Lời cảm ơn
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Kế hoạch và Phát triển, đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung đã chỉ bảo, hướng dẫn tận tình trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành bài viết này.
Cháu xin cảm ơn chú Nguyễn Đức cùng các cô chú Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Công nghiệp, Trung tâm Thông tin Thư viện - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong quá trình thực tập và tìm kiếm, tham khảo tài liệ
109 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đầu tư phát triển ngành da giầy Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u phục vụ cho bài viết.
Cám ơn Bố, Mẹ, Ông, Bà... đã ngày đêm động viên tinh thần và cung cấp những cơ sở vật chất cho con trong thời gian vừa qua.
Cám ơn các bạn đã đóng góp ý kiến bổ ích cho bài viết.
Xin chân thành cảm ơn!
phần mở đầu
Thực hiện chủ trương cải cách, đổi mới đường lối phát triển kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Công sản Việt Nam (12/1986) đã đưa ra ba chương trình kinh tế lớn: Chương trình phát triển lương thực thực phẩm, Chương trình phát triển hàng tiêu dùng và Chương trình phát triển hàng xuất khẩu. Những thành công của quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn vừa qua khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà Nước ta. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) lại khẳng định đường lối phát triển công nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 –2010 là "Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, phát triển các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mền..."
Với vai trò quan trọng của mình, ngành Da - Giầy luôn được Nhà Nước ta giành cho nhiều ưu đãi và được khuyến khích đầu tư phát triển. Từ một ngành sản xuất nhỏ bé trong nền kinh tế, ngành Da - Giầy Việt Nam đã không ngừng phát triển với tốc độ cao. Góp phần tích cực của mình vào chiến lược phát triển hàng xuất khẩu, chiếm lược tạo việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
Có nhiều nhân tố khách quan và chủ quan để ngành đạt được những kết quả này, như: hoạt động đầu tư của ngành, chính sách của Nhà Nước, chính sách đầu tư, điều kiệm khoa học kỹ thuật, xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới, các điều kiện tự nhiên và các điều kiện kinh tế xã hội khác... Trong đó, yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất để ngành đạt được những thành công này là hoạt động đầu tư của ngành. Hoạt động đầu tư đã tạo ra cơ sở vật chất ban đầu và phát triển các cơ sở vật chất đó để ngành duy trì và mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất từ các nước trong khu vực và thúc đẩy ngành phát triển.
Với ý nghĩa cả về mặt kinh tế, xã hội sâu xắc, xuất phát từ thực tế khách quan và tính cấp thiết của vấn đề đặt ra, em xin chọn đề tài luận văn tốt nghiệp:
"Giải pháp đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010"
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển ngành Da – Giầy Việt Nam giai đoạn 1993 – 2001.
Chương III: Giải pháp và định hướng đầu tư phát triển ngành Da – Giầy Việt Nam đến năm 2010.
Mục đích nghiên cứu: nhằm củng cố, rèn luyện, phát triển những kiến thức lý luận, áp dụng lý luận vào thực tiễn nhằm lý giải những hiện tượng kinh tế, xã hội trong thực tiễn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: là các hoạt động sử dụng vốn đầu tư (quy mô, cơ cấu, nhịp độ...), kết quả và hiệu quả đầu tư của ngành Da - Giầy Việt Nam giai đoạn 1993 - 2001, nghiên cứu hoạt động đầu tư trong mối quan hệ với các hoạt động kinh tế, xã hội có liên quan...
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm phát hiện những mối quan hệ qua lại có tính quy luật giữa các hiện tượng kinh tế, xã hội, chính sách, pháp luật... với các hoạt động đầu tư của ngành Da - Giầy Việt Nam, mối quan hệ nội tại của hoạt động đầu tư trong ngành... Từ đó lý giải các hiện tượng về đầu tư của ngành và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút, huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào ngành Da - Giầy Việt Nam để ngành đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội của mình trong giai đoạn tới.
Phương pháp nghiên cứu: có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả kinh tế, xã hội của hoạt động đầu tư trong một ngành. Vì vậy, để làm rõ mối quan hệ cơ bản giữa các đối tượng nghiên cứu, bài viết sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, qua đó gạt bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, tạm thời, không cơ bản; đồng thời cho phép xem xét các mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản, thường xuyên và có tính quy luật chung.
Để phân tích thực trạng và định hướng hoạt động đầu tư trong giai đoạn tới bài viết cũng áp dụng các phương pháp phân ích thống kê, phương pháp dự báo, phương pháp mô hình hóa...
Với những tài liệu được nghiên cứu, những kiến thức tiếp thu được trong qua trình thực tập em xin được trình bày vấn đề đặt ra với mong muốn được học hỏi dưới sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, các cô chú cán bộ Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Công nghiệp và sự đóng góp ý kiến chân thành của các bạn sinh viên. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu chưa đầy đủ và thiếu các kiến thức thực tế nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu xót, em mong được sự đóng ý kiến của thầy cô, các cô chú và các bạn.
Chương I:
Lý luận chung về đầu tư
và đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam
I- Lý luận chung về đầu tư.
1. Đầu tư và đầu tư phát triển
1.1. Khái niệm
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực (bao gồm: tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ...) ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai với quy mô lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Những kết quả thu được có thể là: sự gia tăng gia tăng tài sản vật chất, tài sản tài chính, tài sản trí tuệ...
Có thể hiểu đầu tư theo nghĩa hẹp là việc đưa một lượng vốn nhất định vào quá trình hoạt động kinh tế nhằm thu lại một lượng vốn lớn hơn sau một khoảng thời gian nhất định. Điều này giúp ta phân biệt hoạt động đầu tư với các hoạt động mua sắm, tiêu dùng; cũng như các hoạt động kinh tế xã hội khác.
Cũng cần phân biệt hoạt động đầu tư với các hoạt động bỏ tiền ra nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của các tổ chức. Hằng năm, Nhà nước phải bỏ ra những khoản tiền lớn để duy trì hoạt động của bộ máy quản lý hành chính các cấp; các tổ chức phải chi phí một khoản tiền đáng kể cho các hoạt động mang tính chất thường xuyên để thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn của đơn vị mình. Còn đối với nền kinh tế, hoạt động đầu tư là không thể thiếu được, có đầu tư thì mới có sản xuất, có đầu tư thì mới bù đắp được những cơ sở vật chất, kỹ thuật đã bị hao mòn trong quá trình sản xuất trước và là điều kiện quyết định để mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực cho nền kinh tế, đầu tư là nhằm thực hiện mục đích thực hiện sản xuất để thu lợi nhuận.
Trong hoạt động đầu tư được chia làm 3 loại: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển. Trong đó đầu tư phát triển là quan trọng nhất, là nguồn gốc tạo ra tài tài sản quốc gia, tạo lên sự giàu có của một dân tộc.
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (mua trái phiếu, gửi tiết kiệm...) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (cổ phiếu).
Đầu tư thương mại là loại hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán ra với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận từ sự chênh lệch giá mua và giá bán.
Đầu tư phát triển là loại hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà xưởng và cấu trúc hạ tầng; mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền hệ; bồi dưỡng đào tạ nguồn nhân lực; thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoạt động của các cơ sở và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện tạo ra việc làm, năng cao thu nhập, cải thiện đời sống của các thành viên trong xã hội.
1.2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế
Nói về vai trò của đầu tư phát triển, các nền kinh tế, bao gồm nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế hỗn hợp đầu coi đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư phát triển được xem xét dưới các giác độ sau:
1.2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
- Đầu tư phát triển tác động mạnh đến tổng cung hoặc tổng cầu của nền kinh tế. Là bộ phận lớn và hay thay đổi trong tổng chi tiêu, đầu tư phát triển có vai trò kinh tế vĩ mô.
Trong ngắn hạn, đầu tư trước hết tác động đến tổng cầu (thông thường đầu tư chiếm khoảng 20 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của nền kinh tế), sự thay đổi của đầu tư làm thay đổi tổng sản lượng và giá cả tạo ra sự tăng trưởng cho nền kinh tế.
Về mặt dài hạn, đầu tư tạo ra năng lực sản xuất mới, mở rộng sản xuất, làm tăng sản lượng tiềm năng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn sau. Đây là vai trò quan trọng nhất của đầu tư phát triển.
- Đầu tư phát triển có tác động hai mặt đến sự phát triển của nền kinh tế. Khi tổng đầu tư tăng lên, đây là điều kiện cần thiết để tăng trưởng và phát triển kinh tế, thu hút lao động, nâng cao thu nhập... nhưng cũng kéo theo sự gia tăng về giá cả gây ra lạm phát, ngoài ra nếu công tác quản lý đầu tư không được thực hiện tốt còn dẫn tới đầu tư dàn trải, thiếu quy hoạch, khai thác kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội...
- Đầu tư phát triển là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Đầu tư là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở hiện tại và yêu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện đời sống trong tương lai.
Vai trò này của đầu tư phát triển được biểu hiện rõ nét qua mô hình tăng trưởng kinh tế của Harrod - Domar:
g = s / k
Trong đó:+ g: Tốc độ tăng trưởng của GNP thời kỳ nghiên cứu (năm t).
+ s: Tỷ lệ tiết kiệm trong GNP năm gốc (t-1). + k: Hệ số ICOR
Mặt khác: k = ΔK / ΔGNP
Và: s = S / GNP = I / GNP
Trong đó: + K : Vốn sản xuất của nền kinh tế
+ ΔK : Lượng vốn sản xuất gia tăng
+ S : Tiết kiệm của nền kinh tế
Vậy ta có:
Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào: tỷ lệ đầu tư trong GNP, trình độ kỹ thuật của sản xuất (k) và hiệu quả của hoạt động đầu tư (ΔGNP / ΔK).
Nếu hệ số ICOR không đổi thì tỷ lệ vốn đầu tư so với GNP sẽ quyết định đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển đất nước trong từng thời kỳ. Cơ cấu ngành của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu đầu tư theo ngành, nhìn vào cơ cấu đầu tư có thể cho chúng ta một cái nhìn tổng quát nhất về cơ cấu ngành, trình độ phát triển của nền kinh tế. Sự thay đổi trong đầu tư của một ngành tạo ra sự thay đổi tốc độ đầu tư của chính ngành đó, vì vậy Nhà nước có thể sử dụng các phương án phân bổ đầu tư như một công cụ làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng mong muốn và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế cũng như các điều kiện tự nhiên xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật của đất nước. Mặt khác, với cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ, đầu tư có có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa các vùng kém phát triển ra khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời cũng tạo ra những vùng cực tăng trưởng, làm đầu tầu lôi kéo nền kinh tế của vùng và các vùng lân cận cùng phát triển, qua đó phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế xã hội... của tùng vùng, là địa chỉ để các nhà đầu tư tìm đến, thực hiện phát triển kinh tế theo quy hoạch.
- Đầu tư, ngoài những tác động về kinh tế còn tăng cường khả năng công nghệ của đất nước, thông qua hoạt động đầu tư để đổi mới sản xuất, thay thế những công nghệ đã lạc hậu, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định sự thành công quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Mọi phương án công nghệ không gắn với đầu tư đều là phương án không khả thi và khó có thể thực hiện được.
- Ngoài ra đầu tư còn là cơ hội để học hỏi, nâng cao trình độ tổ chức quản lý cho các cán bộ. Đầu tư cũng làm thay đổi các mặt khác của xã hội như: vui chơi giải trí, văn hoá, giáo dục...
