1
MỤC LỤC
MỤC LỤC..................................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................Error! Bookmark not defined.
MỤC LỤC BIỂU BẢNG ............................................Error! Bookmark not defined.
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................3 U
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CPH DNNN.
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đẩy mạnh tiến trình Cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước tại TP. Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.6
1.1 Một số vấn đề về DNNN..................................................................................6
1.1.1 Khái niệm DNNN .......................................................................................6
1.1.2 Tình hình hoạt động của các DNNN. .........................................................6
1.2 Khái niệm và đặc điểm công ty cổ phần......................................................10
1.2.1 Khái niệm công ty cổ phần .......................................................................10
1.2.2 Đặc điểm công ty cổ phần ........................................................................10
1.3 Cơ sở lý luận về CPH DNNN........................................................................11
1.3.1 Khái niệm CPH DNNN ...........................................................................11
1.3.2 CPH DNNN là một xu thế tất yếu ............................................................12
1.3.4 Mục tiêu CPH DNNN...............................................................................14
1.4 Kinh nghiệm thực tiễn CPH ở một số quốc gia trên thế giới. ...................16
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNNN CPH
TẠI TP CẦN THƠ ..................................................................................................21
2.1 Thực trạng tình hình CPH DNNN ở Việt Nam ..........................................21
2.1.1 Những kết quả đạt được của tiến trình CPH DNNN. ...............................23
2.1.2 Những tồn tại yếu kém của tiến trình CPH DNNN Việt Nam .................24
2.2 Khái quát về tình hình KT-XH Thành phố Cần Thơ. ...............................26
2.3 Thực trạng CPH ở TP. Cần Thơ..................................................................30
2.3.1 Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Cần Thơ .............30
2.3.2 Theo số liệu điều tra năm 2004.................................................................31
2.3.2.1 Cơ cấu ngành nghề và qui mô của các DNNN đã được CPH............32
2.3.2.2 Tiến trình CPH...................................................................................33
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
2
2.3.2.3 Cơ cấu sở hữu của các doanh nghiệp sau CPH..................................35
2.3.2.4 Lao động ............................................................................................36
2.3.2.5 Hiệu quả kinh doanh của các DNNN sau CPH..................................37
2.4 Những tồn tại làm chậm tiến trình CPH ở TP. Cần Thơ ..........................39
2.4.1 Nhận thức của các cấp các ngành, cán bộ, công nhân viên:.....................39
2.4.2 Chủ trương, chính sách về CPH: ..............................................................39
2.4.3 Xác định giá trị doanh nghiệp...................................................................39
2.4.4 Chế độ ưu đãi, ưu tiên..............................................................................40
2.4.5 Vấn đề hậu CPH .......................................................................................40
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CPH CÁC DNNN TẠI
TP. CẦN THƠ .........................................................................................................42
3.1 Giải pháp ở tầm vi mô...................................................................................42
3.1.1 Nâng cao nhận thức về CPH.....................................................................42
3.1.2 Xử lý nợ khó đòi, nợ tồn đọng trước khi CPH .........................................43
3.1.3 Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp. ............................................44
3.1.4 Đảm bảo lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp CPH...............46
3.1.5 Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp khi CPH ....................48
3.1.6 Tiếp tục xử lý hệ quả của quá trình CPH..................................................49
3.2 Giải pháp ở tầm vĩ mô...................................................................................50
3.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc thực hiện CPH..........................50
3.2.2 Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến CPH .................................50
3.2.3 Chính sách ưu đãi đối với DNNN thực hiện CPH...................................51
3.2.4 Xây dựng tiền đề và tiến tới thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán ở
TP. Cần Thơ.......................................................................................................52
3.2.5 Thiết lập cơ quan chuyên trách về CPH DNNN.......................................53
3.2.6 Quan tâm hơn nữa tình hình sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần...53
KẾT LUẬN ..............................................................................................................55
PHỤ LỤC.....................................................................Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................Error! Bookmark not defined.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
3
LỜI MỞ ĐẦU
DNNN được xem là xương sống của nền kinh tế Việt Nam. Nhìn chung,
DNNN đang chiếm tới 70% tài sản quốc gia, 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Chính vì
vậy, DNNN hiện nay đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế và có nhiều
đóng góp rất lớn vào các nguồn thu của NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực thì khu vực kinh tế này vẫn bộc lộ rất nhiều mặt yếu kém. Trong nền kinh tế ở
nước ta, có nhiều khu vực hoạt động tương đối kém hiệu quả và khu vực DNNN là
một trong những khu vực điển hình. Chỉ có khoảng 77,2% số DNNN hiện hoạt
động có lãi, số còn lại bị lỗ hoặc hoà vốn.
Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ
trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNNN. Đây được xem như là một việc làm mang tính tất yếu khách quan. Để đổi
mới cách quản lý, huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, giữ vững vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân thì việc thực hiện CPH các DNNN là con đường
đúng đắn và phù hợp nhất trong giai đoạn hiện nay.
CPH DNNN là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động
thêm nguồn vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ
và cơ chế quản lý năng động để sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản của Nhà nước
cũng như của toàn xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp trong quá
trình hội nhập. Đây được xem là một trong những giải pháp chủ yếu để đổi mới cơ
bản khu vực kinh tế nhà nước, tăng khả năng cạnh tranh của các DNNN nói riêng
và của cả nền kinh tế nói chung trong điều kiện hội nhập.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên cạnh những thành tích đạt được rất đáng
khích lệ, chương trình CPH so với yêu cầu và kế hoạch đề ra diễn ra còn chậm. Kế
hoạch CPH đưa ra hàng năm nhưng chưa có năm nào thực hiện đạt được kết quả
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
4
như mong muốn. Một vấn đề đáng lưu tâm nữa là hiện tượng CPH “khép kín” trong
nội bộ doanh nghiệp. Sau khi CPH, về nhiều mặt từ nhân sự đến tài chính, quản trị
… doanh nghiệp vẫn chưa trở thành công ty cổ phần đích thực, khả năng giám sát
của cổ đông bị hạn chế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do
sự nhận thức, về cơ chế chính sách, về bộ máy và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Cần
Thơ cũng không là một ngoại lệ, tình hình CPH ở TP. Cần Thơ cũng chậm như tình
hình chung của cả nước.
CPH DNNN với mục tiêu chính là nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động
kinh doanh của các công ty đã CPH trên cả nước cũng như ở TP. Cần Thơ. Tuy
nhiên, sau CPH, các DNNN đã CPH có đạt được mục tiêu đề ra lúc đầu hay không,
thực trạng hoạt động như thế nào ? Để giải đáp các vấn đề trên tôi chọn đề tài:
“Đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN CPH tại Thành phố Cần Thơ” để
làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của tôi.
Mục tiêu bao quát trong luận văn này là đánh giá thực trạng tiến trình CPH
của Việt Nam nói chung và của TP. Cần Thơ nói riêng; tìm ra những nguyên nhân
làm ảnh hưởng đến tiến trình CPH và những tác động của CPH đến sự phát triển và
hiệu quả hoạt động của các DNNN ở TP. Cần Thơ; đề ra một số biện pháp nhằm
khắc phục những tồn tại của tiến trình CPH ở TP. Cần Thơ.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, đề tài đề cập đến cơ sở lý luận và
thực tiễn có liên quan đến tình hình CPH các DNNN ở Việt Nam, tập trung phân
tích và đánh giá tác động của CPH đến hiệu quả hoạt động của các DNNN trước và
sau khi tiến hành CPH diễn ra trên địa bàn Thành phố Cần Thơ. Trên cơ sở đó, tác
giả đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện thành công và có hiệu quả công
cuộc CPH DNNN ở TP. Cần Thơ.
Với phạm vi nêu trên, đề tài sử dụng số liệu thứ cấp từ đề tài cấp Bộ của thạc
sỹ Trương Đông Lộc về CPH ở Việt Nam, Niên giám thống kê, Ban đổi mới doanh
nghiệp, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Cần Thơ, internet, sách báo, tạp chí và các Nghị
định, các văn bản có liên quan của Chính phủ về CPH DNNN. Để làm nổi bật các
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
5
mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp phân tích định tính và định lượng
dựa trên các biểu bảng thống kê.
Nội dung đề tài được trình bày trong 3 chương chính. Sau lời mở đầu,
chương 1 trình bày một số cơ sở lý luận và thực tiễn CPH các DNNN. Chương 2
phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN CPH tại TP. Cần thơ. Trước
khi kết luận, chương 3 đề ra một số giải pháp thích hợp cho tiến trình CPH ở TP.
