Giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ

Lời mở đầu. =============== Hội nhập kinh tế quốc tế đang mở ra trước mắt các quốc gia một xu thế tất yếu không thể tránh khỏi đó là xu thế toàn cầu hóa. Đứng trước xu thế đó chúng ta không nên chống lại mà nên tìm cách tận dụng những lợi ích mà nó mang lại cho quốc gia mình. Chính vì lý do đó chính sách của Đảng và Nhà nước là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sau khi thực hiện công cuộc Đổi mới chúng ta đã hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới và đã thu được những kết quả hết sứ

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đáng khích lệ tư quá trình hợp tác này. Đi đôi với phát triển nền kinh tế hội nhập chúng ta cũng không quên phát triển một nền kinh tế tổng hợp nhằm khai thác mọi tiềm năng của Đất nước. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng về nông nghiệp mà thuỷ sản là một ngành hứa hẹn nhiều tiềm năng rất lớn. Nhiệm vụ của Nhà nước và nhân dân là làm sao để đưa thuỷ sản thành một ngành kinh tế mũi nhọn tham gia hợp tác quốc tế một cách có hiệu quả nhất, đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân. Như chúng ta đã biết Mỹ là một cường quốc về kinh tế cũng như chính trị và quân sự trên thế giới, Mỹ có tiếng nói quyết định trong một số vấn đề quan trọng trên trường quốc tế. Ngoài ra đây còn là một thị trường rất rộng lớn cho hàng hoá xuất khẩu nói chung và hàng thuỷ sản xuất khẩu nói riêng. Chính vì những lý do trên đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ là một nhiệm vụ và là một cơ hội cho các doanh nghiệp của Việt Nam . nhưng muốn đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản trước hết chúng ta phải hiểu thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm gần đây, cơ hội và khó khăn của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng như những kiến nghị nhằm đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Đề án Giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ ra đời nhằm nghiên cứu những vấn đề đó. Đề án này bao gồm 3 nội dụng chủ yếu của đề tài là: 1. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm gần đây. 2. Khó khăn và thuận lợi đối với đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ . 3. Kiến nghị những giải pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ . Dựa vào những nội dung của đề án các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản có thể tìm được những thông tin cần thiết về thị trường thuỷ sản Hoa Kỳ cũng như khả năng đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này của các doanh nghiệp Việt Nam . Phần i : cơ sở lí luận về đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương i: bản chất kinh doanh xuất khẩu ở các doanh nghiệp. I.kinh doanh và đặc điểm của kinh doanh ở các doanh nghiệp . 1. Kinh doanh và kinh doanh xuất khẩu ở các doanh nghiệp . Nếu như xét theo khía cạnh kinh doanh đơn thuần thì kinh doanh xuất khẩu chỉ là một bộ phận của kinh doanh nói chung. Nói đến kinh doanh là nói đến kinh doanh trong nước và kinh doanh quốc tế. Đây là hai lĩnh vực kinh doanh rất khác nhau trong hoạt động lẫn cơ chế tổ chức và quản lý. Kinh doanh xuất nhập khẩu đòi hỏi ở một trình độ cao hơn kinh doanh trong nước và đây cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro hơn kinh doanh nội địa do vấn đề địa lý,luật pháp...phức tạp và khó khăn. Nhưng một doanh nghiệp kinh doanh trong nước không có nghĩa là doanh nghiệp đó không thể kinh doanh xuất nhập khẩu .Bởi vì trong nền kinh tế toàn cầu và sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin cho phép các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau có thể tìm kiếm đối tác thông qua mạng Internet và thương mại điện tử. Nền kinh tế thị trường với xu thế mở cửa của Việt Nam đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà cả thị trường quốc tế. Hiện nay không chỉ có các doanh nghiệp chuyên về kinh doanh xuất nhập khẩu mới tham gia buôn bán quốc tế mà ngay cả các doanh nghiệp sản xuất cũng tự tìm đối tác nước ngoài và ký kết hợp đồng xuất khẩu. Như vậy kinh doanh và kinh doanh xuất nhập khẩu là hai vấn đề tuy khác nhau về cách thức hoạt động nhưng trong tương lai chúng sẽ có rất nhiều điểm tương đồng. 2. Kinh doanh trong các doanh nghiệp và những đặc điểm cơ bản của kinh doanh trong cơ chế thị trường . Kinh doanh trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và trong nền kinh tế thị trường là có sự khác nhau cơ bản về đối tượng cũng như mục đích. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá thì đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh chỉ bó hẹp trong phạm vi các doanh nghiệp nhà nước và các tập thể tham gia sản xuất kinh doanh. Và mục đích chính của hoạt động kinh doanh không phải là lợi nhuận mà là đảm bảo phân phối công bằng. Các doanh nghiệp không được tự chủ trong sản xuất cũng như kinh doanh mà hoạt dộng theo các chỉ tiêu pháp lệnh. Chính vì vậy các hoạt động kinh doanh không có động lợc để phát triển. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường bất kì một cá nhân hay tập thể nào đều có thể tự chủ sản xuất kinh doanh trong phạm vi pháp luật không cấm. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp hoàn toàn phải tự chủ về mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chính vì vậy bất kì một doanh nghiệp nào cũng đều phải tuân theo quy luật của thị trường và lấy khách hàng là mục tiêu. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh ngiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Bởi vì thị trường sẽ quyết định sự tồn tại cũng như thành bại của mỗi doanh nghiệp. Chính vì vậy bất kì một doanh nghiệp nào cũng cần phải coi trọng thị trường như nhân tố quan trọng nhất và trong đó thì khách hàng là nhân tố trung tâm. Trong nền kinh tế cũ thì thị trường là một vấn đề chẳng mấy được các doanh nghiệp quan tâm và khách hàng thì càng không phải là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng trong nền kinh tế thị trường nếu một doanh nghiệp không chiếm lĩnh được thị trường cũng như không được khách hàng ủng hộ thì doanh nghiệp đó khó lòng tồn tại được. Kinh doanh trong cơ chế thị trường tạo ra cho bản thân nó những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hoạt động kinh doanh của doanh ngiệp và không một doanh nghiệp có thể tránh khỏi. Nó bao gồm những đặc điểm cơ bản sau: * Tính cạnh tranh gay gắt. Ngày nay cạnh tranh đã trở nên quen thuộc đối với bất lỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Chấp nhận cạnh tranh như một thuộc tính của nền kinh tế thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợo với tình giai đoạn của quá trình kinh doanh. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện về tổ chức, khả năng cạnh tranh nếu không sẽ bị loại khỏi thị trường. Cạnh tranh vừa là vũ khí chống lại đối thủ cạnh tranh và vừa là động lựa cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. * Tính quốc tế cao. Hợp tác kinh tế quốc tế ngày nay không còn xa lạ đối với các nước phát triển nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường với khả năng di chuyển vốn cao đã tạo điều kiện cho hợp tác kinh tế quốc ra đời. Xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá là những xu thế tất yếu của một nền kinh tế thị trường hiện đại. sự ra đời của hàng loạt tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế ở tầm khu vực và quốc tế như EU, ASEAN,APEC hay WTO... đã chứng minh cho xu thế đó. II. nội dung cơ bản của kinh doanh xuất khẩu ở cácdoanh nghiệp. Kinh doanh xuất khẩu là hoạt động buôn bán với nước ngoài nhằm phát triển lợi thế của mỗi quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Chính vì đây là hoạt động kinh doanh không diễn ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà diễn ra giữa các nước buôn bán với nhau nên hoạt động kinh doanh bao hàm những yếu tố hết sức phức tạp khác hẳn với kinh doanh trong nước. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi phải kinh doanh trên thị trường ngoài nước do đó những vấn đề về thị trường, khách hàng, luật pháp, thanh toán ...rất đa dạng và phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp và rất khó để kiểm soát. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu được tổ chưc thực hiện với nhiều nghiệp vụ phức tạp từ khâu ngiên cứu thị trường ngoài nước ,lựa chọn hàng hoá xuất khẩu , lựa chọn đối tác kinh doanh , đàm phán – kí kết hợp đồng- tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến giao hàng và hoàn thành các quá trình thanh toán. Tất cả các quá trình này đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong khi thực hiện chúng sẽ tạo ra không ít những cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn cho các doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp ít kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế. Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có thể được chia ra làm những nội dung cơ bản như sau: 1..Xây dựng chiến lược kinh doanh xuất khẩu Trong bối cạnh cạnh tranh gay gắt và môi trường kinh doanh rất nhiều biến động các doanh nghiệp muốn hoạt động một cách ổn định và có hiệu quả thì không thể không xây dựng chiến lược kinh doanh cho mình trong từng giai đoạn cụ thể. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì xây dựng chiến lược lại càng có ý nghĩa quan trọng vì đây là các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế nên sự đòi hỏi về ổn định là rất cao để tránh những rủi ro không đáng có trong kinh doanh. Để xây dựng chiến lược kinh doanh có thể sử dụng nhiều phương pháp nhưng là sử dụng biện pháp nàp đi chăng nữa thì cũng phải dựa trên những thông tin về nhu cầu của thị trường và khả năng đáp ững của doanh nghiệp. Nừu không sẽ dễ dẫn tới những chiến lược sai lầm nghiêm trọng. 2. Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế. Thị trường là một phạm trù khách quan đòi hỏi mỗi doanh nghiệp khi kinh doanh phải tuân theo những quy luật khách quan của nó. Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông. Thị trường có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận. Để nắm vững thị trường , hiểu biết các quy luật của thị trường nhất thiết đòi hỏi các nhà kinh doanh phải thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường . Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế thông qua việc trả lời cho nhà xuất khẩu các câu hỏi về lựa chọn thị trường chiến lược, mặt hàng chiến lược, đối tác và đối thủ trong kinh doanh .. . Chính vì vậy công tác nghiên cứu thị trường là một công đoạn rất quan trọng không thể thiếu đối với nhà kinh doanh xuất khẩu , do đó công tác nghiên cứu thị trường cần được tiến hành một cách có kế hoạch và thống nhất. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Thị trường lượng thị trường hay còn gọi là quy mô thị trường được quy định bởi khối lượng hàng hoá tham gia giao dịch tại thị trường đó trong một khoảng thời gian nhất định(thường là một năm). nghiên cứu dung lượng thị trường nhằm xác định nhu cầu thật của khách hàng về loại hàng hoá mà mình định kinh doanh. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng thì một vấn đề nữa cũng cần được nghiên cứu đó là khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét các đặc điểm, tính chất, khả năng cung ứng hàng hoá thay thế và các nguồn cung cấp hàng hoá đó cho thị trường đang nghiên cứu. Một vấn đề nữa cũng nên được xem xét đó là tính chất thời vụ của hàng hoá kinh doanh , tập quán tiêu dùng để từ đó đưa ra các kế hoạch và chiến lược kinh doanh cho phù hợp với từng giai đoạn,thời kì khác nhau. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Trên cơ sở kết quả phân tích và đánh giá thị trường nhà xuất khẩu cần lựa chọn hàng xuất khẩu chủ đạo nhằm chiếm lĩnh thị trường và phát huy lợi thế sẵn có từ những mặt hàng đó. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ đạo có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc kinh doanh xuất khẩu thành công hay thất bại của nhà xuất khẩu. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu phải dựa vào nhu cầu của thị trường , mẫu mã chủng loại giá cả, thị hiếu.. tất cả những yếu tố đó vẫn chưa phải là yếu tố quyết định bởi vì với những doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất khẩu thì yếu tố tỷ giá ngoại tệ xuất khẩu đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu phải được cân nhác kỹ lưỡng và ngoài những yếu tố tính toán chính xác thì kinh nghiệm của nhà xuất khẩu cũng là một yếu tố không thể thiếu trong việc lựa chọn mặt hàng. Lựa chọn đối tác kinh doanh . Không một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thương mại quốc tế lại không có bạn hàng. Mỗi doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường ngoài nước nếu không có các đối tác nội địa của nước đó thì sẽ phải tốn một khoản kinh phí không nhỏ để thiết lập kênh phân phối sản phẩm của mình nhất là khi chưa có những hiểu biết cần thiết về thị trường đó. Chính vì vậy việc lựa chọn một đối tác có đủ khả năng và uy tín trong kinh doanh là một nhiệm vụ của nhà xuất khẩu khi tiến hành kinh doanh xuất khẩu. Việc lựa chọn đối tác kinh doanh có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như tình hình kinh doanh của đối tác, khả năng về cơ sở vật chất và tài chính của đối tác, đặc điểm kinh doanh của đối tác và uy tín trong kinh doanh của đối tác. Ngày nay một vấn đề hết sức quan trọng khi quyết định lựa chọn của các doanh nghiệp xuất khẩu đó là tư cách pháp nhân của đối tác. Rất nhiều vụ tranh chấp thương mại xảy ra và người bị thiệt hại là các công ty kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam chỉ vì khi lựa chọn đối tác kinh doanh đã không chú ý đến tư cách pháp nhân của đối tác. Rõ ràng công tác nghiên cứu thị trường là một khâu không thể thiếu trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp , làm tốt công tác này là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho doanh nghiệp đưa ra các kế hoạch và chiến lược kinh doanh phù hợp trong giai đoạn tiếp theo. 3.Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu . Giá cả là biểu hiện bằng tiền giá trị của hàng hoá và nó cũng là một nhân tố quan trọng trong chiến lược cạnh tranh của các doanh nghiệp. Việc nghiên cứu để đưa ra một mức giá phù hợp là một vấn đề không hề đơn giản nếu như doanh nghiệp muốn sử dụng nó là một công cụ để cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh khác. Giá cả nói chung và giá cả quốc tế nói riêng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau cho nên giá cả luôn biến động. Trong buôn bán quốc tế giá cả thị trường lại càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì trong hoạt động thương mại quốc tế hàng hoá phải qua những nước khác nhau trong một thời gian dài và phải chịu những chính sách thuế khác nhau của các nước nhập khẩu. Do đó để đạt được hiệu quả trong kinh doanh thì các doanh nghiệp cần phải nắm rõ giá cả và xu hướng vận động của giá cả, có như vậy doanh nghiệp mới thực sự chủ động trong kinh doanh. Hiểu rõ giá cả và xu hướng biến động của giá cả sẽ giúp cho doanh nghiệp vạch ra các chiến lược kinh doanh cụ thể và có các biện pháp khoa học trong tính toán giá cả sẽ là một đòn bẩy thực sự trong buôn bán quốc tế. Chính vì vai trò quan trọng của mình nên thương mại quốc tế đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng vấn đề giá cả quốc tế. Giá cả của hàng hoá trong buôn bán quốc tế là mức giá tổng hợp bao gồm giá vốn của hàng hoá và các chi phí liên quan đến qúa trình mua bán hàng hoá như bảo hiểm, chi phí vận tải, bao bì, đóng gói... Giá quốc tế là mức giá đại diện cho những hàng hoá nhất định trên thị trường. Đó phải mức giá của những giao dịch thương mại thông thường trên thị trường quốc tế và không kèm theo một điều kiện thương mại đặc biệt nào. Trên thực tế rất khó dự đoán chính xác giá cả trong tương lai bởi vì có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến mức giá quốc tế. Việc dự đoán giá phải dựa trên cơ sở kết quả phân tích tình hình thị trường của hàng hoá đó cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng biến động của mức giá cả của hàng hoá đó. Có rất nhiều nhân tố có ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá như: Chu kì sản xuất kinh doanh , nhân tố cung cầu, lạm phát, cạnh tranh, các chính sách quản lí của nước nhập khẩu cũng như nước xuất khẩu .... 