Lời nói đầu
ở nước ta, lao động việc làm luôn là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chủ Tịch, của Đảng và Nhà nước. Bác đã từng nói, đại ý muốn cho dân khỏi khổ, khỏi dốt thì phải ra sức tăng ra sản xuất, muốn cho gia tăng sản xuất có kết quả thì cần có tư bản, tri thức và lao động. Những lời nói vô cùng giản dị của vị Chủ tịch nước như hàm chứa tính khoa học, tính triết lý vô cùng sâu xa và còn nguyên giá trị khi đất nước ta đang cùng với nhân loại bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức. Chủ tr
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm trong kế hoạch 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương của Bác Hồ, của Đảng và nhà nước về lao động việc làm đã được cụ thể hoá và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với từng điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Bước vào những năm đầu của thế kỷ mới, có những thuận lợi khó khăn của kinh tế, xã hội, đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề bức xúc, nổi cộm mà đặt nhiệm vụ cho Đảng và Nhà nước ta. Giải quyết việc làm cho kế hoạch thời kỳ 2001 - 2005 là một trong những vấn đề quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001 - 2005 ở Việt nam. Được sự hướng dẫn của cô giáo TS. Nguyễn Thị Kim Dung, em đã hoàn thành bài viết về đề tài này. Tuy nhiên do lượng kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn, nên bài viết không tránh được những thiết sót, em mong được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Việc làm và kế hoạch việc làm trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
I. Việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm
1. Khái niệm về việc làm và các khái niệm có liên quan đến việc làm
1.1. Quan điểm của thế giới về lao động và việc làm
Nói đến việc làm bao giờ cũng gắn với yếu tố lao động, theo tổ chức lao động quốc tế (LIO) quan niệm về lao động việc làm được phân chia như sau:
- Lực lượng lao động hay là dân số hoạt động kinh tế là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động đang làm việc và có nhu cầu tìm việc làm. Về cơ bản hệ thống lực lượng lao động được thống nhất ở nhiều nước, điều khác nhau ở đây chủ yếu là giới hạn về độ tuổi. Trước hết là trong quy định về giới hạn tuổi tối thiểu. Ví dụ như ở Ai Cập tuổi tối thiểu là 6 tuổi, Barxin: 10 tuổi, Oxtraya 15 tuổi, Mỹ 16 tuổi. Phần lớn các nước quy định mức tuổi này từ 14 đến 15 tuổi. Thứ hai là sự khác biệt về quy định giới hạn tối đa của độ tuổi lực lượng lao động. ở một vài nước công nghiệp như Đan Mạch, Thuỵ Sỹ, Na uy, Phần Lan lấy tuổi này là 74. Còn một số nước đang phát triển như Ai Cập, Malaysia, Mêhicô quy định là 65 tuổi. Nói chung mức tuổi này thường được quy định từ 55 đến 65 tuổi.
- Người có việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
- Người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang trở lại làm việc người. Người thất nghiệp được chia là 3 loại khác nhau: Thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp theo chu kỳ, và thất nghiệp có tính cơ cấu. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm, chúng ta thấy thất nghiệp tăng lên hầu như ở khắp nơi.
- Những người không thuộc lực lượng lao động là một bộ phận dân số mà ở bộ phận này họ là những người không thuộc các đối tượng trên, có nghĩ là họ không phải là những người có việc làm và không phải là người thất nghiệp, nó bao gồm các đối tượng là học sinh, những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người thuộc tình trạng khác.
Các quan niệm trên chỉ mang tính tương đối và có tính chất thời điểm, nó không nhất thiết phải áp dụng cứng nhắc, dập khuôn cho mọi nước mà tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước, yêu cầu và khả năng sử dụng lao động của mỗi quốc gia. Tuy nhiên nó cũng không được tách biệt khỏi quan niệm của LIO.