Cần Thơ.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CPH
DNNN
1.1 Một số vấn đề về DNNN.
1.1.1 Khái niệm DNNN
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, có đầy
đủ tư cách pháp nhân, được thành lập theo Luật DNNN, Luật Hợp tác xã, Luật
Doanh nghiệp, Luật đầu tư trực tiếp của nước ngoài hoặc theo Hiệp định ký kết giữa
Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài.
Thực chất DNNN là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn
hay một phần. Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là đặc điểm phân biệt DNNN với
các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, còn hoạt động kinh doanh là đặc điểm để
phân biệt chúng với các tổ chức và cơ quan khác của Chính phủ.
DNNN được phân ra các loại khác nhau căn cứ xuất phát từ góc độ hành
chính, góc độ nguồn vốn, theo phương thức hoạt động.
1.1.2 Tình hình hoạt động của các DNNN.
Trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và phức tạp, DNNN đã
vượt qua, đứng vững và không ngừng phát triển góp phần quan trọng vào thành tựu
to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Chính nhờ vào những kết quả
mà khu vực kinh tế này mang lại đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do thực hiện chủ trương đổi mới, tổ chức sắp xếp lại, bán,
cho thuê, giải thể và CPH các DNNN nên số lượng các doanh nghiệp và phần tài trợ
của Nhà nước đã giảm mạnh.
Trong những năm qua các DNNN đạt được những mặt tích cực như sau:
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện nền kinh tế tăng
trưởng, bất chấp mọi nỗ lực đổi mới, hoạt động của các DNNN có nhiều thay đổi,
môi trường thông thoáng hơn, từng bước xóa bỏ cơ bản tình trạng thụ động, ỷ lại
vào Nhà nước, thích ứng với hoàn cảnh mới. DNNN đã góp phần chủ yếu để kinh tế
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
7
nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời giải quyết các vấn đề về việc làm, thu nhập cho người lao động.
Về hiệu quả hoạt động kinh doanh: Năm 2003, tổng số vốn nhà nước tại
doanh nghiệp quốc doanh là 189.293 tỷ đồng. Trong số 4.800 DNNN có 77,2%
doanh nghiệp kinh doanh có lãi, trong đó khoảng 40% doanh nghiệp có lãi cao hơn
lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tổng lợi nhuận trước thuế là
20.428 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sau thuế đạt 7,34%.
Về công nghiệp: DNNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và
sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, nhất là trong các ngành như công nghiệp, vận
tải, bưu chính viễn thông ... Năm 2003, DNNN đóng góp 38,7% giá trị sản xuất
công nghiệp.
Về xuất nhập khẩu: Tỷ trọng DNNN chiếm khá cao. Bình quân tốc độ tăng
kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 20%/năm, đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu năm 2003
đã đóng góp khoảng 40% (không kể dầu thô) và các công trình hợp tác đầu tư với
nước ngoài. Với tỷ trọng chiếm trên 98% tổng dự án liên doanh với nước ngoài,
DNNN cũng đã tạo ra nguồn thu tương đối lớn.
Về thu ngân sách: DNNN phát triển tương đối ổn định có vai trò vị trí vô
cùng quan trọng trong việc đóng góp làm tăng nguồn thu cho NSNN. Tỷ lệ nộp
ngân sách trên vốn nhà nước tăng tương ứng từ 14,7% năm 1991 lên 27,89% năm
1997 và đến năm 2003 đóng góp trên 39% tổng thu NSNN.
Những kết quả có được bên cạnh nhờ vào đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng và Nhà nước đã đề ra mà còn dựa vào sự đóng góp đáng kể của các DNNN
như tính chủ động sáng tạo, trình độ quản lý; các đội ngũ cán bộ quản lý và đông
đảo người lao động đã có sự nỗ lực, cố gắng vượt khó trong cơ chế thị trường mới.
Bên cạnh những mặt tích cực, DNNN cũng còn tồn tại những mặt hạn
chế, yếu kém như:
Các DNNN có hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, còn trông chờ vào
nguồn ngân sách do Nhà nước cấp, khi vay vốn được hưởng chế độ lãi suất ưu đãi
nhiều hơn các doanh nghiệp khác (được vay trên 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
8
đãi). Các DNNN có công nợ quá lớn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng. Cụ
thể các DNNN chiếm tới 74,8% tổng số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc
doanh. Số thuế Nhà nước miễn giảm cho các DNNN từ năm 1996 đến nay khoảng
2.288 tỷ đồng, xóa nợ 1.088,5 tỷ đồng, khoanh nợ 3.392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ
đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng. Thêm vào đó hàng năm các
DNNN đều được Nhà nước hỗ trợ vốn với một tỷ lệ nhất định. Do mục tiêu phấn
đấu chưa cao nên kết quả còn nhiều hạn chế chưa tương xứng với các nguồn lực đã
có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, điển hình là số thu nộρ NSNN không nhiều
hơn số mà Nhà nước đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp này.
Trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, đây là một trong những nhân tố
quan trọng làm cản trở sự phát triển khả năng cạnh tranh và phát triển của các
doanh nghiệp nói chung và của DNNN nói riêng. Các trang thiết bị máy móc của
các DNNN được nhập từ các nước khác nhau, nhưng chủ yếu là từ nước Liên Xô
(cũ), các nước Đông Âu, ASEAN, Bắc Âu … thuộc các thế hệ khác nhau. Viện
Khoa học bảo hộ lao động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã khảo sát với
727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu ở 42 cơ sở của một ngành. Kết quả là phần
lớn máy móc thiết bị được nhập vào thuộc thế hệ những năm 50-60 chiếm 76%;
trên 70% là những máy móc thiết bị đã hết khấu hao; gần 50% là máy móc thiết bị
được tân trang lại.
Quy mô hoạt động của các DNNN còn nhỏ, phần lớn số DNNN chủ yếu là
dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ rất cao là 65,45% trong số 5.280 doanh nghiệp. Số doanh
nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 20,89%. Một số tỉnh có vốn dưới 5 tỷ đồng
chiếm đến 90%, đặc biệt có 6 tỉnh có vốn dưới 1 tỷ đồng như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc,
Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam.
Ngoài ra, những ngành có hàm lượng công nghệ cao phát triển chậm. Năng
lực cạnh tranh của các DNNN còn hạn chế. Hiện nay, DNNN đang đứng trước
thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nguyên nhân để dẫn đến những hạn chế, yếu kém.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
9
- Mở cửa nền kinh tế một mặt giúp cho việc tăng trưởng nền kinh tế, mặt khác
phải chịu ảnh hưởng của những tác động tiêu cực nên ngoài như suy thoái kinh tế,
diễn biến bất thường của giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
- Hệ thống kế toán, kiểm toán yếu kém; hiệu lực của luật pháp thấp dẫn đến
không quản lý được một cách hữu hiệu và không đánh giá được một cách đúng đắn
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Điều này dễ dẫn đến tình trạng tham nhũng,
trốn lậu thuế, gian lận thương mại xảy ra phổ biến; không tạo ra một “luật chơi”
bình đẳng, rõ ràng cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh.
- Máy móc, trang thiết bị, công nghệ còn quá cũ và lạc hậu ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các DNNN hiện nay đang thiếu vốn rất nghiêm
trọng nên buộc họ phải vay ngắn hạn để kinh doanh. Với tình trạng như thế này,
càng vay vốn khả năng trả nợ lại gặp nhiều khó khăn và có thể dẫn đến mất khả
năng thanh toán ở nhiều doanh nghiệp.
- Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa
phù hợp với kinh tế thị trường, đặc biệt là cơ chế tài chính mặc dù có tiến bộ nhưng
chưa tạo động lực mạnh mẽ cho các DNNN phát triển, chưa thúc đẩy cán bộ và
người lao động trong doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
kinh doanh. Các DNNN công ích có quá nhiều chính sách ưu đãi.
- Cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo đội ngũ Ban giám đốc chưa được đổi
mới một cách nhanh chóng, chẳng hạn như trường hợp nếu giám đốc không vi
phạm kỷ luật gì thì dù cho doanh nghiệp có hoạt động kém hiệu quả đi chăng nữa
họ vẫn vó thể làm giám đốc cho đến khi nghỉ hưu. Thực tế một số giám đốc ở các
DNNN còn thiếu năng lực và trình độ quản lý.
