thị, 80% dân nông thôn. Sức mua của nhóm người này là 1,33 tỷ NDT, chiếm khoảng 23% sức mua toàn quốc. Ngoài ra, Trung Quốc có khoảng 7% dân số toàn quốc có thu nhập rất thấp, trung bình khoảng 700 NDT tức 85 USD. Sự lựa chọn cho tiêu dùng của nhóm người này là những mặt hàng có giá rẻ, chất lượng đại trà, không quan trọng đến hình thức, mẫu mã. Chính có sự phân nhóm tiêu dùng khá đa dạng này đã tạo điều kiện lớn cho các nhà xuất khẩu đưa ra quyết định cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng thị trường của từng vùng. Do vậy, Việt Nam cần tận dụng và khai thác hết lợi thế so sánh, tiềm năng của nước mình để thu được nguồn lợi nhuận và khả năng chiếm lĩnh thị trường đối với thị trường đa dạng này. Một thuận lợi nữa cho những nước xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đó là nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc là rất đa dạng và phong phú, thuộc ba chủng loại chính: dịch vụ; hàng chế tạo và sản phẩm nông nghiệp. Riêng đối với Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường này 14 loại mặt hàng, nhóm hàng có nhiều tiềm năng là: cao su, chè, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thực vật, thủy sản, dầu ăn, giày dép, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, sản phẩm linh kiện điện tử - điện máy, sắn lát và tinh bột sắn … Trung Quốc – một thị trường đầy tiềm năng cho hàng hóa Việt Nam. Rau quả Việt Nam rất được người Trung Quốc yêu thích nhất là các rau quả nhiệt đới, các loại cây trái vụ với Trung Quốc. Thị trường rau quả Trung Quốc rất lớn, mỗi năm lên gần 1,1 tỷ USD và có rất nhiều tiềm năng dành cho Việt Nam, nhất là các tỉnh ở miền Tây Nam Bộ. Một mặt hàng luôn được quảng cáo là "đặc sản phương Nam" tại các chợ, nhà hàng Trung Quốc là thuỷ sản. Hàng thuỷ sản Việt Nam bán sang Trung Quốc rất phong phú về chủng loại: tươi sống, đông lạnh, hàng khô... đều được tiêu thụ hết. Đặc biệt những mặt hàng như: tôm hùm, cá biển cao cấp, nhuyễn thể hai mảnh vỏ... được bán với giá cao và bao nhiêu cũng hết. Theo ông Đào Ngọc Chương - Tham tán thương mại tại Trung Quốc: Việt Nam sẽ đạt mục tiêu 350 triệu USD xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Quốc nếu doanh nghiệp làm tốt công tác chế biến, bảo quản, xây dựng được hệ thống phân phối trên thị trường nước bạn. Đặc biệt là tại các tỉnh phía Tây. Cao su thiên nhiên là một thế mạnh tuyệt đối của Việt Nam. Mỗi năm Trung Quốc cần hơn 2 triệu tấn cao su, nhưng chỉ tự cung cấp chưa được 1/4. Dự báo hàng năm, nhu cầu cao su Trung Quốc sẽ tăng 20-25%, nên ngành cao su Việt Nam có rất nhiều cơ hội phát triển ở thị trường này. Vấn đề của ngành cao su là phải hạn chế xuất thô, tăng cường công tác chế biến để hướng tới mục tiêu xuất khẩu 1 tỷ USD trong tương lai. N._.goài ra, một số mặt hàng khác như: đồ gỗ, gạo, chè và cà phê, dây cáp điện, giày dép các loại... đều có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào Trung Quốc. Chính sách thương mại Trung Quốc đối với hoạt động nhập khẩu Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã có những cải cách hết sức mạnh mẽ trong chính sách thương mại nhằm đáp ứng những yêu cầu mở cửa nền kinh tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng. Mở rộng quyền hoạt động thương mại và phân cấp quản lý hoạt động thương mại Cũng như bất kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nào, hoạt động thương mại quốc tế của Trung Quốc trước đây dựa trên nguyên tắc độc quyền nhà nước, theo đó, nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động ngoại thương thông qua các doanh nghiệp nhà nước: năm 1979, cả nước chỉ có 12 công ty xuất nhập khẩu cấp quốc gia và mỗi công ty được chuyên trách về một lĩnh vực riêng. Vào đầu thập kỷ 1980, cơ chế này bắt đầu được nới lỏng: năm 1984, Trung Quốc cho phép thành lập các công ty xuất nhập khẩu cấp tỉnh và thành phố. Đầu năm 1985, Bộ Ngoại thương đã phê chuẩn việc thành lập thêm 8.000 Tổng công ty hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương. Tất cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã được quyền kinh doanh thương mại trực tiếp mà không cần sử dụng dịch vụ của một công ty thương mại nào, mặc dù vẫn còn hạn chế về mặt hàng nhập khẩu. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực chế tạo cũng được quyền hoạt động thương mại trực tiếp mà không cần qua các doanh nghiệp thương mại chuyên doanh của nhà nước. Quá trình phi tập trung hóa quản lý thương mại và mở rộng quyền hoạt động ngoại thương cho doanh nghiệp được đẩy mạnh kể từ khi Trung Quốc tiến hành đàm phán gia nhập GATT/WTO năm 1986, và đặc biệt là trong thập kỷ 1990. Kết quả của những năm cải cách chính sách thương mại trên là số lượng các doanh nghiệp hoạt động thương mại tăng lên nhanh chóng. Vào năm 2000, có đến 1000 doanh nghiệp tư nhân được quyền xuất nhập khẩu. Số lượng các doanh nghiệp trong nước được quyền tham gia hoạt động thương mại quốc tế tăng lên nhanh chóng: từ 1.200 công ty năm 1986 lên 12.000 năm 1996, 13.000 năm 1998 và 35.000 công ty năm 2001. Cùng với 150.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền đăng ký ngoại thương, hoạt động thương mại quốc tế của Trung Quốc đã hướng mạnh tới việc đáp ứng những nguyên tắc cạnh tranh và không phân biệt đối xử của WTO. Trong các hiệp định gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết thực hiện đầy đủ quyền hoạt động thương mại đối với toàn bộ các doanh nghiệp Trung Quốc cũng như các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trong vòng 3 năm. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trên lãnh thổ Trung Quốc sẽ nghiễm nhiên được quyền hoạt động thương mại mà không bị ràng buộc bởi những điều kiện về sở hữu, vốn, lĩnh vực kinh doanh hoặc kinh nghiệm hoạt động như trước đây. Hệ thống thuế quan Từ khi tiến hành đàm phán gia nhập WTO, việc cắt giảm thuế quan của Trung Quốc đã được thực hiện một cách nhất quán và liên tục, vừa làm cho hệ thống thuế quan phù hợp với chuẩn mực chung của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, vừa nhằm mục tiêu giảm thuế suất bình quân đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập WTO. Lịch trình cắt giảm thuế quan của Trung Quốc từ năm 1992 đến thời điểm trở thành thành viên WTO (2001) như sau: 1/1/1992: Giảm 225 dòng thuế, chiếm 4,4% tổng số các dòng thuế. 1/4/1992: Loại bỏ thuế nhập khẩu đối với 18 nhóm sản phẩm, trong đó 16 nhóm sản phẩm với 168 dòng thuế có mức thuế suất nhập khẩu giảm trong phạm vi từ 28,6 đến 68%. Hai nhóm sản phẩm còn lại là ô tô mui kín và máy quay phim, thuế cơ bản đã tăng trong khi thuế theo luật được loại bỏ, nhưng mức thuế nhập khẩu vẫn giảm nhẹ. 1/1/1993: Giảm 3.371 dòng thuế, chiếm 53,6% trong tổng số làm giảm mức thuế quan bình quân 7,3%. 1/1/1994: Giảm 2.898 dòng thuế. 1/4/1995: Giảm 19 dòng thuế đối với rượu vang, rượu và thuốc lá từ 120% - 150% xuống còn 80%. 1/4/1996: Giảm 4.971 dòng thuế làm giảm mức thuế quan bình quân từ 35,9% xuống 23%. 1/10/1997: Giảm 4.874 dòng thuế, chiếm 73,5% tổng số, tỷ lệ thuế quan bình quân giảm còn 17%. 1/1/1999: Giảm 1.014 dòng thuế trong các ngành dệt, đồ chơi và lâm sản từ 0,2 đến 11 điểm phần trăm. 1/1/2000: Giảm 819 dòng thuế đối với các sản phẩm dệt trong phạm vi từ 0,6 – 2 điểm phần trăm. Giảm 202 dòng thuế đối với các hàng hóa chất, máy móc và các sản phẩm khác (thuế linh kiện chế tạo máy tính cá nhân giảm từ 15% còn 6%, thuế đánh vào bộ phận ghi dữ liệu giảm từ 18% còn 1%). 