1.2.2. Trên giác độ doanh nghiệp
Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thì đầu tư là yếu tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Để chuẩn bị cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào thì việc đầu tiên là phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng; mua sắm, lắp đặt thiết bị và tiến hành các công tác xây dựng khác. Trong mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh thì những cơ sở vật chất này dần dần bị hao mòn, hư hỏng. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất, kinh doanh diễn ra bình thường yêu cầu phải được sửa chữa hoặc thay thế mới. Hoạt động này sẽ không thể thực hiện được nếu không có đầu tư. Mặt khác, một doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất, kinh doanh hay muốn nâng cao khả năng cạnh tranh, cải thiện vị trí của mình trên thị trường thì đầu tư là yếu tố quyết định. Trong trường hợp này yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện những khoản đầu tư lớn, không chỉ phải đầu tư mở rộng sản xuất, mà còn phải thực hiện đầu tư theo chiều sâu nâng cao trình độ khoa học công nghệ, đầu tư vào chất lượng của đội ngũ lao động từ khâu tuyển dụng cho đến đào tạo và sử dụng. Tất cả các hoạt động, các chi tiêu khác phát sinh trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đều không nằm ngoài phạm vi của đầu tư.
Tóm lại, đầu tư đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nó có tác động nhiều mặt, theo nhiều hướng khác nhau đến nền kinh tế - xã hội của một đất nước cũng như đối với từng doanh nghiệp.
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác là:
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho đầu tư phát triển.
- Thời gian để tiến hành công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
- Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng do đó không tránh khỏi sự tấc động, mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội...
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ngay nơi mà nó được dựng lên. Do đó, các điều kiện về mặt địa hình tại đó có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện đầu tư và các kết quả, hiệu quả của đầu tư sau này.
- Vì thời gian thực hiện đầu tư dài, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội... vốn đầu tư lớn. Do đó, mức độ rủi ro xảy ra cao. Vì vậy, yêu cầu phải nghiên cứu kỹ mọi yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư của dự án, xem xét các nguyên nhân rủi ro và các biện pháp loại bỏ, hạn chế rủi ro.
1.4. Phân loại đầu tư.
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư, các nhà kinh tế phân hoạt động đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Nhìn chung, sự phân loại hoạt động đầu tư chỉ mang tính chất tương đối. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
- Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Bao gồm đầu tư cho đối tượng vật chất (đầu tư cho tài sản vật chất, tài sản thực), đối tượng tài chính (như mua cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán) và đầu tư cho đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ, nâng cao năng lực khoa học công nghệ, đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực).
- Theo cơ cấu tái sản xuất: Bao gồm đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng, tức là đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu vốn đầu tư lớn, nằm khê đọng lâu trong quá trình sản xuất, thời gian thực hiện và thời gian hoạt động cần thiết để thu hồi đủ vốn đầu tư dài, tính chất kỹ thuật phức tạp và độ rủi ro cao. Còn đầu tư theo chiều sâu không làm thay đổi quy mô sản xuất, nhưng có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nhân lực, cải thiện trình độ quản lý, cải thiện môi trường sản xuất và sinh hoạt, qua đó giảm chi phí sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn.
- Theo phân cấp quản lý: Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo nghị định số 52/NĐ-CP, phân dự án đầu tư thành 3 nhóm A,B,C tuỳ theo tổ chức và quy mô của mỗi dự án. Trong đó, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ ký quyết định đầu tư, hoặc uỷ quyền ký quyết định đầu tư. Đối với các dự án thuộc nhóm B và C do Bộ trưởng; Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng; cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội; Chủ tịch UBND tỉnh ký quyết định đầu tư.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của kết quả đầu tư, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
- Theo giai đoạn hoạt động của kết quả đầu tư. Trong quá trình tái sản xuất xã hội có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành: đầu tư sản xuất, đầu tư thương mại.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đầu tư có thể phân chia hoạt động đầu tư thành: đầu tư dài hạn, đầu tư trung hạn và đầu tư ngắn hạn.
- Theo quan hệ quản lý đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các Chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các Chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc cá nhân, tổ chức mua các chứng chỉ có giá trị để hưởng lợi.
+ Đầu tư trực tiếp: Là loại hình đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình vận hành và thực hiện các kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân chia thành đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển.
Đầu tư chuyển dịch: là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại cổ phần của một số nhà đầu tư khác để nắm quyền chi phối hoạt động doanh nghiệp. Trong trường hợp này, đầu tư không làm tăng tài sản của doanh nghiệp mà thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp này.
Đầu tư phát triển: là loại đầu tư tạo nên năng lực sản xuất phục vụ mới. Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
- Theo nguồn hình thành vốn: bao gồm đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
- Theo vùng lãnh thổ: Phản ánh tình hình đầu tư của từng kế hoạch vực địa lý, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
2. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư
* Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân, vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực sản xuất mới cho nền kinh tế.
Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Thực tế những quốc gia phát triển trên thế giới đã khẳng định tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhanh hay chậm là do vốn đầu tư quyết định.
* Nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế chỉ có thể tạo ra bằng tiết kiệm trong nước và huy động vốn từ nước ngoài. Trong đó, vốn trong nước giữ vai trò then chốt, có ý nghĩa quyết định; vốn nước ngoài có vai trò bổ sung, có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau:
+ Vốn tích luỹ từ ngân sách: được huy động đầu tư vào các lĩnh vực như an ning, quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào các ngành công nghiệp then chốt và các công trình phúc lợi khác.
+ Vốn tích luỹ của các doanh nghiệp: chủ yếu được huy động đầu tư vào các khu vực kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao.
+ Vốn tiết kiệm của dân cư: hiện nay nguồn vốn này chưa được khai thác hiệu quả.
- Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
+ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn của các doanh nghiệp; các cá nhân, người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý, sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho một dự án tuy không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã hội của nước tiếp nhận, nhưng nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho cho quá trình chuyển giao công nghệ, giải quyết công ăn việc làm, thâm nhập vào thị trường quốc tế, học hỏi kinh nghiệm quản lý...
+ Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ được thực hiện dưới hình thức không hoàn lại, hoàn lại; cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp; vốn viện trợ và phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thường lớn nên có tác động mạnh và nhanh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thường gắn với các điều kiện về kinh tế, chính trị; dễ bị lệ thuộc vào nước ngoài...
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành
Hiệu quả đầu tư của một ngành có thể được đánh giá theo nhiều chỉ tiêu khác nhau dựa trên những tác động của đầu tư vào ngành, đến sự phát triển ngành và các mặt kinh tế xã hội khác. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà ta có thể đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành theo những chỉ tiêu nhất định. Sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản:
3.1. Chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư xây dựng cơ bản (H).
Chỉ tiêu này là rất quan trọng và không thể bỏ qua khi nghiên cứu hiệu quả đầu tư của một ngành. Hiệu quả đầu tư vốn đầu tư xây dựng cơ bản của một ngành có thể biểu hiện bằng những chỉ tiêu khác nhau nhưng chỉ tiêu chung nhất, tổng hợp nhất và quan trọng nhất là chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Hi = GOi/Ii
Trong đó:
+ Hi : Hiệu suất vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành i
+ GOi:Giá trị sản xuất của ngành i trong thời kỳ nghiên cứu
+ Ii :Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành i trong thời kỳ nghiên cứu
Chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư XDCB (H) càng lớn thì hiệu quả đầu tư của ngành càng cao.
3.2. Chỉ tiêu suất đầu tư của ngành (Id)
Suất đầu tư của một ngành là nhu cầu vốn đầu tư cần thiết phải thực hiện để một lao động có việc làm.
Cách tính: Id = I / L
Trong đó: +L: Số lao động của ngành i trong thời kỳ nghiên cứu
+I: Vốn đầu tư vào ngành i trong thời kỳ nghiên cứu
+Id: Suất vốn đầu tư của ngành i trong thời kỳ nghiên cứu
Đối với một ngành cụ thể thì chỉ tiêu này tương đối ổn định. Vì vậy, dựa vào chỉ tiêu suất vốn đầu tư và vốn đầu tư vào ngành ta có thể xác định được số lao động mà ngành thu hút. Hoặc nếu biết mục tiêu thu hút lao động của ngành ta có thể xác định được nhu cầu vốn đầu tư của ngành trong một thời kỳ nhất định.
Tuy nhiên, chỉ tiêu suất đầu tư ở đây được nghiên cứu với ý nghĩa cho chúng ta thấy khả năng thu hút lao động của ngành là lớn hay nhỏ. Chỉ tiêu suất đầu tư càng nhỏ thì ta phải đầu tư một lượng vốn đầu tư ít để một lao động có việc làm; tức là ngành có khả năng thu hút lao động cao. Qua đó nó cũng thể hiện những tác động của đầu tư đến mục tiêu giải quyết việc làm của ngành cũng như các vấn đề kinh tế, xã hội khác.
3.3. Chỉ tiêu tiết kiệm và tăng ngoại tệ
Tiết kiệm ngoại tệ và tăng nguồn thu ngoại tệ sở hữu nhằm hạn chế dần sự phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và lành mạnh hoá cán cân thanh toán quốc tế. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay.
Đễ tính được chỉ tiêu này ta phải tính được giá trị xuất khẩu, phục vụ xuất khẩu của ngành cũng như sự phát triển của ngành hạn chế nhập khẩu do đáp ứng nhu cầu của tiêu dùng và sản xuất. Đồng thời cũng phải tính được giá trị nhập khẩu tăng thêm khi thực hiện đầu tư phát triển ngành cả gián tiếp và trực tiếp. Nếu giá trị này dương thì hoạt động đầu tư có tác động tích cực làm tăng ngoại tệ của đất nước. Ngược lại thì đầu tư phát triển ngành lại làm bội chi ngoại tệ.
3.4. Những tác động kinh tế xã hội khác của hoạt động đầu tư phát triển ngành.
- Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: sự gia tăng năng lực phục vụ của kết cấu hạ tầng có sẵn, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới.
- Tác động đến môi trường: Đây là những ảnh hưởng của đầu vào, đầu ra của dự án đến môi trường. Trong các tác động thì có những tác động tích cực và những tác động tiêu cực đến môi trường. Đôi khi những ảnh hưởng này là rất lớn, có khi làm biến đổi hẳn môi trường sống, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sinh hoạt của con người. Vì vậy, nếu là những tác động tiêu cực thì đầu tư cần phải gắn với các giải pháp khắc phục và chi phí để thực hiện các giải pháp đó. Nếu chi phí này quá lớn hoặc lớn hơn cái xã hội nhận được thì phải chuyển địa điểm dự án (nếu có thể được) hoặc huỷ bỏ dự án.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ chuyên môn của người lao động, trình độ quản lý của nhà quản lý, thúc đẩy năng suất lao động, cải thiện thu nhập cho người lao động.
- Những tác động xã hội, chính trị, kinh tế, khác như: nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện, tiếp nhận được công nghệ mới, mở rộng thị trường, tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển những vùng yếu kém, các vùng xa xôi nhưng có tiềm năng...
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả đầu tư của một ngành.
Để hoạt động đầu tư phát triển đạt hiệu quả tích cực, chúng ta phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của một ngành, qua đó có những quyết định đầu tư hợp lý, những phương án đầu tư tối ưu, tạo ra lợi ích cho toàn xã hội.
- Thứ nhất, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách phát triển, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là các chính sách ưu đãi đầu tư có tác động rất lớn tới việc thu hút vốn đầu tư và việc lựa chọn các phương án sử dụng vốn đầu tư của một ngành.