4.Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu. Thanh toán là một khâu khá quan trọng và cũng không kém phần phức tạp trong kinh doanh xuất khẩu. Việc lựa chọn đồng tiền thanh toán, thời điểm thanh toán, phương thức thanh toán và các điều kiện thanh toán đóng vai trò rất quan trọng đối với hiệu quả của quá trình kinh doanh xuất khẩu. Việc xem xét các nhân tố có thể ảnh hưởng đến biến động tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán một cách thiếu thận trọng có thể gây ra như cầu tổ thất rất nặng nề cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hiện nay trong thương mại quốc tế đang tồn tại khá nhiều phương thức thanh toán , việc lựa chọn phương thức trả tiền nào có lợi nhất cho nhà xuất khẩu cũng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng tránh bị thiệt hại do lựa chọn phương thức thanh toán không đúng. Đói với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì việc áp dụng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng(L/C) hay phương thức nhờ thu hoặc phương thức trả trước có thể coi là tương đối an toàn. Tóm lại thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải quantâm đến các yếu tố như: Tỷ giá hối đoái. Tiền tệ trong thanh toán. Thời hạn thanh toán. Các phương thức thanh toán và điều kiện thanh toán. Các điều kiện bảo đảm trong thanh toán khác. Nhằm tránh gặp rủi do trong khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh xuất khẩu . III.Chiến lược kinh doanh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Hiện nay kinh doanh xuất khẩu không chỉ đơn thuần do các doanh nghiệp chuyên kinh doanh về xuất khẩu đảm nhiệm mà ngay ban thân các doanh nghiệp sản xát cũng đứng ra kinh doanh xuất khẩu. Điều đó được thể hiện ở việc càng ngày càng có nhiều các doanh nghiệp sản xuất lập các trang Website riêng để giới thiệu hàng hoá của mình với các đối tác nước ngoài và tự đóng hàng để xuất khẩu trực tiếp không phải thông qua cc công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu. Đây là một chính sách rất đúng đắn của Nhà nước nhằm khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng hoá. Nhưng để kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả thì các doanh nghiệp cần phải có những chiến lược kinh doanh đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tế của thị trường. Hiện nay chiến lược kinh doanh hàng xuất khẩu bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Chiến lược sản phẩm. Bất kì một doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nào cũng đều có những mặt hàng kinh doanh cụ thể, để đạt được hiệu qủa trong kinh doanh bất kì một doanh nghiệp nào cũng đều phải chú trọng vào mặt hàng mà mình đang kinh doanh. Chiến lược sản phẩm là một kiểu chiến lược tập trung nguồn lực cho sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh hoặc có dự định sản xuất kinh doanh trong tương lai. Những vấn đề chính của chiến lược sản phẩm bao gồm: * Nhãn hiệu hàng hoá. Bất kì một doanh nghiệp nào muốn định vị (Định vị sản phẩm là quá trình tạo ra những ấn tượng tốt về sản phẩm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng) sản phẩm của mình trên thị trường thì đều phải có nhãn hiệu của hàng hoá đó. Nhãn hiệu hàng hoá là biểu tượng riêng cho doanh nghiệp về uy tín cũng như chất lượng của hàng hoá mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Việc lựa chọn nhãn hiệu và quảng bá nhãn hiệu hàng hoá ngày nay đã trở nên hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nói riêng. * Bao bì, mẫu mã và các dịch vụ đi kèm. Bao bì và mẫu mã của hàng hoá là những cái tạo ra ấn tượng đầu tiên đối với người tiêu dùng về một loại hàng hoá nhất định. Ngoài ra nó cũng chính là một công cụ ưuảng cáo rất hiệu quả cho sản phẩm cũng như cho doanh