1.2. Quan niệm của Việt nam
Qua các cuộc tổng điều tra dân số trên phạm vi cả nước, Việt nam đã rút ra khái niệm được coi là cơ bản về việc làm và lượng lao động .
* Việc làm
- Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc dân, khu vực nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, nhà nước xắp xếp việc làm cho người lao động từ đầu đến cuối, do vậy trong xã hội không có các hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ... nhưng khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách cơ bản. Trên cơ sở vận dụng khái niệm của LIO và nghiên cứu điều kiện của Việt nam, người ta đã ra được khái niệm thống nhất về việc làm như sau: người có việc làm là người làm việc trong lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, một phần đóng góp cho xã hội. Nội dung về việc làm đã được mở rộng và tạo khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động. Điều này được thể hiện ở hai góc độ, góc độ thứ nhất là thị trường lao động được mở rộng, nó không chỉ bao gồm thành phần kinh tế quốc doanh như ở thời kỳ bao cấp mà còn bao gồm thành phần kinh tế khác như tư nhân, các hình thức kinh doanh khác như kinh tế hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác tự nguyện....; nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian trong và ngoài nước vv...Góc độ thứ hai là người lao động tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê mướn lao động theo pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước để tự tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường lao động.
- Ngoài khái niệm chính về việc làm chúng ta còn một số khái niệm dẫn suất như thất nghiệp, thiếu việc làm vv....Tuổi giới hạn của Việt nam được phân chia theo giới tính, tuổi giới hạn từ 15 - 55 đối với nữ và 15 - 60 đối với nam.
+ Thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có sức lao động, chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Trong khái niệm thất nghiệp cũng có các loại đối tượng chưa làm việc bao giờ và mất việc chờ lao động, lao động dư thừa.
+ Thiếu việc làm được hiểu là trạng thái trung gian giữa có việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đây là tình trạng có việc làm, nhưng do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người lao động, họ làm việc không hết thời gian theo luật định, hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không được sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
* Lực lượng lao động là một bộ phận dân số có độ tuổi từ 15 trở lên có khả năng lao động đang làm việc hoặc có nhu cầu tìm việc làm.
Những khái niệm trên đây chỉ tính đến những đối tượng nằm trong lực lượng lao động và trong độ tuổi lao động, do đặc điểm của nước ta, người có nhu cầu làm việc ngoài tuổi lao động rất lớn để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình, đối tượng này gồm hưu trí, lao động vị thành niên, người già vv...
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm
2.1. Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề giải quyết việc làm
áp lực lớn về việc làm được biểu hiện bởi quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động. Vì vậy những nhân tố ảnh hưởng đến sức ép việc làm cũng chính là các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động và những yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động. Khi cung lao động càng lớn hơn cầu lao động thì sức ép ngày càng tăng. Đặc biệt là đối với Việt nam, do dân số đông mà nền kinh tế thì chưa đủ khả năng cung cấp số chỗ làm việc đủ cho người lao động, vì vậy sức ép trong vấn đề giải quyết việc làm đang là vấn đề bức xúc nhất hiện nay của xã hội.
* Nguyên nhân dẫn đến cung lao động tăng nhanh
- Nguồn lao động dồi dào, nhưng cơ cấu còn rất nhiều điểm chưa hợp lý. Mặc dù chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ trình độ văn hoá ngày càng được nâng lên, kể cả khu vực nông thôn và thành thị, nhưng cơ cấu theo các tiêu thức khác đang nổi lên những vấn đề bất cập. Tỷ trọng lao động giản đơn còn quá cao, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất hạn chế và chuyển biến chậm. Điều này phản ánh đội ngũ lực lượng lao động chưa sẵn sàng chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, càng chưa sẵn sàng để hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. Tình hình lao động của Việt nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng " thừa thầy, thiếu thợ". Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn thấp và cơ cấu bất hợp lý theo trình độ chuyên môn. Thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng cũng là một yếu tố gây khó khăn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
- Việc đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước mang ý nghĩa trọng tâm trong công cuộc đổi mới kinh tế. Nhiệm vụ này đã tạo ra những mặt tích cực cho nền kinh tế: số các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn đã tăng lên, ổn định tình hình kinh tế và giá cả, thu nhập của người lao động tăng lên... Tuy nhiên bên cạnh đó là việc gia tăng lao động không bố trí được việc làm nguyên nhân cơ bản của nó là:
+ Công tác quy hoạch bồi dưỡng, đào tạo mới, đào tạo lại và đào tạo bổ sung cho đội ngũ lao động hiện có trong doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức và thường chậm hơn so với yêu cầu của sự đổi mới về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, kinh doanh và yêu cầu tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp.