- Thứ hai, nhu cầu của thị trường. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển sản xuất, tác động mạnh mẽ đến xu thế chuyển dịch ngành. Nhu cầu thị trường là căn cứ để đưa ra các phương án đầu tư, quyết định quy mô của vốn đầu tư cũng như hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Thứ ba, điều kiện tự nhiên và tình trạng tài nguyên thiên nhiên của mỗi nước. Nhân tố này bao gồm nguồn đất đai, vị trí địa lý, môi trường sinh thái, trữ lượng và chất lượng tài nguyên động, thực vật và khoáng sản. Nhân tố này tác động khá mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành, đặc biệt là các nước chậm phát triển, trình độ công nghiệp hoá ở mức thấp.
- Thứ tư, tiến bộ khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất của mỗi nước ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của một ngành. Sự tác động của nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ được thể hiện ở nhiều khía cạnh như phát hiện và khai thác nhiều tài nguyên mới, nâng cao trình độ khai thác, sử dụng, tổng hợp nguyên vật liệu, tạo ra các phương thức sản xuất mới hiệu quả hơn. Đồng thời ứng dụng công nghệ và hệ thống máy móc hiện đại nâng cao trình độ cơ khí hoá, tự động hoá, điện khí hoá và hoá học hoá trong các ngành sẽ làm cho sự phát triển của ngành ở một trình độ cao hơn, gia tăng sản lượng, tạo ra những tác động tích cực đến hiệu quả đầu tư.
- Thứ năm, định hướng phát triển ngành. Đây là một nhân tố tác động rất lớn đến kết quả và hiệu quả đầu tư của một ngành. Định hướng phát triển ngành sẽ xác định những mục tiêu cơ bản nhất mà ngành cần đạt được trong một giai đoạn nhất định. Trong đó mục tiêu tổng hợp nhất đó là tốc độ tăng trưởng của ngành, để đạt được mục tiêu này thì đầu tư luôn giữ vai trò quyết định. Đồng thời khi xác định phương hướng phát triển ngành thì đi kèm theo đó là những cơ chế chính sách, những cơ chế chính sách này sẽ tác động trở lại kết quả và hiệu quả đầu tư vào ngành.
- Thứ sáu, chất lượng các dự án đầu tư. Trong mỗi giai đoạn phát triển, mỗi ngành đều phải xác định cho mình mục tiêu tổng quát (mục tiêu chiến lược), để đạt được mục tiêu cuối cùng này, ngành cần phải đạt được các mục tiêu trung gian và tạo thành cây mục tiêu của ngành. Mục tiêu chiến lược chỉ có thể đạt được khi ngành thực hiện được các mục tiêu trung gian và các mục tiêu trung gian chỉ đạt được khi chúng ta thực hiện các hoạt động đầu tư thông qua việc triển khai các dự án. Vì vậy, chất lượng các dự án đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp hiệu quả của hoạt động đầu tư cũng như việc thực hiện các mục tiêu của ngành.
- Thứ bảy, năng lực của các nhà quản lý có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của hoạt động đầu tư. Năng lực của các nhà quản lý ảnh hưởng đến việc định hướng đầu tư, xác định các dự án đầu tư; việc thẩm định hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế của dự án; tiến độ triển khai các dự án; cũng như việc quản lý thực hiện dự án sau đầu tư…
- Thứ tám, tình hình ngoại thương và các định chế có liên quan như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái, luật đầu tư cho người nước ngoài, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế... cũng ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của một ngành.
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của một ngành. Vì vậy, khi tiến hành đầu tư đòi hỏi phải xem xét, đánh giá một cách khoa học, nghiêm túc các nhân tố và tìm ra được các nhân tố mang tính c._.hất quyết định, qua đó có các phương án đầu tư hợp lý nhằm thu được kết quả tốt nhất.
II. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010.
1. Vai trò của ngành công nghiệp Da - Giầy trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Vai trò của ngành Da - Giầy trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam được xem xét dưới những góc độ sau:
1.1. Sản phẩm của ngành Da - Giầy đáp ứng nhu cầu tiêu dùng không thể thiếu của xã hội. Với dân số trên 80 triệu người, việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng về các sản phẩm Da - Giầy chỉ riêng cho thị trường nội địa cũng cho thấy vai trò quan trọng của ngành. Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm Da - Giầy của thị trường nội địa vài năm gần đây có tốc độ tăng trưởng cao khi mà thu nhập của người dân luôn được cải thiện, thị hiếu và thẩm mỹ của người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi cao. Tuy nhiên trong những năm qua, nhu cầu của thị trường nội địa vẫn chỉ dưới dạng tiềm năng, còn bị bỏ ngỏ, chưa được ngành tập trung khai thác. Đa số giầy dép dùng để xuất khẩu, chỉ khoảng 10% sản lượng được tiêu thụ trong nước (tức là khoảng 7 - 8 triệu đôi giầy dép da và 30 triệu giầy nữ, giầy vải và giầy thể thao... tiêu thụ trong nước). Số lượng này còn quá ít so với nhu cầu tiêu dùng do đời sống và nhu cầu văn hoá, thể thao ngày càng phát triển. Trong khi đó, nhiều sản phẩm giầy dép, đồ da của nước ngoài mẫu mã đa dạng được bán tại Việt Nam với giá rẻ do nhập lậu, trốn thuế đã làm cho sản xuất giầy và đồ da trong nước bị thu hẹp và bị cạnh tranh gay gắt. Do vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến nhu cầu thị trường nội địa đầy tiềm năng này. Cần chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và tính cạnh tranh của sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường và có thể cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm của Trung Quốc và các nước lân cận.
Phát triển ngành Da - Giầy cũng kéo theo sự phát triển ngành chăn nuôi là điều kiện để phát triển ngành da thuộc. Ngành chăn nuôi không chỉ cung cấp nhu cầu về da nguyên liệu cho ngành thuộc da mà còn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thực phẩm khác của người dân.
1.2. Sự phát triển của ngành Da - Giầy đã góp phần tích cực cho sự tăng trưởng của ngành công nghiệp. Trong những năm qua, ngành Da - Giầy đã có những thành tựu đáng kể, liên tục tăng trưởng ở mức khá (hai con số). Qua đó ngành đã tích cực đóng góp vào sự tăng trưởng của công nghiệp chế biến nói riêng và tăng trưởng của ngành công nghiệp nói chung.
Ngoài ra, ngành còn thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công nghiệp thông qua việc xuất khẩu sản phẩm của mình thu ngoại tệ, là điều kiện cần thiết để nhập khẩu những máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại, tăng tiềm lực cho sự phát triển của ngành công nghiệp.
1.3. Thu hút và giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp trong nền kinh tế. Do đặc điểm sản xuất của ngành là sử dụng ít vốn và nhiều lao động. Trong những năm qua, ngành đã thu hút một lượng lớn lực lượng lao động của đất nước, góp phần đáng kể giảm sức ép về thất nghiệp, giải quyết việc làm.
Biểu đồ 1 : Lao động trong ngành Da - Giầy Việt Nam
giai đoạn 1990 - 2002.
Trước năm 1990, toàn ngành mới chỉ có 25.000 lao động thì đến năm 2001 toàn ngành thu hút khoảng 410.000 lao động chiếm khoảng 6,25% lực lượng lao động trong công nghiệp và 2002 toàn ngành sử dụng khoảng 420.000 lao động (đó là chưa kể đến số lao động làm việc trong lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu và các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công).
Dự báo năm 2005 khoảng 580.000 lao động và năm 2010 khoảng 820.000 lao động sẽ được huy động vào ngành Da - Giầy ở nước ta.
Do đặc thù của ngành là qui trình sản xuất tương đối giản đơn, nhiều công đoạn không đòi hỏi trình độ tay nghề quá cao nên phần lớn lao động ngành sử dụng là thành niên nông thôn. Điều này phản ánh vai trò của ngành trong mục tiêu chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng lao động và sản phẩm xã hội trong ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng lao động, thu nhập quốc dân trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây cũng là bước đi cần thiết trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
1.4. Sản phẩm Da - Giầy có lợi thế xuất khẩu và tiềm năng xuất khẩu lớn; ngành Da - Giầy là 1 trong những ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển hàng tiêu dùng hướng ra xuất khẩu.
Từ một ngành kinh tế kỹ thuật non trẻ trong nền kinh tế quốc dân, sau hơn 10 năm phát triển, ngành đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đóng góp đáng kể vào nền kinh tế quốc dân. Nếu năm 1993, toàn ngành mới chỉ đạt kim ngạch xuất khẩu là 118 triệu USD thì sau 10 năm (năm 2002) ngành đã đạt kim ngạch xuất khẩu là 1846,13 triệu USD, là một trong những ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nền kinh tế, chỉ sau dầu thô, dệt may và hàng thuỷ sản.
Xuất khẩu sản phẩm thu ngoại tệ là điều kiện để nước ta khai thác lợi thế về nguồn lao động, làm lành mạnh hoá cán cân thanh toán quốc tế, đáp ứng ngoại tệ cho nhập khẩu máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất cho ngành và cho nền kinh tế.
1.5. Mở rộng thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế.
Cách mạng khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ, thị trường quốc tế và khu vực mở rộng nhanh chóng. Sự hội nhập kinh tế và khu vực sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội để xuất khẩu các mặt hàng của mình. Song đó cũng là một thách thức đối với Việt Nam, đặc biệt là ngành Da - Giầy còn rất non trẻ, khi Trung Quốc, một cường quốc sản xuất và xuất khẩu da thuộc và giầy dép ra nhập WTO. Tuy còn một số khó khăn và thách thức, ngành Da - Giầy Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, từ chỗ chỉ thực hiện theo hiệp định dài hạn với Liên Xô và các nước SNG, nay thị trường xuất khẩu của ngành đã mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, nhiều khu vực như: EU, Nhật Bản, Mỹ... Đặc biệt là thị trường EU chiếm xấp xỉ 85% kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam, chưa bị hạn ngạch mà còn ưu đãi GSP. Ngoài ra hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã mở ra một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng. Năm 2002, xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào Mỹ tăng 75%, tuy mức tăng lớn nhưng theo đánh giá của các chuyên gia thì vẫn còn chưa xứng đáng với tiềm năng do giá cả và mẫu mã còn chưa thực sự cạnh tranh.
Nhu cầu về sản phẩm của ngành Da - Giầy trên thị trường quốc tế cũng như thị trường trong nước ngày càng gia tăng. Mục tiêu của chúng ta là phải duy trì và tăng kim ngạch xuất khẩu, tích cực tìm kiếm mở rộng thị trường, thường xuyên nghiên cứu và dự báo xu hướng tiêu dùng, thẩm mỹ của người tiêu dùng để từ đó từng bước chủ động tiếp cận với thị trường. Để dành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường, ngoài việc chú trọng cải tiến công nghệ và sáng tạo mẫu mới, cần tiếp tục cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, đảm bảo các điều kiện giao hàng, tăng cường tiếp cận với khách hàng để có thể xuất khẩu trực tiếp, không phải qua trung gian như hiện nay. Có như vậy ngành mới khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế mở với nhiều cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập kinh tế.
Vai trò của các yếu tố đầu vào đối với sự tăng trưởng của ngành Da - Giầy Việt Nam
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất.
Y = f(L,K,T,R)
Và thống nhất với các phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng:
Y = T.Ka.Lb.Rg
Đối với sản xuất của ngành Da - Giầy thì yếu tố tài nguyên không ảnh hưởng nhiều tới kết quả sản xuất của ngành, vì vậy có thể coi là sản lượng của ngành không ảnh hưởng của tài nguyên thiên nhiên.
