Giải pháp chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

Tài liệu Giải pháp chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc: ... Ebook Giải pháp chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIỚI THIỆU CHUNG. 1.1. Lý do chọn nghiên cứu dự án. - Vĩnh Phúc là một tỉnh mới tái lập từ năm 1997, dân số khoảng 950 ngàn người, thu nhập bỡnh quõn đầu người thấp nhất cả nước, thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp GDP tỉnh đạt 100 tỷ đồng (năm 1997). Tuy nhiên sau một thời gian, dưới sự lónh đạo của tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một điểm sáng của cả nước về phát triển kinh tế xó hội nằm trong 10 tỉnh trong cả nước về thu hút đầu tư và là một trong 8 tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. (Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Vĩnh Phúc). - Với việc thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã đóng góp nhiều vào việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh phát triển. Chính vì vậy, yêu cầu thực tế và tầm nhìn chiến lược, định hướng phát triển của tỉnh được thông qua các đề án về quy hoạch, kế hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch chiết tiết các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu kinh tế. Đặc biệt là những nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội nói chung, cơ sở hạ tầng và xã hội hoá ngành thương mại nói riêng đã tạo ra nhiều diện mạo mới trong việc thu hút quản lý, đầu tư khai thác quản lý kinh doanh Chợ hiện nay. - Mặt khác, do tình hình quản lý quá yếu kém của các Chợ hiện nay không thật sự hiệu quả, có nhiều điểm nóng trong công tác quản lý, khai thác Chợ gây nên những tình trạng lơi lỏng quản lý dẫn đến hiện tượng cháy chợ làm thiệt hại tài sản của nhân dân. - Do các chính sách về quản lý và khai thác Chợ hiện nay không phù hợp với quy hoạch Ngành thương mại, quy hoạch mạng lưới Chợ trên địa bàn và vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ. Vì vậy cần phải có những nghiên cứu về chuyển đổi mô hình kinh doanh và quản lý chợ cho phù hợp với phát triển kinh tế của tỉnh và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài: “Giải pháp chuyển đổi mô hỡnh kinh doanh chợ trờn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” giúp giải quyết những vấn đề nêu trên. 1. 2. Vấn đề nghiên cứu. Mô hình quản lý kinh doanh và khai thác chợ hợp lý trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là mô hình nào? 1. 3. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Phải xác định được mô hình quản lý kinh doanh và khai thác chợ hợp lý trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Từ đó kiến nghị giải pháp chuyển đổi mô hình. Cụ thể phải làm những việc như sau: - Đánh giá những ưu nhược điểm về mô hỡnh quản lý kinh doanh Chợ truyền thống hiện tại ở Vĩnh Phỳc và đưa ra các quan điểm, định hướng phát triển mô hỡnh kinh doanh mới phự hợp hơn, hiệu quả hơn. - Định hướng phát triển và đổi mới mô hỡnh quản lý Chợ truyền thống trờn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xó hội, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam là thành viờn chớnh thức của WTO. - Kiến nghị một số mô hình tổ chức kinh doanh chợ và giải pháp chuyển đổi để phát triển các mô hình tổ chức kinh doanh chợ thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh của địa bàn thị trường. 1. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 1.4.1. Đối tượng: - Các mô hình quản lý kinh doanh chợ tại Vĩnh Phúc. - Các giải pháp chuyển đổi mô hình kinh doanh Chợ. 