CD37
Lời cảm ơn:
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo của cô giáo - Tiến sĩ Lưu Thị Hương và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú trong công ty tài chính Bưu điện. Thông qua bài viết này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo và các cô chú trong công ty.
Lời mở đầu
Công ty Tài chính trực thuộc Tổng Công ty Nhà nước là một trung gian tài chính đặc biệt và là một mô hình quản lý kinh doanh mới trong hoạt động kinh tế - tài chính tại Việt Nam. S
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Công ty Tài chính Bưu điện trong Tổng Công ty theo hướng tập đoàn kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự ra đời và phát triển của loại hình doanh nghiệp này đã mang lại một luồng sinh khí mới cho thị trường vốn nước ta, đóng vai trò to lớn trong việc khai thác các nguồn lực trong nội bộ ngành, các nguồn vốn trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của Tổng công ty, thực hiện chuyên môn hoá trong quản lý kinh tế-tài chính của Tổng công ty nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng tiềm lực tài chính của Tổng công ty.
Với chủ trương xây dựng các Tổng công ty phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh do đó điều tất yếu các Tổng công ty phải gắn mình vào hệ thống thị trường tài chính tiền tệ. Chính vì vậy cần thiết phải có các giải pháp hữu hiệu để từng bước hoàn thiện hoạt động của công ty tài chính trong các Tổng công ty.
Bưu chính -Viễn thông là một ngành kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh tế của quốc gia, đòi hỏi phát triển nhanh, đi trước, phục vụ cho quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, thúc đẩy các ngành kinh tế-xã hội phát triển. Bưu chính-Viễn thông được đánh giá là một trong những ngành kinh tế phát triển nhất của nước ta và cũng là ngành có nhiều cơ hội và không ít thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong thế kỷ mới.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn viết chuyên đề với đề tài "Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty theo hướng tập đoàn kinh tế".
Chuyên đề được cấu trúc thành 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Vai trò của công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế
Chương 2: Thực trạng hoạt động của công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Mục lục
Chương 1: Vai trò của công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế 5
1.1.Tổng quan về mô hình tập đoàn 5
1.1.1.Khái niệm tập đoàn kinh tế 5
1.1.2.Đặc điểm của Tập đoàn kinh tế 7
1.1.3.Định hướng xây dựng các tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam 9
1.1.3.1.Thực trạng mô hình Tổng công ty 91- Mô hình thí điểm thành
lập các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam. 9
1.1.3.2.Định hướng chung về mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam 14
1.2.Vai trò của công ty tài chính trong các Tổng công ty theo mô hình tập
đoàn ở Việt Nam hiện nay. 17
1.2.1.Công ty tài chính trong tập đoàn- Một mô hình mới. 17
1.2.2.Vai trò của công ty tài chính trong tập đoàn 20
1.2.2.1. Vai trò Huy động vốn 22
1.2.2.2.Vai trò đầu tư tài chính 23
1.2.2.3.Vai trò điều hoà vốn 24
1.3.Điều kiện phát triển các công ty tài chính trong Tổng công ty. 25
1.3.1.Điều kiện về môi trường vĩ mô 25
1.3.2.Điều kiện về môi trường vi mô 27
Chương 2: Thực trạng hoạt động của công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT). 31
2.1.Giới thiệu về Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. 31
2.1.1.Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của VNPT 31
2.1.2.Những thành tựu đạt được 33
2.1.3.Cơ hội và thách thức 36
2.2.Thực trạng hoạt động của công ty tài chính Bưu điện(PTF) 37
2.2.1.Giới thiệu tổng quan về PTF 37
2.2.2.Các hoạt động của PTF 41
2.2.2.1.Hoạt động huy động vốn 41
2.2.2.2.Hoạt động tín dụng 45
2.2.2.3.Đầu tư tài chính. 47
2.2.2.4.Hoạt động trên thị trường vốn 51
2.2.2.5.Hoạt động tư vấn 51
2.3.Đánh giá 54
2.3.1. Đánh giá về hoạt động của công ty 54
2.3.1.1.Những kết quả đạt được 54
2.3.1.2.Những khó khăn 56
2.3.2.Đánh giá về vai trò của PTF trong VNPT hiện nay. 64
2.3.2.1.Thành công 64
2.3.2.2.Hạn chế 65
Chương 3: Giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của công ty tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.(VNPT) 67
3.1.Định hướng phát triển của VNPT 67
3.1.1.Sự cần thiết đổi mới tổ chức của VNPT 67
3.1.2.VNPT có đủ điều kiện để tiến tới thành lập tập đoàn kinh tế 69
3.1.3.Mô hình tập đoàn Viễn thông Việt Nam 70
3.2.Định hướng phát triển của công ty tài chính Bưu điện(PTF) 72
3.2.1.Vị trí của PTF trong mô hình mới 72
3.2.2.Mục tiêu chiến lược trong thời gian tới của PTF 73
3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của PTF trong VNPT 74
3.3.1.Giải pháp nâng cao vai trò huy động vốn 75
3.3.2.Giải pháp nâng cao vai trò đầu tư tài chính 75
3.3.3.Giải pháp nâng cao vai trò điều hoà vốn 76
3.3.4.Các Giải pháp khác 76
3.4.Một số kiến nghị 77
3.4.1.Kiến nghị về cơ chế chính sách của Nhà nước 77
3.4.2.Kiến nghị về quy chế quản lý tài chính trong tập đoàn Bưu điện 80
3.4.3.Kiến nghị khác về mở rộng hoạt động cho PTF 82
Kết luận 83
Chương 1: Vai trò của công ty tài chính
trong tập đoàn kinh tế.
1.1.Tổng quan về mô hình tập đoàn
1.1.1.Khái niệm tập đoàn kinh tế
Trong nền kinh tế ngày nay, cả thế giới đều biết đến những cái tên như General Motors, IBM, Mobil & Exxon của Hoa kỳ; LG, Sam sung, Daewoo của Hàn Quốc; Honda, Missubisi của Nhật Bản...Các tập đoàn khổng lồ (hay còn gọi là Giant, Blue chip, Cheabol, hay là Zaibatsu, Keiretsu) này đã trở thành biểu tượng sức mạnh kinh tế của các quốc gia. Tập đoàn kinh doanh đã trở thành một hình thức phổ biến, đóng vai trò chi phối và tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế ở nhiều nước. Thực tế đã chứng minh sức mạnh của tập đoàn trong xu hướng hội nhập và canh tranh gay gắt trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên do có sự khác nhau về phương thức hình thành, nguyên tắc tổ chức, tư cách pháp nhân của tập đoàn mà cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về tập đoàn kinh doanh.Tuỳ theo giác độ nghiên cứu, phân tích khác nhau, người ta đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về tập đoàn.
Với thuật ngữ "Group"(tức là tập đoàn) hiện có nhiều cách giải thích khác nhau rất phong phú. Có một học giả giải nghĩa rằng:"Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và tài chính gồm một công ty mẹ và các công ty con mà nó kiểm soát hay trong đó nó có tham gia. Mỗi công ty bản thân nó cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác".
Trong cuốn từ điển kinh doanh thế giới, khái niệm "group company" được hiểu là ' Tập đoàn công ty bao gồm một công ty mẹ và các công ty con là các công ty mà công ty mẹ nắm giữ trên một nửa mệnh giá vốn cổ phần của nó hoặc nắm được một số cổ phần chi phối và điều khiển ban giám đốc. Nếu một công ty có các công ty con mà các công ty con này lại có các công ty con khác thì tất cả các công ty gộp lại là những thành viên của tập đoàn trên"
ở nước ta, hiện cũng có nhiều quan niệm khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Có tác giả đưa ra định nghĩa về tập đoàn như sau:"Một thực thể kinh tế thể hiện sự liên kết kinh tế giữa các thành viên là các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ, lợi ích được gọi bằng các tên khác nhau như: hiệp hội, liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh"
Cũng có tác giả lại quan niệm rằng:"Tập đoàn là một pháp nhân bao gồm nhiều công ty khác nhau có mối quan hệ sở hữu và khế ước với nhau, hoạt động trong cùng một ngành hay nhiều ngành trên một nước hoặc trên nhiều nước khác nhau trên thế giới."
Tổng công ty Nhà nước ở nước ta đựơc thành lập thí điểm theo mô hình tập đoàn kinh doanh trên thế giới.Trong nhiều văn bản pháp luật hiện nay cũng đã đề cập đến khái niệm này. Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Nhà nước (ban hành kèm theo Nghị định 39/CP ngày 27/6/1995 của Chính phủ) đã ghi rõ:"Tổng công ty Nhà nước (sau đây gọi tắt là Tổng công ty) là doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiêu thụ hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật chính, do Nhà nước thành lập nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất để thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế".
Như vậy, một cách tổng quát có thể hiểu tập đoàn kinh doanh là một thực thể kinh tế có quy mô lớn, có cấu trúc tổ chức nhất định, gồm một số đơn vị thành viên có mối liên kết với nhau về kinh tê, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu... được kiểm soát và điều hành bởi một bộ máy thống nhất.
Tập đoàn kinh tế hình thành và phát triền một cách tất yếu theo các quy luật khách quan: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuât, quy luật tích tụ và tập trung vốn và sản xuất, quy luật cạnh tranh, liên liên kết, tối đa hoá lợi nhận, thích ứng với sự phát triển khoa học công nghệ, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế. Tập đoàn được thành lập theo nhiều phương thức khác nhau như mở rộng chia nhỏ công ty hoặc thôn tính lẫn nhau, hay liên kết, sát nhập tự nhiên và có nhiều hình thức biểu hiện.
Để làm rõ hơn về tập đoàn kinh doanh, chúng ta cần nghiên cứu và phân tích các đặc điểm cũng như xu hướng phát triển của các tập đoàn ngày nay.
1.1.2.Đặc điểm của Tập đoàn kinh tế
Ngày nay, tập đoàn kinh tế đã trở thành một hình thức phổ biến, với quy mô ngày càng mở rộng, cấu trúc ngày càng phức tạp, hình thức biểu hiện ngày càng đa dạng, phong phú. Tuy vậy, khi nghiên cứu các tập đoàn kinh tế trên thế giới, chúng ta có thể nhận thấy các tập đoàn kinh tế có một số đặc điểm chung như sau:
-Về cấu trúc-tổ chức: Hầu hết các tập đoàn kinh tế là một tổ hợp gồm nhiều công ty thành viên. Các công ty thành viên chịu sự kiểm soát của một công ty có tiềm lực lớn nhất gọi là công ty mẹ. Công ty mẹ sở hữu một lượng vốn cổ phần lớn trong các công ty con, nó chi phối các công ty con về tài chính và chiến lược phát triển. Do vậy, sở hữu vốn của tập đoàn kinh tế là sở hữu hỗn hợp trong đó công ty mẹ đóng vai trò khống chế và tạo thành một cấu trúc thống nhất
-Về quy mô : Hầu hết các tập đoàn đều có quy mô lớn về vốn, lao động, doanh thu, thị trường và phạm vi hoạt động. Quy mô của các tập đoàn tiếp tục được mở rộng để tăng cường sức cạnh tranh. Nhiều tập đoàn lớn có các công ty chi nhánh và văn phòng đại diện ở hàng trăm nước- đó là các tập đoàn đa quốc gia(xuyên quốc gia).
-Về ngành và lĩnh vực hoạt động: Các tập đoàn kinh tế phát triển theo hai xu hướng:xu hướng phát triển đa ngành và xu hướng phát triển chuyên môn hoá. Tuy nhiên chúng ta cũng dễ nhận thấy các tập đoàn đa ngành thường có một ngành, lĩnh vực trung tâm, mũi nhọn. Bên cạnh các ngành đặc trưng, chủ đạo đó, các tập đoàn tiến hành mở rộng hoạt động kinh doanh ra các ngành khác có liên quan hoặc ít liên quan với ngành, lĩnh vực chủ đạo. Ngoài ra, các tập đoàn còn thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư để đa dạng hoá rủi ro, tối đa hoá lợi nhuận.
-Xu hướng hiện nay của các tập đoàn là tăng cường liên kết và thống nhất về chiến lược, tăng cường mức độ tập trung hoá về vốn, tăng cường vai trò trung tâm và sự chi phối của công ty tài chính. Nhiều tập đoàn đã mở rộng quy mô vốn cho Ngân hàng hoặc công ty tài chính. Các tổ chức tài chính- ngân hàng ngày càng được coi trọng hơn vì nó là đòn bẩy cho sự phát triển của tập đoàn. Tập đoàn kinh tế thông qua tổ chức tài chính- ngân hàng để tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như huy động vốn, quản lý vốn, điều hoà vốn.