Từ đó ta có: g = t + a.k + b.l + g.r ( với g = 0)
Hay: g = t + a.k + b.l
Với: + g : Tốc độ tăng trưởng của ngành
+ k : Tốc độ tăng trưởng của vốn sản xuất (k = It / Kt, tức là k nói nên vai trò của vốn đầu tư)
+ t : phản ánh tốc độ của khoa học công nghệ
+ l : tốc độ tăng trưởng của giá trị lao động
Theo kết quả thống kê của các nước sản xuất giầy dép trước đây (tương đương với trình độ sản xuất của nước ta hiện nay) thì các yếu tố sản xuất của ngành Da - Giầy: lao động, vốn sản xuất, khoa học công nghệ ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển của ngành Da – Giầy Việt Nam như sau:
Bảng...: Vai trò của các yếu tố sản xuất
đối với tăng trưởng của ngành Da - Giầy Việt Nam .
Yếu tố sản xuất
1992 – 2000
2000 – 2010
Tư bản
14%
28%
Lao động
74%
47%
Khoa học công nghệ
12%
25%
Nguồn: Vụ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ Công nghiệp
Như vậy, mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng vốn sản xuất phát triển, ttốc độ tăng trưởng lao động, tiến bộ của khoa học công nghệ và tốc độ tăng trưởng của ngành được thể hiện qua mô hình:
g = 0,12 + 0,13.k + 0,74.l
Như vậy lao động là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đên sự tăng trưởng của ngành, tiếp theo đó là vốn sản xuất (nói lên vai trò của đầu tư) và sau đó là tiến bộ khoa học công nghệ. Thực tiễn này cho thấy, trong giai đoạn trước, ngành tập trung vào khai thác nguồn lao động dồi dào với giá rẻ, chưa coi trọng vai trò của đầu tư phát triển, chưa chú ý nhiều đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư.
Tuy nhiên, vốn đầu tư sẽ ngày càng khẳng định vai trò quan trọng này đối với sự tăng trưởng và phát triển của ngành. Giai đoạn 2000 – 2010, vai trò của đầu tư sẽ tăng lên gấp đôi (từ 0,14 lên 0,28) và vai trò của tiến bộ khoa học công nghệ cũng tăng lên nhanh chóng, trong khi đó vai trò của lao động (tuy còn lớn) nhưng sẽ ngày càng giảm. Điều đó là hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của sản xuất.
ở trên ta mới chỉ xét đến ảnh hưởng của vốn đầu tư mà chưa kể đến những ảnh hưởng gián tiếp của đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển của ngành. Hoạt động đầu tư là điều kiện cần thiết để ngành nâng cao trình độ nguồn nhân lực; nghiên cứu, triển khai và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến… qua đó tác động gián tiếp theo hướng tích cực đối với ngành, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển ở một trình độ cao hơn.
Như vậy, đầu tư là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất, là chìa khóa cho sự tăng trưởng và phát triển của ngành. Trong giai đoạn tới, ngành chủ trương đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, vì vậy vấn đề đầu tư đặt ra cho ngành như một yêu cầu không thể thiếu được để ngành thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của mình trong giai đoạn tới.
Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam
- Đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam là một mục tiêu trong đường lối phát triển công nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, chúng ta tiếp tục ưa tiên đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam nhằm phát huy lợi thế của đất nước, nâng cao khả năng xuất khẩu sản phẩm thu ngoại tệ, tạo thêm chỗ làm việc cho nề kinh tế...
- Đầu tư nhằm tăng năng lực sản xuất của ngành đáp ứng yêu cầu tăng trưởng với tốc độ cao. Trong giai đoạn trước, tuy tốc độ tăng trưởng của ngành đạt được ở mức khá, tuy nhiên nó vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng phát triển của ngành. Ngành đã xác định cho mình định hướng phải tăng tốc ở giai đoạn tới. Để thực hiện định hướng này, ngành đã định hướng các giải pháp thúc đẩy đầu tư và phát triển. Thực hiện các giải pháp đầu tư nhằm giải quyết yêu cầu về nguyên vật liệu, phụ tùng nội địa, tìm cách đưa thuộc dự án ra khỏi sự bế tắc hiện nay; phải có nhịp độ đầu tư phát triển sản xuất, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm phù hợp; đưa ra các biện pháp hữu hiệu và phương thức phong phú về huy động vốn, khơi nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả; coi trọng các giải pháp về khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ kỹ thuật.
- Đầu tư là điều kiện cần thiết để ngành cân đối lại hoạt động sản xuất, khai thác năng lực sản xuất còn chưa được huy động (do sự mất cân đối gây ra) và tạo ra năng lực sản xuất mới cho ngành.
- Đầu tư nhằm đổi mới và hiện đại hóa máy móc thiết bị, sửa chữa và xây dựng nhà xưởng mới cho các cơ sở sản xuất giầy, đồ da cùng như các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu cho ngành. Cũng nư các ngành công nghiệp khác ở nước ta, cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành Da - Giầy còn rất lạc hậu và nghèo nàn. Chính sự hạn chế của máy móc thiết bị đã dẫn đến sự yếu kém của năng suất lao động trong ngành. Để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, trước hết ngành cần tiến hành đầu tư chiều sâu đổi mới máy móc thiết bị theo hướng tự động hóa, mua sắm máy móc thiết bị mới; đồng thời, một hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ và hiện đại muốn hoạt động có hiệu quả nhất phải được lắp đặt trên một cơ sở hạ tầng tốt bao gồm nhà xưởng và các dịch vụ hạ tầng khác phục vụ cho quá trình sản xuất. Các hoạt động này chỉ có thể thực hiện được thông qua hoạt động đầu tư.
- Đầu tư nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển, mạnh mẽ, tác động đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội của con người. Chỉ có việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại mới thật sự đảm bảo cho ngành tăng năng suất lao động, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng quốc tế với giá cạnh tranh, đam bỏa cho ngành sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, đưa ngành tiếp tục phát triển bền vững trong thời kỳ mới.
- Đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động. Hiện nay, đầu tư phát triển nguồn nhân lực của ngành không được chú trọng, trình độ của người lao động thấp, ít được đào tạo cơ bản, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, tuy giá nhân công rẻ, nhưng năng suất lao động lạ thấp, các doanh nghiệp sau khi tuyển dụng phải tiến hành đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động của doanh nghiệp mình, làm cho guồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ không thực sự còn là lợi thế nổi bật của ngành để ngành có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Do đó, đầu tư phát triển nguồn nhân lực như là một giải pháp để ngành cơ cấu lại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị hiện đại, tiến hành sản xuất sản phẩm với năng suất lao động cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá cả cạnh tranh hơn.
- Đầu tư nhằm phát triển thị trường, tăng cường khả năng tiêu thụ sản phẩm. Để ngành Da - Giầy Việt Nam phát triển mạnh mẽ thì đầu tư phát triển thị trường là vấn đề khong thể bị bỏ ngỏ như giai đoạn trước. Mở rộng thị trường phải gắn với giới thiệu và quảng bá sản phẩm, giới thiệu sản phẩm với người tiêu dùng và phải phù hợp với từng phân đoạn thị trường để người tiêu dùng biết đến Việt Nam như một như một nước sản xuất các sản phẩm giầy dép đầy tiềm năng.
- Đầu tư nhằm tiếp nhận xu hướng chuyển dịch sản xuất từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển một cách có hiệu quả.
Từ khi xuất hiện sự chuyển dịch sản xuất giầy dép từ các nước phát triển sang các nước công nghiệp mới và tiếp theo đó là từ các nước công nghiệp mới sang các nước đang phát triển ở Châu á. Phần đóng góp của Châu á tổng sản lượng giầy dép tăng chủ yếu mạnh mẽ trong những năm gần đây từ 63% năm 1993 lên 73,9% năm 1999, trong đó có sự đóng góp đáng kể của các nước như Trung Quốc, ấn Độ, Thái Lan, Indonexia, Việt Nam... Dự báo đến năm 2005 dân số toàn cầu có khoảng 7,078 tỷ người và sản lượng dép thế giới đạt 14,061 tỷ đôi.
Bảng 1: Sản xuất Giầy dép toàn cầu năm 2005
Sản xuất
2005
Thế
Giới
Bắc
và
Trung Mỹ
Nam
Mỹ
Châu
Âu
Châu á
và
Viễn Đông
Nam
Thái
Bình Dương
Châu
Phi
Triệu đôi
14.061
670
864
1518
10.623
17
369
%
100
5
6
11
75
1
3
Nguồn: Tạp chí World Footwear
Theo Liên đoàn công nghiệp Giầy Châu Âu sản xuất vẫn tiếp tục bị các nước Châu á thống trị chiếm đến 75% tổng sản lượng giầy thế giới với 10,6 tỷ đôi.
Xu hướng chuyển dịch sản xuất này sẽ giúp Việt Nam lựa chọn được những công nghệ phù hợp với trình độ sản xuất trong nước, phát huy tối đa lợi thế về nguồn lao động.
III. Đặc điểm của ngành công nghiệp Da - Giầy và đầu tư phát triển ngành công nghiệp Da - Giầy
1. Những đặc điểm xuất phát từ phía cầu.
1.1. Sản phẩm da giầy mang tính thời trang cao và đa dạng.
Nhu cầu về sản phẩm của Ngành Da - Giầy rất đa dạng, nhiều chủng loại, sản phẩm của ngành đáp ứng cho mọi đối tượng, không phân biệt giới tính hay lứa tuổi. ở mỗi một thời điểm nhất định thì nhu cầu này là rất khác nhau về kiểu dáng, mẫu mã, chất liệu... vì vậy mà vòng đời của sản phẩm da giầy ngắn. Con người sử dụng sản phẩm da giầy ngoài công dụng làm vật bảo vệ đôi chân khi sinh hoạt cũng như khi lao động, mà còn góp phần làm tôn vẻ tôn vẻ đẹp sang trọng của người sử dụng nó. Do vậy, sản phẩm da giầy cũng luôn thay đổi để đáp ứng nhu cầu này. Ngày nay, mỗi người không chỉ có một hay hai đôi da giầy, nhất là nữ giới họ có thể có hàng chục đôi giầy dép với mẫu mã, mầu sắc rất phong phú, không đòi hỏi độ bền cao.
Ngoài ra, sản phẩm của Ngành Da - Giầy còn bị chi phối bởi các yếu tố như văn hoá, phong tục tập quán, điều kiện khí hậu, giới tính, tuổi tác.
Yếu tố thời vụ của sản xuất da giầy cũng rất cao, sản phẩm của mùa này khó có thể tiêu thụ ở mùa khác
Tất cả các yếu tố trên tạo nên tính thời trang và đa dạng của sản phẩm da giầy. Đây cũng là đặc điểm quan trọng mà các nhà đầu tư phải nắm bắt để tổ chức đầu tư kịp thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Muốn vậy các doanh nghiệp trong ngành phải chú trọng đầu tư vào các hoạt động tiếp cận thị trường, dự báo nhu cầu thị trường đầu tư vào lĩnh vực thiết kế mẫu mã và đưa vào sản xuất, đồng thời cần đặc biệt chú ý đến đầu tư máy móc thiết bị phải đảm bảo tính linh hoạt, có thể đáp ứng được được yêu cầu sản xuất luôn thay đổi, có thể chuyển đổi dễ dàng từ sản phẩm này sang sản phẩm khác, từ kiểu dáng này sang kiểu dáng khác.