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về thời gian: Đánh giá thực trạng các mô hình tổ chức kinh doanh chợ hiện đang có đến năm 2008 ở Vĩnh Phúc. - Về không gian: Nghiên cứu các mô hình tổ chức kinh doanh chợ điển hình ở Vĩnh Phúc. 1.5. Phương pháp nghiên cứu và thu thập, xử lý dữ liệu. 1.5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu Sử dụng các nguồn dữ liệu: + Nguồn dữ liệu thứ cấp: Niên giám thống kê Vĩnh Phúc; Báo cáo về quy hoạch phát triển ngành công thương; Quy hoạch mạng lưới Chợ và Trung tâm Thương mại trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, báo cáo về phân loại Chợ Vĩnh Phúc, Bộ Thương mại … + Nguồn Dữ liệu sơ cấp: (Đi điều tra, khảo sát thực tế Chợ trên địa bàn tỉnh, sử dụng phương pháp chọn mẫu điều tra điển hình đối với các Ban quản lý Chợ ); xin ý kiến chuyên gia 1.6. Hạn chế của việc nghiờn cứu: Dự án nghiên cứu chỉ tập tung trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc nên điều kiện và các giải pháp sẽ có nhiều hạn chế khi áp dụng đối với các tỉnh khác vỡ cú điều kiện kinh tế xó hội khụng giống với Vĩnh Phỳc khi ỏp dụng dự ỏn này. 1.7. Kết luận: Từ việc nghiờn cứu về thực trạng mụ hỡnh quản lý Chợ truyền thống trờn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc sẽ đưa ra được những giải pháp chuyển đổi phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh, phự hợp với xu thế xó hội hoỏ hoạt động đầu tư, quản lý hoạt động thương mại; từ đó góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế -xó hội của tỉnh. 1.8. Nội dung đề tài: Đề tài nghiên cứu gồm 5 phần Giới thiệu Chung Phần 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiờn cứu về mụ hỡnh kinh doanh chợ. Phần 2: Thực trạng phát triển chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Phần 3: Các giải pháp và chính sách phát triển chợ,trung tâm thương mại trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. PHẦN I CÁC CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VỀ MÔ HÌNH KINH DOANH CHỢ 1.1. Một số khái niệm * Khái niệm về chợ Có nhiều cách hiểu khác nhau về chợ, nhưng có thể khẳng định rằng chợ là một loại hình thương nghiệp truyền thống. Theo cách hiểu thông thường thì chợ là nơi gặp nhau giữa người mua và người bán để trao đổi, mua bán sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Theo Nghị định số 02/2003/NĐ - CP ngày 14/3/2003 của Chính Phủ về phát triển và quản lý chợ thì khái niệm về chợ được điều chỉnh trong Nghị định này là “loại chợ mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng các nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư”. Khái niệm này đã đề cập đến tính tổ chức của chợ và yêu cầu địa điểm chợ phải được quy hoạch, mục tiêu của chợ là để đáp ứng nhu cầu hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Một cách khác, chợ có thể được hiểu là: một loại hình thương nghiệp mang tính truyền thống, một bộ phận cấu thành của thị trường xã hội, là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa những người sản xuất, người tiêu dùng và người buôn bán, với nhịp độ tương đối thường xuyên, có tính tập trung từ phạm vi làng xã đến vùng, miền rộng lớn và được tổ chức, quản lý theo quy định của Nhà nước. Chợ theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam được hiểu là một môi trường kiến trúc công cộng của một khu vực dân cư được chính quyền quy định, cho phép hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ thương nghiệp. Như vậy, dù ở góc độ nào thì khái niệm về chợ cũng bao gồm các nội dung chủ yếu là: Không gian họp chợ, thời gian họp chợ, chủ thể tham gia trao đổi mua bán trong chợ, đối tượng hàng hoá trao đổi mua bán trong chợ và các hoạt động trao đổi mua bán trong chợ. * Khái niệm về mô hình kinh doanh chợ Mô hình kinh doanh chợ trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu về mô hình tổ chức kinh doanh chợ. Mô hình kinh doanh chợ được hiểu là cơ cấu tổ chức xác lập các bộ phận chức năng hay các bộ phận cung ứng dịch vụ và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận đó để thực hiện quản lý và kinh doanh chợ. Mô hình kinh doanh chợ sẽ giúp trả lời câu hỏi: Tham gia quản lý và khai thác chợ là ai? Ai sẽ thực hiện những nhiệm vụ gì? Những hoạt động chủ yếu trên chợ là gì? Có những loại hình gì sẽ được cung cấp ở chợ, sự phối hợp giữa những bộ phận chức năng trên chợ như thế nào. Cấu trúc tổ chức của mô hình kinh doanh chợ sẽ phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như: chức năng và nhiệm vụ của doanh nghiệp chợ hay ban quản lý chợ, chiến lược phát triển chợ, quy mô chợ, trình độ và cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh chợ, tập quán kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, kết cấu hạ tầng chợ... Mô hình kinh doanh chợ sẽ quyết định phương hướng kinh doanh và đầu tư phát triển chợ, cũng như các loại hàng hoá và dịch vụ sẽ được cung cấp, các phương thức trao đổi, kinh doanh, tuyển chọn nhân sự và bố trí cán bộ quản lý đảm bảo vận hành và có hiệu quả các hoạt động kinh doanh trên chợ. 1. 2. Đặc điểm của chợ * Về chủ thể kinh doanh - Người bán Người bán ở đây có thể bao gồm người sản xuất và các thương nhân. Người sản xuất có thể trực tiếp đem sản phẩm của mình ra chợ để trao đổi mua bán với những người sản xuất khác, với người tiêu dùng cuối cùng hoặc với các người mua khác. Những người mua cũng có thể mang sản phẩm mua được để trao đổi với những người sản xuất, người tiêu dùng cuối cùng hoặc với các nhà bán lẻ khác trên chợ. Người tham gia bán hàng tại chợ không cần nhiều vốn (trừ trường hợp các chủ thể tham gia vào hoạt động bán buôn ở chợ), tuỳ theo mục đích và điều kiện của chủ thể kinh doanh mà lượng vốn được sử dụng nhiều hay ít và lượng vốn này được xem như mức tối thiểu để chủ thể có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh bán hàng tại chợ. Có hai loại chủ thể tham gia kinh doanh ở chợ bao gồm chủ thể tham gia kinh doanh thường xuyên và không thường xuyên. + Chủ thể kinh doanh thường xuyên: là các chủ thể kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời và họ coi đây là nghề nghiệp chính của họ. + Chủ thể tham gia không thường xuyên là các chủ thể tham gia bán hàng tại chợ nhằm tận dụng thời gian dư thừa, đây không phải là nghề nghiệp chính của họ. - Người mua Người mua hàng bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng và các thương nhân. Người sản xuất mua hàng để cung cấp các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất. Người tiêu dùng mua hàng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hàng hoá họ có nhu cầu ở chợ rất phong phú đa dạng về chủng loại, nhưng số lượng và quy mô không lớn. Đội ngũ thương nhân cũng tham gia vào quá trình mua bán hàng hoá trên chợ một mặt để đáp ứng nhu cầu của họ, mặt khác họ mua hàng với số lượng lớn sau đó lại đem bán lại hàng hoá để kiếm lời. * Về chủ thể quản lý Chủ thể tham gia quản lý chợ cũng đa dạng về thành phần, có thể là ban quản lý, tổ quản lý; hợp tác xã, doanh nghiệp hay liên doanh hộ gia đình. Các chủ thể quản lý chợ hiện nay ở nước ta chủ yếu là các ban quản lý (đối với các chợ quy mô lớn và vừa), tổ quản lý chợ (đối với các chợ quy mô nhỏ), và cũng có một số chợ do các doanh nghiệp chợ quản lý, họ quản lý và điều hành hoạt động của chợ theo nội quy chợ. * Về không gian họp chợ. - Chợ thường phân bố ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, nhưng ở khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa chợ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong mạng lưới phân phối hàng hoá. - Chợ ở nước ta thường được hình thành ở những khu vực có vị trí địa lý thuận tiện cho việc trao đổi, vận chuyển hàng hoá cũng như đi lại của dân cư. - Trước đây chợ thường được hình thành tự phát, không theo một quy hoạch chung, ở đâu có nhu cầu là ở đó hình thành nên chợ (chợ tạm, chợ cóc). - Không gian họp chợ cũng không đồng đều, có chợ với diện tích rất lớn như các chợ đầu mối, chợ bán buôn… nhưng cũng có những chợ chỉ cần một không gian rất nhỏ, như các chợ làng, xã, chợ cóc, chợ tạm, chợ đường cái… * Về thời gian họp chợ Khác với các hình thức phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn, ở đó thời gian hoạt động thường là tất cả các ngày trong tháng, tất cả các tháng trong năm, thậm chí có những siêu thị mở cửa 24/24, thời gian họp chợ có thể thường xuyên hoặc không thường xuyên, và thường theo một quy luật nhất định về thời gian, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Có nhiều chợ chỉ họp vào những giờ nhất định trong ngày, những ngày nhất định trong tháng hoặc trong năm. Như chợ phiên chỉ họp chợ vào một số ngày trong tháng, hoặc chợ cuối tuần chỉ họp vào ngày cuối tuần, hay như chợ đêm chỉ họp vào ban đêm. Đặc biệt, ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì chu kỳ họp chợ rất dài, thường là một tháng họp một phiên. Cá biệt, có chợ chỉ họp một phiên một năm ( ví dụ: chợ Viềng tại tỉnh Nam Định). * Về hàng hóa trao đổi, mua bán trong chợ - Chủng loại hàng hoá Chủng loại hàng hóa được trao đổi mua bán trong chợ rất đa dạng. Chợ là nơi trao đổi các sản phẩm được sản xuất ra, nhất là đối với những người sản xuất nhỏ, không tập trung. Người bán ở đây có thể là những người sản xuất, những thương nhân, họ tạo ra sản phẩm, trao đổi sản phẩm và trực tiếp đưa sản phẩm của mình ra chợ để trao đổi mua bán, với số lượng có thể nhiều hay ít, điều này hoàn toàn không có ở các siêu thị hay các trung tâm thương mại. Chính những điều này đã tạo nên sự phong phú đa dạng về chủng loại hàng hóa được lưu thông trong chợ, nhìn chung hàng hoá lưu thông qua chợ chủ yếu là hàng tiêu dùng hàng ngày và giá trị không lớn. - Chất lượng hàng hoá Hàng hóa được trao đổi mua bán ở chợ thường không đòi hỏi tiêu chuẩn cao về chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Ở nước ta, chợ thường tập trung và phân bố ở nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Đây là những vùng đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, mức sống của nhân dân còn thấp do đó nhu cầu tiêu dùng của họ không quá cao, thường là những sản phẩm chất lượng không cao, có thể nói thị trường nông thôn là một thị trường khá dễ tính. - Giá cả hàng hoá Giá cả hàng hóa lưu thông trên chợ thường có giá rẻ hơn so với giá cả của hàng hóa trong các cửa hàng, siêu thị và giá cả này có thể trao đổi, mặc cả được. Nếu như giá cả hàng hóa ở trong các cửa hàng cửa hiệu đã được ấn định, người tiêu dùng không thể mặc cả để hạ thấp giá được, thì ngược lại ở chợ người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để thỏa thuận giá cả cho đến khi thuận mua vừa bán. Chính những điều này đã làm cho chợ mang tính bình dân hơn so với hệ thống các siêu thị hay các trung tâm thương mại. * Về cơ sở vật chất của chợ - Diện tích của chợ: bao gồm diện tích khu nhà dành cho giao dịch, trao đổi mua bán hàng hoá; - Diện tích dành cho hệ thống các kho bảo quản sơ chế, đặc biệt đối với các chợ đầu mối; - Diện tích khu vực sân bãi tập kết hàng hóa, kiểm tra hàng hóa; - Diện tích khu đỗ xe, diện tích đường giao thông đi lại trong chợ…; - Hệ thống thiết bị bảo quản hàng hóa, các thiết bị đo lường kiểm tra chất lượng hàng hóa; - Các trang thiết bị phòng chống cháy nổ và vệ sinh môi trường.... 