Qua phân tích các đặc điểm của tập đoàn kinh tế cho thấy các Tổng công ty Nhà nước được thành lập theo quyết định 91/TTG (sau đây gọi là Tổng công ty 91) chưa phải là tập đoàn kinh tế mà chỉ là hình thức quá độ để chuyển lên tập đoàn kinh tế khi có điều kiện. Nó có những đặc điểm khác biệt cơ bản so với tập đoàn như sau:
-Tổng công ty 91 là pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập, đặt dưới sự chỉ đạo, kiểm soát, quản lý của Nhà nước về vốn,chiến lược, ...nhằm thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao. Còn các tập đoàn không chịu sự quản lý hành chính của Nhà nước mà được đặt dưới sự chỉ đạo của một trung tâm là công ty mẹ.
-Tổng công ty là một pháp nhân kinh tế, các đơn vị thành viên có mức độ độc lập khác nhau. Trong khi đó còn có nhiều quan điểm trái ngược về việc tập đoàn có phải là một pháp nhân kinh tế hay không.Điều này còn đang được bàn cãi.
-Tổng công ty 91 là tập hợp các doanh nghiệp thuộc một chủ sở hữu là Nhà nước, Nhà nước toàn quyền quyết định cấu trúc tổ chức và hoạt động của Tổng công ty. Còn các tập đoàn đều mang tính chất đa sở hữu.Trong các tập đoàn, Nhà nước có thể là một chủ sở hữu và quyền kiểm soát bị giới hạn bằng số cổ phần mà Nhà nước nắm giữ như các cổ đông khác.
-Theo quyết định 91/Ttg các Tổng công ty có thể hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực song nhất thiết phải có định hướng ngành chủ đạo.Thực tế, các Tổng công ty lớn ở nước ta hiện nay đều hoạt động đơn ngành khép kín. Điều này khác với các tập đoàn là hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực.
Tóm lại, tập đoàn kinh doanh là tổ chức có tiềm lực lớn có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia và có thể mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các nước trên toàn cầu. Đảng và Nhà nước ta cũng đã có chủ trương xây dựng các tập đoàn mà bước đầu là hình thành các Tổng công ty theo mô hình tập đoàn. Thực tế hoạt động của các Tổng công ty này ra sao và con đường tiến tới thành lập tập đoàn ở Việt Nam như thế nào. ở phần tiếp theo của bài viết sẽ nghiên cứu vấn đề này.
1.1.3.Định hướng xây dựng các tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam
1.1.3.1.Thực trạng mô hình Tổng công ty 91- Mô hình thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam.
DNNN được khẳng định là giữ vai trò chủ đạo ở nước ta, nhưng trên thực tế, trong suốt quá trình hình thành và hoạt động, nhìn chung các DNNN lại là loại hình doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Chính vì vậy vấn đề đổi mới DNNN, tìm ra mô hình tổ chức mới nhằm phát huy được vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước thay thế các mô hình kiều cũ như Liên hiệp các xí nghiệp quốc doanh, Tổng công ty được coi là nhiệm vụ cấp thiết. Trong bối cảnh như vậy, Đảng và Nhà nước đã xác định chủ trương thành lập các tập đoàn kinh doanh thông qua việc thí điểm thành lập các Tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Chủ trương này đựơc ghi nhận một cách chính thức lần đầu tiên tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII(1991). Đại hội đã xác định nhiệm vụ:"Sắp xếp lại các Liên hiệp Xí nghiệp, Tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường...xây dựng một số công ty hoặc Liên hiệp xí nghiệp lớn, uy tín và có khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài...". Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII của Đảng tiếp tục khẳng định:"Đổi mới các Liên hiệp Xí nghiệp, các Tổng công ty theo hướng tổ chức các Tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính trung gian...Xoá bỏ dần (qua làm thí điểm) chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt xí nghiệp Trung ương và địa phương".Chủ trương này tiếp tục được khẳng định và làm rõ thêm tại các Hội nghị quan trọng tiếp theo của Đảng. , Nhằm quán triệt và từng bước thực hiện chủ trương trên của Đảng, Chính phủ đã có những bước đi cụ thể.
Ngày 7/3/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 90-TTg và quyết định số 91-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục sắp xếp lại DNNN và thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế.Cho đến tháng 6/2000, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập 17 Tổng công ty theo quyết định 91/TTG (gọi tắt là TCT 91) gồm:
7 TCT trong lĩnh vực công nghiệp
4 TCT trong lĩnh vực nông nghiệp
3 TCT trong lĩnh vực vận tải
1 TCT trong lĩnh vực xây dựng
1TCT trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông
1 TCT trong lĩnh vực dầu khí.
Các Tổng công ty trên thu hút 566 doanh nghiệp thành viên, chiếm hơn 10% số DNNN, với 44% tổng vốn Ngân sách, và 563.000 lao động, chiếm 33% tổng số lao động trong các DNNN, giá trị xuất khẩu chiếm 39% tổng gía trị xuất khẩu cả nước(năm 2000)
Biểu số : Một số chỉ tiêu của các Tổng công ty 91(năm 2000)
STT
Tổng công ty
Số DNTV
Vốn
(Triệu đồng)
Tổng doanh thu
Tổng nộp Ngân sách
1
Hàng Hải VN
21
3.650.000
2.391.500
205.000
2
Thép VN
14
1.410.000
6.000.000
210.000
3
Điện lực VN
35
25.342.513
15.339.000
2.062.016
4
CN Tàu Thuỷ VN
27
336.614
992.000
60.818
5
GiấyVN
19
1.030.000
2.238.040
130.833
6
Cao su VN
36
4.264.662
1.980.000
315.480
7
Cà phê VN
58
685.000
1.950.000
50.000
8
Than VN
41
2.451.089
4.126.277
364.081
9
Lương thực MN
34
989.298
9.294.654
105.558
10
Xi măng VN
13
8.903.161
6.576.758
613.658
11
Dầu khí VN
16
14.792.000
42.623.000
16.725.000
12
Lương thực MB
35
449.000
3.501.025
68.600
13
Hàng không VN
14
3.335.500
7.129.412
510.696
14
Thuốc lá VN
12
759.941
5.966.276
1.230.000
15
Hoá chất VN
47
1.568.000
6.697.000
281.000
16
Dệt-may VN
56
5.322.820
7.230.000
303.345
17
BC-VT VN
86
15.392.711
12.070.440
2.187.275
Tổng số
564
90.682.309
136.105.382
25.423.360
Qua hơn 8 năm hoạt động thí điểm, nhìn chung, các Tổng công ty 91 đã đạt được những kết quả rõ rệt. Theo báo cáo ngày 20/7/2000 của Ban đổi mới Quản lý doanh nghiệp Trung ương về "việc củng cố, hoàn thiện và phát triển mô hìnhTổng công ty Nhà nước" thì từ khi thành lập đến nay, các Tổng công ty đã đạt được những kết quả như sau:
Các Tổng công ty bước đầu huy động được nguồn nội lực bên trong và bên ngoài, đẩy nhanh việc tích tụ và tập trung vốn mở rộng quy mô, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nâng cao khả năng cạnh tranh.
Các Tổng công ty là lực lượng chủ lực trong việc đảm bảo các các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các Tổng công ty 91 đều giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, là công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế mấy năm qua đã khẳng định vai trò của các Tổng công ty. Các Tổng công ty có ý nghĩa quyết định trong đảm bảo các cân đối lớn, cung cấp các sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân như điện, xi măng, than, phân bón, xăng dầu, giấy viết, thép...Năm 1999, các Tổng công ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 94% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 59% sản lượng xi măng, 50% sản lượng giấy...Các Tổng công ty 91 là đầu mối xuất khẩu trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao như dầu khí, dệt may, lương thực, cao su, cà phê, than. Tổng kim ngạch xuất khẩu của 17 Tổng công ty 91 năm 1999 là 3,45 tỷ USD, bằng 30% tổng giá trị xuất khẩu toàn quốc.
Nhìn chung, các Tổng công ty 91 hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Năm 1999, trong điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, các Tổng công ty vẫn duy trì được mức sản xuất, doanh thu tăng 12%, lợi nhuận tăng 23%, nộp ngân sách Nhà nước tăng 29% so với mức thực hiện năm 1998.
Các Tổng công ty 91 đã chú trọng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở trong và ngoài nước. Thị phần trong thị trường nội địa của các Tổng công ty 91 nhìn chung đều chíêm tỷ trọng lớn và đang có xu hướng nâng cao.
Hầu hết các Tổng công ty đã chủ động xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển đến năm 2010, có tính đến năm 2020. Đây là chương trình phát triển cơ bản, chiến lược của Tổng công ty, trên cơ sở dự báo kinh tế khu vực và thế giới xu hướng phát triển khoa học và công nghệ, điều kiện thương mại quốc tế, yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tiến trình tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế, kinh tế quốc tế, lợi thế của Việt Nam các Tổng công ty đã xác định những hướng phát triển ưu tiên, chuyên ngành và sản phẩm mũi nhọn , có những biện pháp đồng bộ, đảm bảo phát triển nhanh, vững chắc. Từ đó, nhiều Tổng công ty đã lựa chọn kinh doanh đa ngành với một ngành chuyên sâu. Bước đầu các Tổng công ty đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy của khối văn phòng Tổng công ty và một số đơn vị thành viên. Lập phương án sắp xếp tổng thể các doanh nghiệp Nhà nước trong Tổng công ty trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Các Tổng công ty đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách xã hội và ổn định chính trị xã hội.
Tóm lại, các Tổng công ty 91 đã thể hiện được vai trò nòng cốt động lực của mình trong nền kinh tế, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động, là công cụ của Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế xã hội . Từ những kết quả trên, có thể khẳng định chủ trương thành lập Tổng công ty 91 là đúng đắn và cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, vừa hổ trợ thúc đẩy nhau phát triển.
Tuy nhiên thực tiễn hoạt động của các Tổng công ty 91 thời gian qua cũng đang bộc lộ những hạn chế về mô hình tổ chức và hoạt động, về cơ chế chính sách, về phân cấp và quản lý Nhà nước...
Việc thành lập các TCT 91 không hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện và liên kết kinh tế, các TCT được thành lập chủ yếu dựa trên việc tập hợp các doanh nghiệp thành viên, liên kết ngang theo kiểu hành chính. Mối quan hệ giữa các thành viên với nhau chủ yếu là quan hệ ghép nối cơ học, vốn trước đây là những doanh nghiệp hạch toán độc lập theo nghị định 388/HĐBT, nay tập hợp thành những thành viên của Tổng công ty quan hệ lỏng lẻo, thiếu tính gắn kết. Mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên còn mang tính hành chính. Sự chi phối và giúp đỡ của Tổng công ty đối với các doanh nghiệp thành viên cũng rất hạn chế, chủ yếu mới là giải quyết các thủ tục đầu tư, vay vốn tín dụng...
Tổng công ty chưa thực sự là một thực thể kinh tế thống nhất và chưa phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng công ty, chưa đạt đựơc mục tiêu đề ra là tạo sự liên kết kinh tế, gắn bó về lợi ích, thị trường trong nội bộ Tổng công ty.
Các liên kết về tài chính tuy đã được quy định và một số CTTC trong TCT đã được thành lập song chưa phát huy được hiệu quả...dẫn đến khó khăn cho việc đẩy nhanh hình thành tập đoàn kinh doanh.
Thiếu vốn là trở ngại lớn đối với các TCT trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao tính cạnh tranh...Hầu hết các Tổng công ty chưa đạt được các tiêu chí về vốn quy định khi thành lập theo quyết định 91/TTG . Mức vốn trung bình hiện nay tại một Tổng công ty là 3882 tỷ đồng gấp hơn 3 lần so với mức quy định nhưng hiện có 14/17 TCT có vốn dưới mức trung bình, có 5TCT có vốn dưới 1000 tỷ đồng. Sự thiếu hụt vốn này bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa: Các DNNN trước đây hoạt động riêng lẻ, đã có sự thiếu hụt rất lớn về vốn, nay gia nhập vào các TCT thực trạng này vẫn còn tồn tại là điều dễ hiểu.
Hiệu quả hoạt động chưa cao không tương xứng với tiềm năng của các Tổng công ty, tình hình tài chính không lành mạnh...
Kết luận: Thực chất mô hình Tổng công ty ở Việt Nam hiện nay là những tập đoàn kinh tế ở dạng sơ khai, quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, mô hình và cơ chế quản lý chưa hoàn chỉnh.Việc hoàn thiện mô hình tổ chức, hoàn thiện cơ chế tài chính của Tổng công ty tiến tới thành lập các tập đoàn kinh doanh là điều cần thiết.