1.2. Thị trường của ngành Da - Giầy tập trung chủ yếu ở các nước phát triển, các khu vực kinh tế phát triển, các khu vực khí hậu hàn đới (khí hậu lạnh, do vậy nhu cầu về sản phẩm da giầy cho việc giữ gìn sức khoẻ con người cao, đặc biệt là găng tay) như Châu Âu, Mỹ, Nhật... Còn các khu vực, các nước chậm phát triển và khi hậu nhiệt đới thì nhu cầu tương đối thấp.
Đặc điểm này đòi hỏi các nhà đầu tư cần xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển thị trường phù hợp sang mỗi nước, mỗi khu vực.
1.3. Sản phẩm của Ngành Da - Giầy chủ yếu được xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng khả năng tích luỹ cho nền kinh tế. Trên 90% sản phẩm của ngành Da - Giầy Việt Nam hiện nay được xuất khẩu sáng các nước phát triển, những khu vực mà ngươì tiêu dùng có thu nhập cao. Vì vậy, yêui cầu ngànhDa - Giầy Việt Nam phải sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả cạnh tranh. Để sản phẩm của ngành tiếp tục được thị trường thế giới chấp nhận yêu cầu ngành phải được đầu tư thoả đáng, đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
2. Các đặc điểm từ phía cung.
2.1. Ngành Da - Giầy phát triển mạnh mẽ ở những nước đang phát triển và những nước chậm phát triển, nơi có giá nhân công rẻ. Những nước phát triển có lợi thế về vốn, trình độ khoa học công nghệ cao nhưng giá nhân công cao, mặc dù nhu cầu là rất lớn nhưng sản xuất lại rất ít do đó tạo sự dịch chuyển sản xuất sang các nước đang và chậm phát triển. Vì vậy yêu cầu các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút và lựa chọn công nghệ thích hợp đồng thời phải biết học hỏi và rút ra các bài học kinh nghiệm của các nước đi trước.
2.2. Ngành Da - Giầy sử dụng ít vốn nhiều lao động, sản phẩm có hàm lượng giá trị lao động cao, thu hút nhiều lao động vào sản xuất, nhưng lại đòi hỏi trình độ tay nghề không cao. Vì vậy, cần chú ý vào khâu đầu tư và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đặc biệt là đội ngũ cán bộ tổ chức quản lý để khai thác tốt những tiềm năng của đội ngũ lao động sản xuất trong doanh nghiệp, sắp xếp, bố trí hợp lý lực lượng lao động trong doanh nghiệp mình. Đặc điểm này làm cho sự phát triển Ngành Da - Giầy ở nước ta là rất phù hợp thu hút lao động, giải quyết việc làm, phù hợp với khả năng về nguồn vốn hạn chế của nền kinh tế.
2.3. Ngành Da - Giầy sản xuất theo dây chuyền khép kín, ngành không đòi hỏi công nghệ quá phức tạp, suất đầu tư cho ngành không lớn. Công nghệ của ngành nói chung không quá phức tạp dễ tiếp nhận và vận hành. Với công nhân chỉ cần kèm cặp trên dây chuyền từ một đến hai tháng là có thể vận hành được. Nếu đầu tư một dây chuyền đồng bộ với giá trị khoảng 500.000 USD thì tạo việc làm cho khoảng 400 lao động. Như vậy suất đầu tư cho một lao động sản xuất giầy chỉ khoảng 1.250 USD/ lao động. Trong khi đó suất đầu tư của ngành giấy là gần 30.000USD/ lao động và công nghiệp nặng còn cao hơn rất nhiều.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư đối với Ngành Da - Giầy cũng nhanh hơn so với nhiều ngành công nghiệp khác. Thời gian thu hồi vốn của Ngành Da - Giầy là 5 - 7 năm, trong khi các ngành công nghiệp nặng có thời gian thu hồi vốn từ 10 - 20 năm. Vì vậy hạch toán kinh tế đầu tư cho các dự án sản xuất da giầy là khá rõ ràng và tương đối chính xác, độ rủi ro vì thế mà cũng không cao.
2.4. Nguyên liệu của ngành Da - Giầy đòi hỏi có sự lựa chọn cao. Tính đa dạng và thay đổi thường xuyên của sản phẩm cho phù hợp với đối tượng tiêu dùng, xu thế thời trang, yếu tố thời tiết... đòi hỏi nguyên liệu của ngành cũng phải đa dạng và phức tạp cho phù hợp với nhu cầu của từng lợi sản phẩm.
3. Ngành Da - Giầy là ngành công nghiệp có tính liên ngành cao.
Ngành Da - Giầy sử dụng nhiều loại nguyên liệu, phụ liệu khác nhau trong đó có nguyên liệu da thuộc, có liên quan mật thiết với chăn nuôi và giết mổ gia súc. Ngành da thuộc lại sử dụng nguyên liệu của ngành chăn nuôi gia súc, đồng thời ngành cơ khí lại sản xuất ra máy móc thiết bị phục vụ cho Ngành Da - Giầy. Ngành da thuộc sử dụng nhiều loại hoá chất khác nhau trong quá trình tạo ra sản phẩm của mình đồng thời sản phẩm của ngành thuộc da lại được sử dụng cho công nghiệp sản xuất keo, sản xuất phụ da prôtêin, sản xuất dây kéo...
Như vậy sản xuất da giầy có liên quan đến nhiều ngành trong nền kinh tế khi thì đóng vai trò ngành cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành này, khi thì đóng vai trò sử dụng đầu ra của các ngành khác. Vì vậy để đảm bảo cho sự phát triển ổn định, bền vững của Ngành Da - Giầy đòi hỏi phải có sự đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có liên quan, phục vụ cho sự phát triển của ngành; sự phát triển của ngành sẽ tạo ra mối liên kết trực tiếp, mối liên kết gián tiếp, mối liên kết ngược cho một nhóm ngành có liên quan. Ngoài ra, chúng ta cần phải chú ý vốn để đầu tư theo qui hoạch, tạo ra sự phân bố hợp lý giữa các cơ sở sản xuất sản phẩm da giầy với các cơ sở sản xuất nguyên liệu, phụ liệu... tạo ra sự phát triển cân đối giữa các vùng, khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng vùng
4. Sản xuất Da - Giầy có tác động mạnh đến môi trường đặc biệt là sản xuất thuộc da
Thuộc da là ngành công nghiệp có quy trình sản xuất dơ bẩn, các quá trình cơ lý hoá phức tạp, đa dạng, sử dụng các nguyên phụ liệu gây ô nhiễm môi trường sống. Chúng bao gồm:
Da sống sau khi lột da giết mổ, nếu không có phương pháp bảo quản tốt thì đây là một môi trường thích hợp cho các loại vi khuẩn, vi trùng hoạt động, phá hỏng da và là nguồn gây nhiễm dịch cho người.
Nước thải của quá trình thuộc da chứa nhiều loại hoá chất khác nhau bao gồm cả hữu cơ, vô cơ, chất tổng hợp, chất tự nhiên được sử dụng. Nếu nước thải không được xử lý tốt cứ xả thẳng vào nguồn nước tiếp nhận sẽ gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, nước trên mặt và cảnh quan môi trường.
Ngoài chất thải lỏng, các chất thải rắn của quá trình thuộc da như mùn bào, dẻo thành phẩm... rất khó phân huỷ trong môi trường tự nhiên.
Vì vậy, khi đầu tư vào Ngành Da - Giầy nói chung và ngành thuộc da nói riêng chúng ta phải quan tâm đầu tư đến các thiết bị xử lý nước thải, chất thải. Địa điểm các dự án đầu tư phải cách xa khu dân cư sinh sống, phải tập trung, thuận tiện cho việc cấp nước và thải nước.
Trên đây là một vài đặc điểm riêng của Ngành Da - Giầy có ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của ngành. Vì vậy nắm bắt được những đặc điểm này sẽ cho ta cái nhìn tổng quát để đầu tư phát triển ngành, những lĩnh vực cần đầu tư, những lĩnh vực cần được ưu tiên để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành, xác định được những lợi ích mà đầu tư vào ngành mang lại cho nền kinh tế và cả xã hội.
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển ngành Da – Giầy Việt Nam giai đoạn 1993 - 2001
I. Một số chính sách ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam.
1. Chính sách đầu tư trong nước và nước ngoài.
1.1. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước
Việc sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước ngày 20/5/1998 và sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2000 đã ra một một sức sống mới cho nền kinh tế nước ta, nó đã tạo ra một sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngành Da - Giầy đã được xếp vào danh mục các ngành nghề được ưu tiên phát triển và được hưởng ưa đãi đầu tư. Các doanh nghiệp trong ngành Da - Giầy được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là 25% so với mức trung bình là 32%. Nếu đầu tư ở những vùng kinh tế xã hội có điều kiện khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, mức ưa đãi được hưởng còn nhiều hơn. Nhà nước còn miễn thuế nhập khẩu cho các máy móc, thiết bị mà trong nước không sản xuất được, điều này rất thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước, khi mà khả năng tài chính của ngành còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp trong nước. Luật doanh nghiệp ra đời đã làm cho thủ tục xin cấp giấy phép kinh doanh đơn giản hơn rất nhiều. Đó là những điều kiện thuận lợi cho cho các doanh nghiệp sản xuất giầy dép và các doanh nghiệp sản xuất da thuộc và các nguyên phụ liệu, cũng như để thu hút vốn đầu tư trong nước vào ngành.
Bên cạnh những thuận lợi đó thì vẫn còn một số khó khăn. Các doanh nghiệp Da - Giầy trong nước hầu hết là thiếu vốn đầu tư sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất cản trở sự phát triển của ngành Da - Giầy Việt Nam. Mặc dù Chính Phủ đã lập quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước thông qua các hình thức cho vay đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng. Trên thực tế, những năm qua các doanh nghiệp trong nước rất khó khăn để tiếp cận với nguồn vốn này, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn trong cân đối vốn, kinh doanh, về khả năng đầu tư, về tìm kiếm (khai thác) thị trường và gặp không ít rủi ro.
1.2. Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài
Trước sức ép phải cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nước trong khu vực, Quốc hội Việt Nam đã ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996 và luật bổ sung, sửu đổi một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 9/6/2000. Luật đầu tư nước ngoài đã đưa ra những ưu đãi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, ngành Da - Giầy có nhiều ưu thế trong khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất đồ da, giầy dép của Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng đầu xuất khẩu hơn 80% sản phẩm của mình, đặc biệt có một số doanh nghiệp xuất khẩu 100% sản phẩm sản xuất ra. Vì vậy mà mức thuế thu nhập doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ là 15% so với mức 25% của các doanh nghiệp khác cùng ngành. Mức thuế này được áp dụng trong 12 năm kể từ khi các doanh nghiệp bắt đầu thực hiện sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, các chủ đầu tư nước ngoài còn được miễn thuế lợi nhuận 2 năm kể từ khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
Ngoài ra, các loại thuế như thuế thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế lợi tức đối với các nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận của mình để thực hiện tái đầu tư, thuế nhập khẩu máy móc thiết bị để tạo ra tài sản cố định của doanh nghiệp cũng được miễn giảm, làm cho các mức thuế phải nộp của các chủ đầu tư nước ngoài luôn ở mức thấp, ngày càng tạo ra sự hấp dẫn hơn cho đầu tư nước ngoài vào ngành.
Các thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư cũng được cải tiến nhanh gọn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án.