1.3. Phân loại chợ * Căn cứ vào “nơi” hay không gian địa lý, có thể phân loại chợ theo các tiêu thức sau: - Theo địa giới hành chính hay phạm vi lưu thông của hàng hoá: chợ phường, xã, chợ huyện, liên xã, liên huyện, thị tứ; thị trấn, thành phố, chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu. - Theo vùng lãnh thổ: Chợ miền núi, chợ đồng bằng, chợ ở các vùng kinh tế hay trung tâm kinh tế, hải đảo, chợ trên sông... * Căn cứ vào thời gian họp chợ: - Theo thời gian trong ngày: có các loại chợ sáng, chợ chiều, chợ đêm, chợ họp cả ngày và chợ họp cả ngày và đêm. - Theo khoảng cách thời gian giữa các lần họp chợ: chợ hàng ngày, chợ phiên, chợ mùa vụ. * Căn cứ vào hoạt động mua bán hàng hoá: - Theo loại hàng hoá chủ yếu được lưu thông qua chợ: Chợ nông sản, chợ chuyên doanh, chợ kinh doanh tổng hợp (các loại hàng hoá). - Theo tính chuyên môn hoá và phương thức được giao dịch: Chợ đầu mối (chuyên ngành, đa ngành), chợ chuyên doanh, chợ bán buôn, bán lẻ, hay chợ tổng hợp bán buôn và bán lẻ; - Theo điều kiện cơ sở vật chất của chợ: Chợ kiên cố, chợ bán kiên cố, chợ tạm, chợ cóc. * Theo Nghị định 02/NĐ-CP, căn cứ vào qui mô số điểm kinh doanh cố định: chợ hạng I có trên 400 số điểm kinh doanh cố định trên chợ, chợ hạng II có từ 200 - đến dưới 400 điểm kinh doanh cố định, chợ hạng III có dưới 200 điểm kinh doanh cố định. * Căn cứ vào phương thức giao dịch: Chợ truyền thống (giao ngay), chợ mua bán theo hợp đồng và chợ giao sau, sàn giao dịch. 1.4. Chức năng của chợ 1.4.1. Nơi thực hiện mua bán, trao đổi hàng hoá. Chợ là nơi người mua và người bán gặp nhau để trao đổi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Thông qua chợ, hàng hóa từ nơi sản xuất đến được với tiêu dùng, do đó chợ được xem như một hình thức của thị trường, ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa. Như vậy, chợ đã thực hiện chức năng làm thay đổi giá trị của hàng hóa: thay đổi hình thái giá trị hàng hóa từ tiền sang hàng và ngược lại. Nhờ có chức năng này của chợ, người bán đạt được mục đích là giá trị và người mua có được các giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu của họ. Chợ chính là nơi thừa nhận và thực hiện giá trị của hàng hóa. Chợ cũng là một dạng của thị trường, hàng hóa phải bán được trên thị trường mới được xã hội thừa nhận. Chợ là nơi thực hiện giá trị của hàng hóa thông qua các hoạt động mua bán giữa người mua và người bán, giá trị của hàng hóa và dịch vụ được thực hiện thông qua giá cả thị trường trên cơ sở giá trị sử dụng của chúng được thừa nhận. 1.4.2. Tạo giá trị gia tăng cho hàng hóa. Ngoài chức năng là nơi thực hiện giá trị của hàng hóa, chợ còn có chức năng góp phần tạo ra giá trị gia tăng của hàng hóa. Hàng hóa được bày bán ở chợ là hàng hóa đã được vận chuyển từ nơi sản xuất đến với người tiêu dùng, nó đã được giữ gìn bảo quản giá trị sử dụng của hàng hóa và đã được phân loại, đóng gói, bao bì, chuẩn bị sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng… Như vậy, thông qua các công đoạn này, giá trị hàng hoá trao đổi được tăng thêm hay nói cách khác hàng hóa đã có thêm giá trị gia tăng trước khi đến người tiêu dùng cuối cùng. 1.4.3. Tập trung hàng hóa. Chợ là nơi tập trung các sản phẩm được sản xuất ra của các địa phương, của các hộ gia đình, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ để đem ra tiêu thụ. Chợ được xem như một kênh phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Người bán tập trung hàng hóa ở chợ để thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hóa. Chức năng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với người mua và bán hàng hoá trong điều kiện nền sản xuất nhỏ, manh mún, thiếu tập trung. 1.4.4. Phát tín hiệu thị trường. Chợ là nơi có khả năng phản ánh tổng hợp nhiều mối quan hệ kinh tế thông qua mua bán, trao đổi hàng hoá, nó chứa đựng thông tin đa dạng về nhiều mặt. Chợ cung cấp các thông tin về cung cầu đối với các loại hàng hoá: tổng cung, tổng cầu và cơ cấu; về hàng hóa: chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã…; về khách hàng: khả năng thanh toán, thu nhập, sở thích, thị hiếu, thói quen tiêu dùng…Chợ cũng cung cấp các thông tin về đối thủ cạnh tranh, về chi phí và giá cả. Những thông tin này không chỉ cần thiết cho người sản xuất, người tiêu dùng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế. 1.4.5. Nâng cao hiệu quả phân phối sản phẩm Chợ được xem như một kênh phân phối hàng hóa quan trọng, đặc biệt đối với hàng hóa từ các nguồn sản xuất nhỏ, phi tập trung, gồm nhiều người sản xuất như hàng nông sản, hàng thủ công, hàng tiêu dùng thông thường. 