1.1.3.2.Định hướng chung về mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam
Sau hơn 8 năm hoạt động thí điểm, thời gian tuy chưa dài nhưng cũng đủ để đánh giá hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty 91. Qua phân tích trên cho thấy quá trình hình thành các Tổng công ty không theo quá trình khách quan, có tính quy luật của việc hình thành các tập đoàn kinh doanh.
Vì vậy, để tiến tới thành lập các tập đoàn kinh doanh ở nước ta, trước hết cần quán triệt về mô hình tập đoàn mà chúng ta định xây dựng và con đường để chuyển các Tổng công ty thành tập đoàn.
Hiện nay hầu hết các tập đoàn kinh doanh trên thế giới có cấu trúc theo dạng "công ty mẹ - công ty con". Công ty mẹ có thể biểu hiện dưới hai hình thức: Thứ nhất, công ty mẹ là một công ty lớn nhất chi phối các công ty thành viên, qua đó chi phối cả tập đoàn. Thứ hai, công ty mẹ là một Ngân hàng hoặc một công ty tài chính đóng vai trò trọng tâm của cả Tập đoàn thông qua hệ thống tài chính và chi phối về vốn.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, mô hình công ty mẹ-công ty con sẽ phù hợp với nhiều Tổng công ty, mô hình này sẽ giải quyết được nhiều nhược điểm của mô hình Tổng công ty hiện nay. Mối quan hệ giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên hình thành dựa trên quan hệ gắn kết về tài chính thay vì bằng mệnh lệnh hành chính như trước đây, tạo ra tính độc lập cao hơn cho các doanh nghiệp thành viên và sự can thiệp của Tổng công ty vào các công ty con được thực hiện một cách gián tiếp qua vai trò cổ đông của mình. Tổng công ty( công ty mẹ) đầu tư vốn vào các công ty thành viên (công ty con) và cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của các công ty con, định hướng phát triển và hoạt động của các công ty con thông qua đại diện của mình tại Hội đồng quản trị. Tổng công ty còn thực hiện việc yểm trợ hoạt động của các công ty con thông qua các công cụ mạnh của mình như : Công ty tài chính, Viện nghiên cứu , trường đào tạo chuyên ngành...
Thực tế cũng cho thấy rằng mô hình thứ nhất phù hợp với thực trạng của các Tổng công ty Việt Nam hiện nay và phù hợp với trình độ phát triển cuả nền kinh tế khi mà chưa có đầy đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính tiền tệ còn chưa phát triển, thị trường chứng khoán mới được thành lập.
Nhiều nhà phân tích cho rằng, để xây dựng và phát triển mối quan hệ công ty mẹ-công ty con trong các Tổng công ty có thể tiến hành bằng hai con đường:
Con đường thứ nhất áp dụng đối với một số Tổng công ty đã có, chuyển Tổng công ty thành công ty mẹ và chuyển một số doanh nghiệp thành viên thành công ty con. Chuyển việc giao vốn của Tổng công ty thành đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên. Quá trình này đòi hỏi phải cơ cấu lại, xác định rõ vốn của các doanh nghiệp thành viên và vốn của công ty mẹ. Ngoài ra, để xây dựng mô hình công ty mẹ-công ty con với sự đa dạng về sở hữu cần phải đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp thành viên, công ty hoá doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh việc Tổng công ty và các doanh nghiệp góp vốn đầu tư, mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá ...
Con đường thứ hai là bắt đầu hình thành công ty mẹ từ một doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn có tiềm lực sau đó mở rộng và phát triển nhân rộng các liên kết kinh tế mà chủ yếu là thông qua góp vốn cổ phần hoặc mua lại cổ phần ở các doanh nghiệp khác, lập doanh nghiệp liên doanh với trong và ngoài nước.Con đường này phù hợp với quy luật khách quan của việc hình thành tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, với số lượng lớn các Tổng công ty 90, 91 đã được thành lập nắm giữ phần lớn các nguồn lực của đất nước thì số lượng doanh nghiệp nhà nước đơn lẻ có tiềm lực lớn là rất hiếm. Vì vậy, con đường thứ nhất sẽ là chủ yếu.
Trên đây là phác thảo chung về mô hình tập đoàn phù hợp với điều kiện của nước ta. Đây là mô hình mang tính tham khảo, không phải phù hợp với tất cả các Tổng công ty. Các Tổng công ty, với những đặc trưng khác nhau, sẽ xây dựng cho mình mô hình và con đường riêng. Trong 17 Tổng công ty 91, hiện tại, Nhà nước chỉ lựa chọn một số Tổng công ty thực sự có tiềm lực để phát triển lên thành tập đoàn (gồm Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Điện lực, Tổng công ty Hàng không,...). Hiện nay, các Tổng công ty này đang xây dựng mô hình trình Chính phủ phê duyệt.
Trên đây là tổng quan về mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới và định hướng xây dựng tập đoàn kinh tế ở Việt Nam. Chủ trương đổi mới tổ chức các Tổng công ty, xây dựng các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam là một chủ trương đúng đắn, kịp thời. Để tiến tới thành lập các tập đoàn kinh tế Nhà nước, các công ty tài chính trong Tổng công ty cũng đã được thành lập và được đánh giá là một giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện mô hình tập đoàn. Để minh chứng cho nhận định này, cần phải làm rõ vai trò của công ty tài chính trong mô hình tập đoàn.
1.2.Vai trò của công ty tài chính trong các Tổng công ty theo mô hình tập đoàn ở Việt Nam hiện nay.
1.2.1.Công ty tài chính trong tập đoàn- Một mô hình mới.
CTTC trong các tập đoàn kinh tế nói chung là một mô hình tổ chức tài chính được ưa dùng ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động như một định chế tài chính trung gian, thu xếp và sử dụng các nguồn vốn , tham gia vào các thị trường tài chính-tiền tệ để tăng cường tiềm lực tài chính phục vụ cho yêu cầu đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các ngành kinh tế trọng yếu. Lợi nhuận của các tập đoàn trên thế giới do hoạt động của CTTC của tập đoàn mang lại là khá lớn (khoảng 30-33%) thông qua hoạt động trên thị trường tài chính tiền tệ như : mua bán thương phiếu, cổ phiếu, trái phiếu, tiến hành các dịch vụ đầu tư tài chính, cho vay và các dịch vụ khác mang tính chất môi giới đầu tư, tư vấn tài chính đầu tư cho toàn ngành.
ở Việt Nam, Thực hiện chủ trương xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh, Nhà nước khuyến khích thành lập các CTTC trong Tổng công ty Nhà nước. Điều 43, khoản 3 Luật DNNN đã ghi:" Tuỳ theo quy mô và vị trí quan trọng, Tổng công ty Nhà nước có hoặc không có CTTC là doanh nghiệp thành viên". Thống đốc NHNN cũng đã ban hành Quyết định số 104/QĐ-NHNN5 ngày 12/51996 quy định điều lệ mẫu CTTC trong Tổng công ty Nhà nước, qua đó đã bước đầu làm rõ hoạt động của CTTC so với các tổ chức tín dụng khác.
Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Thực tiễn kinh nghiệm của các tập đoàn trên thế giới khẳng định việc thành lập CTTC trong tập đoàn sẽ giúp tập đoàn khai thác triệt để sức mạnh của mình để kinh doanh trên thị trường tài chính tiền tệ, phát huy thế mạnh về nguồn lực tài chính, nguồn lực con người.
Hơn nữa, đối với nước ta-một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, nhu cầu hình thành và phát triển một thị trường vốn là cấp bách. Đồng thời với sự phát triển thị trường vốn đó thì sự hình thành các định chế trung gian là tất yếu. Vì thế, ngoài các tổ chức tài chính như : Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, hợp tác xã tín dụng, công ty bảo hiểm thì cần thiết phải thành lập và đa dạng hoá hình thức và hoạt động của các CTTC nhằm tận dụng mọi nguồn lực tài chính trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng phát triển.
Công ty Tài chính trực thuộc Tổng Công ty Nhà nước là một trung gian tài chính đặc biệt và là một mô hình quản lý kinh doanh mới trong hoạt động kinh tế - tài chính tại V._.iệt Nam. Sự ra đời và phát triển của loại hình doanh nghiệp này đã mang lại một luồng sinh khí mới cho thị trường vốn nước ta. Để làm rõ hơn vị trí của CTTC trong Tổng công ty, ta sẽ so sánh mô hình này với các CTTC thông thường.
CTTC thuộc Tổng công ty có tất cả các tính chất của một CTTC bình thường, là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, được thành lập dưới hình thức là "công ty quốc doanh hoặc công ty cổ phần, hoạt động chủ yếu là cho vay để mua, bán hàng hoá, dịch vụ bằng nguồn vốn của mình hoặc vay của dân cư". CTTC khác với Ngân hàng là không được thực hiện một số nghiệp vụ của Ngân hàng như nghiệp vụ thanh toán, nhận tiền gửi không kỳ hạn của dân cư, vay tiền của Ngân hàng trung ương, CTTC cổ phần không được phát hành cổ phiếu để tăng vốn tự có. Rõ ràng, so với Ngân hàng thì CTTC có quy mô nhỏ bé hơn và hoạt động trong lĩnh vực chuyên sâu hơn nhiều. CTTC chuyên về các nghiệp vụ trung và dài hạn hơn, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng thuê mua và linh hoạt hơn trong tín dụng trả góp và cho thuê tài chính. Hơn nữa, CTTC chuyên khai thác những thị trường cho vay nhiều rủi ro, lãi lớn mà Ngân hàng thương mại không đủ năng lực để tham gia.
Bên cạnh những điểm chung đó, CTTC trong Tổng công ty còn có những điểm khác biệt lớn lao về tổ chức và nghiệp vụ so với các CTTC thông thường ở Việt Nam là:
Mục tiêu ra đời và hoạt động của CTTC trong Tổng công ty là cung cấp những dịch vụ về tài chính cho Tổng công ty và các thành viên trong Tổng công ty, đặc biệt là mục tiêu huy động vốn, đầu tư tài chính và điều hoà vốn để đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của Tổng công ty.
Về tổ chức, CTTC thuộc Tổng công ty là một thành viên của Tổng công ty, chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty về chiến lược phát triển, về tổ chức nhân sự. Khoản 1, điều 28 trong Quyết định 91/TTG ngày 7/3/1994 của Chính phủ ghi rõ:"CTTC là một doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty, hoạt động theo luật pháp và hướng dẫn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, theo điều lệ tổ chức và hoạt động do Hội đồng quản trị phê chuẩn và theo sự điều hành của Tổng Giám đốc Tổng công ty "
Về mặt nghiệp vụ, CTTC thuộc Tổng công ty có những nghiệp vụ khác là:
Về nghiệp vụ uỷ thác: CTTC trong Tổng công ty thực hiện việc nhận uỷ thác của Tổng công ty (nhận uỷ thác vay vốn cho Tổng công ty, nhận uỷ thác đầu tư vào các dự án của Tổng công ty). Thông qua việc quản lý những quỹ tập trung của Tổng công ty như quỹ khấu hao cơ bản... để phân phối, điều hoà vốn trong Tổng công ty theo cơ cấu đầu tư toàn ngành.
Về nghiệp vụ huy động vốn: CTTC trong Tổng công ty được phép nhận tiền gởi có kỳ hạn >1 năm của Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên.
Về nghiệp vụ sử dụng vốn: CTTC thực hiện cho vay các công ty thành viên trong Tổng công ty theo nguyên tắc có vay có trả, thực hiện chế độ lãi suất nội bộ do CTTC đề nghị và Tổng Giám đốc Tổng công ty duyệt theo uỷ quyền của Hội đồng quản trị.
Do có những đặc điểm khác biệt trên nên CTTC thuộc Tổng công ty có những ưu điểm và hạn chế so với các CTTC khác đó là:
Thị trường và phạm vi hoạt động của CTTC bị giới hạn trong Tổng công ty. Đây là một hạn chế lớn của CTTC trong Tổng công ty. Tuy nhiên, đây cũng là một lợi thế của các CTTC trong Tổng công ty so với các CTTC khác. Vì thực tế của nền kinh tế Việt Nam trong khi thị trường trung và dài hạn của Việt Nam đầy rủi ro, bất trắc, các CTTC khác không phát triển được nghiệp vụ trung và dài hạn, thì các CTTC có ưu thế về thị trường vì các Tổng công ty chính là thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng to lớn và ngày càng phát triển, ổn định và an toàn. Đây chính là ưu điểm mà các CTTC khác không thể có được.