2. Về Chiến lược và Quy hoạch phát triển ngành
ở giai đoạn trước, do không có quy hoạch, nên đầu tư mang tính chất tản mạn, manh mún và có phần tự phát. Các chủ đầu tư không định hướng được sản xuất theo quy hoạch để được hưởng các ưu đãi của Nhà nước. Trong khi các doanh nghiệp hiện có chưa khai thác hết công suất được đầu tư thì các doanh nghiệp mới đã ra đời, tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không lành mạnh. Mất cân đối giữa đầu tư vào sản xuất da giầy, vùng nguyên liệu và sản xuất các nguyên phụ liệu cho ngành Da - Giầy. Do các cơ sở sản xuất tập trung ở những khu dân cư đông đúc, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là đối với các cơ sở sản xuất thuộc da, làm ảnh hưởng lớn đến môi trường sống của người dân và điều kiện lao động của công nhân viên trong ngành.
Hiện nay, dự án Quy hoạch Tổng thể phát triển ngành và đề án Chiến lược phát triển ngành đến năm 2010 đã được hoàn thành, đang trình Chính phủ phê duyệt. Trong Quy hoạch và Chiến lược phát triển ngành đến năm 2010, Tổng Công ty Da - Giầy Việt Nam đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, quyết định số 125/2002/QĐ-TTg về việc quyết định giải thể 3 Tổng Công ty trực thuộc Bộ Công nghiệp quản lý, trong đó có Tổng Công ty Da - Giầy Việt Nam và sắp xếp lại sản xuất theo hướng cổ phần hoá đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến Quy hoạch và Chiến lược phát triển ngành. Nhiều dự án, khu công nghiệp do Tổng Công ty chủ trì thực hiện thì nay phải huỷ bỏ, một số dự án đang thực hiện dở dang thì đã có phương hướng giải quyết cụ thể của Chính Phủ.
3. Chính sách về tài chính.
Với tốc độ phát triển vượt bậc của ngành, nguồn vốn cho đầu tư còn rất hạn chế. Gần đây, Nhà nước đã giải quyết cho chuyển đổi từ vay trung hạn sang dài hạn nên đã giải quyết một phần khó khăn cho các doanh nghiệp.
ở giai đoạn trước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc ngành hầu như không được hưởng ưu đãi trong vay vốn đầu tư. Các giải pháp về cổ phần hoá chưa thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Chính sách về tài chính và vấn đề lao động dôi dư khi doanh nghiệp được cổ phần hoá còn nhiều bất cập, nên cổ phần hoá chưa có tính thuyết phục đối với cá._.a sự tăng trưởng giá trị sản xuất cho toàn ngành.
d. Giải pháp huy động nguồn vốn trong dân cư:
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện đầu tư phát triển các doanh nghiệp mũi nhọn của ngành, để thu hút thêm vốn tái đầu tư cụm công nghiệp chuyên ngành ở hai miền.
- Trong giai đoạn tới ngành cũng cần tính tới biện pháp huy động vốn đầu tư từ trong dân cư và các nhà đầu tư thông qua việc thực hiện giao bán cổ phần của một số doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán.
2.2. Giải pháp huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là nguồn vốn đóng vai trò bổ sung có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động đầu tư của ngành trong thời gian tới. Để đảm bảo huy động được lượng vốn đầu tư nước ngoài như dự kiến. Ngành Da - Giầy có thể thực hiện các giải pháp sau:
- Tăng cường hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào ngành với các phương thức đầu tư khác nhau (Đầu tư trực tiếp nước ngoài: đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, liên doanh liên kết, hợp đồng hợp tác kinh doanh; Đầu tư gián tiếp nước ngoài: bán cổ phiếu cho cá nhân, tổ chức nước ngoài...)
- Đẩy nhanh việc triển khai các dự án có vốn đầu tư nước ngoài bằng việc giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết, gây phiền hà; nâng cao trình độ của cán bộ quả lý ngành (cán bộ thẩm định dự án, cán bộ quản lý dự án sau đầu tư...)
- Đối với hình thức liên doanh: ngành cần có các biện pháp tạo nguồn vốn đối ứng bằng nhiều hình thức khác nhau: bằng tiền, bằng quyền sử dụng đất, nhà xưởng sẵn có, các máy móc, thiết bị mà trong nước sản xuất được.
- Khuyến khích các nhà đầu tư Nhà nước dùng lợi nhuận của mình thực hiện tái đầu tư, đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư vào các dự án mới bằng cách đưa ra các ưu đãi chính sách thuế, chính sách tín dụng...
- Nhà nước có thể bán một số cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện cổ phần hoá cho các nhà đầu tư nước ngoài, để họ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó huy động được nguồn vốn vật chất và nguồn vốn về khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
- Đảm bảo cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước trong vay vốn đầu tư, vốn sản xuất cũng như trả lãi suất.
Dự kiến huy động nguồn vốn nước ngoài sẽ đáp được khoảng 38% nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế hiện nay (khoảng 20%) và vẫn cao hơn tỷ lệ mà nhà nước ta chủ trương thu hút là 30% cho chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2001 - 2010. Tỷ lệ này là hợp lý, bởi ngành Da - Giầy Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi hơn các ngành khác trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, là một trong những ngành thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn vừa qua và ngành tiếp tục nhận được các ưa đãi đầu tư của Nhà nước, đặc biệt là với đầu tư nước ngoài.
3. Giải pháp đầu tư đối với các lĩnh vực trong ngành
3.1. Giải pháp đầu tư đối với ngành thuộc da và các phụ liệu khác
a. Đối với các doanh nghiệp hiện có:
Các doanh nghiệp cần tập trung đầu tư theo chiều sâu tân dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, nhà xưởng, sử dụng hiệu quả sức lao động của công nhân, đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật.
- Cần tiến hành đầu tư bổ sung, đầu tư mới máy móc thiết bị để đồng bộ hoá sản xuất. Đặc biệt chú ý đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến ở những khâu then chốt để nâng cao chất lượng da thuộc như: máy móc thiết bị ở khâu trau truốt, hoàn tất sản phẩm
- Các doanh nghiệp tư nhân tiến hành đầu tư khang trang nhà cửa cho phù hợp hơn với yêu cầu của công nghệ sản xuất và máy móc thiết bị.
- Đối với các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu (không phải da thuộc) cũng phải đầu tư chiều sâu bổ sung máy móc thiết bị cho đồng bộ, loại trừ các thiết bị đã cũ kỹ lạc hậu hay hư hỏng trong quá trình sản xuất. Đặc biệt chú trọng nâng cấp công nghệ đế cao su ép. Muốn vậy phải đẩy mạnh đầu tư hoàn thiện công nghệ chế tạo khuôn mẫu. Đầu tư các thiết bị cán cao su, tính đến vấn đề an toàn lao động và ô nhiễm môi trường.
- Tiến hành sáp nhập một số doanh nghiệp Nhà Nước có quy mô nhỏ, hoạt động sản xuất không hiệu quả để chuyển máy móc thiết bị vào các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn nhằm khai thác lợi thế quy mô.
- Di chuyển các doanh nghiệp trong các khu tập trung dân cư, trong nội thành đến các khu công nghiệp ở vùng ngoại thành; đất đai và nhà xưởng còn lại dùng để cho thuê hoặc bán đi tạo thêm nguồn tài chính xây dựng nhà xưởng mới khang trang.
b. Đối với các doanh nghiệp đầu tư mới.
- Các doanh nghiệp đầu tư mới phải được đầu tư theo dự thảo quy hoạch, đầu tư vào các khu công nghiệp từ đó tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh và thuận tiện cho việc triển khai các dự án xử lý chất thải và bảo vệ môi trường.
- Các dự án thuộc da đầu tư vào những vùng, khu vực có nhiều tiềm năng phát triển thuận lợi về nguồn nguyên liệu, có đàn gia súc lớn, giết mổ tập trung, có nguồn nước phục vụ sản xuất đầy đủ và thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm phục vụ cho sản xuất giầy dép da.
- Các dự án đầu tư mới phải có quy mô hợp lý (5 -7 triệu Sqft với lao động 300 - 400 người); có độ linh hoạt đảm bảo tính cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
- Các dự án đầu tư mới phải đảm bảo tính cân đối giữa các vùng, tức là quy mô đầu tư phải tương xứng với khả năng và tiềm năng của vùng, cần đẩy mạnh hơn nữa đầu tư vào Miền Trung để đảm bảo sản lượng sản xuất chiếm 5 - 7% tổng sản lượng ngành thuộc da.
3.2. Giải pháp đầu tư đối với ngành giầy da
a. Đối với các doanh nghiệp hiện có.
Củng cố các cơ sở sản xuất hiện có bằng cách đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị tại một số công đoạn quan trọng làm tăng giá trị sản phẩm và kiểu dáng sản phẩm, bố trí sắp xếp lại quy mô nhà xưởng cho phù hợp với công nghệ kể cả phương án di dời, bố trí lại cơ sở phân tán, manh mún vào các khu tập trung có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh.
- Đầu tư cần chú ý đến sự đồng bộ giữa các khâu để phát huy tối đa năng suất của máy móc thiết bị thiết bị.
- Kết hợp đầu tư chiều sâu bố trí lại sản xuất, có thể mở rộng sản xuất để có quy mô sản xuất lớn hơn, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó cần quan tâm củng cố mặt quản lý, điều hành, đặc biệt cần tiến tới đẩy mạnh hơn nữa hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000.
- Đối với các dự án đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh cần có sự thẩm định kỹ lưỡng cũng như chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình thực hiện đầu tư nhằm đảm bảo thực hiện đúng tiến độ và yêu cầu về chất lượng.
- Bên cạnh đầu tư hoàn thiện đồng bộ máy móc thiết bị cần đầu tư công nghệ tự động hoá thực hiện sản xuất với quy mô lớn để tạo bước đi nhanh.
b. Đối với các dự án đầu tư mới
- Các dự án đầu tư mới phải có quy mô tối ưu trong tổ chức sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài lực... có khả năng tiết kiệm tối đa các khoản chi phí liên quan đến quá trình sản xuất.
+ Các dự án sản xuất giầy dép: có từ 6 - 8 dây chuyền với sản lượng từ 3 - 4 triệu USD, số lượng lao động từ 2000 - 2500 người.
+ Các dự án sản xuất cặp, túi xách: do đặc điểm sản xuất mặt hàng này chỉ nên có quy mô vừa từ 500 - 700 lao động với sản lượng từ 700.000 - 1.500.000 chiếc/năm.
- Các dự án đầu tư mới phải trình độ quản lý, trình độ công nghệ phù hợp với điều kiện nước ta ở giai đoạn sau khi ra quyết định đầu tư từ 5 - 7 năm.
- Về địa điểm: khắc phục tình trạng đầu tư manh mún, tản mạn ở giai đoạn trước. Do vậy cần sắp xếp tổ chức lại sản xuất theo hướng:
+ Gắn công nghiệp sản xuất giầy dép, đồ da với công nghiệp thuộc da, công nghiệp sản xuất phụ liệu và công nghiệp khác liên quan nhằm tăng cường sự phối hợp liên ngành, hỗ trợ lẫn nhau. Qua đó hạn chế chi phí vận chuyển, hạn chế những chi phí lãng phí phát sinh.
+ Do đặc điểm của ngành là sản xuất để xuất khẩu sản phẩm sử dụng nhiều lao động, phải vận chuyển nguyên vật liệu nhập khẩu và giao hàng xuất khẩu nhiều nên cần bố trí các doanh nghiệp ở những khu tập trung gần nơi tập trung đông dân cư có điều kiện thuận lợi về giao thông, phải có cơ sở hạ tầng và dịch vụ đầy đủ.