1/1/2001: Cắt giảm 3.462 dòng thuế, chiếm 49% tổng số. Với một lộ trình cắt giảm thuế quan như trên, thuế suất bình quân đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc đã liên tục giảm xuống và tới thời điểm trở thành thành viên WTO, mức thuế này chỉ còn bằng 1/3 so với thời điểm khi Trung Quốc bắt đầu đàm phán gia nhập WTO. Bảng 1.1: Thuế quan bình quân đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc giai đoạn 1982-2001 Năm Mức thuế quan bình quân (%) 1982 55,6 1985 43,3 1988 43,7 1991 44,1 1992 43,2 1993 39,9 1994 35,9 1996 23 1997 17 2000 16,4 2001 15,3 Sau khi gia nhập WTO 9,8 Nguồn: Tổng cục hải quan Trung Quốc Thực hiện nghị định khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết từng bước hạ thấp mức thuế nhập khẩu hàng hóa và đến năm 2005 còn 10%, trong đó thuế quan bình quân đối với hàng hóa công nghiệp giảm xuống còn 9,3%. Tính đến nay, mức thuế quan của Trung Quốc đã giảm còn 10,2%. Đặc biệt, mức giảm thuế quan đối với hàng nông sản được Trung Quốc thực hiện trước thời gian quy định của WTO. Năm 2002, Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm hàng loạt thuế nhập khẩu đối với hơn 5000 loại sản phẩm. Năm 2003, Trung Quốc lại tiếp tục giảm thuế nhập khẩu cho hơn 3000 mặt hàng. Năm 2007 là năm Trung Quốc hoàn thành thời gian bảo hộ theo cam kết gia nhập WTO và sẽ thực hiện cơ chế điều hành xuất nhập khẩu theo tư cách đầy đủ của một thành viên WTO. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các nước tăng đáng kể xuất khẩu vào Trung Quốc. Hàng rào phi thuế quan Ngoài hạn chế quyền thương mại đối với doanh nghiệp như đã trình bày ở trên, các rào cản phi thuế quan bao gồm những hạn chế về giấy phép và quota xuất khẩu, các yêu cầu về chất lượng và tiêu chuẩn kỷ thuật, các rào cản này cũng cần được chuẩn hóa theo yêu cầu của WTO và đưa vào kế hoạch loại bỏ nhằm hạn chế bóp méo thương mại và cạnh tranh không công bằng. Về cấp phép xuất nhập khẩu. Vào cuối thập kỷ 1980, số lượng các hàng hóa nhập khẩu cần phải cấp phép của Trung Quốc vẫn còn rất lớn: chiếm 53% và tỷ lệ hàng hóa nhập khẩu được cấp phép chiếm 46% tổng hàng nhập khẩu. Sang thập kỷ 1990, Trung Quốc bắt đẩu giảm mạnh số lượng các hàng hóa nhập khẩu phải cấp phép. Hiện nay các sản phẩm phải qua quản lý giấy phép hạn ngạch xuất khẩu chỉ còn là 52 sản phẩm, nhập khẩu chỉ còn 8 loại, bỏ 16 hạn ngạch, giấy phép và quản lý đấu thầu đặc biệt đối với một phần mặt hàng xe máy, ô tô, phụ tùng chủ yếu. Trung Quốc thực hiện các tiêu chuẩn về chất lượng và sự an toàn như một rào cản phi thuế quan đối với 144 sản phẩm ví dụ như: thuốc men, sản phẩm động thực vật, bột mì, dầu thô, dầu tinh chế, cao su, đường tinh chế, thép cuộn, các sản phẩm gỗ…, chiếm 10% tổng dòng thuế. Việc minh bạch hóa các tiêu chuẩn này, đảm bảo việc tuân thủ một cách nhất quán là yêu cầu đặt ra đối với Trung Quốc trong việc điều chỉnh chính sách thương mại sau khi gia nhập WTO. Một vấn đề đáng quan tâm nữa đó là vấn đề sở hữu trí tuệ. Trung Quốc thực hiện bảo vệ bản quyền sở hữu trí tuệ, ngăn cấm và xử lý tội giả mạo, ăn cắp bản quyền. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng khi xuất khẩu hàng hóa vào thì trường Trung Quốc đăng ký thương hiệu thương mại ở Trung Quốc tránh được tình trạng mất thương hiệu. Tuy nhiên đây cũng là một khuyến cáo, đề nghị các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu thương mại và bản quyền tác giả cho chính mình. Tóm lại, việc tìm hiểu về thị trường Trung Quốc, nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng cũng như những quy định về nhập khẩu là một việc cần thiết giúp Chính phủ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam thấy được điểm mạnh, yếu, khó khăn, thuận lợi khi xuất khẩu sang thị trường này. Từ đó đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang một thị trường đầy tiềm năng như Trung Quốc. Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với quan hệ thương mại toàn cầu Ngày 1/10/1949, tại quảng trường Thiên An Môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông – nhà sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc đã long trọng tuyên bố nước CHND Trung Hoa ra đời. Từ một nước phong kiến nông nghiệp lạc hậu, nhân dân nghèo đói, sau 59 năm trải qua những thăng trầm do nhiều nguyên nhân khác nhau, Trung Quốc ngày nay đã trở thành cường quốc không chỉ riêng khu vực Đông Á mà trên cả phạm vi toàn cầu. Trung Quốc đã trở thành “con rồng mới”, “hiện tượng thần kỳ mới” về sự phát triển nhanh và xếp hạng cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Sự thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc được thể hiện là đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới và liên tục 29 năm qua đều duy trì ở chỉ số trên dưới 10% bình quân hàng năm, kể từ khi Trung Quốc bắt đầu thực hiện cải cách mở cửa với chiến lược bốn hiện đại hóa do nhà lãnh đạo Đặng Tiển Bình khởi xướng năm 1979. Chính vì thế tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc đã tăng mạnh và tăng rất nhanh qua các năm. Năm 1975, tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 1% GDP thế giới, đến năm 2006, đã chiếm đến 6%, và nếu tiếp tục phát triển ổn định, kinh tế Trung Quốc vào năm 2020 sẽ chiếm từ 12 – 15% GDP toàn cầu. Đặc biệt, năm 2007 tăng trưởng 13%, với quy mô GDP đạt mức 25.731 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 3.380 tỷ USD), đã đưa Trung Quốc vươn tới vị trí cường quốc kinh tế lớn thứ ba trên thế giới, vượt qua Đức, GDP của Đức năm 2007 chỉ là 2.424 tỷ Euro, tương đương 3.320 tỷ USD. Như vậy, kinh tế Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, sau Mỹ và Nhật Bản, và lớn thứ hai ở châu Á, sau Nhật Bản. Việc Trung Quốc ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu là một trong những nhân tố góp phần duy trì sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. Trung Quốc hiện là nước đóng góp nhiều nhất  vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc đa dạng hơn và sự thâm nhập sâu hơn vào thị trường của các nước công nghiệp, diễn ra cùng làn sóng nhập khẩu của Trung Quốc đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự chuyên môn hóa khu vực. Hiện nay, Trung Quốc trở thành một trong những điểm xuất nhập khẩu quan trọng nhất của hầu hết các nước châu Á. Sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Trung Quốc là một sự kiện có tính chất bước ngoặt đối với khu vực và cả nền kinh tế toàn cầu. Lợi ích từ hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu. Vì vậy, thị trường xuất khẩu đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trung Quốc là một thị trường đầy tiềm năng ngày càng đóng vai trò to lớn đối với Việt Nam. Với đặc điểm là một đất nước có diện tích và dân số lớn, có nhiều điểm tương đồng về kinh tế cũng như các lĩnh vực khác với Việt Nam. Nhiều mặt hàng của ta đã chiếm lĩnh một thị phần không nhỏ trên đất nước này. Thông qua việc xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, Việt Nam có được một thị trường xuất khẩu rộng lớn không đòi hỏi quá khắt khe với nhiều chủng loại hàng hóa, đặc biệt là những hàng hóa đang gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu như rau quả, thủy sản tươi, hàng thực phẩm, công nghệ phẩm, nhiều loại quặng thô … Như vậy, xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc giúp chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh của mình. Ngoài ra nó còn giúp chúng ta củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm tới, hợp tác thương mại Việt Nam - Trung Quốc sẽ có nhiều thuận lợi khi các chương trình hợp tác phát huy hiệu lực. Đến năm 2006, hầu hết các mặt hàng thế mạnh Việt Nam khi xuất sang Trung Quốc đều có thuế suất là 0% theo lộ trình cam kết trong chương trình "Thu hoạch sớm" giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Các thoả thuận về kiểm dịch thực vật, an toàn vệ sinh được ký kết và thực thi. Điều hy vọng nhất là Việt Nam vào WTO năm 2006 từ đó chúng ta sẽ được hưởng các điều kiện thuận lợi như đối thủ mà trực tiếp là Thái Lan đang được áp dụng. ( Theo Vietnamnet) Các yếu tố tác động tới xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc Nhân tố kinh tế Mọi xu hướng vận động hay thay đổi nào của môi trường kinh tế đều ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi và cũng có thể đem lại sự khó khăn, hạn chế nhất định đối với từng loại hàng hóa khác nhau. Nó cũng có thể làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nước xuất khẩu. Các yếu tố quan trọng của môi trường kinh tế và tác động của nó đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế hoặc của từng ngành liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô xuất khẩu hàng hóa. Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc: Đây là nhân tố kinh tế quan trọng, tác động mạnh mẽ đến nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc, từ đó gián tiếp tác động đến động cơ xuất khẩu hàng hóa sang quốc gia này của Việt Nam. Sự phát triển, tăng trưởng của một nền kinh tế nó đồng nghĩa với sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế đó. Thu nhập cao hay thấp tác ảnh hưởng trực tiếp đến cầu của thị trường, hay nói cách khác nó tác động đến nhu cầu tiêu dùng của người dân, đến nhu cầu mở rộng hay thu hẹp của các ngành, nghề. Cầu cao dẫn đến nhu cầu nhập khẩu càng lớn và ngược lại. Xu hướng phát triển hay các thay đổi về cơ cấu nền kinh tế quốc dân tác động đến xu hướng phát triển của các ngành, kéo theo là sự thay đổi chiều hướng phát triển của các doanh nghiệp và nó còn tác động đến cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Việt Nam đang đi theo con đường hội nhập, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu sẽ chiếm phần nhiều trong tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia. Chiến lược này tạo ra cơ hội kinh doanh cho các công ty, các nhà xuất khẩu là rất lớn. Thực hiện chiến lược đó việc dự báo những biến động kinh tế, các hoạt động xúc tiến của cơ quan quản lý kinh tế nhà nước đã giúp các nhà xuất khẩu vượt qua những khó khăn mà thị trường mới mang lại. Ngoài ra còn có các nhân tố như lạm phát và khả năng giảm thiểu lạm phát, tỷ giá hối đoái và khả năng chuyển đổi đồng tiền quốc gia: độ ổn định của đồng nội tệ, xu hướng tăng giảm của đồng nội tệ, việc lựa chọn đồng ngoại tệ trong giao dịch thương mại … có thể gây ra những rủi ro cho nhà xuất khẩu. Nhân tố phi kinh tế * Nhân tố văn hóa – xã hội: Văn hóa – xã hội là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình buôn bán, tiếp thị hàng hóa của các doanh nghiệp, các quốc gia. Ở đâu cũng vậy, mỗi người dân đều lưu giữ một giá trị văn hóa khác nhau, có tính gốc rễ và khó thay đổi theo thời gian. Điều đó đã hình thành nên thói quen, thị hiếu tiêu dùng cho họ. Vì vậy, các nhà xuất khẩu cần phải nắm được đặc điểm văn hóa – xã hội của thị trường mình định xâm nhập để từ đó có kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp. * Nhân tố chính trị - luật pháp: Các quyết định kinh doanh chịu sự tác động mạnh mẽ từ những thay đổi trong môi trường chính trị và pháp luật. Một chủ thể khi xuất khẩu sang một quốc gia có môi trường chính trị ổn định có nghĩa là họ đã tránh được rất nhiều rủi ro tiềm tàng gây tổn thất cho họ. Ngược lại, khi xuất khẩu sang một đất nước chính trị đầy biến động, chiến tranh, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô… thì khi đó nhà xuất khẩu khó có thể tránh được các rủi ro. * Nhân tố cạnh tranh: Khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài các doanh nghiệp sớm hay muộn đều phải đối mặt với sự cạnh tranh. Các công ty đa quốc gia với nhiều chi nhánh gây ảnh hưởng tới thị trường cạnh tranh quốc tế. Trung Quốc, một thị trường tiêu thụ rộng lớn, là điểm đến cho nhiều nhà xuất khẩu lớn, có danh tiếng trên thế giới. Vì vậy, khi xâm nhập vào thị trường này các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp không ít khó khăn trong việc cạnh tranh để có vị trí và đứng vững trong thị trường này. Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc tới quan hệ thương mại Việt - Trung Ngày 04/11/2002 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc lần thứ 6, hai bên đã chính thức ký kết “hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện”, trong đó đề cập tới việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (ACFTA) vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên cũ và 2015 đối với 4 nước thành viên mới. Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2003. Để các nước thành viên được hưởng lợi sớm hơn từ ACFTA, Trung Quốc đã đề ra Chương trình Thu hoạch sớm (EHP) với việc giảm thuế gần 600 mặt hàng nông nghiệp và những mặt hàng có lợi thế của cả hai bên. Hiệp định này có hiệu lực ngay từ ngày 01/01/2004, theo đó, thuế quan của tất cả các loại hàng hóa trong danh mục EHP phải giảm xuống 0% vào năm 2006 đối với các nước thành viên cũ và năm 2008 đối với các nước thành viên mới. Đây là một cơ hội lớn, thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của mình sang thị trường này. Bởi lẽ, những mặt hàng tham gia EHP đều là mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo hiệp định thương mại hàng hóa ký kết năm 2004, tỷ lệ thuế quan của Trung Quốc đối với hàng hóa của các nước ASEAN đã giảm từ 9,9% xuống 8,1, giảm xuống 6,6% vào năm 2007 và 2,4% năm 2009. Đến năm 2010, 93% hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu từ các nước ASEAN sẽ được hưởng mức thuế bằng không. Việc giảm thuế hàng loạt đã thắt chặt hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại song phương giữa Trung Quốc và ASEAN, đem lại lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng và doanh nghiệp của cả Trung Quốc và các nước ASEAN. Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Trung Quốc với ASEAN cũng tạo ra những thời cơ thuận lợi và đem đến cả những thách thức đối với Việt Nam, đặc biệt trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. Là thành viên của ASEAN, lại là một nước láng giềng có chung đường biên giới dài với Trung Quốc, việc hình thành ACFTA sẽ là cơ hội lớn để Việt Nam tăng cường hợp tác toàn diện với Trung Quốc. Về mặt lý thuyết, ACFTA tạo điều kiện cho Việt Nam thâm nhập thị trường Trung Quốc khổng lồ, tăng cường xuất khẩu các loại sản phẩm truyền thống như các loại khoáng sản, nông lâm thủy sản. Tuy nhiên, trên thực tế, trong quan hệ Trung Quốc, vị thế cạnh tranh của Việt Nam còn yếu nên chưa thu được nhiều kết quả như mong muốn. Tác động của việc gia nhập WTO tới quan hệ thương mại Việt – Trung Ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã hòa nhập thực sự vào hệ thống mậu dịch thế giới một cách rộng rãi, sâu sắc và toàn diện. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO cho nên quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới về cơ bản sẽ tuân thủ theo nguyên tắc và quy định của WTO. Như vậy, lúc này khi xâm nhập vào thị trường Trung Quốc, Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế quan và một số thuận lợi khác. Và đây cũng tạo ra cơ hội và viễn cảnh tốt đẹp cho doanh nghiệp Trung Quốc muốn xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Trước đây thuế quan của rất nhiều mặt hàng công nghiệp của Việt Nam đang rất cao mà hàng Trung Quốc vẫn thâm nhập vào được, khi thuế quan cắt giảm, hàng công nghiệp của Trung Quốc sẽ có điều kiện thâm nhập thị trường Việt Nam hơn nữa, đặt các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước thách thức lớn. Để đứng vững trên cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu (thị trường Trung Quốc), các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, nâng cao trình độ quản lý của doanh nghiệp, đầu tư hiện đại hóa khoa học kỹ thuật, bên cạnh đó phải đi sâu tìm hiểu luật pháp và các chính sách ngoại thương của Trung Quốc. Mặt khác, hai nước đều đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, do vậy đều phải thực hiện cam kết theo lộ trình của một thành viên WTO. Khi đó, có những mặt tác động tích cực và tiêu cực đến hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Tác động tích cực là tạo phong cách chính quy cho doanh nghiệp Việt Nam và như thế sẽ không còn rủi ro, hoặc ít rủi ro. Tác động tiêu cực là, doanh nghiệp của chúng ta là những doanh nghiệp nhỏ, đã quen làm ăn với Trung Quốc theo kiểu buôn bán trao tay, không theo một quy chuẩn của WTO. Nay, phải làm ăn chính quy thì phải có thời gian. Đấy cũng là một thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam. * Qua những phân tích trên cho ta kết luận: Trung Quốc là một thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhiều loại hàng hóa của Việt Nam, các doanh