Mặt khác, nghiệp vụ nhận tiền gửi có kỳ hạn của các thành viên trong Tổng công ty làm cho CTTC giống như một Ngân hàng nội bộ của Tổng công ty và việc quản lý các quỹ tập trung của Tổng công ty , giúp Tổng công ty có khả năng điều hoà nguồn vốn nội bộ từ thành viên này đến các thành viên khác trong Tổng công ty một cách dễ dàng, đạt hiệu quả cao hơn. Hơn nữa, lãi suất nội bộ giúp cho CTTC trong Tổng công ty cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho đơn vị trong ngành và các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật. Vì vậy, để Tổng công ty phát triền và lớn mạnh cần thiết phải thành lập CTTC để tận dụng những ưu điểm này. Đó cũng là cơ sở của việc ra đời CTTC trong Tổng công ty.
Tóm lại, qua đối chiếu so sánh với các CTTC thông thường thì vị trí của CTTC đã được xác định. Tuy nhiên, để thấy được sự cần thiết thành lập các CTTC trong Tổng công ty, chúng ta cần làm rõ vai trò của CTTC trong Tổng công ty.
1.2.2.Vai trò của công ty tài chính trong tập đoàn
Trong các tập đoàn ngày nay, bên cạnh các đơn vị sản xuất kinh doành truyền thống thường có các tổ chức Tài chính-Ngân hàng, Bảo hiểm và các đơn vị nghiên cứu, đào tạo. Các tổ chức Tài chính-Ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày càng được coi trọng vì nó là đòn bẩy cho sự phát triển của tập đoàn và là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong cơ cấu kinh doanh của tập đoàn.
Tại sao tổ chức Tài chinh-Ngân hàng lại đóng vai trò cần thiết như vậy đối với các tập đoàn kinh doanh ngày nay?
Khi nghiên cứu đặc điểm của các tập đoàn kinh doanh ngày nay chúng ta có thể thấy rõ sự cần thiết phải thành lập và phát triển tổ chức Tài chính- Ngân hàng trong các tập đoàn.
Thứ nhất, việc hình thành tập đoàn xuất phát từ nguyên nhân khách quan nhằm khắc phục sự hạn chế về vốn của từng thành viên cá biệt. Trong tập đoàn việc huy động vốn từ các công ty thành viên để đầu tư một cách tập trung vào các công ty, các dự án có hiệu quả kinh tế cao khắc phục tình trạng phân tán vốn chính là cơ sở cho việc thành lập công ty tài chính. Vì thế, Sự ra đời công ty tài chính sẽ tổng hợp sức mạnh tài chính của mọi thành viên trong tập đoàn, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Thứ hai, xu hướng của các tập đoàn ngày nay là phát triển đa ngành, đa lĩnh vực. Do phát triển đa ngành, đa lĩnh vực với các quan hệ liên kết kinh tế dọc, ngang và liên kết kinh tế hỗn hợp dọc ngang rất phức tạp đòi hỏi phải có sự chuyên môn hoá và hợp tác hóa giữa các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn. Các công ty tài chính ( ngân hàng) được thành lập nhằm thực hiện chức năng chuyên môn hoá trong quản lý tài chính do đó nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn, tối đa hoá lợi nhuận.
Mặt khác trong các tập đoàn kinh doanh, quan hệ tài chính giữa công ty mẹ và công ty con là dựa trên mối quan hệ sở hữu, trong đó công ty mẹ đóng vai trò chi phối, kiểm soát công ty con về chiến lược và tài chính. Bên cạnh đó, công ty mẹ sẽ hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty thành viên vay vốn từ nguồn vốn cổ phần chung của tập đoàn. Quan hệ tín dụng này thường được thực hiện thông qua công ty tài chính. Công ty tài chính đảm bảo cho các công ty thành viên vay vốn với lãi suất ưu đãi trong nội bộ tập đoàn.
Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện hình thành những tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính: Công ty tài chính là công ty mẹ nắm giữ cổ phần chi phối của các công ty con. Trong trường hợp này, công ty tài chính đóng vai trò chi phối cả tập đoàn.
Riêng đối với Việt Nam, việc thành lập các công ty tài chính trong các Tổng công ty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh doanh là rất cần thiết, nó bắt nguồn từ yêu cầu và điều kiện thực tế chứ không mang tính chủ quan, duy ý chí. Phân tích các điều kiện thực tế của Việt nam và của các Tổng công ty có thể thấy rõ điều này.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh mạnh mẽ, TCT Nhà nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là sự cạnh tranh với các tập đoàn lớn trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi các TCT phải thay đổi cơ cấu tổ chức, các quan hệ tài chính...Vì thế, việc ra đời CTTC trong Tổng công ty là thích hợp với hoàn cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, là một giải pháp gắn kết kinh tế giữa các công ty thành viên, nhằm tận dụng sức mạnh về vốn và các mối quan hệ với nước ngoài của mỗi Tổng công ty mà CTTC sẽ là chất xúc tác đẩy mạnh sự phát triển công nghiêp, thông qua tư vấn và quan hệ để mở rộng xuất nhập khẩu, đồng thời nó còn tìm kiếm các đề án tài trợ với điều kiện có lợi nhất cho Tổng công ty.
Ngoài ra, Cơ chế kinh tế mới đòi hỏi các TCT phải chủ động về tài chính và các hoạt động kinh doanh... CTTC trong Tổng công ty Nhà nước được thành lập nhằm tạo những bước biến đổi về chất cho các Tổng công ty trong việc tìm kiếm khơi thông các nguồn vốn trong và ngoài nước, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lớn cho Tổng công ty, thực hiện chuyên môn hoá trong quản lý vốn, quản lý danh mục đầu tư... nâng cao sức cạnh tranh của các Tổng công ty-là yếu tố rất cần thiết đối với các DNNN Việt Nam hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Hơn nữa, trong tương lai, khi thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển, CTTC với trình độ chuyên môn của mình, sẽ là đại diện cho TCT, các công ty thành viên tham gia thị trường chứng khoán với vai trò là một nhà môi giới chứng khoán.
Qua phân tích trên, ta thấy ba chức năng quan trọng của công ty tài chính trong tập đoàn là: Huy động vốn, đầu tư tài chính và điều hoà vốn.
1.2.2.1. Vai trò Huy động vốn
Trên thế giới các doanh nghiệp cá biệt có thể tìm kiếm nguồn vốn phục vụ cho hoạt động của mình trực tiếp trên thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán. ở nước ta hiện nay, thị trường tài chính chưa phát triển, thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn sơ khai, do đó việc huy động nguồn vốn trực tiếp trên thị trường bị hạn chế. Các doanh nghiệp chủ yếu vay vốn từ các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại. Thực tế, các nguồn này không đáp ứng đủ nhu cầu vốn phát triển của các tập đoàn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Trong điều kiện như vậy, các tổ chức tài chính của tập đoàn có những lợi thế nhất định trong việc tìm kiếm các nguồn vốn cung ứng cho các doanh nghiệp thành viên và các dự án của tập đoàn. Công ty tài chính sẽ là tổ chức đại diện cho tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên huy động đồng bộ các nguồn vốn trong nội bộ tập đoàn, trong dân chúng thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu với mục đích đầu tư vào các dự án có chiều sâu, đổi mới thiết bị sản xuất, xây dựng, phát triển cơ sở vật chất của các công ty thành viên. Với vị thế của mình, công ty tài chính còn có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng để cung cấp cho các công ty thành viên, các dự án của tập đoàn. Ngoài ra, các tổ chức tài chính trong tập đoàn còn là kênh dẫn các nguồn vốn đầu tư quốc tế cho các dự án đầu tư của tập đoàn và của các công ty thành viên. Với trình độ chuyên môn cao và uy tín cuả mình, các tổ chức tài chính của tập đoàn sẽ tư vấn cho các đối tác bên ngoài đầu tư vào tập đoàn. Nó chính là " cầu nối" giữa tập đoàn và các nhà đầu tư nước ngoài, giúp các nhà đầu tư nước ngoài "sẵn sàng" đầu tư vốn vào các lĩnh vực của tập đoàn. Và khi đó tổ chức tài chính trở thành người quản lý vốn đầu tư cho các đối tác nước ngoài một cách hữu hiệu nhờ vào lợi thế hiểu biết rõ về tập đoàn...
1.2.2.2.Vai trò đầu tư tài chính
Các tổ chức tài chính như công ty tài chính, ngân hàng trong tập đoàn hoạt động vô cùng năng động, đặc biệt là hoạt động đầu tư tài chính được coi là một hoạt động " sôi động" nhất của các công ty tài chính trong tập đoàn.
Công ty tài chính trong tập đoàn là một mắt xích quan trọng để gắn kết, hợp tác giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên, với thị trường tài chính tiền tệ. Bởi vì công ty tài chính trong tập đoàn ra đời không phải vì mục tiêu chủ yếu là để tăng thêm một dịch vụ, một sản phẩm, để kinh doanh thêm về tín dụng, vay và cho vay cạnh tranh với Ngân hàng trong lĩnh vực tín dụng mà một trong những mục tiêu chính của việc ra đời của công ty tài chính trong Tổng công ty là thực hiện chức năng đầu tư tài chính cho Tổng công ty nhằm phát triển tiềm lực, thế mạnh của tập đoàn, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong tập đoàn. Thực hiện thành công chức năng này, công ty tài chính trong tập đoàn đã thực hiện thành công việc "xã hội hoá" việc đầu tư vào Tổng công ty, qua đó vốn của mọi ngành, mọi người có thể được đầu tư vào Tổng công ty Nhà nước, khu vực mà từ trước tới nay vẫn bị coi là độc quyền của Nhà nước. Hơn thế nữa, việc phát huy nội lực để đầu tư vào Tổng công ty sẽ được khai thác triệt để. Một mặt ưu thế nữa của hoạt động đầu tư tài chính cho Tổng công ty cuả công ty tài chính là nó sẽ góp phần cho sự phát triển của thị trường chứng khoán, bằng việc tạo ra hàng hoá có giá trị cho thị trường này, bởi lẽ cổ phiếu của các Tổng công ty mạnh chắc chắn sẽ có tính hấp dẫn cao.
1.2.2.3.Vai trò điều hoà vốn
"Điều hoà vốn" có thể được hiểu là toàn bộ những hoạt động nhằm phân bổ nguồn vốn giữa các bộ phận trong một tổng thể để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý, có hiệu quả.Các công ty tài chính hoặc Ngân hàng trong tập đoàn với hoạt động năng động trên thị trường tài chính và tiềm lực tài chính mạnh...
Cần nhận thức đúng đắn thực chất của cơ chế điều hoà vốn trong nội bộ tập đoàn. Cơ chế điều hoà vốn không có nghĩa là chuyển vốn một cách hành chính đơn thuần từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn mà bao gồm hệ thống quan hệ tài chính dựa trên hoạt động tín dụng thực sự. Cơ chế lãi suất hợp lý và những lợi ích chiến lược lâu dài sẽ có tác dụng duy trì sự liên kết nội bộ bền vững của tập đoàn.
Trong tập đoàn, tại một khoảng thời gian nhất định, có những doanh nghiệp thiếu vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó các doanh nghiệp khác lại có vốn"nhàn rỗi"(tức là có vốn mà chưa có nhu cầu đầu tư. Công ty tài chính đóng vai trò là trung gian tài chính trong cơ chế điều hoà vốn của tập đoàn. Công ty tài chính huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của các đơn vị để hình thành một nguồn vốn tập trung và ổn định hơn.
Đây là chức năng đặc biệt chỉ có ở CTTC Việt Nam. CTTC thay Tổng công ty điều hoà vốn: Tổng công ty giao cho CTTC quản lý các quỹ tập trung của Tổng công ty; quản lý vốn của Tổng công ty đầu tư vào các doanh ngiệp thành viên , các dự án, thực hiện huy động vốn và cho vay các doanh nghiệp thành viên theo chính sách, quy định của Tổng công ty và thông qua các hoạt động đó chi phối, điều hoà nguồn vốn toàn Tổng công ty một cách hiệu quả hơn.
Có thể nhận thấy rằng, cơ chế điều hoà vốn thông qua công ty tài chính cần phải kết hợp đồng bộ với cơ chế quản lý và sử dụng các quỹ của Tổng công ty cũng như của các doanh nghiệp thành viên. Không nên để các quỹ chuyên dùng này trở thành một nguồn vốn "chết" mà cần thu hút bộ phận quỹ nhàn rỗi vào công ty tài chính để cho vay.
Ba vai trò trên của CTTC có quan hệ tương hỗ nhau, để thực hiện tốt bất kỳ một vai trò nào thì đòi hỏi phải thực hiện tốt hai vai trò kia.