+ Giảm sút khả năng đầu tư sự mất ổn định về thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh kém, sự gia tăng của hàng nhập lậu làm cho không ít doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc duy trì và phát triển.
+ Nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các quy định của bộ luật lao động gây ra nhiều khó khăn cho người lao động trong việc tìm kiếm giải pháp thích hợp để thoát khỏi tình trạng " không bố trí được việc làm".
+ Sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản luật và giới luật về bảo hiểm thất nghiệp
- Lao động tự do di chuyển từ nông thôn ra thành thị và các vùng khác ngày càng tăng. Do đặc điểm mùa vụ của kinh tế nông thôn, cho nên lao động không có việc vào lúc nông nhàn là rất nhiều. Vì vậy để đảm bảo yêu cầu cuộc sống, cá nhân và gia đình họ thường lên thành phố, thị xã, thị trấn để làm thuê, hành nghề tự do, buôn bán nông sản phẩm. Mặt khác diện tích đất nông nghiệp ở nông thôn ngày càng bị giảm sút, mà việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn chưa phát triển, cho nên nạn sử dụng không hết thời gian lao động là tất yếu xảy ra.
* Nguyên nhân làm cho cầu lao động tăng chậm
Cầu lao động phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của xã hội, đặc biệt là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong thời gian qua, tăng liên tục từ năm 1991 đến 1996 đạt mức trên 9%, năm 1997 do sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực mà tốc độ tăng trưởng bị giảm sút và đến năm 1999 chỉ đạt 4,77%, đến năm 2000 lại trên đà tăng trưởng lên mức 6,75%. Hơn nữa là rào cản về mặt hành chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam còn rờm rà, lắm thủ tục, vì vậy việc tiếp nhận vốn từ bên ngoài vào trong nước là rất khó khăn. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển kinh tế mà chúng ta cũng chưa huy động và sử dụng triệt để được, vẫn còn tồn đọng nhiều trong dân, người dân vẫn ưa thích tiết kiệm hơn là đem đầu tư. Một loạt các tác động về vốn làm cho chúng ta không hoặc ít có khả năng mở rộng quy mô của cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp. Vì vậy khả năng thu hút lao động không nghiều.
- Cơ cấu kinh tế thay đổi theo sự tiến bộ của khoa học công nghệ, theo yêu cầu của đối mới kinh tế. Cùng với sự thay đổi đó cơ cấu lao động cũng thay đổi; trong cơ cấu lao động theo ngành lao động nông nghiệp vẫn chiếm đa số. Vào năm 1999 cơ cấu lao động có hướng chuyển dịch theo công nghiệp và dịch vụ, nhưng nói chung chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành còn chậm chạm và chưa vững chắc. Khác với sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế có phần khả quan hơn, tuy cầu về lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh giảm nhưng khu vực ngoài quốc doanh lại thu hút phần lớn lực lượng lao động.
- Một số ngành hoặc vùng có tiềm năng lớn có khả năng thu hút được nhiều lao động nhưng lại thiếu điều kiện để biến khả năng này thành hiện thực như vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật và công nghệ, hoặc thị trường tiêu thụ.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự điều chỉnh của cung cầu lao động và làm giảm sức ép việc làm.