- Quản lý nhà nước đối với DNNN còn nhiều yếu kém, vướng mắc, cải cách
hành chính còn chậm; đầu tư mới còn tràn lan kém hiệu quả, chưa gắn trách nhiệm
của chủ đầu tư với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
10
1.2 Khái niệm và đặc điểm công ty cổ phần
1.2.1 Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn gọi chung là doanh nghiệp
trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng
với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm
vi phần vốn góp của mình vào công ty.
1.2.2 Đặc điểm công ty cổ phần
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường có những đặc điểm sau:
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân
và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình.
Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn
lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội.
Mỗi công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định. Lúc
đầu các công ty thường phát hành hết số cổ phiếu được phát hành, nhưng sau khi
hoạt động và có lợi nhuận, các công ty thường chuộc lại một số cổ phiếu từ tay các
cổ đông để dự trữ nhằm mục đích sử dụng sau này như: tăng số vốn cổ phần hoặc
dùng để trả lãi lợi tức cổ phiếu cho các cổ đông.
- Vốn cổ phần được cơ cấu bởi 2 bộ phận: Thứ nhất là vốn cổ phần được hình
thành do công ty phát hành cổ phiếu thường. Đây là cổ phiếu không thể thiếu được
trong công ty cổ phần. Nếu không có loại cổ phiếu này thì không thể có một công ty
cổ phần nào tồn tại. Thứ hai là vốn được hình thành do công ty phát hành cổ phiếu
ưu đãi. Trong cơ cấu cổ phiếu thì vốn cổ phiếu ưu đãi chiếm một tỷ trọng rất nhỏ.
- Vốn cổ phiếu của công ty được pháp luật công nhận để bảo đảm các cam kết
của công ty khi công ty đi vay.
Ngoài vốn góp của cổ đông, các công ty cổ phần còn có quyền đi vay nợ rồi
trả lãi tức theo tỷ lệ thỏa thuận, có quyền phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy
nợ khác.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
11
Như vậy, vốn cổ phần là do các cổ đông đóng góp bất cứ ai kể cả tư nhân,
tập thể, Nhà nước và cá nhân. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ đồng sở hữu. Quyền trách nhiệm và lợi ích của mỗi người chủ sở hữu phụ thuộc
vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu
khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối hoạt động của công ty. Khi muốn thu
hồi vốn nhanh, các cổ đông chỉ có cách là bán các cổ phiếu của mình trên thị trường
chứng khoán.
1.3 Cơ sở lý luận về CPH DNNN
1.3.1 Khái niệm CPH DNNN
Xét về mặt thực chất, CPH chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sở
hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp
thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp
phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện
đại.
CPH DNNN là quá trình chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Hay
nói cách khác, CPH là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu đối với đối với DNNN
nhằm thu hút các nguồn vốn và kinh nghiệm tổ chức sản xuất từ các nhà đầu tư và
người lao động. Đồng thời, nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ quản lý và
phân phối sản phẩm.
CPH DNNN tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh
nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp, khai
thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất - kinh
doanh. CPH góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, thúc
đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, hình thành loại
hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu gồm Nhà nước và đông đảo người lao động.
Bảo đảm việc làm cho người lao động, bảo đảm hài hoà và đem lại lợi ích cho Nhà
nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
12
CPH ở nước ta không phải là tư nhân hóa, không biến các công ty cổ phần
thành công ty của số ít cổ đông của một số cá nhân mà làm cho đông đảo những
người lao động đều có cổ phần, trở thành người chủ thật sự của công ty.
CPH là chủ trương đúng đắn của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh trong các DNNN và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, góp phần
thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, hội
nhập với khu vực và thế giới.
Các hình thức CPH DNNN ở Việt Nam.
Theo Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành
công ty cổ phần, có 3 hình thức CPH DNNN như sau:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn
điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn.
1.3.2 CPH DNNN là một xu thế tất yếu
Trong nền kinh tế thị trường, các DNNN Việt Nam đóng vai trò quan trọng,
hoạt động trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước và kinh tế Nhà nước
chủ yếu giữ chức năng điều tiết nhằm duy trì hoạt động thông suốt của toàn nền
kinh tế. Bằng chức năng này, Nhà nước tham gia vào việc tạo ra những thành tựu
kinh tế vĩ mô mà không một tư nhân nào đảm đương nổi, Nhà nước điều tiết nền
kinh tế và thực sự có vai trò quyết định đến hiệu quả, ổn định, công bằng trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, nếu vượt khỏi chức năng vĩ mô trong việc điều tiết nền kinh tế
để tham gia và mở rộng phạm vi kinh doanh, vượt quá yêu cầu của nền kinh tế, Nhà
nước sẽ tự mình lâm vào tình trạng hoạt động không hiệu quả. Chính vì vậy, Nhà
nước nên cần tậρ trung vào một số ngành kinh tế trọng điểm.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
13
Chỉ có khoảng 77,2% DNNN là làm ăn có hiệu quả. Hiệu quả sử dụng vốn
của các DNNN rất thấp. Mỗi đồng vốn chỉ tạo được 2,3 đồng doanh thu và 0,1 đồng
lợi nhuận. Tài sản cố định trong các DNNN chiếm từ 70% - 80% nhưng chỉ cung
cấp được 44% tổng sản phẩm xã hội. Nguyên nhân do cơ cấu kinh tế chưa phù hợp,
chủ yếu là ngành nông nghiệp chiếm 27%, thương mại 43%, công nghiệp và xây
dựng 30% (trong khi các nước phát triển là 70% - 80%); cơ cấu vốn chưa hợp lý
(81% cố định và 19% lưu động). Quy mô DNNN nhỏ dưới 1 tỷ đồng chiếm 68%.
Mặt khác, các trang thiết bị quá lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ (Theo báo cáo của Bộ Tài
Chính).
Các DNNN Việt Nam không đủ sức cạnh tranh khi Việt Nam gia nhập các tổ
chức thương mại khu vực và thế giới. Vì vậy, để tạo được chỗ đứng trên thương
trường, Việt nam cần phải cải cách DNNN để tìm ra con đường mới cho sự phát
triển. Nhiều giải pháp được đưa ra: cơ cấu lại vốn và lĩnh vực hoạt động của các
doanh nghiệp; sáp nhập các doanh nghiệp có vốn nhỏ, hoạt động trong các lĩnh vực
tương đối giống nhau; liên doanh, liên kết với nước ngoài để tận dụng nguồn nước
ngoài nâng cấp các trang thiết bị lạc hậu, tiếp cận phương thức quản lý tiên tiến.
Song những giải pháp này vẫn chưa tạo được sự thay đổi về chất, hiệu quả sản xuất,
kinh doanh của đa số các doanh nghiệp vẫn thấp, sức cạnh tranh còn yếu, chưa có
sự thay đổi mang tính bước ngoặt.
Trước thực trạng này, Nghị quyết Trung ương 2 khóa VII đã đưa ra một giải
pháp quan trọng để cải cách DNNN. Theo đó, “Chuyển một số doanh nghiệp quốc
doanh có điều kiện thành công ty cổ phần, phải chỉ đạo chặt chẽ quy mô, hình thức
thí điểm, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”
Chủ trương, chính sách là rất rõ ràng. Việc đẩy mạnh CPH những DNNN mà
Nhà nước không cần giữ 100% vốn là bước đi tất yếu, và đó được coi là khâu quan
trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN.
CPH đã giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn về vốn, huy động
được vốn nhàn rỗi trong dân cư, người lao động và tranh thủ được vốn từ các tổ
chức KT-XH bằng hình thức phát hành cổ phiếu bán trên thị trường. Có vốn, các
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
14
doanh nghiệp có thể đổi mới thiết bị, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, trên cơ sở tăng lợi nhuận sẽ tăng đầu tư từ lợi nhuận để lại.
CPH giúp Nhà nước tái cơ cấu lại các DNNN trong ổn định, sở hữu Nhà
nước không bị thu hẹp mà ngược lại, Nhà nước có thể thu hồi vốn để mở rộng đầu
tư ở lĩnh vực thiết yếu khác, đồng thời huy động tiềm năng xã hội ở mức cao hơn.