Vai trò của CTTC trong tập đoàn là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của tập đoàn. Vì vậy, có thể khẳng định rằng việc thành lập công ty tài chính trong các Tổng công ty ở Việt Nam là cần thiết. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đứng trước nhiều cơ hội và không ít thách thức, việc xây dựng và vận hành Công ty Tài chính chắc chắn sẽ còn những điều bất cập, gây khó khăn cho các nhà hoạch định trong việc đưa ra các chính sách và mô hình hoạt động cụ thể. Vì vậy, cần phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của loại hình tổ chức tài chính này.
1.3.Điều kiện phát triển các công ty tài chính trong Tổng công ty.
1.3.1.Điều kiện về môi trường vĩ mô
Công ty tài chính được xác định rõ trong thị trường vốn, nó là một thành phần tham gia vào chu trình vòng quay của vốn và nó chịu tác động của môi trường kinh tế và môi trường luật pháp của mỗi quốc gia.
Về môi trường kinh tế: Sự phát triển của nền kinh tế đất nước có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của các định chế tài chính nói chung và Công ty tài chính nói riêng. Khi nền kinh tế suy thoái, các công ty thường thu hẹp sản xuất nhu cầu vay vốn thường cũng hạn chế, điều đó ảnh hưởng đến hoạt động của công ty tài chính trong tập đoàn với chức năng trung gian về vốn cho các đơn vị thành viên; ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên, tích luỹ lớn. Khi đó, đòi hỏi công ty tài chính cũng phải tăng cường hoạt động của mình để đáp ứng cho nhu cầu phát triển đó.
Mặt khác, Mức độ phát triển của thị trường tài chính tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn, quyết định sự phát triển của các tổ chức tài chính. Thực tế, ở các nước có thị trường tài chính tiền tệ phát triển ở bậc cao thì khả năng chi phối về tài chính của các công ty tài chính trong tập đoàn là rất lớn. Các công ty này chủ yếu hoạt động trên thị trường tài chính tiền tệ, kinh doanh các công cụ tài chính, quản lý các danh mục đầu tư...để tăng tìêm lực tài chính cho mình, sau đó, với tiềm lực tài chính mạnh mẽ, nó kiểm soát chi phối hoạt động tài chính trong tập đoàn. Vì thế, các tập đoàn thường thực hiện huy động vốn, điều hoà vốn thông qua công ty tài chính. Hơn nữa, trong thị trường tài chính tiền tệ phát triển, các công cụ tài chính phát triển đa dạng, vì thế, các doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều hình thức phù hợp hoạt động và khả năng tài chính của họ.
Như vậy, hoàn thiện phát triển mô hình công ty tài chính không thể tách rời việc tạo lập và phát triển nền kinh tế, phát triển thị trường tài chính, thị trường vốn, đa dạng hóa các công cụ tài chính và cần phải hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật tạo điều kiện để áp dụng có hiệu quả các công cụ đó.
Về môi trường pháp lý (Cơ chế, chính sách của Nhà nước):
Hoạt động của mọi thành phần kinh tế, trong đó có công ty tài chính phụ thuộc vào Cơ chế, chính sách của Nhà nước, mà trong đó Nhà nước quy định phạm vi hoạt động, quyền và lợi ích của từng thành phần kinh tế. Các chính sách được cụ thể hoá bằng các văn bản, pháp luật nghị định, thông tư của chính phủ, các Bộ ngành liên quan. Trong các quy định của Nhà nước thì các quy định về cơ chế quản lý tài chính đối với tập đoàn có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cacS tập đoàn nói chung và công ty tài chính trong tập đoàn nói riêng. Các quy định này có thể tạo môi trường hoạt động thông thoáng nhưng cũng có thể gây cản trở đối với hoạt động của công ty tài chính. Ngoài ra, với những ngành và lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ hay ưu tiên thì hoạt động của CTTC cũng có thuận lợi.
Ngoài ra, sự phát triển của công ty tài chính còn chịu tác động của môi trường chính trị- xã hội trong nước. Chính trị vững mạnh, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Khi đó, Công tài chính trong Tổng công ty, với chức năng là đầu mối thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh của tập đoàn sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển hoạt động của mình và từ đó làm lợi cho tập đoàn...
1.3.2.Điều kiện về môi trường vi mô
Chiến lược phát triển của tập đoàn
Sự phát triển của công ty tài chính trong tập đoàn phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược phát triển của tập đoàn.Trong các thời kỳ khác nhau tập đoàn có các chiến lược kinh doanh khác nhau phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Chiến lược phát triển của tập đoàn bao gồm nhiều nội dung trong đó chiến lược đầu tư tài chính của tập đoàn có tác động quyết định đến sự phát triển của công ty tài chính trong tập đoàn. Công ty tài chính trong tập đoàn với chức năng chuyên môn hoá trong hoạt động tài chính trong tập đoàn, thực hiện đầu tư tài chính cho các dự án của tập đoàn sẽ trực tiếp hay gián tiếp chịu sự chi phối đặc biệt của các chiến lược phát triển của tập đoàn. Một chiến lược đầu tư có kế hoạch và hiệu quả sẽ góp phần tăng năng lực cho công ty tài chính thực hiện nhiệm vụ của mình.
Cơ chế quản lý tài chính trong tập đoàn
Cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp được hiểu là "một hệ thống tổng thể các phương pháp, các hình thức và công cụ để vận dụng để quản lý các hoạt động tài chính của doanh nghiêp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định".
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp các nội dung như: hoạt động huy động vốn, hoạt động quản lý tài sản(sử dụng vốn), hoạt động phân phối lợi nhuận và hoạt động kiểm soát tài chính. Do đó, cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung liên quan đến hàng loạt vấn đề khác nhau: Cơ chế huy động vốn, cơ chế quản lý tài sản, cơ chế phân phối lợi nhuận, cơ chế kiểm soát tài chính.
Tập đoàn kinh doanh là tổ hợp các doanh nghiệp có quan hệ liên kết kinh tế với nhau. Về mặt bản chất, tập đoàn kinh tế là một tổ chức kinh tế vừa mang tính chất của một doanh nghiệp(kinh doanh để sinh lợi), vừa mang đặc trưng của hiệp hội kinh tế(phục vụ lợi ích chung của các thành viên). Vì thế nội dung của cơ chế quản lý tài chính trong tập đoàn có thể liên hệ từ nội dung cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Hơn nữa nó còn mang những đặc trưng riêng có của tập đoàn: đó là cơ chế kiểm soát tài chính giữa các doanh nghiệp thành viên, cơ chế kiểm soát tài chính của công ty mẹ đối với công ty con. Tác động của từng cơ chế cụ thể sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động khác nhau của công ty tài chính.
Về cơ chế huy động vốn trong tập đoàn, ở đây muốn nhấn mạnh về cơ
chế huy động nguồn vốn nội bộ từ các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn: Tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn vốn của các tập đoàn kinh doanh được áp dụng phổ biến, có ưu điểm phát huy được nguồn lực của mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài nhất là khi có biến động thị trường tài chính. Khai thác nguồn vốn nội bộ bao hàm sự lưu chuyển vốn giữa các đơn vị thành viên của tập đoàn, hoặc giữa công ty mẹ và các công ty thành viên dưới hình thức như: tín dụng nội bộ, trao đổi các tài sản...Cơ chế huy động vốn trong tập đoàn sẽ quy định các cách thức huy động vốn từ các doanh nghiệp thành viên, lãi suất nội bộ,...do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của công ty tài chính trong tập đoàn với chức năng là trung gian huy động vốn và cho vay. Hơn nữa, Lãi suất nội bộ là một yếu tố rất nhạy cảm, tác động đến vai trò của công ty tài chính trong hoạt động cho vay, quyết định khả năng cạnh tranh của công ty tài chính trong tập đoàn đối với các tổ chức tín dụng khác bên ngoài. Các doanh nghiệp thành viên không nhất thiết bắt buộc phải vay qua công ty tài chính trong tập đoàn. Họ sẽ tìm kiềm nguồn vốn nào có lợi nhất cho họ với chi phí thấp nhất. Lợi thế của công ty tài chính trong tập đoàn là thời gian thẩm định dự án của các doanh nghiệp thành viên ngắn hơn các tổ chức tín dụng khác cộng với một lãi suất nội bộ hợp lý mới hấp dẫn được các doanh nghiệp vay vốn của công ty tài chính.
Về cơ chế quản lý tài sản, ở đây muốn nhấn mạnh đến cơ chế kiểm soát và đầu tư vốn bên trong tập đoàn: Trong đó, Hội đồng quản trị của Tổng công ty có quyền đề ra biện pháp lớn về quản lý TSCĐ, cách thức điều chuyển tài sản giữa các doanh nghiệp thành viên. Khi tập đoàn sử dụng công ty tài chính làm công cụ điều hành hoạt động quản lý tài sản trong tập đoàn thì rõ ràng cơ chế do Hội đồng quản trị đề ra sẽ chi phối công ty tài chính trong hoạt động này.
Về cơ chế phân phối lợi nhuận, Cơ chế Phân phối lợi nhuận sẽ quyết định việc hình thành các quỹ chuyên dùng (Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng trợ cấp việc làm) như thế nào và phương thức sử dụng các quỹ này. Trong đó, cũng quy định việc công ty tài chính có được quản lý các quỹ này hay không và mức độ chi phối của công ty tài chính. Nếu cơ chế của tập đoàn cho phép công ty tài chính được quản lý điều hành quỹ này thì sẽ có tác dụng tăng vốn của công ty và tăng sự chi phối của công ty đối với các đơn vị thành viên và cả tập đoàn.
Về cơ chế kiểm soát tài chính: Mức độ sở hữu quyết định mức độ và tính chất chi phối của công ty mẹ đối với công ty con. Thông thường người ta dựa trên tỷ lệ phần trăm cổ phần mà công ty mẹ sở hữu trong các công ty con để phân loại doanh nghiệp thành viên của tập đoàn. Đối với các tập đoàn có công ty tài chính là công ty mẹ, nếu mức độ sở hữu của công ty tài chính trong công ty con càng lớn thì sự kiểm soát về tài chính của công ty tài chính là rất lớn.
Khả năng tài chính của tập đoàn
Một tập đoàn không có tiềm lực về tài chính thì không thể duy trì khả năng kinh doanh chứ chưa nói đến việc điều động các nguồn vốn như thế nào. Doanh nghiệp thành viên trong tình trạng thiếu vốn thì không thể có vốn nhàn rỗi để cho các doanh nghiệp khác vay, ngược lại, các doanh nghiệp khác không có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh thì họ cũng không có nhu cầu vay vốn. Công ty tài chính trong một tập đoàn có tiềm lực tài chính mạnh thì sẽ hoạt động tốt hơn và khả năng cạnh tranh lớn hơn vì thông thường mọi nguồn lực tài chính của tập đoàn đều được tập trung về một đầu mối là công ty tài chính.
Kết luận chương 1: Công ty tài chính là tổ chức không thể thiếu trong các tập đoàn kinh doanh. Vai trò của nó trong tập đoàn ngày càng quan trọng và để phát huy được vai trò to lớn đó thì cần có các điều kiện cả về môi trường vĩ mô và vi mô. Nhận thức được vai trò hết sức cần thiết của công ty tài chính trong tập đoàn, Đảng và Nhà nước có chủ trương khuyến khích thành lập các công ty tài chính trực thuộc Tổng công ty 91 là mô hình thí điểm để thành lập tập đoàn kinh tế Nhà nước ở Việt Nam. Trong phần sau sẽ tiếp tục nghiên cứu về một trong năm công ty tài chính như vậy.
Chương 2: Thực trạng vai trò của công ty
tài chính Bưu điện trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông hiện nay.
2.1.Giới thiệu về Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
2.1.1.Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của VNPT
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông( Vietnam posts and telecommunications corporation-VNPT) là một Tổng công ty thuộc doanh nghiệp Nhà nước được thành lập và hoạt động theo Quyết định 249/TTG ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định 51/CP ngày 1/8/1995 của Chính phủ có các thành viên là các đơn vị hạch toán độc lập, các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp.Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam có nhiệm vụ kinh doanh và phục vụ về Bưu chính Viễn thông theo quy hoạch, kế hoạch và chính sách của Nhà nước, đảm bảo thông tin, liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, sản xuất công nghiệp Bưu chính Viễn thông, khảo sát thiết kế xây dựng các công trình Bưu chính Viễn thông, xuất nhập khẩu cung ứng vật tư thiết bị Bưu chính Viễn thông, tổ chức quản lý công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ và đào tạo công nhân, trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Bưu điện và xã hội. Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là một trong số những Tổng công ty đặc biệt, hoạt động theo hình thức tập đoàn kinh doanh , hiện nay có 103 đơn vị thành viên. Trong đó:
-Khối hạch toán phụ thuộc gồm 67 đơn vị ( Các bưu điện tỉnh, thành phố, Công ty Viễn thông liên tỉnh, Công ty Viễn thông quốc tế, công ty Bưu chính liên tỉnh và quốc tế, Công ty điện toán và truyền số liệu, Công ty điện thoại di động);
-Khối hạch toán độc lập (công nghiệp, xây lắp và cung tiêu) gồm 17 đơn vị;
-Khối sự nghiệp( Học viện, các viện nghiên cứu, các trung tâm đào tạo, các trường công nhân, bệnh viện và các trung tâm điều dưỡng) gồm có 11 đơn vị.