ở Việt nam cung cầu về lao động là rất căng thẳng do cung luôn lớn hơn cầu, song nó luôn được điều chỉnh để thích nghi và giảm sức ép về việc làm. Việc điều chỉnh này được thông qua sự vận động hay sự di chuyển của các dòng lao động. Các dòng di chuyển này có tính quy luật và chịu sự chi phố của một số nhân tố sau:
- Nhân tố điều kiện sống: đây là nhân tố có tác động lớn đến dòng di chuyển lao động, vì nó quyết định đến dòng di chuyển lao động. ở đâu mà có điều kiện sống thuận lợi, giá trị ngày công lao động cao, sức mua của đồng tiền thu nhập lao động lớn, sẽ có xu hướng thu hút lao động vào đó. Lúc này thị trường lao động sẽ trở lên sôi động, sự cạnh tranh gay gắt hơn, chất lượng lao động được đề cập đến.
- Nhân tố việc làm trong điều kiện của Việt nam thì dòng di chuyển lao động sẽ hướng vào các ngành, các lĩnh vực có khả năng bảo đảm việc làm ổn định. Người lao động chấp nhận làm việc ở những điều kiện tối thiểu, miễn là có việc. Đặc biệt là lao động phổ thông, chưa có nghề hoặc thanh niên nông thôn sẵn sàng tìm kiếm việc làm ở đô thị hoặc trong khu vực nhà nước mặc dù với mức tiền công thấp.
- Nhân tố về khả năng phát triển trong tương lai, đây là loại nhân tố đặc thù ở Việt nam. Người lao động chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm vẫn có thể chuyển đến nơi mà lúc đầu còn có thể khó khăn, nhưng có khả năng phát triển, đảm bảo việc làm và cuộc sống ổn định trong tương lai.
Từ các nhân tố trên, có thể khái quát các dòng di chuyển lao động:
- Dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố, thi xã, thị trấn để làm thuê, hành nghề tự do, buôn bán nông sản làm dịch vụ chi chiều...Dòng di chuyển này ngày càng tăng lên một cách đáng kể, khi diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người giảm, việc làm phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn chưa phát triển, khi cơ chế khoán ở nông thôn được áp dụng, người lao động không bị còn rằng buộc bởi hợp tác xã, mảnh ruộng.
- Dòng di chuyển lao động từ vùng đồng bằng đông dân đi hành nghề tự do hoặc làm thêm ở các vùng trung du, miền núi.
- Dòng di chuyển lao động từ miền Bắc vào miền Nam để tìm việc làm nơi có điều kiện thuận lợi hơn.
- Dòng di chuyển lao động nhất là lao động chất xám từ khu vực nhà nước ra khu vực ngoài quốc doanh, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc văn phòng đại diện nước ngoài.
- Dòng di chuyển lao động ra khỏi lãnh thổ Việt nam dưới dạng xuất khẩu lao động và xuất cảnh đồng thời là dòng di chuyển từ nước ngoài trở về Việt nam.
Các dòng di chuyển lao động góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh và làm giảm sức ép về việc làm do thị trường lao động hoạt động sôi nổi, đa dàng và phong phú tao nên
3. Vai trò của giải quyết việc làm
Việc làm liên quan đến nhu cầu sống của con người, nó là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo sự phát triển con người, vậy việc làm thuộc phạm trù xã hội, và do đó giải quyết việc làm nhằm giải quyết một vấn đề xã hội vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách. Giải quyết việc làm liên quan đến thoả mãn nhu cầu của con người và là nguồn gốc, nguyên căn của mọi vấn đề xã hội.
Giải quyết việc làm có tính chất mục tiêu xã hội góp phần giải quyết công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống, nhà nước tạo mọi điều kiện cho mọi người có cơ hội như nhau trong tìm kiếm và tự tạo việc làm. Giải quyết việc làm nhằm làm ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
Giải quyết việc làm nhằm nâng cao thu nhập của người lao động, cải thiện mức sống của người dân. Từ đó tạo sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết được những vấn đề xã hội: như xoá đói giảm nghèo, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn, đẩy nhanh và chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế.