CPH còn giúp các DNNN được hưởng lợi từ các yếu tố hiệu quả là cơ chế
quản lý linh hoạt, cho phép thu hút những nhà quản lý giỏi vào làm việc trong các
công ty cổ phần độc lập với vai trò kiểm soát và mục đích của giới chủ sở hữu; khả
năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả nhờ việc phát hành cổ phiếu và khả năng xâm nhập lẫn nhau của các công ty cổ
phần bằng các cổ phần đóng góp, hình thành nên các tập đoàn kinh tế giỏi.
1.3.4 Mục tiêu CPH DNNN
Mỗi quốc gia khi tiến hành CPH đều đặt ra những tham vọng riêng cho mục
tiêu phát triển KT-XH. Vì vậy, kết quả thu được ở mỗi quốc gia tuy có những thành
công và vướng mắc khác nhau nhưng đều có những điểm chung về mục tiêu.
Thứ nhất, CPH DNNN là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ
sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản
của nhà nước và huy động vốn vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Huy động vốn
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả
năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường.
Thứ hai, huy động và tăng thêm nguồn vốn. Các doanh nghiệp có thể huy
động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu ra ngoài. Tuy nhiên, việc huy động vốn
chỉ là một phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu là nhằm nâng cao hiệu quả kinh
tế, nhưng nếu số vốn huy động được mà không được quản lý và sử dụng tốt thì sẽ
không mang lại hiệu quả như mong muốn. Thêm vào đó, mặc dù doanh nghiệp bán
một phần tài sản của mình bằng hình thức bán cổ phần hoặc gọi thêm vốn bằng hình
thức mua cổ phần thì vốn tiền của doanh nghiệp đều tăng lên trong khi vốn hữu
hình của doanh nghiệp vẫn còn nguyên đó. Điều này giúp cho việc phát triển tài sản
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
15
cố định và giúp phát triển cả vốn lưu động và càng cần thiết hơn đối với những
doanh nghiệp đang làm ăn có hiệu quả. Trong thực tiễn CPH, vốn nhà nước vẫn có
thể tăng lên do định giá lại tài sản doanh nghiệp theo giá trị thị trường và cả giá cả
của những thương hiệu nổi tiếng.
Thứ ba, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN. Lợi tức cổ phần là động cơ trực tiếp
thôi thúc các cổ đông mà tiêu biểu là Hội đồng quản trị quan tâm quản lý sản xuất
kinh doanh có hiệu quả ngày càng cao. Lợi tức cổ phần hiện nay thường đạt 12%
đến 15% cao hơn mức lãi suất ngân hàng.
Thứ tư, tạo nguồn để giải quyết các vấn đề KT-XH khác như bảo đảm và có
thể mở rộng việc làm, tăng thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp. Nếu
CPH chỉ nhằm mục đích là tăng lợi tức cổ phần, làm giảm việc làm hoặc giảm thu
nhập của người lao động, thì điều này phản ảnh một bước tụt lùi của doanh nghiệp,
không đúng với chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Thứ năm, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông
và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích
của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Thứ sáu, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời giảm thiểu số DNNN làm ăn thua
lỗ, tối đa hóa các đơn vị làm ăn có lãi và các khoản thu cho NSNN. Ngoài ra, qua
công tác CPH, hầu hết chính phủ các nước đều muốn chuyển một số lĩnh vực ngành
nghề mà các khu vực kinh tế khác có thể đảm nhận, giảm bới gánh nặng và thâm
hụt cho ngân sách, cân đối khả năng thanh toán nợ nước ngoài; phát triển thị trường
vốn trong nước.
Các mục đích trên có mối liên quan mật thiết và tác động qua lại với nhau.
CPH được xem là một bộ phận cấu thành quan trọng của quá trình cải cách và cải tổ
kinh tế ở nhiều nước mà ở đó có khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế. CPH ở ._.nước ta là nhằm mục đích tăng thêm việc làm và cải thiện đời
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
16
sống của người lao động, tăng thêm thực lực và hiệu quả của kinh tế Nhà nước mà
Nhà nước này là của dân, do dân, vì dân và mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Tóm lại, mục tiêu chính của chương trình CPH DNNN là nhằm nâng cao
năng lực sản xuất kinh doanh trên sơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những
người chủ sở hữu tài sản. Qua đó, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Huy động
vốn bằng bán cổ phần và phát hành cổ phiếu là điền kiện cần thiết để tạo thành
những người chủ đích thực của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và vốn huy động.
1.4 Kinh nghiệm thực tiễn CPH ở một số quốc gia trên thế giới.
Chương trình chuyển đổi sở hữu trong tiến trình cải cách DNNN trên thế giới
đã diễn ra mạnh mẽ sôi động ngay từ đầu thập kỷ 80 với xuất phát điểm là nước
Anh và sau đó lan rộng sang các nước khác. Ở các nước Đông Âu, phong trào CPH
và đa dạng hóa sở hữu DNNN được phát động ngay từ đầu thập niên 90 và hiện vẫn
đang tiếp diễn khá sôi động. Khác với đa số các nước phát triển và đang phát triển,
nơi có một nền kinh tế thị trường hỗn hợp đang vận động và quá trình CPH ở đó
hướng vào việc thúc đẩy các hoạt động thị trường sẵn có thì đối với các nước
XHCN cũ ở Đông Âu, quá trình CPH đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối
với các Chính phủ mới thành lập trong việc cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh
tế thị trường và sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền
tự do cá nhân.
Ở Đông Âu, với chủ trương chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường từ một
nền kinh tế kế hoạch mà DNNN chiếm vị trí độc tôn (100%). Chính phủ Nga lựa
chọn tư nhân hóa nhanh trong thời gian từ 3- 4 năm. Với chỉ tiêu năm 1993 tư nhân
hóa 30% tổng giá trị tài sản thuộc sở hữu Nhà nước; năm 1994 là 60%. Trong giai
đoạn đầu, song song với việc chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần, chính phủ
Nga đã cho phát hành phiếu tư nhân hóa, đây là biện pháp nhằm thực hiện nhanh
quá trình tư nhân hóa. Tính đến tháng 7/1994 đã có hơn 45,3 triệu phiếu tư nhân
hóa (chiếm 31,4% tổng số phiếu) được 660 quỹ đầu tư mua lại và đầu tư vào các xí
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
17
nghiệp, công ty; trong đó gần 75,2% số phiếu tư nhân hóa đã biến thành cổ phiếu
của 22,8 triệu công dân Nga. Mặc dù chính phủ Nga đã đưa ra nhiều chính sách ưu
đãi cho người lao động, nhưng những ưu đãi có thực sự mang tính tích cực không
lại phụ thuộc nhiều vào quá trình tổ chức thực hiện. Vì vậy, những ưu đãi trên đã
không được người lao động đón nhận một cách hào hứng và nhiệt tình. Mặt khác,
do những tệ nạn tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa cũng góp phần cản trở
người dân tham gia đầu tư.
Kết quả từ năm 1991-1996, CHLB Nga đã chuyển đổi sở hữu được một khối
lượng lớn DNNN trong thời gian ngắn là 122.000 DNNN (chiếm 53,3% tổng số
doanh nghiệp). Trong đó, số doanh nghiệp có quy mô nhỏ là 79.090 (chiếm 64,8%),
còn lại là các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn. Các nước khác như: Bungary đã
CPH và đa dạng hóa sở hữu 20% tài sản nhà nước, Rumania là 16,5% giá trị tài sản
và 44% DNNN, Ba Lan có 1.886 DNNN được chuyển đổi chiếm 28%. Đặc biệt ở
Hungary, quá trình chuyển đổi sở hữu đã tạo thêm 500 nghìn việc làm mới và thu
hút khoảng 18 tỷ USD nguồn vốn đầu tư.
Tuy nhiên, mặc dù các nước như Tiệp Khắc (cũ), Hungari, Ba Lan, CHLB
Nga ... đều đặt ra một hệ thống pháp lý cần thiết cho việc CPH các DNNN và đã
vượt qua được những trở ngại ban đầu do việc chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa
tập trung sang kinh tế thị trường. Tuy nhiên, số DNNN đã CPH vẫn còn rất hạn chế
so với dự kiến. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối, nên
việc tiến hành tư nhân hóa và CPH ở các nước này gặp nhiều khó khăn trở ngại.