nghiệp. Chính vì vậy việc chú ý đến vấn đề mẫu mã và bao bì của sản phẩm từ lâu đã trở thành một khâu quan trọng của các doanh nghiệp ở các nước phát triển. Mặc dù vậy bao bì và mẫu mã hàng hoá như thế nào để thu hút khách hàng lại là một vấn đề không hề đơn giản đòi hỏi doanh nghiệp mất nhiều chi phí. * Chủng loại hàng hoá và danh mục hàng hoá. Việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh cungx như danh mục mặt hàng kinh doanh có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Việc lựa chọn sai lầm mặt hàng kinh doanh xuất khẩu có thể đưa doanh nghiệp đến bên bờ vực phá sản trng điều kiện cạnh trnah gay gắt như hiện nay. Việc lựa chọn kinh doanh mặt hàng nào không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của doanh nghiệp mà nó phị thuộc vào nhu cầu của thị trường. Để lựa chọn đúng mặt hàng mà doanh nghiệp có thể kinh doanh với hiệu quả kinh tế cao nhất đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải làm tốt khâu nghiên cứu thị trường . * Chu kỳ sống của sản phẩm. Chu kì sống của sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của thị trường. Những mặt hàng mà nhu cầu thường có xu hướng biến động càng nhanh thì chu kì sống của sản phẩm đó càng ngắn. Việc nắm bắt được chu kì sống của sản phẩm sẽ có vai trò rất to lớn trong sự thành công của mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Doanh nghiệp sẽ có nhiều khả năng thành công khi kinh doanh những mặt hàng còn trong giai đoạn phát triển. Mỗi sản phẩm đều phải trải qua bốn thời kỳ phát triển đó là : Giai đoạn1: Là giai đoạn hàng hoá mới được tung ra thị trường và chưa được người tiêu dùng biết tới. Giai đoạn 2: : Là giai đoạn phát triển của sản phẩm . Trong giai đạon này người tiêu dùng đã quen với sản phẩm và được tiêu dùng rộng rãi. Giai đoạn3: : Là giai đoạn bão hoà của sản phẩm. Trongn giai đoạn nàydoanh thu tăng chậm và có xu hướng giảm. Giai đoạn 3: : Là giai đoạn suy thoái. Giai đoạn này hàng hóa đó không còn được thị trường ưa chuộng, doanh thu giảm nhanh chóng. Hàng hoá ở giai đoạn này thì doanh nghiệp nên rút khỏi thị trường hoặc chuyển mặt hàng kinh doanh . Ngoài những nội dung trên việc tạo ra uy tín cũng là một vấn đề rất quan trọng trong chiến lược sản phẩm mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu không được bỏ qua nếu muốn kinh doanh lâu dài.  chương ii: sự cần thiết phải đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Hoa Kì . I. căn cứ lý thuyết về thương mại quốc tế. Như chúng ta biết rằng mỗi một hoạt động kinh tế bất kỳ đều được chỉ lối bằng một lý thuyết kinh tế nhất định. Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Nó không những chỉ có trong một nền kinh tế hiện đại mà còn có ngay cả từ rất xa xưa trong các hình thaí kt xã hội khác nhau như xã hội nô lệ hay xã hội phong kiến. Thương mại quốc tế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chuyên môn hóa lao động nhưng nó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ khi chủ nghĩa tư bản ra đời với tính chất chuyên môn hoá sâu sắc của sản xuất và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Thương mại quốc tế là sự mua bán trao đổi hàng hoá , dịch vụ giữa các nước. Sự trao đổi hàng hóa là một hình thứccủa mối quan hệ xã hội, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất khác nhau ở các nước khác nhau. Thương mại quốc tế cho phép một quốc gia có thể mở rộng khả năng tiêu dùng cũng như mở rộng khả năng sản xuất. Cho phép mỗi quốc gia phát huy tốt hơn khả năng của mình trong sản xuất và phát triển kinh tế . Tiền đề của thương mại quốc tế là chuyên môn hoá trong sản xuất. Không một quốc gia nào có đủ khả năng và nguồn lực để sản xuất có hiệu quả mọi hang hoá , dịch vụ. Chính vì vậy chuyên môn hoá vào sản xuất những hàng hoá mà nước mình có lợi thế để trao đổi lấy những hàng hoá mà nước mình kém lợi thế sẽ phát huy hiệu quả kinh tế cao hơn cố gắng sản xuất những mặt hàng đó. Và người đầu tiên chứng minh được điều này bằng lý thuyết kinh tế là nhà kinh tế học Adam Smith. Ông