nghiệp cần biết khai thác triệt để thị trường này để gia tăng xuất khẩu. So với một số thị trường khác, Trung Quốc là thị trường “dễ tính” vì nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của người dân Trung Quốc gần giống với dân Việt Nam, sự đòi hỏi đầu tư cho một sản phẩm hàng hóa không mấy gắt gao, chi phí vận chuyển hàng hóa thấp, thị trường rộng lớn sẽ là cơ hội cho Việt Nam tăng lượng hàng xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian tới. Lộ trình cắt giảm thuế theo Chương trình thu hoạch sớm (EHP) đối với nhiều loại hàng hóa nông thủy sản nhập khẩu vào Trung Quốc giảm xuống 0 – 5% vào năm 2006, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng hóa ASEAN trong đó có Việt Nam. Đồng thời, theo lộ trình cắt giảm thuế quan CAFTA, tới đây Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ tiếp tục tiến hành cắt giảm thuế quan đối với danh mục hàng hóa thông thường. Hơn nữa, Việt Nam đã là thành viên của WTO, theo đó sẽ được hưởng các điều kiện thuận lợi theo quy định của WTO, Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường mạnh hơn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, mọi tranh chấp phát sinh sẽ được xử lý trong khuôn khổ WTO. Cơ chế hợp tác giữa chính phủ, các bộ ngành và địa phương giữa hai nước cũng đã có nhiều tác dụng tích cực trong việc đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước. Một số thỏa thuận liên quan đến hàng xuất khẩu của Việt Nam như kiểm dịch thủy sản và gạo, vệ sinh an toàn thực phẩm… đã và sẽ được ký kết tạo điều kiện pháp lý cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, việc Trung Quốc vẫn còn áp dụng chế độ ưu đãi đối với hàng Việt Nam xuất khẩu qua đường biên giới vào Vân Nam được giảm 50% thuế nhập khẩu và VAT là điều kiện thuận lợi cho nhiều hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam như nông thủy sản, hàng chất lượng không cao. Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá của các nhà kinh tế cho rằng: hàng hóa Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường Trung Quốc, những kết quả đạt được chưa xứng với tiềm năng có được của đất nước. Để tìm ra nguyên nhân cụ thể lý giải cho đánh giá trên, chúng ta cần phải đi phân tích thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong những năm qua, làm cơ sở cho việc đề ra biện pháp đẩy mạnh hoạt động này. CHƯƠNG II - THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC TỪ KHI BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ ĐẾN NAY Sau chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam năm 1991, sự tiến triển trong mối quan hệ hợp tác, các phương thức hợp tác và mục tiêu hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, thương mại, ngoại giao, văn hóa giữa hai nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực, xóa bỏ dần những nghi ngờ, mâu thuẩn tồn tại từ trước đó. Trong bối cảnh các nước, khu vực trên thế giới phát triển theo xu hướng hợp tác mang tính toàn cầu hóa, nhiều khu mậu dịch tự do được thành lập, trao đổi thương mại, hợp tác kinh tế, đầu tư lẫn nhau ngày càng trở nên phổ biến hơn, quan hệ thương mại giữa hai nước cũng không nằm ngoài lệ trên. Mối quan hệ kinh tế, thương mại Việt - Trung liên tục phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Việc hợp tác này, một mặt là kết quả nổ lực qua các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo cấp cao, các cuộc tiếp xúc của các bộ ngành, địa phương doanh nghiệp cả hai nước. Mặt khác, nó phù hợp với xu thế phát triển của hai nước trong thời gian qua. Chỉ riêng thập niên 90 của thế kỷ XX, hai nước đã ký được hơn 20 hiệp định thương mại, bao gồm ở các lĩnh vực kinh tế và thương mại, vận chuyển hàng không, đường biển và đường sắt. Tính đến nay đã có khoảng trên 50 hiệp định được hai nước ký kết với nhau. Trong nỗ lực thúc đẩy hợp tác thương mại, hai bên đã khôi phục thông xe tuyến đường sắt Hà Khẩu - Lào Cai, Bằng Tường - Đồng Đăng vào ngày 14 tháng 2 năm 1996. Ngày 4/4/1997, hai nước thông xe tuyến đường sắt Côn Minh - Hà Nội. Tiếp đó, ngày 18/1/2000, thông xe chở hàng tuyến cảng Phòng Thành - Tiên Yên (Quảng Ninh), Bằng Tường - Đồng Đăng, Long Châu - Cao Bằng. Song song với những hoạt động thực tế của các bộ ngành, nhiều hoạt động, hội thảo, diễn đàn liên quan đến hợp tác thương mại của hai nước đã được tổ chức, thành lập trong thời gian qua như Uỷ ban hợp tác Kinh tế Việt - Trung (năm 1995), Diễn đàn doanh nghiệp Việt - Trung đã thiết lập cổng thông tin và sàn giao dịch thương mại điện tử “Việt Nam - China Bussiness Link” được chính thức khai trương vào tháng 9/2004. Ngày nay, quan hệ thương mại giữa hai nước không chỉ đơn thuần là quan hệ trong phạm vi giữa Việt Nam với Trung Quốc nữa, mà nó được mở rộng hơn, nằm trong hợp tác giữa các tổ chức thương mại khu vực như ACFTA, hoặc trong một sân chơi quốc tế lớn nhất hành tinh về thương mại là WTO. Trung Quốc ngày càng đóng vai trò quan trọng, đã dần trở thành bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam. Vì vậy, thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong thời gian qua, tôi cho rằng nó sẽ giúp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của thị trường Trung Quốc đối với hàng hóa Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu sang nước láng giềng trong thời gian tới. Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trước khi Việt Nam gia nhập WTO (1991-2006) Kể từ sau khi bình thường hóa, cùng với sự phát triển trong quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này phát triển nhanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao. Trung Quốc đã dần trở thành bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam. Nếu năm 1996, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn thứ sáu của Việt Nam; thì năm 1998, trở thành bạn hàng lớn thứ năm; năm 2001, Trung Quốc trở thành bạn hàng lớn thứ ba của Việt Nam và trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam kể từ năm 2004. Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu * Giai đoạn 1991-2000: Trong giai đoạn này kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc không ngừng tăng lên, đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu của tổng cục thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc trong giai đoạn này như sau: Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 1991-2000 (Đơn vị: Triệu USD, %) Năm Kim ngạch XK Kim ngạch NK Cán cân thương mại Tốc độ tăng XK 1991 19.3 18.4 0.9 1992 95.6 31.8 63.8 395.3 1993 135.8 85.5 50.3 42.1 1994 295.7 144.2 151.5 117.7 1995 361.9 329.7 32.2 22.4 1996 340.2 329 11.2 -6.0 1997 474.1 404.4 69.7 39.4 1998 440.1 515 -74.9 -7.2 1999 746.4 683.4 63 69.6 2000 1536.4 1401.1 135.3 105.8 Nguồn: Niên giám thống kê 1995,2000; www.gos.gov.vn Giai đoạn 1991-2000, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng bình quân là 78,42%/năm. Nếu tính riêng cho giai đoạn 1991-1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của kim ngạch xuất khẩu đạt 116,52%, cao gấp 6,54 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của cả nước trong cùng giai đoạn. Lý giải cho sự tăng trưởng này có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, Việt Nam mới thực hiện đổi mới, hơn nữa đây cũng là khoảng thời gian mà Việt Nam vẫn chưa bình thường hóa quan hệ với Mỹ, và chưa gia nhập ASEAN, do vậy Việt Nam trong giai đoạn này đang rất ít các đối tác thương mại, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc là tất yếu và cần thiết. Thứ hai, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã làm cho Việt Nam mất đi những bạn hàng truyền thống quan trọng, vì thế việc tìm kiếm thị trường khác thay thế là điều cấp thiết. Thứ ba, Trung Quốc là một thị trường láng giềng khổng lồ, dễ tính đối với nhiều mặt hàng của Việt Nam. Thứ tư, giao thông giữa hai nước được cải thiện từ sau khi bình thường hóa quan hệ đã tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa hai bên. Trong giai đoạn 1996-2000, xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam vào Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng bình quân là 40,5% thấp hơn so với giai đoạn trước, nhưng vẫn cao gấp 1,8 lần so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong giai đoạn này là 21,6%. Đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng của giá trị xuất khẩu năm 1996 và 1998 giảm so với năm trước. Nguyên nhân là thương mại hai nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á dẫn đến giao thương các nước trong khu vực giảm. Tuy nhiên, đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc đã tăng nhanh, đạt hơn 1,5 tỷ USD (bảng 2.1). Đây là lần đầu tiên xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc vượt ngưỡng 1 tỷ USD. Biểu đồ 2.1: Nguồn: Tổng cục thống kê Về sự cân đối trong thương mại: Nhìn chung, trong giai đoạn 1991-2000, theo số liệu của Việt Nam duy trì xuất siêu sang Trung Quốc (duy chỉ có năm 1998 là Việt Nam nhập siêu 74,9 triệu USD). Riêng năm 2000, xuất siêu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 135,3 triệu USD. Một điều đáng chú ý là xuất siêu của Việt Nam trong giai đoạn này tăng giảm thất thường, không ổn định (Bảng 2.1). Nguyên nhân là do: trong giai đoạn này, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là các mặt hàng nguyên, nhiên liệu và nông sản dưới dạng thô, các mặt hàng này có giá cả biến động lớn. Hơn nữa sản lượng và chất lượng các sản phẩm này phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Mặt khác, đây là giai đoạn khởi đầu của việc thiết lập mối quan hệ giữa hai nước, do vậy các doanh nghiệp xuất khẩu chưa xây dựng được mối làm ăn lâu dài, hoạt động nhỏ lẻ; m._.chủ quan, tuy nhiên cũng có nhiều nguyên nhân khách quan tác động vào gây ra những hạn chế nhất định trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc. * Nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc còn khá thấp so với kim ngạch nhập khẩu, dẫn đến tình trạng mất cân đối trong quan hệ thương mại song phương là: Trung Quốc có thế mạnh trong sản xuất là giá rẻ, công nghệ sản xuất khá tiên tiến, mẫu mã đẹp … nên sản phẩm của Trung Quốc có ưu thế rất mạnh trên thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường Châu Á, trong đó có Việt Nam. Làn sóng mới của các hiệp định song phương, đa phương của Trung Quốc với các quốc gia khác đã gây không ít khó khăn đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường này. Đặc biệt là giữa Trung Quốc và Thái Lan đã có thỏa thuận bỏ hẳn thuế quan đối với 188 mặt hàng rau quả và Trung Quốc, từ ngày 1/1/2003, làm cho hàng hóa của Thái Lan có lợi thế hơn hẳn so với Việt Nam. Hơn nữa, Thái Lan đã không bỏ lỡ cơ hội, tập trung đầu tư lớn, để khai thác lợi thế, như mở đường thủy ngược sông Mekong chuyên chở rau quả, thủy sản, hải sản đến các tỉnh phía Tây xa xôi của Trung Quốc; mở đường buôn bán chuyến bằng hàng không chở nông sản, hải sản tươi sống đến các tỉnh Trung Quốc bán tươi ngay trong ngày. Việt Nam trở thành thành viên của WTO, do vậy phải tuân thủ theo nguyên tắc của WTO là sự tự do hóa thương mại. Do đó, nhà nước không có quyền hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu như trước đây. Vì vậy các doanh nghiệp cũng như các sản phẩm của Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới. Do một số hạn chế từ hàng rào kỹ thuật. Trong quá trình hợp tác thương mại với Trung Quốc, một số mặt hàng của Việt Nam vẫn bị áp thuế hoặc bị những quy định khác làm cho khó thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Ví dụ như thị trường xuất khẩu cao su Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc vì nó chiếm khoảng 60% mức xuất khẩu cao su của Việt Nam ra thế giới. Thế nhưng Trung Quốc lại áp dụng biểu thuế lựa chọn đối với cao su Việt Nam, tức là mức giá đánh thuế nhập khẩu cao su của Việt Nam sẽ lựa chọn một trong hai biểu thuế hoặc là 20% trên giá nhập khẩu hoặc là 2600 NDT/tấn cao su. Đây chính là một bất lợi cho Việt Nam khi xuất khẩu vào Trung Quốc. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG TRUNG QUỐC 3.1. Quan điểm và định hướng phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam với Trung Quốc 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc phát triển thương mại với Trung Quốc Trung Quốc là một thị trường lớn cùng chung đường biên giới, có quan hệ hữu nghị truyền thống, lại là đối tác trong Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Vì vậy, phát triển thương mại với Trung Quốc có vị trí rất quan trọng trong quan hệ thương mại của nước ta với các nước. Trung Quốc được xem là đối tác lớn của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập WTO và cả về lâu dài. Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với Chính phủ Trung Quốc “Hiệp định về mậu dịch biên giới và các vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới” để phát triển thương mại hàng hóa trên khu vực thị trường này. “Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là cơ sở vững chắc cho quan hệ hợp tác kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng giữa hai nước phát triển với tốc độ nhanh hơn, ổn định hơn. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2020 và chiến lược xuất khẩu đến năm 2020, Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển hoạt động xuất khẩu đối với các nước nói chung và Trung Quốc nói riêng. Đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc, lựa chọn những mặt hàng phù hợp và có tiềm năng, xây dựng cho được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, những điểm tăng trưởng xuất khẩu mới, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh sản xuất hàng xuất khẩu sang Trung Quốc là phương hướng chủ yếu để giảm nhập siêu từ Trung Quốc. Tận dụng tối đa những ưu đãi có được trong các cơ chế hợp tác song phương Việt – Trung và đa phương (như Tổ chức Thương mại thế giới, khu vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, v.v…) để đẩy mạnh hàng hóa sang Trung Quốc. Phát triển thương mại biên giới dựa trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập và duy trì tình bằng hữu. Ngoài việc ký kết hiệp định thương mại tạm thời giải quyết công việc trên vùng biên giới giữa hai nước, chính phủ của hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã ký tiếp một số hiệp định liên quan đến thương mại như: Hiệp định thanh toán qua ngân hàng, Hiệp định quá cảnh hàng hóa nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác thân thiện và phát triển thương mại giữa hai nước trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi. 3.1.2. Định hướng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc * Định hướng chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu: Bộ Công thương vừa chính thức phê duyệt Đề án Phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa với Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2015. Đề án đã đưa ra định hướng chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc đến năm 2010 là 5,4 tỷ USD và đến năm 2015 là 11,1 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình cả giai đoạn 2007 – 2015 đạt 15,5% / năm. Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu, định hướng này Đề án đã đưa ra phương châm là tận dụng tối đa cơ hội từ sự phát triển của Trung Quốc để tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, quản lý tốt thương mại biên giới, xử lý nhanh gọn và tốt hơn nữa các tranh chấp thương mại giữa hai bên trên cơ sở quan hệ kinh doanh bình đẳng theo khuôn khổ WTO. * Định hướng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu: Bộ Công thương cho rằng: để đạt được kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đúng như dự kiến, Việt Nam cần tạo ra một cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp với thị trường này, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra các mặt hàng mới để tăng kim ngạch. Tận dụng cơ hội từ sự tăng trưởng của Trung Quốc, sự thiếu hụt về nguyên liệu và một số hàng hoá khác như nông sản, thuỷ sản để tăng cường xuất khẩu sang thị trường này. Trước hết, phải củng cố và đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và đã đứng chân được tại thị trường Trung Quốc. Từng bước nâng cao chất lượng, tăng hàm lượng chế biến, giảm xuất khẩu thô. Khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng mới theo hướng đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và vốn FDI. Tận dụng cơ hội của mở cửa thương mại và đầu tư để thu hút FDI để đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị hàng hoá của khu vực. Phấn đấu tăng tỉ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang Trung Quốc. * Định hướng khu vực thị trường: Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào những thị trường truyền thống thuộc miền Tây Nam, Nam Trung Quốc như Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Hải Nam, Trùng Khánh, Qúy Châu… đặc biệt là hai tỉnh giáp biên giới: Vân Nam và Quảng Tây. Tỉnh Vân Nam nói riêng và khu vực Tây Nam - Trung Quốc nói chung là thị trường nhiều tiềm năng đối với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Vân Nam là vùng lãnh thổ rừng núi nằm sâu trong lục địa Trung Quốc, cách xa vùng biển, có dân số đông (trên 42 triệu người). Quan trọng hơn là, thị trường này dễ tính hơn thị trường châu Âu, yêu cầu tiêu dùng chất lượng hàng hóa trung bình, có nhu cầu tiêu thụ lớn các loại thủy sản, đặc biệt thị trường Vân Nam rất ưa chuộng các sản phẩm ăn liền, đóng túi nhỏ và làm sẵn để dễ chế biến. Vì vậy, Việt Nam cần khai thác triệt để tại thị trường khu vực này. Đối với Quảng Tây, mặc dù chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính quốc tế, nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và tỉnh Quảng Đông vẫn tăng trưởng 37% trong năm 2008, song những thành quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hợp tác kinh tế và thương mại, vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của Chính phủ và nhân dân hai nước Việt-Trung, Chính phủ Việt Nam sẽ làm hết sức mình, tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc nói chung và Việt Nam-Quảng Đông nói riêng . Ngoài ra, chúng ta cần phải tiến tới mở rộng thêm thị trường mới, thiết lập mạng lưới tiêu thụ hàng ổn định, lâu dài tại các thành phố lớn của Trung Quốc. 3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc 3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước 3.2.1.1. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc Mặc dù đã có những hiệp định song phương về thương mại với Trung Quốc và các ưu đãi mà nước này dành cho Việt Nam trong chương trình thu hoạch sớm nhưng Việt Nam không thể xuất khẩu hàng hóa một cách tùy tiện và ồ ạt sang thị trường Trung Quốc. Nhà nước cần kiểm soát và quản lý chặt chẽ hơn nữa, quản lý từ khâu sản xuất đến khâu đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng Trung Quốc. Đối với các mặt hàng nông sản, thủy hải sản; các ban ngành cần nhanh chóng phối hợp với các cơ quan hữu quan tiến hành nghiên cứu, nắm vững các quy định trong thảo thuận hợp tác kiểm tra, kiểm dịch và giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, từ đó có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với các doanh nghiệp thuộc ngành mình đang và sẽ kinh doanh xuất khẩu thuộc lĩnh vực này sang Trung Quốc để tránh cho doanh nghiệp những tổn thương không đáng có. Các lực lượng hữu quan như bộ đội biên phòng, hải quan, đội chống buôn lậu và gian lận thương mại… cần phối hợp nhanh chóng, hiệu quả để tăng cường công tác kiểm tra, chống xuất khẩu lậu hàng hóa sang Trung Quốc gây thiệt hại cho các doanh nghiệp của ta làm ăn chân chính và gây nguy cơ làm mất uy tín của hàng hóa Việt Nam tại thị trường Trung Quốc do chất lượng không đảm bảo và có thể gây ra những tranh chấp thương mại giữa đôi bên. Ngoài ra, Nhà nước cần phải tiến hành xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa phù hợp với tình hình kinh tế mới trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Với vai trò là người định hướng cho các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu hàng hóa ra thị trường thế giới nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng, nhà nước cần xây dựng chiến lược xuất khẩu quốc gia mang tính chất bền vững, lâu dài. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác tiềm năng của cả nước để tham gia xuất khẩu, ưu tiên các sản phẩm thông qua chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên vật liệu thô. Cụ thể cần xây dựng chiến lược mặt hàng xuất khẩu theo hướng: (1) Chuyển nhanh, mạnh sang chế biến theo chiều sâu, giảm tới mức tối đa hàng sơ chế, nguyên liệu thô. Nghĩa là cần chuyển từ xuất khẩu tài nguyên sang xuất khẩu giá trị thặng dư. (2) Cần mở ra các mặt hàng xuất khẩu mới. Một mặt chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu hàng đã qua chế biến đối với những loại hàng hóa đã có như dầu thô, cao su, than đá…; mặt khác, cần phát triển thị trường cho các mặt hàng mới nhưng có tiềm năng, triển vọng phát triển và phù hợp với xu thế phát triển như máy vi tính, linh kiện điện tử… (3) Nhà nước cần có cơ chế chính sách rõ ràng và mở rộng để thu hút các doanh nghiệp tham gia sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nói trên. Cho phép và ưu tiên các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư để cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất nhằm tăng nhanh khối lượng hàng sản xuất đã qua chế biến và các mặt hàng mới. 3.2.1.2. Tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về thị trường Trung Quốc Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy đầu tư, buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cơ quan cấp cao như Bộ Công thương, là cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động xuất khẩu, cần kiện toàn chi nhánh thương vụ tại các địa phương Trung Quốc. Khi các thương vụ và chi nhánh được hình thành và đã đi vào hoạt động, ta sẽ có đại diện thương mại tại một số thị trường trọng điểm tại Trung Quốc. Từ đó có thể nắm rõ, đầy đủ và chính xác các thông tin về thị trường, đồng thời hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc. Các thông tin đó như là các thông tin về dự báo thị trường, thông tin liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh các mặt hàng hay nhóm mặt hàng, xu hướng giá cả, sự thay đổi nhu cầu các sản phẩm đó tại thị trường này hay các chính sách, quy định liên quan đến quản lý nhập khẩu của Trung Quốc… Các thông tin này có thể cung cấp qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, tivi, internet. Mỗi Bộ liên quan có thể thành lập một bộ phận chuyên trách về vấn đề này. 3.2.1.3. Tiếp tục xây dựng những đề án xuất khẩu cụ thể cho từng ngành hàng và từng địa bàn cụ thể tại thị trường Trung Quốc Chính phủ cần thống nhất lại về mặt nhận thức coi chuyển dịch cơ cấu hướng ra xuất khẩu là động lực chính để Việt Nam hoàn thành CNH – HĐH đất nước. Hơn nữa, Trung Quốc là một đối tác tiềm năng, chiến lược của Việt Nam nên chính phủ cần phải xây dựng các đề án xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này. Mặt khác, để đứng vững được tại thị trường Trung Quốc, Việt Nam cần có chính sách thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong từng phân ngành cũng như trong từng địa bàn cụ thể tại thị trường Trung Quốc. 3.2.1.4. Đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các cửa khẩu Thời gian qua, sự lạc hậu, thiếu thốn, của hạ tầng thương mại (hệ thống giao thông, cửa khẩu, kho ngoại quan, cảng biển, bãi chứa hàng và bãi đỗ xe tại các cửa khẩu…) đã hạn chế sự phát triển thương mại giữa hai bên nói chung và hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc nói riêng. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho chúng ta là cần phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các cửa khẩu, tỉnh biên giới. Cụ thể: Cần chú ý đến việc nâng cấp, bổ sung và hoàn thiện hệ thống nhà công vụ trên toàn tuyến đường biên giới đảm bảo đủ sức phục vụ các hoạt động thương mại ngày càng tăng về cả quy mô lẫn tốc độ. Nhà nước và địa phương cần đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc, thông tin viễn thông, nhanh chóng khắc phục tình trạng thủ công, thiếu chính xác làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Xây dựng hệ thống kho bãi đảm bảo đủ diện tích và các thông số kỹ thuật cần thiết để lưu giữ hàng hóa xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng khu thương mại biên giới chuyên về kinh doanh thủy hải sản, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về loại hàng hóa này từ Trung Quốc, đặc biệt là khu vực thị trường tỉnh Vân Nam và một số tỉnh thành phố khác ở khu vực Tây Nam Trung Quốc. Xây dựng hệ thống kho lạnh có đủ điều kiện tiêu chuẩn để bảo quản và dự trữ hàng thủy sản nhằm điều tiết theo biến động của thị trường và giảm bớt rủi ro cho các doanh nghiệp. Cần cải tạo nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt nối các tỉnh thành của Việt Nam với các tỉnh thành của Trung Quốc thuộc hai hành lang và một vành đai kinh tế, đến các tỉnh thuộc khu vực Bắc miền Trung của Việt Nam để kích thích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hóa với thị trường Trung Quốc. Đối với các ngành thủy hải sản, nông nghiệp, cần phối hợp với ngành đường sắt để tiến hành xây dựng và đưa vào sử dụng hệ thống kho lạnh chuyên dụng chở hàng thủy hải sản, nông nghiệp của ta sang Trung Quốc. Qua đó sẽ giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa do bị hư hỏng vì thời tiết. 3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.2.2.1. Xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng sản phẩm xuất khẩu, đảm bảo tính bền vững của các mối liên kết Đây là giải pháp quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu, các giải pháp khác chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi doanh nghiệp thực sự coi trọng việc thực hiện giải pháp này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản. Nếu các hộ nông dân tiếp tục tình trạng sản xuất nhỏ lẽ, tự phát, các doanh nghiệp không có hiệp đồng dài hạn với hộ nông dân và các hợp tác xã, tách rời giữa khâu sản xuất, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ … thì tình trạng sản xuất manh mún, giá thành cao, khó khăn trong xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng vẫn không thể được khắc phục. Tham gia vào chuỗi cung ứng hàng hóa xuất khẩu phải bao gồm tất cả các chủ thể có liên quan đến quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ. Chừng nào những liên kết trên đây còn chưa chặt chẽ thì những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu sẽ không thể giải quyết được một cách triệt để. Các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa xuất khẩu cần đóng vai trò là “đầu tầu” – nhân vật trung tâm điều phối và vận hành hiệu quả hoạt động của chuỗi cung ứng. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần chủ động động đặt hàng với các nguồn cung ứng nguyên liệu, đồng thời phải là chủ thể có vai trò trực tiếp trong việc nghiên cứu thị trường, định hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường xuất khẩu và hướng dẫn hoặc đặt hàng các chủ thể có liên quan triển khai các hoạt động một cách phù hợp nhất nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Điểm mấu chốt để đảm bảo tính bền vững của các mối liên kết này là “hài hòa hóa lợi ích của các bên trong liên kết”, đó cũng là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình cũng như thương hiệu các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp trên thị trường Trung Quốc. 3.2.2.2. Nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc, đời sống của người dân Trung Quốc không ngừng được nâng cao. Nhu cầu tiêu dùng cũng từ đó mà tăng lên cả về quy mô lẫn chất lượng. Do vậy, việc nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu là cơ sở, tiền đề để hàng hóa Việt Nam chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Trung Quốc. Đặc biệt đối với hàng nông sản – mặt hàng chủ lực, mặt hàng chịu nhiều áp lực về rào cản chất lượng khi xuất khẩu sang Trung Quốc. Yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu là phải nâng cao chất lượng mặt hàng của mình. Để làm được điều này, các doanh nghiệp nông sản cần tạo được nguồn cung nông sản ổn định trên cơ sở phát triển các chuổi cung ứng nông sản, trong đó doanh nghiệp cần đặt ra các yêu cầu cụ thể đối với người sản xuất trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các công đoạn trong toàn bộ quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến nông sản theo các mô hình quản lý chất lượng hiện đại, tuân thủ tiêu chuẩn mà thị trường xuất khẩu đặt ra. Vấn đề hiện đại hóa công nghệ chế biến nông sản cũng là một yêu cầu tất yếu và cấp bách để các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các mặt hàng nông sản đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường Trung Quốc, giảm thiểu việc xuất khẩu nông sản thô hoặc mới qua sơ chế, tăng tỷ trọng xuất khẩu nông sản chế biến và giá trị gia tăng cho nông sản xuất khẩu. 3.2.2.3. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu Hiện nay, nhận thức về tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của các doanh nghiệp chưa cao, việc giới thiệu quảng bá sản phẩm vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Khả năng thu thập thông tin, phân tích thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Các nghiên cứu sâu về thị trường xuất khẩu được triển khai có tính đơn lẻ, chưa được tập hợp thành tài liệu tham khảo. Vì vậy, các doanh nghiệp hàng hóa của Việt Nam cần nhận thức đúng và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và quảng bá cho sản phẩm của mình, tham gia nhiều hơn vào các hội chợ, triển lãm để tiếp tục thiết lập các mối quan hệ làm ăn trực tiếp với các nhà nhập khẩu Trung Quốc, đồng thời tạo ra sự liên kết, gặp gỡ thường xuyên giữa các đối tác đã có quan hệ buôn bán với nhau. Thực hiện chiến lược “vết dầu loang”. Việt Nam có một điều kiện là có truyền thống buôn bán lâu đời trong quan hệ láng giềng hai nước. Thương nhân Trung Quốc luôn chủ động tìm kiếm nguồn hàng từ các nước láng giềng để mua bán trao đổi tạo thông thương biên giới hai bên. Chỉ cần hàng hóa có mặt tại các dịp hội chợ triển lãm hoặc tại khu thương mại biên giới là thương nhân Trung Quốc đã tìm mua về bán lại. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam nên tranh thủ điều kiện đó theo cách thẩm thấu dần và hỗ trợ tích cực cho bạn hàng để có được kênh phân phối với một thị phần nhất định tại Trung Quốc. 3.2.2.4. Nâng cao tính linh hoạt, thích ứng của doanh nghiệp xuất khẩu khi điều kiện thị trường thay đổi Điều này liên quan mật thiết đến khả năng quản trị doanh nghiệp, trong đó cơ chế điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Khi nghiên cứu thị trường Trung Quốc, ngoài việc nắm bắt và cập nhật các thông tin về nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần tìm hiểu kỹ chính sách, pháp luật, tập quán của các quốc gia đối với việc nhập khẩu và tiêu dùng hàng hóa của mình. Nhằm để bảo hộ sản xuất trong nước, Trung Quốc thường xuyên dựng lên những rào cản kỹ thuật, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nắm bắt kịp thời và linh hoạt trong điều chỉnh cơ cấu, quy trình sản xuất sao cho phù hợp. 3.2.2.5. Đổi mới nhận thức và liên kết lại để tạo lợi thế cạnh tranh tổng hợp Để ACFTA thực sự có ý nghĩa, doanh nghiệp nước ta cần chủ động đổi mới bắt đầu từ nhận thức về cung cách kinh doanh: sản xuất theo định hướng thị trường, làm tốt công tác phân loại sản phẩm, nâng cấp hệ thống bảo quản, tiếp thị và quảng bá thương hiệu. Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm rõ để đáp ứng những quy định của Trung Quốc về kiểm dịch, tiêu chuẩn chất lượng, cơ chế cấp phép, thủ tục thanh toán, bảo hiểm. Các doanh nghiệp cần có sự thay đổi theo hướng tích cực trong tư duy, không nên có thái độ ỷ lại, chờ đợi sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quản, chủ động tìm hiểu nhu cầu thị hiếu, hệ thống pháp luật, tiếp cận, tiếp cận, thâm nhập thị trường để tránh tình trạng bị động trong quan hệ trao đổi hàng hóa. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc nếu chỉ hoạt động đơn lẻ thì chỉ dừng lại ở thị trường biên giới, khó có thể tiến sâu vào thị trường nội địa, không những thế còn bị ép cấp, ép giá dẫn tới xuất khẩu thu được hiệu quả thấp. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đổi mới nhận thức, liên kết, đồng tâm hiệp lực để tạo lợi thế cạnh tranh tổng lực trên thị trường Trung Quốc. Để có thể liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là nhóm hàng nông sản thực phẩm, chúng ta nên thành lập một ủy ban tăng cường cạnh tranh quốc gia và phát huy sức mạnh các Hiệp hội. Nhiệm vụ chính của ủy ban là liên kết các doanh nghiệp lại thống nhất trong kinh doanh xuất khẩu. Đặc biệt, với doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc cần đăng ký và bảo hộ thương hiệu kịp thời. 3.2.2.6. Nghiên cứu tìm ra “ngách” thị trường Thị trường Trung Quốc quá rộng lớn, do vậy muốn thâm nhập, các doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứu tìm cho mình một “ngách” thị trường để “len” vào dựa trên những lợi thế so sánh. Ví dụ như đối với doanh nghiệp BITI’S – một doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam đã khá thành công trong việc thâm nhập và tìm cho mình một chỗ đứng vững trên thị trường Trung Quốc, ngách thị trường mà BITI’S phát hiện là ở hai điểm: - Vị trí địa lý: Việc vận chuyển giao thương buôn bán giữa các tỉnh phía đông có kinh tế phát triển và các tỉnh phía tây, đặc biệt là các tỉnh Tây Nam của Trung Quốc diễn ra không thuận do điều kiện về giao thông, xa xôi cách trở. Trong khi đó thì hàng hoá của Việt Nam, mặc dù từ thành phố Hồ Chí Minh đưa ra nhưng vẫn tỏ ra  có ưu thế hơn nhiều trong vấn đề giao thương, vận chuyển. - Sản phẩm và công nghệ: Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới. Do vậy, việc đổi mới công nghệ diễn ra rất nhanh. Từ công nghệ sản xuất dép bằng chất liệu PU, TPR. Chính điều này đã làm các nhà sản xuất Trung Quốc bỏ qua nhu cầu của người tiêu dùng trong nước mà đặc biệt là các tỉnh Tây Nam Trung Quốc đang có mức sống thấp hơn, nhưng lại cần những sản phẩm có chất lượng cao. Những sản phẩm có chất lượng thấp cho dù là giá rất rẻ không còn chiếm ưu thế như trước đây. Nhu cầu này hoàn toàn phù hợp với sản phẩm xuất trên chất liệu EVA mà công ty BITI'S đang có thế mạnh. Do vậy BITI'S nhắm đến mục tiêu chất lượng, với sản phẩm phù hợp với điều kiện khí hậu và địa lý ở đây để dần chinh phục được người tiêu dùng các tỉnh Tây Nam Trung Quốc. 3.2.2.7. Chú ý đặc điểm và tâm lý kinh doanh của thương nhân Trung Quốc Với một thị trường hàng tỉ dân và có hàng triệu thương hiệu lớn nhỏ, thì doanh nghiệp cũng không nên đặt tham vọng là sẽ dễ dàng chiếm lĩnh ngay một thị phần lớn mà cần biết lượng sức mình và tranh thủ vào các "ngách" thị trường, sự ủng hộ của khách hàng lập mạng lưới kinh tiêu. Mỗi nhà phân phối sẽ tự chọn khu vực thị trường cho mình rất hợp lý. Khi làm việc với đối tác, doanh nghiệp cần tôn trọng quyết định về thị trường của bạn hàng nhưng không bỏ qua mục tiêu tìm kiếm thị trường mới cho công ty. Các thương nhân Trung Quốc có kinh nghiệm sẽ biết nơi nào tiêu thụ tốt sản phẩm của doanh nghiệp và sẽ tập trung đầu tư, làm hết sức để đạt đến thành công như dự tính. Tuy vậy, doanh nghiệp phải biết kiên trì thuyết phục khách hàng một chính sách kinh doanh thống nhất. Thương nhân Trung Quốc luôn muốn có một sự quan tâm đặc biệt, được hưởng những ưu đãi hơn hẳn người khác và ngược lại họ càng không muốn thua thiệt bất kỳ ai. Do vậy, khi giao dịch với họ, doanh nghiệp phải luôn thể hiện sự công bằng, kiên định và có một quan điểm chính kiến thống nhất. Chính điều đó làm cho doanh nhân Trung Quốc tôn trọng và tin tưởng hơn vào sự ổn định lâu dài trong quan hệ hợp tác. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải biết đón nhận góp ý của họ. Khi đã hợp tác họ luôn có những góp ý chân tình và có trách nhiệm với nhau. Nghe những góp ý, có khi là chê trách sản phẩm của các kinh tiêu Trung Quốc sẽ giúp đôi bên cùng có lợi trong việc chinh phục người tiêu dùng. Ngoài ra, trước khi đi đến quyết định hợp tác, để giúp các doanh nhân Trung Quốc quyết định nhanh, chúng ta phải tạo điều kiện cho họ có niềm tin bằng cách so sánh giữa cái lợi và hại, đưa họ đi thăm một số nơi đang kinh doanh sản phẩm của doanh nghiệp. KẾT LUẬN Việt Nam – Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, cùng có quan hệ gần gũi và thân thiết. Điều đáng tự hào là hai bên đã giữ gìn tình hữu nghị truyền thống và duy trì tiếp xúc buôn bán với nhau từ rất lâu. Kể từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc liên tục tăng, đã có sự chuyển dịch cơ cấu hàng hóa theo chiều giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu chưa qua chế biến. Đây thực sự là một tín hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục, giải quyết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà những quy định trong WTO đã đi vào thực tiễn, buộc hai phía Việt Nam – Trung Quốc phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Nắm bắt được thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong giai đoạn từ 1991 đến nay, chuyên đề đã đánh giá, phân tích được những thành công, hạn chế cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những hạn chế đó. Từ đó, chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO. Do thời gian nghiên cứu và hiểu biết của em có hạn nên chuyên đề còn gặp nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các anh chị, các cô, các chú trong ban Tổng hợp – Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã rất nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại Ban. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế phát triển, 2005. Khoa kế hoạch và phát triển, ĐH Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản lao động. 2. Giáo trình kinh tế quốc tế. ĐH Kinh tế quốc dân, nhà xuất bản thống kê. 3. Quan hệ Trung Quốc – ASEAN – Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 4. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc. Nhà xuất bản lí luận chính trị, Hà Nội 2006. 5. Niên giám thống kê xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2006. Tổng cục Thống kê Việt Nam 6. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2005). Tổng cục Thống kê Việt Nam. 7. Trung Quốc gia nhập WTO – Thời cơ và thách thức. 8. Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội. 9. Tạp chí Châu Á – Thái Bình Dương. Số 35/12. năm 2007 10.Tạp chí cộng sản. Số 1/1/2006 11. Tạp chí kinh tế đối ngoại. Số 1+ 2 / 2008. 12. Tạp chí kinh tế & phát triển. Số 4/4/2008 13. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc. Số 1+2+3+5/2008. 14. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. 7/2008 15. Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2(84) 2-2008 16. Tạp chí Khoa học thương mại, số 23/2008 17. Website: www.tinthuongmai.com www.laocai.gov.vn/home www.langson.gov.vn/home www.laichau.gov.vn/home www.quangninh.gov.vn/home www.vietnamnet.vn www.vietbao.vn www.bienphong.com.vn www.cpv.org.vn www.vneconomy.vn www.vietnamchina.vn Vụ thương mại điện tử - Bộ công thương www.VnExpress.net LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là: Phan Thị Trinh Mã sinh viên: CQ 473546 Lớp: Kinh tế phát triển 47B Khoa: Kế hoạch & Phát triển Tôi xin cam đoan đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi gia nhập WTO” là một công trình nghiên cứu độc lập, không sao chép của người khác. Đề tài là sản phẩm mà tôi nỗ lực nghiên cứu sau quá trình thực tập tại Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia_Bộ Kế hoạch và Đầu tư; có tham khảo một số sách báo và tài liệu có nguồn gốc rõ ràng, dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Quỳnh Hoa - Giảng viên khoa Kế hoạch và Phát triển, trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Nếu có vấn đề gì tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, ngày 28 tháng 5 năm 2009 Người cam đoan: Phan Thị Trinh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21328.doc
Tài liệu liên quan