Điển hình như đối với nước Hungari, tổng số tài sản của khu vực kinh tế nhà
nước được đánh giá khoảng 2.000 tỷ forint (khoảng 30 tỷ USD) với khoản nợ nước
ngoài khổng lồ là 1.400 tỷ forint (khoảng 20 tỷ USD). Mặt khác, do không hạn chế
các nhà đầu tư nước ngoài khiến thị trường của một số ngành truyền thống của nước
này như ngành chăn nuôi bò không phát triển được. Vì các doanh nghiệp chế biến
sữa chỉ nhập nguyên liệu của nước ngoài với giá rẻ hơn nguyên liệu sản xuất trong
nước. Sự đầu cơ trục lợi ngày càng ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Đa
dạng hóa sở hữu DNNN bị biến tướng đã tạo cơ hội cho sự ra đời của những tư
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
18
nhân độc quyền thay thế độc quyền Nhà nước. Đối với CHLB Nga khi bước vào
công cuộc CPH, nước này đang phải gánh trên lưng hàng chục vạn DNNN với tổng
nguồn vốn cơ bản là 3.500 tỷ rúp tính theo giá năm 1990, trong đó vốn cố định là
2.700 tỷ rúp và vốn lưu động là 800 tỷ rúp. Còn với Ba Lan, với 7.000 DNNN thì
trong đó chỉ có 500 doanh nghiệp có quy mô lớn và có một khoản nợ nước ngoài
cũng không nhỏ.
Với chủ trương không khép kín CPH cho các thành viên trong doanh nghiệp
có thể góp phần đẩy nhanh tiến độ CPH. Tiến độ CPH ngày càng được đẩy nhanh
hơn nếu như chủ trương gắn cổ phần, cổ phiếu với thị trường chứng khoán. Tuy
nhiên, để chủ trương đó được thực hiện một cách lành mạnh, tích cực thì phải có
những biện pháp khác quản lý kèm theo. Điển hình là CPH ở Nga đã vấp phải
những sai lầm lớn. Ví dụ trường hợp ở Nga có xí nghiệρ sản xuất máy bay trực
thăng chuyên cung cấp cho quốc phòng và dân dụng CHLB Nga cùng nhiều nước
khác, đã phát hành cổ phiếu nhưng cổ phiếu này không ghi tên. Điều này có nghĩa
là loại cổ phiếu này có thể mua bán trên thị trường chứng khoán, Nhà nước lại
không giữ tỷ lệ cổ phần khống chế. Chính vì vậy, một nhà tư bản Mỹ đã mua được
60% số cổ phiếu và đã trở nên người chủ sở hữu nhà máy này. Một ví dụ khác cũng
ở Nga cho thấy mặt trái của việc cổ phần cũng là con dao hai lưỡi dẫn đến nguy cơ
mất độc lập tự chủ và dẫn đến bị lệ thuộc. Một nhà máy chế tạo than chì (grafit)
chuyên cung cấp cho công nghiệp quốc phòng và nhiều công nghiệp khác được bán
cho tư nhân. Một nhà tư bản Mỹ đã mua nhà máy đó rồi tuyên bố đóng cửa nhà
máy. Như vậy, toàn bộ số than chì cần thiết của CHLB Nga đều phải nhập từ Mỹ.
Một số kinh nghiệm rút ra từ các nước này:
Ở các nước Đông Âu khi quan hệ sản xuất XHCN bị phá vỡ, CPH và tư nhân
hoá DNNN được đẩy mạnh và ngày càng sôi động, đặc biệt là các nước Liên Xô,
Tiệp Khắc, Hungari, Đức, Ba Lan… Do quy mô và phạm vi tiến hành quá lớn trong
khi thời gian thực hiện đòi hỏi ngắn hơn nhiều so với các nước khác. Điều này dẫn
đến tiến trình tư nhân hóa và CPH ở các nước Đông Âu gặp không ít khó khăn và
phức tạp và đây được xem là công việc thực hiện “liệu pháp sốc” trong cải cách
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
19
kinh tế từ nền kinh tế chỉ huy sang cơ chế thị trường của các nước này. Ví dụ, nước
CHLB Nga dự kiến bán hơn 100.000 xí nghiệp thuộc các ngành thương nghiệp và
công nghiệp nhẹ đến hết năm 1992 và hơn 850 rúp giá trị tài sản của các xí nghiệp
công nghiệp sẽ được đem bán trong 2 năm 1993 – 1994. Trong khi đó, Tiệp Khắc,
Hungari và Balan đều muốn bán tới 60% giá trị cổ phần của Nhà nước, dự định
CPH trong thời gian 1991-1994. Tuy nhiên, với tính phổ biến của quá trình CPH, tư
nhân hóa và CPH là một trong những phương pháp giúp cho việc khắc phục được
những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả các DNNN và
thâm hụt ngân sách kéo dài.
Mặt khác, do các nước Đông Âu có thị trường vốn kém phát triển, thêm vào
đó các khu vực kinh tế tư nhân còn quá nhỏ, nên Chính phủ đã định hướng vào các
nhà đầu tư nước ngoài và xem đây như là nhân tố quan trọng để nâng cao sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thực tế đã
không đem lại những điều như họ đã mong muốn. Một lý do rất quan trọng khiến
cho các nhà đầu không dám mạo hiểm đầu tư vào là do môi trường kinh tế vĩ mô
của các nước này chưa ổn định. Bên cạnh đó, các nước đối thủ như Châu Mỹ La-
tinh và Châu Á lại là những nước có điều kiện thuận lợi hơn cũng đang rao bán thì
các nước Đông Âu khó tìm được ngay những người mua tiềm tàng.
Đối với những nước chưa có nền kinh tế thị trường phát triển, hoạt động của
thị trường chứng khoán còn yếu hoặc chưa hình thành được thị trường chứng khoán
thì việc tiến hành CPH gặp rất nhiều khó khăn. Đông Âu là một trong những nước
nói trên. Do đó, tiến trình CPH ở các nước Đông Âu phải thực hiện theo những
phương pháp đặc thù riêng và quá trình này đã diễn ra lâu hơn và phức tạp hơn
nhiều so với các nước tư bản phát triển. Ví dụ như muốn thực hiện CPH thì trước
tiên các nước Đông Âu phải “thương mại hóa” các xí nghiệp quốc doanh như là
điều kiện tiên quyết để thực hiện quá trình CPH. Việc thương mại hóa này cho phép
xác định được quyền sở hữu và quyền kinh doanh đối với các tài sản của Nhà nước,
tạo điều kiện để chuyển đổi chúng thành công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty
cổ phần. Biện pháp thích hợp để CPH các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước là
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
20
bán trực tiếp cho cán bộ quản lý và công nhân của xí nghiệp hoặc đấu thầu cho thuê
bằng hợp đồng quản lý.
Các nước thực hiện bán doanh nghiệp cho tất cả các đối tượng không phân
biệt người trong nước và người nước ngoài hoặc chuyển DNNN thành công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Khu vực kinh tế Nhà nước mà chủ yếu là các DNNN phải có những vị trí
then chốt và chỉ khi chiếm lĩnh được những vị trí then chốt ấy thì việc đẩy nhanh,
đẩy mạnh CPH, mở rộng diện CPH các DNNN, không khép kín CPH trong nội bộ
doanh nghiệρ, gắn CPH với thị trường chứng khoán … mới hoàn toàn có ý nghĩa,
càng cần xúc tiến. Bởi vì, nó không làm thay đổi bản chất nền kinh tế quốc dân
đang vận hành lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, việc nghiên cứu và ứng dụng một cách hợp lý các kinh nghiệm trên
thế giới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh KT-XH ở Việt Nam là điều hết sức cần
thiết. CPH DNNN là một công việc có tính chiến lược nhưng rất mới mẻ, phức tạp
và tính nhạy cảm. Bản chất của CPH không chỉ thể hiện ở mục đích mà còn thể hiện
ở cả phương pháp, bước đi và cách làm. Vì vậy, để đẩy nhanh tiến độ CPH thì nó
đòi hỏi các nhà doanh nghiệp Việt Nam cần có những bước đi đúng đắn, luôn sáng
suốt, tỉnh táo trong chỉ đạo, điều hành, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm trong
quá trình thực hiện CPH.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
21
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DNNN
CPH TẠI TP CẦN THƠ
2.1 Thực trạng tình hình CPH DNNN ở Việt Nam
Giai đoạn thí điểm (từ 1992 đến tháng 5/1996): Chương trình CPH DNNN
thực sự bắt đầu từ năm 1992, bằng sự ra đời của quyết định số 202-CT ngày
8/6/1992 của Chủ Tịch Hội đồng Bộ trưởng, bước đầu thí điểm CPH một số DNNN
và tính đến thời điểm giữa năm 1996 đã CPH 5 DNNN thuộc 3 Bộ và 2 địa phương.