Giải quyết việc làm có vai trò khác nhau trong từng cơ chế kinh tế. Trong cơ chế kinh tế tập trung, nhà nước bố trí việc làm cho mọi người từ A đến Z nhưng trong cơ chế thị trường nhà nước tự tạo cho mọi người các cơ hội tự tìm kiếm việc làm, mở rộng cơ hội tuyển chọn lao động của người sử dụng lao động.
II. Kế hoạch việc làm
1. Kế hoạch về việc làm
Kế hoạch lao động việc làm là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Kế hoạch việc làm nhằm xác định số chỗ làm việc do các hoạt động kinh tế xã hội tạo nên trong kỳ kế hoạch, từ đó có các giải pháp và chính sách giải quyết việc làm cho người lao động một cách hợp lý. Hay nói cách khác kế hoạch lao động việc làm nhằm xác định nhu cầu về nguồn lao động trong tương lai.
Nguồn lao động nó không giống như nguồn tài chính, nguồn lao động không phải lúc nào cũng sử dụng được ngay. Do vậy một trong lĩnh vực quan trọng của kế hoạch lao động việc làm phải bao gồm kế hoạch về đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
2. Vai trò và kế hoạch việc làm
Tuỳ theo từng giai đoạn của phát triển kinh tế mà vai trò của kế hoạch việc làm có sự khác nhau. Trong những năm 1960, kế hoạch hoá lao động việc làm chỉ được xem xét như là một trong các biện pháp để có số lao động cần thiết nhằm hoàn thành nhiệm vụ sản xuất trước mắt, mà không chú trọng đến xu hướng và các biện pháp phát triển nguồn nhân lực trong tương lai. Đa số các nhà hoạch định chính sách chỉ tập trung vào việc xây dựng chiến lược về việc phát triển mà không chú ý đến việc sử dụng lao động kèm theo.
Trong giai đoạn tiếp theo ( những năm 1970 ) các nhà hoạch định nguồn nhân lực đã xây dựng các chiến lược về phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên lại chưa lồng ghép với kế hoạch phát triển nói chung. Chiến lược lao động việc làm vì vậy nhiều khi mang tính hình thức, thiếu khả năng khả thi.
Giai đoạn thứ ba, từ những năm 1980 đến nay, kế hoạch hoá lao động việc làm được đặc trưng bởi sự lồng ghép của các lao động kế hoạch việc làm với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, của vùng trên tầng trung mô và kế hoạch phát triển của doanh nghiệp trên tầm vi mô. Trong giai đoạn này chiến lược lao động việc làm được coi là bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế và là điều kiện tiên quyết của các chiến lược phát triển kinh tế.
Chương II
Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm
thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000
I. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề việc làm thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000
1. Quan điểm có tính chất mục tiêu và chiến lược
Theo quan điểm này, giải quyết việc làm là phải hướng vào phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, phải giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, tạo ra cơ cấu lao động ngày càng phù hợp với cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Trong chiến lược phát triển kinh tế 10 năm 2001 - 2010, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động hiện có phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế mới. Việc lựa chọn công nghệ, một mặt phải tập trung vào một số lĩnh vực mũi nhọn, sử dụng kỹ năng cao để tạo ra điều kiện và khả năng tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh, mặt khác lại phải chú trọng đến tầng lớp thấp nhưng lao động chiếm tỷ trọng lớn, thông qua áp dụng công nghệ thích hợp, công nghệ sử dụng nhiều lao động. Vấn đề cấp bách hiện nay là giải quyết việc làm cho thanh niên và thành thị. Song, để sử dụng hiệu quả nguồn lao động xã hội thì phải tập trung vào khu vực nông thôn, là địa bàn chiến lược cả nước. Từ đó việc giải phóng lao động và lực lượng sản xuất phải bắt đầu tư nông thôn.