- Các dự án mới phải ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, công nghệ tự động hoá... mở rộng hơn nữa hệ thống quản lý chất lượng ISO - 9000, và các tiêu chuẩn về lao động SA 8000 và tiêu chuẩn về môi trường ISO - 14000.
- Máy móc thiết bị sử dụng trong ngành phải có trình độ tương đương với các nước trong khu vực, các máy móc được nhập khẩu phải đồng bộ và đảm bảo tính linh hoạt trong sản xuất sản phẩm, có thể chuyển nhanh sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác, từ mẫu mốt này sang mẫu mốt khác.
4. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
4.1. Giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu cho các dự án thuộc da.
- Khuyến khích tư nhân chăn nuôi đàn gia súc theo mô hình trang trại. Đề nghị Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đầu tư thực hiện chương trình chăn nuôi đàn gia súc theo hướng công nghiệp hoá, nhanh chóng lai tạo rộng rãi đàn gia súc (bò vàng, trâu, cừu..) để tăng đầu gia súc cũng như diện tích con da. Tăng cường mối liên kết liên ngành giữa công nghiệp và nông nghiệp trên cơ sở kết hợp lợi ích của công nghiệp da giầy với công nhân các địa phương cung cấp da và nguyên liệu cho sản xuất da giầy.
- Tăng cường khâu thu mua da ở các vùng, các địa phương. Mối liên hệ giữa người cung ứng da nguyên liệu và các doanh nghiệp thuộc da được đảm bảo bằng lợi ích kinh tế. Khuyến khích người cung ứng da nguyên liệu góp vốn hoặc đóng cổ phần với doanh nghiệp và ngược lại doanh nghiệp thu mua da có thể ứng trước vốn hoặc thu mua ưu đãi với nông dân vùng cung ứng nguyên liệu.
- Thực hiện công nghiệp hoá khâu giết mổ. Việc giết mổ tập trung tại các lò mổ hiện đại và đủ phương tiện vừa đảm bảo vệ sinh thực phẩm cho nhu cầu dân sinh và xuất khẩu thịt, vừa có khả năng làm tăng chất lượng da (điều kiện lột da tốt nên da không bị rách, có thể bảo quản và đưa da đến các doanh nghiệp thuộc da, giảm chi phí vận chuyển).
- Đối với các nguyên phụ liệu cho sản xuất giầy: khuyến khích, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực mà Việt Nam chưa sản xuất được như giả da, nhựa và cao su tổng hợp và các phụ kiện khác liên quan.
4.2. Chú trọng nghiên cứa khoa học và chuyển giao công nghệ
Muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngành, ngành cần quan tâm hàng đầu đến đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới, đồng thời để tăng năng suất lao động.
Tốc độ đổi mới công nghệ của Da - Giầy phụ thuộc nhiều vào việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của ngành, phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành khác như cơ khí, hoá chất, tự động hoá...
Do vậy cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Khuyến khích các doanh nghiệp được trích một khoản từ quỹ phát triển sản xuất giành cho công tác nghiên cứu khoa học.
- Đẩy mạnh các hoạt động sáng kiến cải tiến kỹ thuật, có các giải pháp công nghệ, bí quyết sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và tạo ra các mặt hàng có giá trị cạnh tranh cao, tiến tới có thể tạo ra một số công nghệ mới thay thế cho việc phải nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài.
- Thực hiện việc chuyển giao công nghệ theo từng cấp, phù hợp với trình độ quản lý, khả năng tài chính, năng lực sản xuất ở mỗi doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế.
- Đầu tư bổ sung trang thiết bị và nâng cao trình độ cán bộ của viện nghiên cứu để có đủ khả năng nghiên cứa các đề tài gắn với sản xuất. Viện nghiên cứu thực hiện cá đề tài nghiên cứu đón đầu, nghiên cứa liên ngành để chủ động trong phát triển khoa học công nghệ.
- Cán bộ của Viện nghiên cứu và cán bộ quản lý ngành phải có đủ năng lực thẩm định các dự án trong ngành và tư vấn cho các doanh nghiệp về các lĩnh vực có liên quan đến ngành.
- ở Việt Nam chưa có đào tạo đại học về giầy dép nên để đáp ứng nguồn lao động cho sự phát triển của ngành cần mở rộng bộ môn chuyên ngành Da - Giầy tại trường Đại học Bách Khoa cung cấp kỹ sư trẻ cho ngành.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới như kiến nghị miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ nghiên cứu, giảm thuế thu nhập cho các hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Cho phép khấu hao nhanh, tăng thời hạn được xét miễn, giảm thuế cho các dự án đổi mới công nghệ.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm của ngành, hệ thống kiểm tra chất lượng và cấp chứng chỉ trong nước.
- Tăng cường áp dụng Luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích các nhà nghiên cứu tham gia các hoạt động nghiên cứu và phát triển.
- Tạo sự liên kết chặt chẽ về khoa học công nghệ giữa ngành Da - Giầy với ngành nông nghiệp và các ngành công nghiệp khác.
4.3. Nâng chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.
Lao động là một trong những yếu tố đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành. Hiện tại và ngay cả sau này, khi mà ngành đã được công nghiệp hoá, Da - Giầy vẫn là ngành sử dụng nhiều lao động.
- Bên cạnh hệ đào tạo chính quy cần thiết phải mở các loại hình đào tạo, bồi dưỡng với nhiều hình thức khác nhau như thực tập sinh, đào tạo chuyên đề, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ... nhằm thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ, cập nhật những kiến thức và thông tin mới nhất của ngành trong và ngoài nước. Cử cán bộ đi thực tập và tham quan tại các nước có công nghiệp Da - Giầy phát triển.
- Chú trọng đào tạo đội ngũ giám đốc các cơ quan nghiên cứu các doanh nghiệp như một nghề được tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá cao. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề đảm bảo tiếp thu công nghệ mới, năng động, sáng tạo.
- Các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh cần lập quỹ học bổng tài trợ cho các học sinh trung học, học nghề, sinh viên ở các trường đại học làm đề án nghiên cứu phục vụ cho ngành. Hoặc phối hợp với các trường đại học kỹ thuật đưa ra các đề tài thực tế cho sinh viên nghiên cứu, cung cấp kinh phí, nhận sinh viên ra trường về công tác tại các doanh nghiệp cho ngành.
- Tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng các lớp trung học kỹ thuật và cao đẳng về Ngành Da - Giầy để thường xuyên bổ sung, thay thế lực lượng lao động cho các doanh nghiệp trong ngành. Chú trọng các lớp bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kỹ thuật, quản lý sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp,
- Đào tạo lao động phải đi đôi với bảo vệ quyền lợi cho người lao động theo luật định. trong doanh nghiệp sản xuất cần quan tâm hơn đến môi trường làm việc cho người lao động, đặc biệt là ở các khu độc hại, không để sức khoẻ bị giảm sút, ảnh hưởng đến an toàn lao động.
- Có chính sách đãi ngộ thoả đáng, cải cách chế độ tiền lương sao cho gắn bó chặt chẽ với năng suất và chất lượng lao động đối với các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao, nhằm gắn kết họ với doanh nghiệp, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” từ các doanh nghiệp quốc doanh sang các doanh nghiệp nước ngoài như những năm gần đây.
Trong các văn bản pháp lý về lao động cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động được doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng không thực hiện cam kết làm việc cho các doanh nghiệp.
Cần làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gắn lợi ích của người lao động với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể làm cho người lao động có một phần sở hữu trong tài sản của doanh nghiệp (bằng các hình thức mua cổ phần) để họ thực sự coi tài sản của doanh nghiệp là tài sản của mình.
- Đề nghị bộ môn chuyên ngành Da - Giầy tại trường Đại học Bách khoa để có thể đáp ứng nguồn nhân lực có trình độ cho sự phát triển ngành.
4.4. Giải pháp về thị trường.
a. Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu
* Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu.
+ Trước hết, ngành cần duy trì, củng cố thị trường xuất khẩu truyền thống (thị trường EU) bằng giá cả và chất lượng; tăng kim ngạch xuất khẩu đối với thị trường Nhật bằng cách đáp ứng về yêu cầu về chất lượng và mẫu mốt thời trang; nhanh chóng thâm nhập vào thị trường Mỹ đang mở cửa bằng cách tăng cường hiểu biết pháp luật, các tập quán thương mại của Mỹ và thoả mãn các tiêu chuẩn về vệ sinh công nghiệp, an toàn lao động; mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước Liên Bang Nga, Đông Âu, Trung Đông và nâng cao dần tỷ lệ xuất khẩu sang các nước ASEAN. Tức là với mỗi thị trường đặc trưng, ngành cần xây dựng cho mình những chiến lược tiêu thụ sản phẩm hợp lý.
+ Nghiên cứu phát triển sản phẩm: Ngoài việc đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu trong nước, chú trọng đầu tư cho nghiên cứu phát triển sản phẩm, từ khâu mẫu mã, chuyển giao công nghệ đến quản lý chất lượng nhằm góp phần nâng cao giá trị gia tăng và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
+ Đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu. Tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế chuyên ngành và các đoàn khảo sát thị trường, đặc biệt đối với các thị trường mới như Hoa Kỳ. Tăng cường tuyên truyền và quảng cáo hình ảnh của ngành Da - Giầy Việt Nam để thế giới biết đến Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu Da – Giầy đầy tiềm năng.
+ Ngành Da - Giầy Việt Nam cần mở văn phòng đại diện tại một số thị trường mục tiêu như Hoa Kỳ, Hồng Kông để từ đó mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác.
b. Khai thác thị trường nội địa
- Các doanh nghiệp cần có kế hoạch tiếp cận thị trường nội địa bằng cách nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh để sản phẩm chiếm lĩnh thị trường nội địa đẩy lùi các sản phẩm nhập lậu từ Trung Quốc và các nước lân cận. Tăng lượng sản phẩm của ngành được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Tăng cường trao đổi giữa người sản xuất và người tiêu dùng bằng cách mở rộng hệ thống giới thiệu và bán sản phẩm ở cả thành thị và nông thôn, ở cả miền xuôi và vùng núi tuỳ theo nhu cầu về chủng loại sản phẩm và khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
- Có những biện pháp tuyên truyền, quảng cáo hướng dẫn người tiêu dùng lựa chọn hàng nội, chống hàng giả.
- Sử dụng hàng rào thuế quan, kiểm soát chặt chẽ, hạn chế việc nhập giầy dép, nguyên liệu trốn thuế.
c. Các giải pháp liên quan khác.
- Ngành cần hình thành một Trung tâm thương mại chuyên nghiên cứu, tư vấn, dự báo về cung, cầu, giá cả, mẫu mốt, xu hướng thời trang về đồ da, giầy dép trên thị trường để cung cấp thông tin giúp các doanh nghiệp định hướng và điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với xu hướng tiêu dùng trên thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước.
- Tham gia các hoạt động quốc tế, các diễn đàn chuyên ngành của khu vực để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành tham gia vào phân công lao động quốc tế.
- Giải quyết các thủ tục xuất nhập khẩu kịp thời để giảm bớt chậm trễ, phiền hà cho các cơ sở sản xuất, đặc biệt là cho các cơ sở làm hàng gia công.
VI. Một số kiến nghị.
1. Đề nghị Bộ Công nghiệp tiếp tục bổ sung và hoàn thiện Quy hoạch tổng thể phát triển ngành làm cơ sở cho định hướng phát triển và hoạt động đầu tư của ngành.