đã đưa ra lý thuyết Lợi thế tuyệt đối với nội dung chủ yếu như sau : Mỗi quốc gia đều có những lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất ra một số sản phẩm với chi phí thấp tuyệt đối nhờ nguồn lợi của tự nhiên, tài nguyên, nghành nghề truyền thống, lao động... Khi một nước có lợi thế tuyệt đối so với các nước khác về sản xuất một loại hàng hoá nào đó thì có thể tiến hành chuyên môn hoá vào sản xuất hàng hoá đó nhằm trao đổi lấy các hàng hoá khác mà nước mình kém lợi thế. Như chúng ta biết rằng thương mại quốc tế không chỉ dựa trên cơ sở những lợi thế tuyệt đối sẵn có. Không phải khi nào thương mại quốc tế cũng dựa trên nền tảng của những lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, nguồn nhân công rẻ. Nhật bản là một ví dụ về điều đó bởi nước này không hề có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên cũng như chi phí nhân công không hề rẻ nhưng tại sao hàn hoá của nước này vẫn xuất khẩu sang các nước có những điều kiện thuận lợi trên? Để trả lời cho câu hỏi này nhà kinh tế học người Anh là David Ricardo(1772-1823) đã chứng minh rằng chuyên môn hoá quốc tế đều có lợi mọi quốc gia. Và ông gọi đây là quy luật lợi thế tương đối hay lý thuyết về lợi thế so sánh. Quy luật lợi thế tương đối chỉ ra rằng ngay cả khi một nước kém hiệu quả hơn (kém lợi thế tuyệt đối hơn) một nước khác trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá khác nhau vẩn có thể có lợi khi trao đổi hàng hoá với nhau bằng cách chuyên môn hoá vào sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà nước mình có bất lợi tuyệt đối nhỏ hơn ( có lợi thế tương đối) và nhập khẩu những hàng hoá mà nước mình có bất lợi tuyệt đối lớn hơn. Thương mại quốc tế ngày nay dựa trên cơ sở của lợi thế tương đối là chủ yếu và đây mới thực sự là nguồn gốc của thương mại quốc tế. Lợi thế tương đối ngày nay giữa các nước rất đa dạng. Mọi quốc gia đều có thể tham gia vào hợp tác kinh tế quốc tế và thương mại quốc tế điều đó chứng tỏ rằng có rất nhiều cơ sở để hình hành quan hệ buôn bán quốc tế giữa các nước với nhau. Để chứng minh cho điều này hàng loạt lý thuyết mới về thương mại quốc tế đã ra đời như: Lý thuyết về sự tương quan các nhân tố của Hecsher-Ohlin. Lý thuyết về thương mại quốc tế dựa trên sự khác biệt về công nghệ. Lý thuyết về thương mại quốc tế dựa trên lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Lý thuyết về thương mại quốc tế dựa trên sự khác biệt về sản phẩm. .... Tất cả những lý thuyết này đều nhằm mục đích đi tìm bản chất của lợi thế tương đối và mỗi lý thuyết thì tìm ra được một nguồn gốc của lợi thế tương đối trên cơ sở những giả định của lý thuyết đó. Nhưng dù có theo trường phái kinh tế nào đi chăng nữa thì chúng ta đều phải thừa nhận rằng thương mại quốc tế ngày nay chủ yếu dựa trên những lợi thế tương đối, và đó là cơ sở để các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia đang phát triển mạnh dạn tham gia vào thương mại quốc tế. II. căn cứ nhu cầu thị trường Mỹ về hàng thuỷ sản . Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 thế giới (sau Nhật Bản) và tăng đều trong nhiều năm qua. Năm 1992, Mỹ nhập khẩu 6,02 tỷ USD thuỷ sản, năm 1995 tăng lên 7,14 tỷ USD, năm 1998 là 8,45 tỷ USD và 1999 là 9,3 tỷ USD. Trước năm 1998, nhập khẩu tôm vào Mỹ thấp hơn Nhật Bản, nhưng từ năm 1998 Mỹ đã vượt lên thành thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới. Mặt hàng nhập khẩu nhiều nhất vào Mỹ là tôm đông lạnh, với khối lượng nhập khẩu năm 1998 và 1999 đạt trên 300.000 tấn, trị giá trên 3 tỷ USD. Nước cung cấp tôm lớn nhất cho Mỹ là Thái Lan, Êquađo, Inđônêxia và ấn Độ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch bệnh, xuất khẩu tôm của Êcuađo vào thị trường này từ năm 1999 đã giảm đáng kể. Mặt hàng nhập khẩu lớn thứ hai là cá ngừ đóng hộp, năm 1999, nhập khẩu mặt hàng này vào Mỹ đạt 151.000 tấn, trị giá 885 triệu USD và tăng 32% so với năm 1998. Thái Lan là nhà cung cấp chính cá ngừ hộp cho thị trường Mỹ (chiếm trên 50%), tiếp theo là