-8 công ty liên doanh
-16 công ty cổ phần
( xem sơ đồ tổ chức)
Sơ đồ tổ chức của VNPT
Các đơn vị hạch toán phụ thuộc
Các đơn vị hạch toán độc lập
Các đơn
vị
sự nghiệp
Công ty
liên doanh
Công ty
cổ phần
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Tổng Giám đốc
Các đơn vị thành viên
Đặc trưng của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là hoạt động vừa mang tính sản xuất kinh doanh,vừa mang tính phục vụ, tiến hành hạch toán kinh tế. Lấy phục vụ chính trị và phục vụ nhu cầu thông tin liên lạc cho toàn xã hội làm nhiệm vụ trọng tâm và coi hoạt động sản xuất kinh doanh là quan trọng. Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả và chất lượng phục vụ. Tức là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam vừa sản xuất kinh doanh, vừa hoạt động công ích. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu là cung cấp dịch vụ Bưu chính Viễn thông. Phạm vi hoạt động trải rộng khắp địa phận và lãnh hải của Việt Nam, ở đâu có nhân dân, có nhu cầu phục vụ thông tin liên lạc thì ở đó có Bưu điện phục vụ. Từ những nơi phố phường đông đúc đến những hẻo lánh xa xôi, nơi biên giới hải đảo đều có mặt người công nhân Bưu điện, cho dù kinh doanh ở đó có lãi hay không. Hoạt động Bưu điện liên tục, đảm bảo thông tin liênlạc 24/24 giờ và trong bất kỳ tình huống nào. Một đặc trưng quan trọng của ngành Bưu điện là một ngành kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh tế của quốc gia, đòi hỏi phát triển nhanh, đi trước, phục vụ cho quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, thúc đẩy các ngành kinh tế-xã hội phát triển, góp phần giữ gìn an ninh, quốc phòng và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Xu hướng phát triển trên thế giới ngày nay cho thấy Viễn thông là một ngành có tốc độ phát triển nhanh, các kỹ thuật luôn được thay đôỉ. Đó cũng là một đặc điểm rất quan trọng đòi hỏi ngành Bưu chính Viễn thông luôn phải đổi mới để phát triển. Những năm qua nhận thức đầy đủ được điều đó, VNPT đã triển khai nhiều biện pháp đồng bộ và đã thu được những kết quả đáng tự hào.
2.1.2.Những thành tựu đạt được:
Những năm qua, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Đổi mới căn bản và toàn diện từ mạng lưới kỹ thuật analog lạc hậu sang kỹ thuật số hiện đại, phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đi đôi với mạng lưới Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng quan tâm thích đáng đến phát triển công nghiệp thông tin và tin học. Đã tạo dựng được nền công nghiệp thông tin tương đối mạnh, sản xuất thiết bị Bưu chính Viễn thông là chính, kết hợp sản xuất thiết bị điện tử. Quán triệt đường lối chỉ đạo của Đảng:”Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần huy động nhiều nguồn vốn, gắn với quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”, VNPT đã dùng nhiều biện pháp ._.c gia.
Thứ hai, Đổi mới tổ chức, hình thành tập đoàn là biện pháp hữu hiệu để khắc phục những tồn tại hiện nay của Tổng công ty. Đây là bước cải tiến căn bản dây chuyền công nghệ, tổ chức lao động khoa học và lề lối làm việc, nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả đầu tư, phân tách hạch toán kinh doanh và phục vụ công ích, taọ động lực khuyến khích thu hút người lao động.
Thứ ba, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là biện pháp thích ứng với tốc độ phát triển nhanh của khoa học, công nghệ trên thế giới, tạo điều kiện triển khai công nghệ mới trong cuộc "cách mạng về công nghệ thông tin"
Thứ tư, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là biện pháp để thích ứng với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và đối phó với thách thức của cạnh tranh quốc tế.
Thứ năm, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn là để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ sáu, Đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn tạo điều kiện để Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam giữ được tốc độ phát triển cao, đảm bảo các yêu cầu chính trị, an ninh quốc phòng trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông.
3.1.2.VNPT có đủ điều kiện để tiến tới thành lập tập đoàn kinh tế.
Sau thời gian 8 năm hoạt động "thí điểm theo mô hình tập đoàn", VNPT đã đạt được những thành quả to lớn (đã trình bày trong chương 2). Xét về các yếu tố của một tập đoàn kinh tế thì VNPT đã có "dáng dấp của một tập đoàn". Thể hiện trên các mặt sau:
Về trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất kinh doanh, Thực tế cho thấy đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, trên cả góc độ toàn ngành và góc độ từng doanh nghiệp thành viên thì mức độ tích tụ và tập trung đều đạt ở trình độ cao. Hiện tại Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam có 103 đơn vị thành viên, có tổng tài sản cố định trên 15 nghìn tỷ đồng.
Về sự phát triển các mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các đơn vị thành viên, Các đơn vị thành viên của Tổng công ty bao gồm cả khối hạch toán phụ thuộc, khối hạch toán độc lập, khối các đơn vị sự nghiệp, khối liên doanh và công ty cổ phần đều có mối quan hệ, liên kết kinh tế chặt chẽ với nhau, thể hiện rõ nét tính đơn ngành của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Hơn nữa, trong mô hình tổ chức hiện nay của VNPT đã xuất hiện công ty tài chính- một trong những đặc trưng của mô hình tập đoàn kinh tế. Công ty tài chính làm đầu mối huy động vốn và cho vay đáp ứng yêu cầu đầu tư của Tổng công ty và các đơn vị thành viên, thực hiện tư vấn các dự án đầu tư tài chính của Tổng công ty và tiến đến sẽ thực hiện các dự án đầu tư thay Tổng công ty trong nước và trên thị trường quốc tế. Quan hệ giữa Công ty Tài chính với các đơn vị thành viên của Tổng công ty được thực hiện theo nguyên tắc có vay, có trả, theo lãi suất nội bộ Tổng công ty, là biểu hiện của quan hệ tài chính chứ không phải quan hệ hành chính như trước đây. Trong tương lai, CTTC sẽ đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của TCT, phát huy ảnh hưởng của TCT trong nền kinh tế thị trường.
Về môi trường kinh doanh, VNPT chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong ngành Bưu chính-Viễn thông, trong nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm của VNPT chiếm đại bộ phận số lượng sản phẩm của toàn ngành. Sự phát triển của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hơn nữa Tổng công ty hoạt động trên lĩnh vực trọng yếu được Nhà nước ưu tiên, khuyến khích phát triển, có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
Về tổ chức, qua 10 năm đổi mới, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớn mạnh, có năng lực trình độ cao, có khả năng đáp ứng được các mục tiêu chiến lược của tập đoàn...
3.1.3.Mô hình tập đoàn Viễn thông Việt Nam
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhận thức được sự cần thiết
đổi mới tổ chức hình thành tập đoàn, VNPT đã va đang xây dựng mô hình và lộ trình tiến tới thành lập tập đoàn Bưu chính- Viễn thông Việt Nam. Sau nhiều lần thay đổi, hiện nay, VNPT đã xác định mô hình tập đoàn Bưu chính Viễn thông như sau:
Sơ đồ: Tập đoàn Bưu chính-Viễn thông Việt Nam
Tổng công ty Viễn thông (công ty mẹ)
(Liên kết mềm)
Tổng công ty Bưu chính
(Liên kết cứng)
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty cổ phần
Công ty
liên doanh
Công ty Viễn thông khu vực 3
Công ty
Viễn thông khu vực 2
Công ty viễn thông khu vực 1
Theo mô hình này, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông được xây dựng trên mô hình công ty mẹ- công ty con, trong đó hình thành cả liên kết cứng và liên kết mềm. Tổng công ty Viễn thông là đóng vai trò là công ty mẹ, tạo ra các "liên kết cứng" với các công ty con thông qua việc nắm giữ đa số cổ phiếu của công ty con, đồng thời tạo "liên kết mềm " với Tổng công ty Bưu chính thông qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Trong tập đoàn, Công ty mẹ là Tổng công ty Viễn thông Việt Nam tổ chức dưới hình thức Nhà nước chiếm giữ 100% vốn, là công ty có tiềm lực kinh tế mạnh nhất và năng lực trí tuệ cao nhất bao gồm: Những bộ phận có khả năng kinh doanh tốt, những bộ phận then chốt có thể quản lý thống nhất được mạng lưới như: đường trục viễn thông quốc gia và quốc tế ; Bộ phận kinh doanh tài chính; Các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, chăm sóc sức khỏe;
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty con và hưởng lợi nhuận từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty con theo tỷ lệ góp vốn.
Các công ty con là những pháp nhân độc lập với công ty mẹ, được công ty mẹ sở hữu toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ dưới các hình thức:
+Công ty hữu hạn một thành viên: do công ty mẹ sở hữu 100 vốn điều lệ. Các công ty này được hình thành từ việc chuyển đổi các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty không nằm trong đối tượng cổ phần hoá.
+Các công ty cổ phần phần lớn được hình thành bằng cách cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên hiện nay của Tổng công ty mà trong đó Tổng công ty góp vốn với tư cách là một cổ đông sáng lập.
+Các công ty liên doanh, trong đó một phần vốn điều lệ do công ty mẹ sở hữu nếu các công ty này tự nguyện gia nhập tập đoàn.
+Thành lập các Công ty viễn thông vùng. Việc phân vùng dựa trên quy mô và lưu lượng, có thu- chi tương đối cân bằng. Chức danh điều hành cao nhất của các công ty này là Tổng Giám đốc. Các công ty Viễn thông vùng hạch toán độc lập, trong nội bộ các Công ty Viễn thông vùng thực hiện hạch toán phụ thuộc.
Để xây dựng Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam hiện nay theo mô hình trên đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Vì vậy, Tổng công ty cũng đã xây dựng lộ trình thực hiện như sau:
-Bước 1, năm 2001:Triển khai thí điểm đổi mới tổ chức và quản lý kinh doanh khai thác Bưu chính Viễn thông trên địa bàn 10 Bưu điện tỉnh, thành phố theo hướng: Hạch toán rõ và riêng hai lĩnh vực Bưu chính và Viễn thông theo từng dịch vụ trong mỗi lĩnh vực trên để tiến tới hạch toán độc lập.
-Bước 2, năm 2002-2004: Triển khai đồng bộ mô hình trên trong toàn bộ 61 Bưu điện tỉnh, thành phố, đồng thời với việc nghiên cứu sớm việc thí điểm mô hình Công ty mẹ-công ty con sau khi có hướng dẫn của Nhà nước; Chuyển 8 doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:Công ty thông tin di động VMS, Công ty các Dịch vụ Viễn thông GPC, Công ty điện toán và truyền số liệu VDC, Công ty phát triển phần mềm VASC, Công ty tiết kiệm Bưu điện, Công ty tư vấn xây dựng và phát triển Bưu điện, Xí nghiệp In Bưu điện, Xí nghiệp In Tem Bưu điện; tiếp tục cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên khối công nghiệp, thương mại, xây lắp: Nhà máy vật liệu Bưu điện, Nhà máy thiết bị Bưu điện, Công ty thiết bị điện thoại, Công ty xây lắp Bưu điện tp Hồ Chí Minh...;Xây dựng cơ chế hach toán riêng giữa dịch vụ Bưu chính và Viễn thông. Xây dựng cơ chế hạch toán của các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Nghiên cứu chiến lược giá các dịch vụ Bưu chính Viễn thông và chính sách phục vụ sự cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
-Bước 3, đến năm 2005: Hoàn thành tổ chức và cơ chế quản lý Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông sẽ sử dụng hai hình thức liên kết cứng và liên kết mềm. Công ty mẹ sẽ liên kết cứng với các công ty con thông qua cơ chế vận hành do Nhà nước quy định, điều lệ của Tổng công ty(Công ty mẹ).Việc liên kết mềm được thực hiện thông qua các hợp đồng và quy chế của tập đoàn, giữa Tổng công ty Viễn thông Việt Nam và Tổng công ty Bưu chính Việt Nam . Tập đoàn sẽ có Ban lãnh đạo chung để điều hành, phối hợp sử dụng văn phòng Công ty mẹ làm cơ quan tư vấn chuyên môn.