Giai đoạn mở rộng CPH (từ tháng 6/1996 đến tháng 6/1998): Trên cơ sở
đánh giá, rút kinh nghiệm trong giai đoạn thí điểm, Chính phủ tiếρ tục cho ban hành
Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 với các cơ chế chính sách cởi mở và thông thoáng
hơn, tiến trình CPH DNNN trong thời gian đó đã có những chuyển biến tích cực,
chỉ trong vòng 2 năm cả nước thực hiện CPH 25 DNNN (gấp 5 lần so với 5 năm thí
điểm).
Giai đoạn đẩy mạnh CPH hay giai đoạn chủ động (từ tháng 7/1998 đến
nay): Nếu thời kỳ thực hiện CPH theo Nghị định 28/CP trung bình 1 tháng chỉ
chuyển được hơn 1 DNNN thành công ty cổ phần, thì thời kỳ thực hiện CPH theo
Nghị định 44/CP trung bình một tháng CPH được 16,6 doanh nghiệp. Nghị định
44/CP đã kế thừa một số nội dung của Nghị định 28/CP, nhưng có những cải tiến
mới khá căn bản và được phần lớn người lao động trong doanh nghiệp chuẩn bị
CPH đồng tình. Từ khi có Nghị định 44 cho đến ngày 31/12/1999 đã có thêm 340
DNNN và bộ phận DNNN được chuyển thành công ty cổ phần. Nếu như trong 7
năm (từ 1992 đến 6/1998) cả nước mới CPH được 30 doanh nghiệp, thì chỉ riêng 6
tháng cuối năm 1998 đã CPH 87 doanh nghiệp. Riêng năm 1999 đã có 254 doanh
nghiệρ, gấρ hơn 8 lần so với thời điểm tính từ 6/1998 trở về trước.
Tuy nhiên, đến giai đoạn 2000-2001, tốc độ CPH có xu hướng chậm lại do
có thay đổi trong tổ chức chỉ đạo cũng như chờ đợi chủ trương mới. Số DNNN đã
CPH năm 2000 là 208 doanh nghiệp, năm 2001 là 204 doanh nghiệp. Nhận thức
được điều này, Chính phủ tiếp tục cho ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CPH. Kết
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
22
quả mang lại trung bình một tháng CPH đã có 24,3 DNNN đã CPH. Số DNNN và
bộ phận DNNN đã CPH năm 2002 là 164 doanh nghiệp, nhưng đến năm 2003 đạt
tới 611 doanh nghiệp. Như vậy, số DNNN và bộ phận DNNN đã được CPH giai
đoạn 2002-2003 tương đương với giai đoạn từ năm 2001 trở về trước.
Đến năm 2004, tốc độ CPH vẫn tiếp tục chậm. Mục tiêu của Chính phủ đặt
ra ở 6 tháng đầu năm 2004 là CPH 1.000 doanh nghiệp, nhưng mới thực hiện được
256 doanh nghiệp. Số cổ phiếu bán ra bên ngoài chỉ có 8%, Nhà nước nắm giữ 38%
và số còn lại 54% thuộc về cán bộ, công nhân viên nắm giữ. CPH DNNN đang bị
khép kín trong nội bộ khu vực kinh tế nhà nước và nội bộ DNNN mà chưa thu hút
được các nhà đầu tư trong và ngoài nước có tiềm năng. Như vậy, khó có thể thay
đổi được phương thức kinh doanh.
Bảng 01: Số DNNN được CPH theo thời gian
Năm Số công ty được CPH Số công ty được CPH tích luỹ
1993 2 2
1994 1 3
1995 2 5
1996 6 11
1997 4 15
1998 101 116
1999 254 370
2000 208 578
2001 204 782
2002 164 946
2003 611 1.557
2004
(6 tháng đầu năm)
256
1.813
Tổng 1.813
Nguồn: Đông Lộc (2004), Hồ (2004) và Chi (2004)
2004*: 6 tháng đầu năm 2004
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
23
2.1.1 Những kết quả đạt được của tiến trình CPH DNNN.
Mặc dù CPH DNNN là công việc còn mới mẻ và gặp không ít khó khăn,
vướng mắc đòi hỏi cần tháo gỡ dần, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
tiến trình CPH bước đầu đã đạt được một số kết quả khả quan như sau:
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi thực hiện CPH:
Theo báo cáo của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương thì cả 370 doanh
nghiệp sau CPH đều nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, doanh thu bình
quân của các doanh nghiệp tăng 30% so với năm trước, lợi nhuận và nộp ngân sách
bình quân đều tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH, về vốn tăng trưởng bình quân
khoảng 15%/năm. Chẳng hạn như doanh thu của Công ty cổ phần cơ điện lạnh
trước khi CPH là 46 tỷ đồng, nay tăng lên 94 tỷ đồng; Công ty cổ phần Việt Phong
(VIFOCO) có doanh thu từ 27 tỷ đồng lên tới 52 tỷ đồng, lợi nhuận tăng bình quân
2 - 3 lần, nộp ngân sách tăng bình quân từ 2 – 2,5 lần. Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi
tiết kiệm, bình quân đạt 1- 2% tháng, có những công ty đạt trên 2,5% tháng.
Về việc làm và thu nhập: Các DNNN đã CPH bảo đảm thu nhập của người
lao động ổn định và có chiều hướng tăng lên từ 1,5 đến 4 lần so với trước khi thực
hiện CPH. Bên cạnh đó, do mở rộng sản xuất, số lượng công nhân viên trong các
doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần tăng 20% so với trước khi thực hiện
CPH. Ví dụ Công ty chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 lao động tăng lên
1.280 lao động, Công ty Cổ phần cơ điện lạnh từ 334 người lên 739 người … Thu
nhập của người lao động làm việc tại các công ty cổ phần tăng bình quân 20%
(chưa kể thu nhập từ cổ tức). Ví dụ như Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận
chuyển trước khi CPH đạt 1.400.000 đồng/người/tháng, hiện nay đạt 4.000.000
đồng/người/tháng; Công ty cổ phần Ong mật TP. HCM từ 500.000 đồng lên đến
1.300.000 đồng. Mặt khác, Người lao động trong các công ty CPH đã nâng cao tín
chủ động, ý thức kỷ luật, tin tưởng vào đường lối chủ trương lãnh đạo của Đảng về
công tác CPH, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, đem lại lợi ích thiết thực cho bản thân mình, công ty, Nhà
nước và xã hội.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
24
Về huy động vốn: Thu hút ngày càng nhiều vốn trong dân cư và xã hội.
Trong 370 DNNN đã CPH có số vốn nhà nước 854 tỷ, đã thu hút gần 953 tỷ đồng
ngoài xã hội để phát triển sản xuất và giải quyết các chính sách xã hội cho người lao
động. Nhà nước cũng đã rút bớt phần vốn 441 tỷ đồng ở các doanh nghiệp này để
đầu tư phát triển DNNN.
Về đánh giá vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp: Đánh giá đúng vốn và
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp vào phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể, tổng
số vốn nhà nước được đánh giá lại khi CPH các DNNN lên tới 3.000 tỷ đồng, tăng
được khoảng 14% so với trước khi CPH , bằng hơn 2% tổng số vốn nhà nước trong
các DNNN.
2.1.2 Những tồn tại yếu kém của tiến trình CPH DNNN Việt Nam
Bên cạnh những thành quả đạt được, quá trình thực hiện CPH nói chung vẫn
còn một số tồn tại cần được khắc phục như sau:
Tốc độ CPH chậm: Chưa năm nào kế hoạch CPH của nước ta đạt được yêu
cầu đã đề ra, cụ thể năm 1998 đạt 55% kế hoạch, năm 1999 đạt 63% kế hoạch, năm
2000 đạt 36% kế hoạch và giai đoạn 2002 – 2003 đạt 63% kế hoạch, riêng 6 tháng
đầu năm 2004 chỉ đạt 25,6% kế hoạch. Thực tế này có nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách và quy định pháp luật đối với CPH
DNNN. Số lượng các doanh nghiệp được CPH không ít, nhưng đại đa số là các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ (trên 90% công ty cổ phần có vốn nhà nước dưới 10 tỷ
đồng, trong đó khoảng 75% có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng). Chính vì vậy, tổng
vốn nhà nước ở DNNN đã CPH còn rất thấp, không đến 1.000 tỷ đồng, tương
đương khoảng 1,23% tổng vốn nhà nước hiện có tại DNNN. Các doanh nghiệp cổ
phần có vốn quá nhỏ, không phù hợp với loại hình công ty cổ phần là loại hình chỉ
phát huy thế mạnh khi doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, đòi hỏi lượng vốn
khổng lồ, điều này vượt quá khả năng của các cá nhân.