2. Giải quyết việc làm cho lao động xã hội
Vấnn bao chùm của quan điểm này là phải bằng mọi biện pháp tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động trên cơ sở phát triển mạnh mẽ nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, với những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, phong phú, đan xen và hỗ trợ nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, hình thành thị trường lao động thống nhất và linh hoạt, không bị chia cắt về địa lý hành chính. Tự do hoá trong lao động là quan điểm cơ bản nhất để hình thành chính sách việc làm trong điều kiện mới. Quan điểm này phải được thể chế hoá thành luật pháp để đảm bảo cho người lao động tự do hành nghề, lập hội nghề nghiệp liên doanh liên kết; tự do hoá làm giầu chính đáng, coi một bộ phận dân cư giầu lên là cần thiết cho sự phát triển và tiến bộ chung; tự do thuê mướn lao động trên cơ sở pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước, xoá bỏ mọi ngăn cấm, chói buộc người lao động; phát huy đến mức cao nhất khả năng sáng tạo trong tự tạo việc làm, phát triển việc làm của công dân.
3. Quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của toàn Đảng, nhà nước và toàn dân
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cho dù nhà nước có chính sách phát triển kinh tế hoàn hảo đến mức độ nào đi nữa, thì trong xã hội bao giờ cũng có những người chưa có việc làm, thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Vì vậy tự giải quyết việc làm phải là trách nhiệm của toàn Đảng, nhà nước, của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội và của mỗi người lao động. Nhà nước một mặt phải khuyến khích phát triển thị trường lao động, làm cho nó hoạt động sôi động và có hiệu quả bằng các chính sách bảo vệ và khuyến khích các tổ chức đơn vị kinh tế các chủ doanh nghiệp, kể cả các chủ tư nhân, hộ gia đình và mọi người lao động ở mỗi thành phần kinh tế tạo được nhiều chỗ làm mới và thu hút được nhiều lao động. Mặt khác, nhà nước thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô để kiểm soát thị trường lao động, giảm hoặc khống chế tỷ lệ thất nghiệp ở mức cho phép, không để nó vượt quá mức gây nguy hiểm cho nền kinh tế và an toàn xã hội. Giải quyết việc làm trong điều kiện nước ta còn nghèo, chúng ta phải phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng trong nước, khai thác đến mức tối đa tiềm năng trong dân đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ nước ngoài vào các chương trình và dự án việc làm có mục tiêu. Muốn thực hiện được, nhà nước chủ yếu phải có chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đúng đắn hướng vào sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động xã hội, đồng thời tạo ra những điều kiện cần thiết thông qua cơ chế, chính sách, luật pháp để công dân tự do làm ăn theo pháp luật và hỗ trợ một phần tài chính để tạo "cú huých" để dân tự tạo việc làm, thu hút thêm lao động xã hội.
4. Giải quyết việc làm mang tính cấp bách trước mắt
Phải tập trung ưu tiên tạo thêm chỗ làm việc mới, giải quyết cho một số đối tượng bức bách nhất: lao động thôi việc trong khu vực nhà nước, thanh niên đến tuổi lao động ở thành thị, khu công nghiệp tập trung, bộ đội xuất ngũ, học sinh đã tốt nghiệp ở các trường lớp đào tạo, người đi lao động hợp tác trở về, người nghèo ở nông thôn, các đối tượng đặc thù, người xuất cảnh trái phép tự nguyện hồi hương, đối tượng tệ nạn xã hội. Giải quyết việc làm phải tiến hành có trọng tâm, trọng điểm như giải quyết việc làm ở các thành phố lớn, phải hình thành hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương và cơ sở bao gồm hệ thống quản lý nhà nước, các đơn vị sự nghiệp chăm lo giải quyết cho người lao động.