3.2.Định hướng phát triển của PTF
3.2.1.Vị trí của PTF trong mô hình mới
Như vậy, theo mô hình trên thì công ty tài chính thuộc công ty mẹ, với vai trò quản lý tập trung hệ thống tài chính trong tập đoàn. Để chuẩn bị cho tiến trình xây dựng tập đoàn theo mô hình trên, cả Tổng công ty nói chung và công ty tài chính nói riêng đều phải xây dựng cho mình mục tiêu chiến lược cụ thể định hướng hoạt động trước mắt và lâu dài, đồng thời cần tìm ra các giải pháp đồng bộ để thực hiện.
3.2.2.Mục tiêu chiến lược trong thời gian tới của PTF:
Với những kết quả đã đạt được trong 3 năm hoạt động vừa qua, bước sang năm 2002, công ty đã vạch ra chiến lược phát triển với những mục tiêu quan trọng như sau:
-Tiếp tục hoàn thiện quy chế tài chính và cơ cấu tổ chức trong giai đoạn mới, tạo dựng một công ty phát triển bền vững, ổn định và lâu dài.
-Xây dựng một quy trình tác nghiệp có hệ thống thống nhất, trình độ cao, hiện đại hoá các trang thiết bị thích ứng với tốc độ đổi mới và phát triển.
- Đẩy mạnh kế hoạch nghiên cứu và phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán nhằm mục đích tham gia vào thị trường chứng khoán một cách có hiệu quả.
-Nâng cao vai trò của công ty tài chính trong Tổng công ty, thực hiện tốt chức năng chuyên môn hoá trong điều hành quản lý tài chính, trở thành công cụ tài chính quan trọng của Tổng công ty.
-Nâng cao khả năng cạnh tranh về huy động vốn và hoạt động đầu tư
-Tối đa hoá lợi nhuận bằng cách giảm chi phí và đầu tư có hiệu quả hơn, tích luỹ vốn để tăng cường thế mạnh cho công ty.
Để thực hiện đựơc các mục tiêu đó, nhiệm vụ trước mắt của công ty là triển khai tốt việc tài trợ cho các dự án của các đơn vị trong ngành, đặc biệt tập trung vào các dự án của các đơn vị hạch toán độc lập và cổ phần; tìm kiếm các dự án mới để triển khai công tác đầu tư ngay từ những bước ban đầu; đầu tư vào cổ phiếu của các công ty sẽ cổ phần hoá trong thời gian tới: Công ty xây dựng Bưu điện PTC, Xí nghiệp khoa học sản xuất thiết bị thông tin II (KASATI), công ty vật tư Bưu điện I (COKYVINA), Công ty vật tư Bưu điện II(POMASCO), công ty xây lắp và phát triển Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh(SAICOM), công ty cổ phần du lịch Bưu điện, Khách sạn Khánh Hoà; tư vấn quản lý vốn và nhận uỷ thác đầu tư cho Tổng công ty; Tư vấn lập dự án đầu tư cho Tổng công ty. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới các dự án trọng điểm mang tính chiến lược của Tổng công ty, bao gồm các dự án đầu tư ra nước ngoài dưới các hình thức khác nhau; thực hiện tốt các đề tài khoa học cấp Tổng công ty.
Công ty cũng đã xây dựng phương hướng phát triển kinh doanh đến năm 2005-với tên gọi là chiến lược phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường.
Trên cơ sở mục tiêu nhiệm vụ của công ty đã được quy định và phạm vi hoạt động trong nội bộ Tổng công ty, phương hướng phát triển kinh doanh, phát triền sản phẩm và mở rộng thị trường của công ty được tập trung vào những vấn đề quan trọng sau:
-Thông qua nghiệp vụ phát hành, công ty sẽ huy động vốn từ các tổ chức tài chính tín dụng trong và ngoài nước phục vụ cho dự án đầu tư của Tổng công ty
-Thông qua nghiệp vụ cho vay theo uỷ thác của Tổng công ty, công ty sẽ góp phần thực hiện chủ trương chuyển quan hệ cấp phát sang quan hệ vay trả đối với các đơn vị nhằm đạt hiệu quả cao hơn cho nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty.
-Với những phương thức quản lý điều hành ngân quỹ, công ty tài chính Bưu điện sẽ cung cấp dịch vụ quản lý ngân quỹ cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên mang lại hiệu quả lớn nhất từ nguồn vốn bằng tiền.
-Nghiệp vụ tư vấn đối với doanh nghiệp ngày càng quan trọng. Công ty tài chính sẽ phát triển các nghiệp vụ tư vấn nhằm nâng cao hiệu quả của các đơn vị, bao gồm Tư vấn cổ phần hoá, tư vấn quản lý doanh nghiệp và các nghiệp vụ tư vấn khác.
3.3. Giải pháp nâng cao vai trò của PTF trong VNPT
Với chủ trương xây dựng các Tổng công ty phát triển thành tập đoàn kinh tế mạnh do đó điều tất yếu các Tổng công ty phải gắn mình vào hệ thống thị trường tài chính tiền tệ. Chính vì vậy cần thiết phải có các giải pháp hữu hiệu để từng bước hoàn thiện hoạt động của công ty tài chính trong các Tổng công ty.
3.3.1.Giải pháp nâng cao vai trò huy động vốn
Bản thân công ty tài chính là một trung gian tài chính trong 1 Tổng công ty lớn, phải thực sự năng động sáng tạo. Phải khai thác tốt thị trường nội bộ của Tổng công ty mở rộng hình thức hoạt động ra bên ngoài Tổng công ty trong phạm vi cho phép. Công ty cũng cần tận dụng sự hỗ trợ đặc biệt của Tổng công ty vì đầy là một mô hình mới ra đời chưa có kinh nghiệm. Một số biện pháp để thực hiện tốt công tác này:
-Tìm cách để Giảm tối thiểu chi phí huy động vốn, khi công ty được chủ động về lãi suất thì công ty cần xây dựng khung lãi suất đảm bảo tính cạnh tranh cao hơn, giảm các chi phí khác liên quan đến công tác huy động như xây dựng đội ngũ thực hiện nghiệp vụ đơn giản có hiệu quả.
-Triển khai các phương thức huy động mới có hiệu quả hơn
-Tìm Các biện pháp để mở rộng hoạt động cho vay bởi vì khi hoạt động cho vay được mở rộng thì mới tạo điều kiện để thực hiện huy động vốn tốt hơn. Các biện pháp mở rộng hoạt động cho vay có thể là: Xây dựng phát triển hơn nữa các mối quan hệ tín dụng với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, mở rộng hoạt động đồng tài trợ với các tổ chức tín dụng khác ngoài các ngân hàng công ty đã thiết lập quan hệ, nghiên cứu để khi có điều kiện thì triển khai dịch vụ tín dụng mới như dịch vụ bao thanh toán, dịch vụ tài trợ cho khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngành.
3.3.2.Giải pháp nâng cao vai trò đầu tư tài chính
-Tăng cường công tác khách hàng, xây dựng các kênh thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư tài chính.
-Tích cực liên hệ với các ban chức năng VNPT để tìm kiếm các dự án khả thi và phù hợp với điều kiện đầu tư của PTF.
-Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên để góp phần thực hiện đầu tư đúng tiến độ.
-Tiếp cận các dự án đầu tư trọng điểm của ngành ngay từ lúc mới sơ khai, lập kế hoạch thu xếp vốn cho dự án.
-Theo sát tiến trình cổ phần hoá của các đơn vị cổ phần trong thời gian tới để thực hiện đầu tư kịp thời có hiệu quả, với mục tiêu đầu tư tối đa vào cổ phiếu của các công ty này theo khả năng và quan hệ với các đơn vị cổ phần hoá.
-Quản lý chặt chẽ các khoản vốn đã đầu tư vào các công ty cổ phần .
-Nghiên cứu hình thành và phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới như dịch vụ uỷ thác qua công ty cho thuê tài chính, hình thức hợp tác đầu tư trực tiếp với các đối tác.
3.3.3.Giải pháp nâng cao vai trò điều hoà vốn
-Để thực hiện được vai trò điều hoà vốn không thể tách rời việc thực hiện kiểm soát về mặt tài chính đối với các đơn vị thành viên. Vì vậy, để góp phần vào nhiệm vụ này, công ty tài chính không thể tách rời các phòng ban của Tổng công ty nhất là phòng(ban tài chính). Vì vậy, công ty tài chính cần kiến nghị Tổng công ty làm rõ và phân định ranh giới nhiệm vụ giữa công ty tài chính và các phòng ban của Tổng công ty và cần phối hợp với chặt chẽ với các ban ngành của Tổng công ty để có thể tiếp nhận thông tin cần thiết về tình hình tài chính của các đơn vị thành viên để làm tốt phần nhiệm vụ của mình.
-Hiện nay, vốn điều lệ của PTF không lớn, nhận uỷ thác đầu tư của Tổng công ty là một hình thức tăng vốn hoạt động cho PTF. PTF nên tận dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả hơn...
-Hoàn thiện công tác ngân quỹ của công ty, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh nguồn tiền của công ty để từ đó làm tốt hơn công tác này cho Tổng công ty.
3.3.4.Các giải pháp khác
-Phối hợp với Tổng công ty xây dựng kế hoạch bổ sung vốn điều lệ, tạo điều kiện để công ty tham gia vào công cuộc đầu tư vào các công trình của Tổng công ty có hiệu quả hơn.
-Mở rộng đa dạng hóa loại hình sản phẩm dịch vụ, trước hết là trong các hoạt động kinh doanh chủ yếu. Đối với hoạt động tín dụng : sử dụng tối đa các nguồn để tài trợ cho các dự án của các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật, triển khai cho vay cán bộ công nhân viên, cho vay trả góp, hình thành các sản phẩm cho vay mới như loại hình bao thanh toán(chiết khấu các khoản phải thu của khách hàng.)
-Đẩy mạnh các phát triển các dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ như tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, tư vấn đánh giá giá trị doanh nghiệp...
-Phát triển nguồn nhân lực cả về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác trong từng lĩnh vực. Kết hợp cả tự đào tạo nội bộ và đào tạo bên ngoài.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vai trò của PTF trong VNPT. Tuy nhiên, công ty tài chính không thể thực hiện được những giải pháp trên nếu như cơ chế chính sách của Nhà nước và quy định của Tổng công ty vẫn bó buộc hoạt động của công ty. Sau đây, là một số kiến nghị vơi các cơ quan quản lý công ty tài chính Bưu điện nhằm tạo môi trường hoạt động thông thoáng cho công ty.
3.4.Một số kiến nghị
3.4.1.Kiến nghị về cơ chế chính sách của Nhà nước
Hiện nay, hoạt động của PTF gặp rất nhiều vướng mắc do cơ chế chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ, thể hiện là còn nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn khiến hoạt động của công ty gặp nhiều khó khăn. Để môi trường hoạt động của các công ty tài chính trong Tổng công ty nói chung và PTF nói riêng thông thoáng hơn. Với giới hạn nghiên cứu của mình, tôi xin mạnh dạn nêu một số kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động của PTF và tăng tính chủ động, linh hoạt hơn cho PTF.
Một là, cần sớm ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang trong quá trình soạn thảo Nghị định này, nhưng do có nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau nên việc ra đời văn bản này đã chậm so với dự định. Mục tiêu ra đời của các công ty tài chính trong Tổng công ty đã được xác định rõ với vai trò hết sức quan trọng. Thế nhưng, thực tế hoạt động của tất cả các công ty tài chính trong Tổng công ty đều gặp rất nhiều vướng mắc, vai trò của các công ty này chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn khi thành lập. Quan điểm của các cơ quan quản lý cũng chưa rõ ràng. Trước khi đưa ra dự thảo Nghị định về công ty tài chính, nhiều quan chức NHNN còn cho rằng nên đưa công ty tài chính trong Tổng công ty ra ngoài phạm vi điều chỉnh của Nghị định. Điều này thật phi lý! Vì thế, điều trước tiên là trong Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính cần có một khoản mục làm rõ vị trí của công ty tài chính trong Tổng công ty.
Công ty tài chính trong Tổng công ty có vị trí, chức năng riêng nên không thể ghép vào hình thái ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác để xoá bỏ phần này hay phần khác khi quy định phạm vi hoạt động cũng như hành vi hoat động của nó. Cũng không nên trói buộc hoạt động của công ty tài chính trong Tổng công ty như các CTTC khác. CTTC trong Tổng công ty phải được thực hiện tất cả các hoạt động như một công ty tài chính bình thường khác, hơn nữa nó phải được thực hiện một số hoạt động đặc thù phù hợp.