CPH “khép kín” trong nội bộ: Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát
triển doanh nghiệp Trung ương, có khoảng 71% lãnh đạo doanh nghiệp đã được
CPH là lãnh đạo cũ của DNNN, 29% còn lại cũng là phó giám đốc kế cận được bầu
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
25
lên do giám đốc cũ nghỉ hưu. Như vậy, mặc dù những DNNN đã được chuyển
thành công ty cổ phần nhưng thực chất chưa thể hiện là công ty cổ phần đích thực
của nó, vì vai trò của cổ đông chưa được phát huy triệt để. Với việc duy trì phương
thức quản lý và cách suy nghĩ cũ của Ban giám đốc cũ sẽ không phù hợp với địa vị
pháp lý mới của doanh nghiệp và không phù hợp với cơ chế thị trường. Bên cạnh đó
số cổ phiếu của các công ty cổ phần bán ra ngoài còn rất thấp, chưa thành quy định
bắt buộc, chủ yếu là bán trong nội bộ doanh nghiệp. Trong số hơn 1.550 DNNN đã
CPH thì mới có 8% số doanh nghiệp có cổ đông bên ngoài. Tỷ lệ này quá nhỏ dẫn
đến tình trạng là không tăng được khả năng huy động vốn từ bên ngoài, không thu
hút được các nhà đầu tư lớn, không thể góp phần cải thiện được cơ bản phương thức
quản trị, điều hành doanh nghiệp.
Một số vấn đề còn vướng mắc từ môi trương kinh doanh sau CPH: Các
DNNN chưa có biên pháp giải quyết triệt để vấn đề nợ tồn đọng trước khi tiến hành
CPH, hậu quả đem đến cho các doanh nghiệp sau khi CPH là hoàn toàn phải gánh
chịu việc thanh toán trả nợ và đòi nợ. Các ngân hàng có sự phân biệt đối xử đối với
những công ty cổ phần có cổ phần nhà nước chi phối được vay vốn bằng tín chấp,
trong khi những công ty cổ phần khác (cũng được chuyển đổi từ DNNN) khi vay
vốn phải thế chấp và gặp những thủ tục phức tạp hơn rất nhiều. Điều này đã gây khó
khăn cho các công ty cổ phần về phương diện vốn trong việc muốn mở rộng quy mô
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, việc xác định giá trị doanh nghiệp còn mang tính
chủ quan, không theo giá thị trường sẽ dễ dẫn đến trường hợp gây thất thoát tài sản
lớn. Ví dụ điển hình là định giá công ty cổ phần Tràng Tiền, Khách sạn Phú Gia.
Theo quy định hiện nay, cổ phần chủ yếu ưu tiên bán cho những người làm việc
trong doanh nghiệp, do đó dẫn đến tình trạng người định giá doanh nghiệp vừa là
người bán, đồng thời cũng vừa là người mua cổ phần. Chính điều này sẽ dẫn đến
việc định giá doanh nghiệp mang tính chủ quan.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
26
2.2 Khái quát về tình hình KT-XH Thành phố Cần Thơ.
Năm 2004, TP. Cần Thơ được tách ra và trở thành thành phố trực thuộc
Trung ương, nằm ở giữa 12 tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. TP. Cần Thơ bao gồm
4 quận và 4 huyện. Năm 2004, dân số toàn TP. Cần Thơ là 1,127 triệu người, mật
độ dân cư 812 người/km2. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số là 1,098%. Số người trong độ
tuổi lao động chiếm 62,05% dân số toàn Thành phố, trong đó lao động tham gia vào
các thành phần kinh tế chiếm 69,64%.
Hầu hết các chỉ tiêu KT-XH cả năm 2004 đều đạt và ở mức khá cao, riêng
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,9%, cao nhất từ trước đến nay, với chất lượng và
hiệu quả tăng trưởng ngày càng nâng lên. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng:
tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng nhanh, thương mại - dịch vụ phát triển đa
dạng, nông nghiệp cũng có bước phát triển mới về chất. Môi trường đầu tư tiếp tục
được cải thiện, thu hút nhiều dự án mới. Xuất nhập khẩu vượt chỉ tiêu, thu ngân
sách vượt yêu cầu dự toán. Nhiều nguồn lực trong xã hội được huy động với gần
4.100 tỉ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phát triển các khu dân cư, công
trình y tế, hệ thống cầu, cảng, siêu thị, đường giao thông. Hơn 28.000 lao động
được giải quyết việc làm. Hệ thống chính trị không ngừng được củng cố, kiện toàn.
Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ được đặc biệt quan tâm. Một số chỉ tiêu KT-XH
chủ yếu ở TP. Cần Thơ được thể hiện như sau:
Năm 2004, tổng giá trị sản xuất trên địa bàn TP. Cần Thơ (GO) đạt
16.056,54 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994) tăng 16,96% so với cùng kỳ. Giá trị tăng
thêm (GDP) đạt 7.391,3 tỷ đồng, tăng 14,93% so với cùng kỳ năm trước.
Ngành nông nghiệp năm 2004 sản xuất tăng khá, hầu hết các cây trồng vật
nuôi đều tăng hơn các năm trước. Sản lượng lúa đạt 1.194,75 ngàn tấn, tăng 3,39%
so năm 2003, giá lúa bình quân tăng 600đồng/kg so năm trước. Ngành nông nghiệp
có bước phát triển mới như gắn với tiền trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn; chuyển dịch mạnh mẽ vật nuôi cây trồng trong nội bộ ngành, lấy
hiệu quả làm thước đo chủ yếu. Bên cạnh đó, ngành thủy sản không ngừng phát
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
27
triển, sản lượng nuôi trồng năm 2004 đạt 51 ngàn tấn, tăng 65,72% so cùng kỳ năm
trước.
Bảng 02: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (Giá so sánh năm 1994)
Tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
% 2003
so 2002
% 2004
so 2003
Tổng sản phẩm (GDP) 5.688,2 6.430,8 7.391,3 113,06 114,93
I. Theo thành phần kinh tế
1.Nông-lâm - thuỷ sản 1.389,3 1.443,5 1.547,9 103,90 107,23
2.Công nghiệp - Xây dựng 1.770,8 2.029,1 2.459,6 114,59 121,21
3.Thương nghiệp - Dịch vụ 2.528,1 2.958,2 3.383,8 117,01 114,39
II. Theo ngành kinh tế
1. Nhà nước 2.57,8 2.352,2 2.638,7 109,01 112,18
2. Tỷ trọng (%) 37,93 36,58 35,70
(Nguồn: Theo Cục Thống kê TP. Cần Thơ)
Ngành công nghiệp: Mặc dù bị ảnh hưởng tăng giá của nguyên vật liệu vật tư
sản xuất như xăng, dầu, phôi thép, hạt nhựa … kéo theo các dịch vụ phục vụ tăng
cao nhưng sản xuất công nghiệp chế biến vẫn tăng cao như sản xuất lương thực thực
phẩm, kim loại, thiết bị điện . . .
Ngành thương nghiệp - dịch vụ: Đây là khu vực có chi phí cho sản xuất thấp
nhất trong 3 khu vực sản xuất của thành phố. Để phát triển theo nhu cầu thị trường
mở rộng nhằm mang lại giá trị tăng thêm ngày càng cao, khu vực này đã có các
ngành dịch vụ như thông tin liên lạc, vận tải kho bãi, kinh doanh bất động sản …
Đặc biệt trong năm 2004, TP. Cần Thơ đã có siêu thị Coopmart, siêu thị Cần Thơ và
Metro Cash and Carry được thành lập và bước đầu đạt được doanh thu đáng kể.