II. Kế hoạch giải quyết việc làm thời kỳ 1996 - 2000
1. Bối cảnh và thực trạng lực lượng lao động Việt nam thời kỳ kế hoạch 1996 - 2000.
1.1. Bối cảnh
Thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội (1996 - 2000) trong bối cảnh đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và chuyển sang thời kỷ đẩy mạnh công nghệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng từ giữa năm 1997 đến năm 1999, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, cùng với thiên tai nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã đặt nền kinh tế của đất nước trước những thử thách quyết liệt, đặc biệt là vấn đề việc làm cho người lao động.
1.2. Thực trạng lao động Việt nam giai đoạn này
* Quy mô lực lượng lao động tiếp tục gia tăng với tốc độ cao
Tính đến ngày 1/7/1000, tổng lực lượng lao động cả nước có 38.643.089 người, so với kết quả điều tra tại thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 người, với tốc độ tăng 2,7%/năm trong khi đó tốc độ tăng dân số bình quân của thời kỳ này là 1,5%/năm.
ở năm 1996 tỷ lệ lực lượng lao động chiếm trong tổng dân số nói chungl à 0,48; năm 2000 là 0,5, bình quân mỗi năm tỷ lệ này gia tăng 4%0.
* Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động được nâng cao.
- Năm 1996, lực lượng lao động khu vực thành thị chỉ chiếm 19,06% tổng lực lượng lao động trong cả nước, năm 2000 đã tăng lên 22,56%; trong khi tỷ lệ lực lượng lao động ở nông thôn giảm được từ 80,94% xuống còn 77,44%.
- Số người biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I chiếm trong tổng lực lượng lao động ngày càng giảm cả về số lượng và tỷ lệ. Năm 1996, tỷ lệ này là 26,67% đến năm 2000 giảm xuống còn 20,49% bình quân hàng năm làm được 338.021 người tốc độ giảm 3,86%.
- Số người tốt nghiệp cấp III tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ. Năm 1996 tỷ lệ này là 13,47%, đến năm 2000 tăng lên 17,23. Bình quân hàng năm tăng thêm 495.258 người với tốc độ tăng 9,22%/năm.
ở khu vực thành thị, nông thôn tình hình cũng diễn ra tương tự, tuy nhiên trình độ học vấn của lực lượng lao động ở thành thị vẫn vượt khá xa so với nông thôn.
- Lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/ học nghề trở lên tăng đáng kể cả về số lượng và tỷ lệ chiếm trong tổng lực lượng lao động. Năm 1996, tỷ lệ này là 11,81% đến năm 2000 tăng lên 15,51%. Bình quân hàng năm tăng thêm 472.083 người với tốc độ tăng 9,92%/ năm. Trong đó tăng nhiều nhất là lao động được đào tạo ở trình độ cao đẳng, đại học trở lên (174.343 người với tốc độ tăng 16,86%/năm), tiếp đến là lao động đã qua đào tạo nghề/ công nhân kỹ thuật (131.905 người với tốc độ tăng 7,58%); thấp nhất là trung học chuyên nghiệp cũng tăng thêm được hàng năm 131.905 người với tốc độ tăng 8,64%, ở các vùng lãnh thổ, khu vực thành thị, nông thôn các tỉnh trọng điểm và nhiều tỉnh trong cả nước cũng diễn ra xu hướng tương tự.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, đội ngũ đã qua đào tạo nói chung của lực lượng lao động giai đoạn này vẫn còn nhiều bất cập trong đó đáng chú ý là:
+ Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp trên học nghề trở lên cũng như từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp trên học nghề trở lên chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỷ lệ này chỉ có 40,96%.