2. Bộ Công nghiệp đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010” và hỗ trợ một số cơ chế chính sách (đã nêu ở phần giải pháp) thuộc thẩm quyền của Chính phủ tạo điều kiện cho ngành sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, thu hút lao động, giải quyết việc làm và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh cho ngành và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
3. Bộ Công nghiệp phối hợp với các Bộ ngành, các tổ chức kinh tế có liên quan và Viện nghiên cứu Da - Giầy: tổ chức đầu tư thí điểm 2 - 3 cụm công nghiệp Da - Giầy để đúc rút kinh nghiệm và giúp đỡ UBND các tỉnh, thành phố tổ chức triển khai rộng trên địa bàn địa phương theo dự án quy hoạch nhằm thực hiện các chỉ tiêu về phát triển kinh tế, xã hội của ngành đến năm 2010.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và quỹ hỗ trợ phát triển căn cứ vào phạm vi, chức năng nhiệm vụ được giao bố trí nguồn vốn và cho vay vốn theo kế hoạch hàng năm để ngành thực hiện các dự án của mình.
5. Bộ Nông nghiệp và Nông thôn phối hợp với Bộ Công nghiệp, UBND các tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp Da - Giầy xây dựng quy hoạch phát triển chăn nuôi, giết mổ công nghiệp và tiến hành đầu tư thực hiện quy hoạch để cung cấp nguồn nguyên liệu da với chất lượng cao cho ngành thuộc da sản xuất da thuộc thành phẩm đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp sản xuất giầy và đồ da.
6. Về phát triển nguồn nhân lực:
- Chính phủ hình thành trung tâm đào tạo chuyên ngành, mở chuyên khoa đào tạo kỹ sư công nghệ giầy (tại trường Đại học Bách khoa) nhằm đáp ứng nhu cầu bức xúc về cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý trong thời gian tới.
- Chính phủ hỗ trợ (bằng kinh phí Nhà nước hoặc nguồn tài trợ khác) để ngành được gửi đi đào tạo, bổ túc nghề nghiệp tại nước ngoài cho một số ít cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ thiết kế mẫu mốt để làm nòng cốt cho sự phát triển nguồn nhân lực sau này của ngành.
- Chính phủ có chính sách ưu đãi ngành về sử dụng nhiều lao động xã hội thông qua việc hỗ trợ tạo công ăn việc làm với mức 1 triệu đồng/ người (với tổng số lao động của toàn ngành) hoặc cho vay vốn với lãi suất ưu đãi đặc biệt (tính theo đầu người) để ngành đầu tư mở rộng tạo thêm công ăn việc làm cho lao động xã hội .v.v..
Kết luận
Ngành công nghiệp Da - Giầy Việt Nam mới hình thành và còn là một ngành kinh tế kỹ thuật còn non trẻ nhưng đã có một vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta. Là ngành đã, đang và vần sẽ được lựa chọn ưu tiên phát triển trong đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Là ngành có khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư của các nhà doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước, tạo ra một khối lượng việc làm lớn cho lực lượng lao động; góp phần tăng thu nhập quốc dân và cải thiện cán cân thương mại.
Bên cạnh những kết quả đạt được, những thuận lợi cơ bản thì hoạt động đầu tư của ngành cũng còn nhiều khó khăn và thách thức lớn. Nhìn chung kết quả thu hút vốn đầu tư vào phát triển ngành trong những năm qua còn nhiều hạn chế: có nhiều biến động qua các năm, đầu tư thiếu quy hoạch và thiếu cân đối; năng lực tài chính của ngành còn nhỏ bé.
Để ngành Da - Giầy Việt Nam tiếp tục phát triển với nhịp độ cao và thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội thì ngành cần xác định cho mình một định hướng đầu tư đúng đắn nhằm khuyến khích, thu hút và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Tuy nhiên, muốn thực hiện được định hướng đầu tư đó, ngành không chỉ phải phát huy được nội lực của mình mà còn phải có sự phối hợp với các ngành, các lĩnh vực khác và cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước bằng các cơ chế chính sách hợp lý. Vì vậy các giải pháp đưa ra phải đảm bảo tính đồng bộ và có sự phối hợp liên ngành.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, các yếu tố ảnh hưởng tới ngành nói chung và hoạt động đầu tư của ngành nói riêng cũng biến đổi theo. Để thích ứng với những thay đổi này yêu cầu các giải pháp đưa ra phải là các giải pháp “động”. Bởi vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu hoạt động đầu tư cũng như các giải pháp đầu tư phát triển ngành cần phải được xem như là một quá trình liên tục, mở rộng và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới.
Danh mục tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, IX.
Dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010” - Bộ Công nghiệp.
Giáo trình Kinh tế phát triển - Tập 1, 2.
Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội.
Giáo trình Quản lý dự án đầu tư.
Niên giám thống kê 1995, 1998, 2001
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới
Báo Công nghiệp số 23/2000; số 1+2/2003
Tạp chí Con số và sự kiện số 6/2002
Báo Đầu tư (ngày 28/1/2003)
Tạp chí World FootWear
Bảng 3: Năng lực sản xuất theo thành phần kinh tế
năm 2001
Loại
sản
phẩm
Năng lực sản xuất theo công xuất thiết kế
Năng
lực
thực
tế huy
động
Đơn
vị
tính
Doanh nghiệp quốc doanh
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
Tổng
(theo sản phẩm)
1.Giầy dép các loại.
- Giầy thể thao
- Giầy vải
- Giầy nữ
- Các loại khác
1000 đôi
1000 đôi
1000 đôi
1000 đôi
1000 đôi
111.004
32.547
35.107
30.305
13.045
119.946
38.667
12.207
45.619
23.453
219.755
147.919
17.886
0
26.950
450.000
245.428
65.200
75.924
63.448
320.014
142.285
37.786
69.501
70.428
2.Cặp túi xách.
1000chiếc
16.000
4.000
12.000
32.000
32.000
3.Da thuộc thành phẩm
triệu sqft
10.670
11.460
870
25.000
25.000
Nguồn: Bộ Công nghiệp
Lời cảm ơn 1
phần mở đầu 2
Chương I: 5
Lý luận chung về đầu tư 5
và đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam 5
I- Lý luận chung về đầu tư. 5
1. Đầu tư và đầu tư phát triển 5
1.1. Khái niệm 5
1.2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế 6
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển 9
1.4. Phân loại đầu tư. 10
2. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư 12
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành 13
3.1. Chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư xây dựng cơ bản (H). 14
3.2. Chỉ tiêu suất đầu tư của ngành (Id) 14
3.3. Chỉ tiêu tiết kiệm và tăng ngoại tệ 15
3.4. Những tác động kinh tế xã hội khác của hoạt động đầu tư phát triển ngành. 15
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả đầu tư của một ngành. 16
II. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010. 18
1. Vai trò của ngành công nghiệp Da - Giầy trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. 18
2. Vai trò của các yếu tố đầu vào đối với sự tăng trưởng của ngành Da - Giầy Việt Nam 21
3. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam 23
III. Đặc điểm của ngành công nghiệp Da - Giầy và đầu tư phát triển ngành công nghiệp Da - Giầy 26
1. Những đặc điểm xuất phát từ phía cầu. 26
2. Các đặc điểm từ phía cung. 27
3. Ngành Da - Giầy là ngành công nghiệp có tính liên ngành cao. 28
4. Sản xuất Da - Giầy có tác động mạnh đến môi trường đặc biệt là sản xuất thuộc da 29
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển ngành Da – Giầy Việt Nam giai đoạn 1993 - 2001 31
I. Một số chính sách ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam. 31
1. Chính sách đầu tư trong nước và nước ngoài. 31
2. Về Chiến lược và Quy hoạch phát triển ngành 32
3. Chính sách về tài chính. 33
4. Chính sách về khoa học - công nghệ và đào tạo. 34
5. Chính sách thuế: 34
6. Về tổ chức sắp xếp lại sản xuất. 35
II. Thực trạng đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam giai đoạn 1993 - 2001. 36
1. Tổng quan về tình hình đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam giai đoạn 1993 - 2001. 36
2. Thực trạng đầu tư vào ngành thuộc da. 39
Trong đó 43
3. Thực trạng đầu tư vào ngành giầy, đồ da giai đoạn 1993 - 2002 46
4. Thực trạng đầu tư nước ngoài vào ngành Da - Giầy Việt Nam giai đoạn 1990 - 2001. 52
5. Thực trạng đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường. 58
III. Đánh giá chung về đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam 60
1. Những thành tựu. 60
1.1. Đầu tư phát triển ngành Da - Giầy đã quán triệt quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư. 61
1.2. Kết quả của hoạt động đầu tư đã làm cho năng lực sản xuất của ngành không ngừng gia tăng. 61
Loại SP 61
Nguồn: Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam 61
1.3. Thúc đẩy tăng trưởng của ngành. 62
1.4. Tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm thu ngoại tệ cho đất nước. 63
Kim ngạch XK 63
1.5. Quy mô và chất lượng đầu tư đã làm gia tăng quy mô nơi làm việc, góp phần giải quyết việc làm. 64
1.6. Nâng cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh của sản phẩm Da - Giầy trên thị trường quốc tế. 64
2. Một số hạn chế cò tồn tại trong đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam 65
Chương III: Định hướng và giải pháp đầu tư phát triển ngành công nghiệp Da - Giầy Việt Nam 68
đến năm 2010. 68
I. Cơ sở xác định phương hướng đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010. 68
1. Quan điểm và định hướng phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010 68
2. Mục tiêu phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010 70
3. Yêu cầu của thị trường đối với sản phẩm của ngành và xu hướng cạnh tranh của thị trường giầy dép thế giới trong thời gian tới. 73
II. Phương hướng đầu tư phát triển ngành Da – Giầy Việt Nam đến năm 2010. 73
1. Quan điểm về đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010. 73
2. Định hướng đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2100. 75
3. Định hướng đầu tư một số lĩnh vực trong ngành đến năm 2010 76
3.1. Đầu tư phát triển nguyên liệu, trong đó có da nguyên liệu: 76
3.2. Đầu tư phát triển ngành thuộc da: 76
3.3. Đầu tư phát triển ngành giầy, đồ da: 77
3.4. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ và Viện Nghiên cứu Da - Giầy: 78
3.5. Phối hợp đầu tư phát triển cơ khí Da - Giầy 78
3.6. Đầu tư xử lý chất thải và bảo vệ môi trường: 79
3. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010. 79
3.1. Phương pháp xác định nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành đến năm 2010. 79
3.2. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010. 81
III. giải pháp đầu tư cho phát triển nước Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010 82
1. Giải pháp khuyến khích nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. 83
1.1. Giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước. 83
1.2. Giải pháp khuyến khích nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: 85
2. Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển ngành Da - Giầy Việt Nam đến năm 2010. 87
2.1. Giải pháp huy động vốn đầu tư trong nước. 87
2.2. Giải pháp huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 90
3. Giải pháp đầu tư đối với các lĩnh vực trong ngành 92
3.1. Giải pháp đầu tư đối với ngành thuộc da và các phụ liệu khác 92
3.2. Giải pháp đầu tư đối với ngành giầy da 93
4. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: 95
4.1. Giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu cho các dự án thuộc da. 95
4.2. Chú trọng nghiên cứa khoa học và chuyển giao công nghệ 95
4.3. Nâng chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. 97
4.4. Giải pháp về thị trường. 98
VI. Một số kiến nghị. 101
Kết luận 103
Danh mục tài liệu tham khảo 104
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37004.doc