Philippin, Inđônêxia, Đài Loan. Cá hồi là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ 3 của Mỹ (chủ yếu là cá hồi nuôi Đại Tây Dương) với giá trị nhập khẩu là 727 triệu USD năm 1999, tiếp theo là tôm hùm (719 triệu USD). Mỹ là nước tiêu thụ thuỷ sản đứng thứ 3 trên thế giới, sau Nhật Bản và Trung Quốc. Mức tiêu thụ thuỷ sản của Mỹ trung bình trong năm 1994 đến 1997 là 5,78 triệu tấn/năm. Trong năm 1998 và1999 mức tiêu thụ còn cao hơn nữa. Cá hộp là mặt hàng thuỷ sản được tiêu thụ nhiều nhất ở Mỹ và ở mức khá ổn định trong những năm gần đây là 4,4 - 4,5 lb/đầu người.năm. Trong đó cá ngừ đóng hộp là mặt hàng chính (3,4lb/đầu người.năm). Mặt hàng tiêu thụ lớn thứ hai là tôm đông lạnh, với mức tiêu thụ bình quân trên đầu người trong năm 1996 là 3,19 lb (1,48kg) và 1998 là 3,59 lg (1,63 kg). Ngoài ra, các mặt hàng khác được tiêu thụ khá ở Mỹ là (lb/người.năm) : cá hồi (1,7), cá tuyết pollack (0,54) và nhuyễn thể 2 vỏ (0,89). III. căn cứ về nguồn hàng xuất khẩu của Việt Nam . Việt Nam là nước có nguông thuỷ sản tương đối phong phú với nhiều loài có giá trị kinh tế cao và trữ lượng khia thác lớn. Hiện nay ngoài hơn 2000 loài cá biển còn có trên 70 loài tôm và rất nhiều loại thuỷ sản khác. Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào chế biến như hiện nay đã góp phần đa dạng hoá các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam phục vụ cho xuất khẩu. So với trước đây cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam không còn chỉ là tôm mà đã mở rộng ra các sản phẩm khác như cá tra , cá ba sa, cá phi lê tươi và đông lạnh, mực ( bao gồm mực khô và mực đông lạnh),cua , ốc sò huyết...Ngay cả mặt hàng tôm hiện nay do trình độ chế biến được nâng cao đã giúp cho mặt hàng nay trở nên cực kỳ phong phú về chủng loại ví dụ như: tôm đông lạnh, tôm bóc vỏ, tôm tẩm bột... Có một lợi thuỷ sản hết sức phong phú và đó chính là một cơ sở để các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản yên tâm về nguồn hàng phục vụ xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ . IV. yêu cầu về đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam . Chính sách mơ cửa của Đảng và Nhà nước cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào hợp tác quốc tế. Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu là một ngành còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác công cuộc đổi mới đất nước cần có những nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu để phục vụ cho nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước không có khả năng sản xuất được...Chính vì vậy phát triển một ngành ngoại thương tổng hợp và toàn diện dựa trên những lợi thế sẵn có của Việt Nam là một yêu càu tất yếu. Thuỷ sản là một ngành có nhiều tiềm năng nhất trong lĩnh vực nông nghiệp. Chính vì vậy đòi hỏi đưa ngành này trở thành một ngành kinh tế mũi nhịn đã trở thành một yêu cầu không thể xem nhẹ. Phát triển ngành thuỷ sản không những để giải quyết công ăn việc làm cho gười lao động trong nước mà mục tiêu cơ bản là hướng tới xuất khẩu. Mỹ là một thị trường rộng lớn với trên 200 triệu dân và có mức thu nhập bình quân cao hàng đầu thế giới, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản ở Mỹ lại ngày một tăng mạnh trong khi khả năng sản lại có hạn, lượng nhập khẩu thuỷ sản cả Mỹ tăng liên tục từ 1997 đến nay và có xu hướng tiếp tục tăng do cung trong nước không thể đủ cầu. Chính vì vậy đòi hỏi đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa Kỳ là một hướng đi dúng đắn và rất cần thiết đối với thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Phần ii: thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ . Chương i: tổng quan về tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong một vài năm gần đây. I. Những nét khái quát về thị trường thuỷ sản của Hoa Kỳ . Mỹ là cường quốc thế giới về khai thác, nuôi trồng và chế biến các sản phẩm thuỷ sản. Sản lượng nuôi trồng đang tăng trưở._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34571.doc
Tài liệu liên quan