Xét theo thành phần kinh tế: năm 2004, giá trị tăng thêm (GDP) ở thành
phần kinh tế Nhà nước đạt 2.638,7 tỷ đồng, tăng 12,18% so với cùng kỳ năm trước,
chiếm tỷ trọng 35,7% giá trị tăng thêm toàn thành phố.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
28
Trong năm qua, các DNNN đặt tại địa bàn TP. Cần Thơ đã đạt được giá trị
sản xuất công nghiệp như sau:
Bảng 03: Giá trị sản xuất công nghiệp (Giá cố định năm 1994)
Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thực
hiện năm
2004
Tỷ
trọng
(%)
Thực hiện
năm 2003
Tỷ
trọng
(%)
% 2004
so 2003
Khu vực kinh tế trong nước 5.838,18 4.481,68 130,27
1. Quốc doanh TW 396,09 6,78 430,64 9,61 91,98
2. Quốc doanh địa phương 2.434,07 41,69 2.212,54 4,94 110,01
(Nguồn: Theo Cục Thống kê TP. Cần Thơ)
Về tài chính: Nguồn thu NSNN từ khu vực kinh tế nhà nước là rất lớn chiếm
46,01% tổng thu ngân sách năm 2003 và đến cuối năm 2004 là 61,69%.
Bảng 04: Thu ngân sách nhà nước
Triệu đồng
% thực hiện năm
2004 so
Chỉ tiêu Dự toán
năm
2004
Thực hiện
năm
2004
Thực
hiện
năm
2003
Dự toán
2004
Cùng kỳ
2003
Tổng thu NSNN 1.447.384 2.204.507 2.506.050 152,17 87,89
1. Từ XN quốc doanh 1.052.200 1.360.000 1.153.097 129,25 117,94
2. Tỷ trọng (%) 72,70 61,69 46,01
Tổng chi NSNN 743.016 1.239.000 1.608.126 166,75 77,05
(Nguồn: Theo Cục Thống kê TP. Cần Thơ)
Năm 2004, hầu hết các nguồn thu đều vượt dự toán. Tổng thu NSNN
2.202.507 triệu đồng đạt 152,17% dự toán kế hoạch năm 2004 và bằng 87.89% so
cùng kỳ năm trước. Tổng chi ngân sách ước chi 1.239.000 triệu đồng đạt 166,75%
dự toán kế hoạch năm 2004 và bằng 77,05% so cùng kỳ năm trước. Trong cơ cấu
nộp thuế năm 2004, ước tính khoản thu từ tiền sử dụng đất tăng gấρ 4,7 lần so dự
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
29
toán và tăng gấρ 3,4 lần so cùng kỳ. Tuy nhiên, còn một số khoản thu từ thuế sử
dụng đất nông nghiệp, thu từ xổ số kiến thiết đã giảm so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình thực hiện sắp xếp DNNN năm 2004 tại TP. Cần Thơ
Năm 2004 là năm đầu tiên kể từ khi TP. Cần Thơ được chia tách từ tỉnh Cần
Thơ và cũng là năm TP. Cần Thơ đề ra mục tiêu phấn đấu nhằm tậρ trung mọi
nguồn lực nhằm xây dựng các cơ sở hạ tầng, sắp xếp lại các DNNN nhằm phát triển
theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hóa.
Trong năm 2004, TP. Cần Thơ đã quyết định hỗ trợ vốn cho 08 DNNN và
quỹ xúc tiến thương mại từ nguồn quỹ hỗ trợ sắρ xếρ và CPH DNNN tổng số vốn là
14.720,5 triệu đồng, đồng thời chi hỗ trợ cho lao động dôi dư gần 2.540 triệu đồng
- CPH: đã CPH 8 DNNN chiếm tỷ lệ 30,76% so với kế hoạch đã đề ra.
- Giao doanh nghiệp: Hiện Công ty Giày Cần Thơ thuộc đối tượng giao doanh
nghiệp cho tậρ thể người lao động ở TP. Cần Thơ. Tuy nhiên, năm 2003 công ty
Giày Cần Thơ được tỉnh Cần Thơ hỗ trợ tổng giá trị là 3 tỷ đồng từ quỹ hỗ trợ sắp
xếp và CPH DNNN. Theo báo cáo đến ngày 30/9/2004, công ty đã lỗ 807 triệu
đồng, lũy kế lên đến 4,4 tỷ đồng. Hiện công ty này đang được đề nghị chuyển sang
đối tượng đang khó khăn cần giải quyết riêng.
- Chuyển DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên: đã chuyển được 1 công ty
Cấp thoát nước Cần Thơ
- Chuyển DNNN thành công ty TNHH 2 thành viên: Công ty May Tây đô đã
được UBND TP. Cần Thơ quyết định chuyển đổi thành công ty TNHH 2 thành viên
và quyết định xác định giá trị doanh nghiệp công ty Liên doanh Du lịch Sài gòn.
- Phá sản doanh nghiệp: Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Cần Thơ do hoạt
động kém hiệu quả yêu cầu tuyên bố phá sản và hiện đang chờ Tòa án giải quyết
- Bán doanh nghiệp: Công ty Bia nước giải khát Hậu Giang đã được Sở Tài
chính xác định giá thực tế của công ty để hoàn thành thủ tục bán doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
30
2.3 Thực trạng CPH ở TP. Cần Thơ.
2.3.1 Theo số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Cần Thơ
Lý luận và thực tiễn đã chỉ rõ, CPH doanh nghiệp là phương thức thu hút
nguồn vốn, tạo động lực đầu tư đổi mới trang thiết bị, đem lại lợi ích cho Nhà nước,
doanh nghiệp và quan trọng hơn là cho chính bản thân người lao động. TP. Cần Thơ
được xem là địa phương đi đầu ở Đồng bằng sông Cửu Long về tổ chức đổi mới
hình thức quản lý kinh tế của các DNNN thông qua việc triển khai thí điểm CPH.
Công ty TNHH Thốt Nốt là công ty được chọn làm thí điểm đầu tiên thực hiện CPH
ở TP. Cần Thơ vào năm 1998 với vốn điều lệ là 18,5 tỷ đồng.
Với sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Thành Uỷ, UBND TP. Cần Thơ, có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, thường xuyên theo dõi, đôn đốc tiến trình thực
hiện sắp xếp DNNN tại địa phương, Ban chỉ đạo và tổ chuyên viên đã dành nhiều
thời gian để giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình sắp xếp
DNNN, đặc biệt là sự linh động trong giải quyết khó khăn cho các DNNN khi tiến
hành CPH.
Bảng 05: Tình hình CPH doanh nghiệp nhà nước ở TP. Cần Thơ
Năm Số lượng DNNN đã
CPH
Số lượng đơn vị phụ
thuộc DNNN đã CPH
1998 01
2000 01 02
2001 02 03
2002 02
2003 04 01
2004 04 04
Tổng cộng 12 12
(Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư TP. Cần Thơ)
Tính đến thời điểm ngày 31/12/2004, sau khi sắρ xếρ lại, TP. Cần Thơ đã
CPH được 24 DNNN và đơn vị phụ thuộc DNNN. Con số doanh nghiệp CPH
Nguyễn Thị Kim Phượng – Cao Học 5
31
không nhiều nhưng hiệu quả CPH là đáng kể. Hiện tại có 4 DNNN đã CPH chỉ mới
đi vào hoạt động.
Năm 2004, tình hình CPH DNNN ở TP. Cần Thơ có nhiều chuyển biến theo
hướng tích cực, số lượng DNNN đã CPH tăng lên, tuy nhiên quá trình này diễn ra
còn quá chậm. Theo kế hoạch mục tiêu đã đề ra năm 2004, lẽ ra TP. Cần Thơ phải
CPH đến 26 DNNN và đơn vị phụ thuộc DNNN, nhưng thực tế chỉ CPH được 08
đơn vị, chiếm tỷ lệ 30,76% so với kế hoạch. Mặc dù so với cùng kỳ năm trước tiến
trình CPH năm 2004 tăng 60%, nhưng xét về con số tuyệt đối chỉ tăng có 3 đơn vị.
Bước đầu, tiến trình CPH phần nào đã mang lại kết quả thỏa đáng cho một số
doanh nghiệp. Điển hình như chỉ sau 4 tháng đi vào hoạt động theo mô hình mới,
đến cuối tháng 7/2000, công ty cổ phần Thực phẩm rau quả Cần Thơ đã đạt những
thành tựu đáng kể. Công ty đã lãi trên 300 tri._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1403.pdf