1.4.6. Cung cấp các dịch vụ Chợ là nơi cung cấp các loại hình dịch vụ hỗ trợ hoạt động trao đổi mua bán tại chợ. Tuỳ theo quy mô và trình độ phát triển của chợ mà các dịch vụ được cung ứng tại chợ cũng khác nhau về số lượng và chất lượng. Chợ có quy mô càng lớn và hiện đại, tính chuyên môn hoá càng cao thì các dịch vụ được cung ứng tại chợ càng đa dạng và chất lượng dịch vụ đòi hỏi càng cao. Các dịch vụ được cung ứng tại chợ bao gồm các dịch vụ chủ yếu sau: - Dịch vụ vệ sinh môi trường; - Dịch vụ trông coi phương tiện vận tải; - Dịch vụ giám định chất lượng hàng hoá; - Dịch vụ vận tải, giao nhận hàng hoá; - Dịch vụ môi giới mua bán hàng hoá; - Dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin về giá cả thị trường hàng hoá; - Dịch vụ ngân hàng, thanh toán, dịch vụ chuyển tiền. 1.4.7. Tạo ra giá trị cộng đồng và xã hội Chợ tạo ra các giá trị sinh hoạt cộng đồng và xã hội thông qua vai trò và chức năng của chợ. Chợ không những là nơi gặp gỡ, giao lưu trực tiếp giữa người mua và người bán để trao đổi mua bán hàng hoá, chợ còn là nơi mọi người có thể giao tiếp qua lại với nhau, nơi tổ chức hội hè, vui chơi, giải trí. Đặc biệt, ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa giá trị văn hoá cộng đồng của chợ càng được bộc lộ đầy đủ và mang ý nghĩa sâu sắc. 1. 5. Vai trò của chợ. 1.5.1. Đối với đời sống của dân cư. Chợ không chỉ là nơi gặp nhau giữa người mua và người bán để trao đổi sản phẩm, hàng hóa, ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, bên cạnh các giá trị kinh tế, chợ còn có các giá trị tinh thần và xã hội to lớn. Chợ là nơi giao lưu gặp gỡ của mọi người, nơi tổ chức các lễ hội truyền thống, vui chơi, giải trí... Chợ có ý nghĩa rất to lớn đối với đời sống kinh tế, xã hội của dân cư. Thông qua chợ, nhiều nhu cầu của đời sống con người được thỏa mãn, kể cả nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, sinh hoạt vật chất hay tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư. Cũng thông qua chợ một số tầng lớp dân cư có thêm thu nhập và có thêm việc làm... Tóm lại, chợ có vai trò to lớn đối với đời sống dân cư, là nơi phân phối hàng hóa đến với mọi tầng lớp dân cư đặc biệt là khu vực nông thôn, miền núi. Qua chợ mọi người đều có thể thoả mãn được nhu cầu của mình, đó có thể là nhu cầu sản xuất, nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần. 1.5.2. Đối với phát triển kinh tế - Chợ đóng vai trò quan trọng trong khâu lưu thông, là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với tiêu dùng. - Chợ là một trong những kênh quan trọng của quá trình lưu thông hàng hoá, do đó đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. - Chợ là nơi góp phần thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng của người lao động, do vậy chợ có vai trò quan trọng đối với tái sản xuất sức lao động xã hội. - Chợ mang lại nguồn thu trực tiếp cho ngân sách, thông qua việc khai thác quản lý chợ để thu các khoản thu như thuế và các loại lệ phí chợ. - Chợ là nơi thu thập và xử lý các thông tin mang tính thời sự về kinh tế - xã hội, cung cấp các tín hiệu thị trường quan trọng như giá cả, tình hình cung, cầu… Đây là những nguồn thông tin quan trọng giúp cho các nhà quản lý và sản xuất hàng hoá trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.5.3. Đối với đời sống văn hóa - chính trị - xã hội. - Chợ mang tính truyền thống, tính văn hóa cao: Mặc dù không phải là nơi quyết định bộ mặt của nền kinh tế - xã hội nhưng chợ lại là nơi phản ánh trình độ kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của dân cư địa phương. - Chợ là nơi