+ Cấu trúc đào tạo của lực lượng lao động đã qua đào tạo vốn đã rất bất hợp lý, giai đoạn này lại càng bất hợp lý hơn. Năm 1996 cấu trúc đào tạo là 1 - 1,7 - 2,4 (tức ứng với một lao động có trình độ cao đẳng, Đại học trở lên thì có 1,7 lao động có trình độ Trung học chuyên nghiệp và 2,4 có trình độ sơ cấp/ học nghề/công nhân kỹ thuật); năm 2000 cấu trúc này là 1 -1,2 -1,7 trong khi mục tiêu của Nghị quyết trung ương là 1 - 4 - 10.
* Cơ cấu lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo nhóm ngành
Năm 2000 sự chuyển dịch rõ rệt so với năm 1999 theo hướng; giảm cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp, tăng cả về số lượng và tỷ lệ lao động làm việc trong nhóm ngành Công nghiệp, xây dựng và Dịch vụ. Năm 1996 có 23.601.918 người làm việc trong các ngành nông lâm, ngư, chiếm 69,80% so với tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân nói chung, đến năm 2000 giảm xuống còn 22.669.907 người, chiếm 62,56%; trong khi đó, lao động việc làm trong các ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 3.566.513 người (năm 1996) tăng lên 4.743.705 người năm 2000 và tỷ lệ so tổng số đã tăng lên từ 10,55% lên 13,15%; lao động làm việc trong các ngành dịch vụ cũng tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ (từ 6.643.564 người lên 8791.950 người và từ 19,65% lên 24,29%).
2. Kết quả thực hiện kế hoạch giải quyết việc làm giai đoạn 1996 - 2000
Trong thời gian 5 năm, số người có việc làm tăng từ 34,6 triệu người lên 40,7 triệu người, tức là tăng 6,1 triệu (17,6%) bình quân năm tăng khoảng 3,2%.
Khu vực nông - lâm - ngư nghiệp ổn định việc làm cho 23,5 triệu lao động và thu hút thêm gần 2 triệu lao động mới. Khu vực công nghiệp xây dựng thu hút thêm 2,2 triệu lao động. Khu vực dịch vụ có bước phát triển mạnh, tăng thêm từ 2,3 đến 2,4 triệu lao động. Cơ cấu lao động đã có bước chuyển dịch rõ dệt theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng từ 13% (năm 1996) lên 16,7% (năm 2000), lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,5% (năm 1996) lên 22% (năm 2000), lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp 67,5% (năm 1996) xuống còn 61,3% (năm 2000).
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị duy trì ở mức 6,5%, giảm từ 3,5% so với đầu thập kỷ; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên 74%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 10% (năm 1996) lên 22% (năm 2000), trong đó số qua đào tạo nghề khoảng 13,4%.
Do kết quả của cải cách hành chính và sắp xếp loại doanh nghiệp nhà nước, lao động khu vực nhà nước giảm xuống còn khoảng 9%, khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác thu hút 90% lao động xã hội. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tuy mới thu hút được 33 vạn lao động nhưng đã có vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu lao động.
Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm đóng góp rất tích cực: trong 5 năm, doanh số cho vay của quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm là trên 3 nghìn tỷ động, giải quyết việc làm cho 1,8 triệu người. Nếu không có các hoạt động hỗ trợ trực tiếp này, số chỗ làm việc chỉ đạt 75% đến 80% mức kế hoạch, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động chỉ đạt 60 - 65%.
Hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm đã được thừa nhận trong thị trường lao động và đã đạt kết quả rất đáng khích lệ: tư vấn về nghề nghiệp và đào tạo cho gần 2 triệu lượt người, dạy nghề gắn với việc làm và bổ túc nghề cho hơn 0,7 triệu người, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho gần 0,9 triệu người.
III. Đánh giá tổng quan
1. Tác động của hệ thống chính sách về giải quyết việc làm
- Có chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc hoạch định chính sách về việc làm, tạo ra những nhân tố mới làm thay đổi căn bản nhận thức về giải quyết việc làm. Người lao động đã có sự năng động và chủ động tạo việc làm cho mình và cho người khác.
- X._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0173.doc