Vì thế, trong Nghị định về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính trong Tổng công ty cần phải có các quy định mở rộng phạm vi hoạt động của công ty tài chính trong Tổng công ty nói chung và PTF nói riêng. Cụ thể là một số quy định sau:
-Mở rộng phạm vi huy động tiền gửi của PTF ra dân cư nói chung và phạm vi cho vay ra cả hộ gia đình và cá nhân để dễ dàng thu hút vốn và sử dụng được nguồn có lãi suất thị trường...
-Cho phép PTF được huy động nguồn vốn có kỳ hạn 3 tháng trở lên. Vì thực tế nguồn vốn chưa đầu tư có thê huy động của các đơn vị thành viên là rất lớn.(>900 tỷ ) nhưng lại có kỳ hạn <1 năm. Nếu PTF được huy động nguồn vốn có kỳ hạn từ 3tháng trở lên thì sẽ góp phần tăng hiệu quả công tác chu chuyển vốn trong nội bộ ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế
--Cho phép PTF được làm tổ chức tín dụng đầu mối. Là thành viên của VNPT, PTF có điều kiện để tìm hiểu các dự án của ngành một cách nhanh chóng, đầy đủ. Qua các cuộc tiếp xúc, làm việc với PTF, một số ngân hàng và tổ chức tín dụng khác bày tỏ sự quan tâm và sẵn sàng tham gia đồng tài trợ cho các dự án của ngành trong trường hợp PTF đứng ra làm tổ chức tín dụng đầu mối. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng này cũng nhấn mạnh việc PTF đứng ra làm đầu mối trong các khoản cho vay các dự án trong ngành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc thu thập thông tin, đánh giá và thẩm định dự án cho vay tốt hơn là khi bản thân họ đứng ra làm đầu mối.
-Xoá bỏ quy định về việc khung lãi suất huy động và cho vay của PTF phải do Tổng Giám đốc Tổng công ty quyết định. Biện pháp này làm tăng tính độc lập, tự chủ kinh doanh của PTF, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cho PTF
-Cho phép PTF được thực hiện các nghiệp vụ về ngoại hối để thu hút các nguồn vôn ngoại tệ nhằm đáp ứng toàn diện nhu cầu vốn của Tổng công ty và các đơn vị thành viên: VNPT là Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam mạnh, đã và đang thiết lập được thị phần và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường khu vực và quốc tế trong xu hướng toàn cầu hoá. Vì vậy, mối quan hệ kinh tế của VNPT với các tổ chức nước ngoài và quốc tế có liên quan mật thiết và bắt buộc phải sử dụng các đồng tiền có khả năng chuyển đổi như USD, DM, FFr...chưa kể VNPT còn có các doanh nghiệp liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước ngoài lên tới hàng trăm triệu USD. Trong điều kiện như vậy, PTF thực tiễn đòi hỏi cần sớm được thực hiện các hoạt đọng ngoại hối như NHTM mới có htể thực hiện nguồn ngoại tệ không nhỏ cho nền kinh tế.
Tóm lại, nội dung Nghị định về tổ chức hoạt động của công ty tài chính phải tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa công ty tài chính trong Tổng công ty và các tổ chức tín dụng khác. Hơn nữa, không nên trói buộc loại CTTC trong Tổng công ty phải hoàn toàn giống như CTTC đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, mà cần phải mở rộng chức năng đầu tư của nó. Chính đầu tư mới là mục tiêu chủ yếu của Tổng công ty trong việc huy động vốn. Và đây cũng là một chức năng quan trọng, là nhu cầu cần thiết thành lập CTTC trong Tổng công ty.
Hai là, về chế độ thu thuế thì nên bỏ quy định về thu thuế VAT đối với dịch vụ nhận uỷ thác từ nguồn vốn nội bộ của Tổng công ty vì thực chất đây chỉ là một biện pháp để điều hoà vốn nội bộ.
Ba là, cần có những giải pháp đồng bộ để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động của các công ty tài chính cũng không thể tách rời hoạt động của thị trường chứng khoán. Do đó, việc phát triển thị trường chứng khoán là một nội dung quan trọng và cần thiết. Các biện pháp để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam có thể là: tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế chính sách cho hoạt động của thị trường chứng khoán, đào tạo nhân lực cho thị trường chứng khoán...
3.4.2.Kiến nghị về quy chế quản lý tài chính trong tập đoàn Bưu điện
Sự xuất hiện công ty tài chính trong Tổng công ty sẽ dẫn đến một số thay đổi về hệ thống và cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty. Do mới thành lập và tính chất hoạt động của công ty tài chính thuộc loại hình này ở nước ta chưa có kinh nghiệm nên không tránh khỏi những lúng túng khó khăn ban đầu. Các công ty tài chính và bản thân Tổng công ty đều phải xây dựng cơ chế hoạt động và cơ chế quản lý mới để tự thích ứng vơi điều kiện riêng trong Tổng công ty.
Một trong những khó khăn gây trở ngại đối với PTF đó là cơ chế quản lý bên trong Tổng công ty chưa thông suốt, chưa tạo điều kiện cho công ty tài chính hoạt động. Một số vướng mắc giữa công ty tài chính và ban tài chính của Tổng công ty về chức năng, quyền hạn và sự phối hợp lẫn nhau?
Hơn nữa, Qua những thực tế đã trình bày ở phần trên cho thấy việc phát huy vai trò thực sự của công ty tài chính trong Tổng công ty Nhà nước phải gắn liền với việc xây dựng một cơ chế tài chính trong mô hình Tổng công ty phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan. Cơ chế đó cho phép Tổng công ty thực sự có hiệu lực trong việc điều tiết, chi phối về mặt tài chính đối với các đơn vị thành viên nhưng không phải dựa vào ý muốn chủ quan và bằng biện pháp hành chính mà chủ yếu dựa trên các quan hệ của kinh tế thị trường (thông qua hoạt động đầu tư tín dụng của một định chế tài chính trung gian như Công ty Tài chính); cơ chế ấy cho phép tập trung thu hút được các nguồn lực tài chính cần thiết cho phát triển nhưng đồng thời cũng đảm bảo việc sử dụng các nguồn đó có hiệu quả nhất; ...cơ chế đó có phân định rõ ràng về lĩnh vực trách nhiệm về quan hệ phối hợp giữa Công ty tài chính và các phòng ban chức năng của Tổng công ty.
Với yêu cầu như vậy, một mô hình công ty tài chính như một công ty mẹ thực hiện điều tiết, đầu tư vốn của Tổng công ty có thể là mô hình phù hợp trong tương lai khi các yếu tố của thị trường vốn hình thành hoàn chỉnh, khi yêu cầu tích tụ, tập trung vốn của Tổng công ty đã ở mức cao, vượt ra khỏi khả năng đảm bảo và tầm kiểm soát của cơ chế truyền thống, tự thân đòi hỏi phải có một công ty tài chính có đủ năng lực đáp ứng, chi phối về mặt tài chính đối với các đơn vị thành viên. Trước mắt, công ty tài chính vẫn chỉ nên như một đơn vị thành viên của Tổng công ty nhưng để phát huy được vai trò và dần vươn lên đáp ứng được yêu cầu mới cần có một số biện pháp như sau:
-Xây dựng quy chế tập trung được các nguồn quỹ chuyên dùng nhàn rỗi về Tổng công ty thông qua công ty tài chính để cho vay và đầu tư có hiệu quả, tránh lãng phí, giảm dần việc điều động cấp phát...Đây là một biện pháp quan trọng tạo điều kiện để công ty tài chính có thể thực hiện được vai trò điều hoà vốn trong Tổng công ty. Và thực tế, công ty tài chính chỉ có thể thực hiện được tốt vai trò này chỉ khi các nguồn lực tài chính trong Tổng công ty được tập trung qua công ty tài chính và công ty tài chính được thực hiện quản lý điều chuyển các nguồn vốn này cho toàn Tổng công ty.
-Giao toàn bộ phần vốn phải vay và huy động của Tổng công ty cho công ty tài chính để PTF chủ đông có kế hoạch, với nhiều hình thức, quan hệ với nhiều đối tác nhằm sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Biện pháp này giúp Tổng công ty dần không bao vốn qua việc cấp phát va hạn chế việc các đơn vị ỷ lại.
-Cho phép PTF nhận uỷ thác quản lý và điều hành phần vốn đầu tư gián tiếp qua hình thức công ty cổ phần nhằm điều chuyển vốn đúng mục tiều và hiệu quả cao hơn.
-Hoàn thiện quy chế giao PTF tư vấn quản lý vốn của Tổng công ty ở các doanh nghiệp thành viên, các công ty cổ phần,... và thúc đẩy nhanh chóng đưa vào thực thi.
-Cho phép Công ty tài chính tham gia nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý điều hành kinh tế của Tổng công ty.
--Cơ chế tài chính phải có những quy định đảm bảo tính tự chủ về tài chính của các đơn vị thành viên, nâng cao sự hoà nhập thực sự của các đơn vị thành viên vào cơ chế thị trường
3.4.3.Kiến nghị khác về mở rộng hoạt động cho công ty tài chính
-Bao thanh toán là một hình thức chiết khấu chứng từ được thể hiện thông qua việc tài trợ tín dụng của công ty tài chính đối với doanh nghiệp. CTTC mua lại hoá đơn ghi các khoản nợ phải thu của các doanh nghiệp phát sinh từ việc bán hàng trả chậm, thực hiện quản lý sổ sách cho các doanh nghiệp.Nghiệp vụ bao thanh toán nếu được thực hiện cũng sẽ nâng cao được vai trò hỗ trợ về mặt tài chính của công ty tài chính đối với các đơn vị thành viên, giảm được các chi phí thanh toán trong các hợp đồng mua bán hoặc nhập khẩu vật tư thiết bị của các đơn vị thành viên.
-Cho phép công ty tài chính tham gia một số nghiệp vụ chứng khoán như môi giới, tư vấn đầu tư hoặc được mua bán cổ phiếu của thị trường chứng khoán trong một giới hạn nhất định để tập sự trong môi trường của thị trường vốn. Nghiệp vụ này càng có lợi ích thiết thực hơn đối với các công ty tài chính trong Tổng công ty có nhiều đơn vị thành viên thực hiện cổ phần hoá.
-Tổng công ty cho phép công ty tài chính tham gia vào quá trình chuẩn bị đầu tư tài chính của Tổng công ty như việc chuẩn bị đầu tư vốn vào các liên doanh, BBC, công ty cổ phần và uỷ nhiệm cho công ty tổng hợp phân tích tài chính, đánh giá hiệu quả về vốn, ...
-Tổng công ty uỷ thác công ty tài chính cho vay từ các nguồn ODA, và các nguồn vốn khác của chính phủ hoặc Tổng công ty ký kết với nước ngoài.
Kết luận
Công ty tài chính Bưu điện ra đời đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển Tổng công ty nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Công ty đã bước đầu thể hiện được vai trò hết sức cần thiết trong Tổng công ty, là đầu mối quan trọng trong việc thực hiện huy động vốn và cho vay các đơn vị thành viên, đầu tư vào các dự án của Tổng công ty, tư vấn quản lý tài chính cho các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty đồng thời đang trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện các hoạt động ngân quỹ thay cho Tổng công ty để tiến đến thực hiện đầy đủ hơn vai trò là công cụ quản lý tài chính toàn diện của Tổng công ty.
Ngoài ra, công ty tài chính Bưu điện cũng đã bước đầu tham gia các hoạt động trên thị trường chứng khoán, góp phần cùng các định chế tài chính khác làm "sôi động" thêm hoạt động trên thị trường này.
Tuy nhiên, với thời gian hoạt động chưa dài, những kết quả đạt được chưa thể hiện đầy đủ tiềm lực của nó. Thêm vào đó là cơ chế hoạt động cho loại hình công ty này còn nhiều vướng mắc và mâu thuẫn. Nhằm tăng cường vai trò thực sự của công ty tài chính Bưu điện nói riêng và các công ty tài chính trong Tổng công ty nói chung trong điều kiện hiện nay và đặc biệt là trong tiến trình xây dựng các tập đoàn kinh tế Nhà nứơc mạnh ở Việt Nam đòi hỏi phải có nhiều biện pháp đồng bộ từ các cấp quản lý và cả trong bản thân các công ty tài chính.
Với trình độ còn hạn chế, nhất là kinh nghiệm thực tế chưa nhiều và với thời gian nghiên cứu ngắn, trong bài viết này không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự quan tâm và đánh giá của cô giáo hướng dẫn.
&
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0061.doc