thể hiện, gìn giữ, phát huy văn hóa truyền thống, bản sắc dân tộc. Đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, chợ là nơi lễ hội, giao lưu gặp gỡ duy nhất của họ. Tính văn hoá của chợ được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau như văn hoá ẩm thực, văn hoá giao tiếp, thông tin cộng đồng. - Chợ đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cho nhiều người. Chợ là nơi thu hút hoạt động của một số lượng lớn những người tham gia kinh doanh, chợ đã tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho số lao động dôi dư, lao động mùa vụ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Gắn với vai trũ về phỏt triển kinh tế Ngoài ra, chợ cũng tạo ra một bộ phận thương nhân có tính chuyên nghiệp cao góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội. Đồng thời, sự phát triển của mạng lưới chợ ở nông thôn còn có vai trò quan trọng đối với nâng cao thu nhập của dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Gắn với vai trũ về phỏt triển kinh tế 1.5.4. Đối với cấu trúc thị trường nội địa Trong Nghị định 02/ 2003/ NĐ- CP, nội dung quy hoạch và phát triển chợ đã xác định: chợ là một bộ phận quan trọng trong tổng thể kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; từ nay trở đi Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ của địa phương phải bao gồm quy hoạch phát triển chợ. Cũng theo Chỉ thị số 13/2004/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/3/2004 cũng đã xác định rằng để khắc phục các yếu kém và bất cập của hoạt động thương mại trên thị trường nội địa thì một trong các nhiệm vụ phải làm đó là hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa bao gồm: chợ, trung tâm thương mại (bán buôn, bán lẻ hàng hóa), siêu thị và mạng lưới các cửa hàng phù hợp và đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất, tiêu dùng của nhân dân trên từng địa bàn. Như vậy, chợ đã được coi là một phần của kết cấu hạ tầng thương mại, là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc thị trường nội địa. 1. 6. MỘT SỐ MÔ HÌNH KINH DOANH CHỢ 1.6.1. Hợp tác xã chợ - Theo Luật Hợp tác xã năm 2003, "Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật". - Phương thức đầu tư chủ yếu là: + HTX đứng ra huy động vốn của xã viên để đầu tư xây dựng và quản lý chợ; + Địa phương huy động vốn để đầu tư xây dựng chợ hoặc nhà nước xây dựng chợ rồi giao cho HTX quản lý; + HTX đấu thầu kinh doanh chợ. Chủ nhiệm HTX Các phó chủ nhiệm HTX Kế toán, thủ quỹ Các tổ quản lý: vệ sinh, bảo vệ, PCCC, thu phí… - Mô hình HTX chợ với cơ cấu tổ chức đơn giản, mỗi HTX chỉ có 1 chủ nhiệm và từ 1-2 phó chủ nhiệm, 1 kế toán, 1 thủ quỹ và nhân viên quản lý chợ. Cụ thể về cơ cấu tổ chức của mô hình này như sau: - Quản lý kinh doanh chợ: HTX có trách nhiệm quản lý, kinh doanh và khai thác chợ với các nội dung cụ thể sau: + Tổ chức kinh doanh các hoạt động tại chợ. + Bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ. + Xây dựng nội quy chợ theo quy định tại điều 10 của Nghị định 02 để trình UBND cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ. + Bố trí, sắp xếp các khu vực kinh doanh bảo đảm các yêu cầu về trật tự, vệ sinh, văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh tại chợ. + Ký hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. + Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước. - Ưu điểm của mô hình HTX chợ So với hình thức tổ chức theo mô hình ban quản lý chợ hay tổ quản lý chợ em đã nói tới 2 mô hình này đâu mà so sánh ở đây thì mô hình HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ có nhiều ưu điểm như: do tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính nên mô hình HTX tổ chức kinh doanh khai thác và quản lý chợ hoạt động năng động hơn, hiệu quả hơn, huy động được nhiều nguồn lực của xã viên trong việc tổ chức, quản lý khai thác (kể cả nguồn lực tài chính để xây dựng chợ), giảm bớt gánh nặng cho nhà nước vì không tăng biên chế quản lý cũng như quỹ lương, bổ sung nguồn vốn để xây dựng chợ. Các hoạt động dịch vụ trong các chợ cũng được mở rộng hơn, góp phần giải quyết một số lao động dôi dư trên địa bàn. - Nhược điểm của mô hình HTX chợ Cơ cấu tổ chức đơn giản đôi khi dẫn đến tình trạng không thể nắm bắt và giải quyết được các vấn đề phát sinh trong hoạt động quản lý chợ. Nguồn vốn của các HTX nhỏ bé, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều này ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTX. Trên thực tế, kinh doanh chợ có thể chỉ là một mảng hoạt động của hợp tác xã, vì vậy nếu tính chuyên nghiệp và chuyên môn hoá không cao thì hoạt động quản lý và kinh doanh chợ khó có thể đạt được hiệu quả. 1.6.2. Doanh nghiệp chợ Theo Nghị Định 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 1 năm 2003, doanh nghiệp kinh doanh chợ là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. - Về cơ cấu tổ chức, bao gồm: giám đốc (hoặc là chủ tịch hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần, hoặc là tổng giám đốc đối với các công ty mẹ và công ty con), các phó giám đốc (phó chủ tịch hội đồng quản trị, phó tổng giám đốc). Dưới giám đốc và phó giám đốc là các phòng ban như: Phòng kinh tế kế hoạch, phòng tổ chức hành chính, phòng kinh doanh, phòng kế toán tài chính...., số lượng các phòng, ban này tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Giám đốc Phó Giám đốc P. Kinh doanh Phòng tổ chức hành chính Phòng kế toán - Quản lý kinh doanh chợ: Doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ có trách nhiệm thực hiện các nội dung sau: + Tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ. + Bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ. + Xây dựng nội quy chợ theo quy định tại Điều 10 của Nghị Định 02 để trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ, tổ chức điều hành hoạt động theo nội quy chợ và xử lý các vi phạm về nội quy chợ. + Bố trí, sắp xếp các khu vực kinh doanh đảm bảo các yêu cầu về trật tự, vệ sinh, văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh tại chợ. + Ký hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật + Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng. + Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại. - Ưu điểm của mô hình doanh nghiệp chợ Mô hình doanh nghiệp chợ có ưu điểm là năng động hơn so với mô hình ban quản lý, huy động được vốn nhanh hơn, quản lý và kinh doanh chợ có hiệu quả hơn do có cơ cấu tổ chức hợp lý với đội ngũ cán bộ nhân viên có chuyên môn làm việc có hiệu quả cao. Bên cạnh đó, do cơ chế tự chủ về tài chính, tự hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp nên doanh nghiệp phải có kế hoạch kinh doanh sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Các hoạt động dịch vụ trong các chợ cũng được mở rộng hơn, góp phần giải quyết một số lao động dôi dư trên địa bàn. Cơ sở vật chất của chợ cũng được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho người lao động hoạt động ở chợ. Có tư cách pháp nhân, thuận lợi cho việc vay vốn để đầu tư xây dựng và phát triển chợ. - Nhược điểm của mô hình doanh nghiệp chợ Mô hình doanh nghiệp chợ thường áp dụng với các chợ có quy mô lớn, còn đối với các chợ nhỏ, chợ ở các vùng còn nhiều khó khăn như vùng núi, vùng sâu, vùng xa thường không thu hút được các doanh nghiệp đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ. 1.6.3. Mô hình ban quản lý chợ Theo Nghị định số 02/2003/NĐ - CP ngày 14/1/2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ, ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng tại kho bạc nhà nước. Đây là mô hình quản lý chợ truyền thống, phổ biến đối với hầu hết các loại chợ hiện nay ở Việt Nam. * Cơ cấu tổ chức: Có 1 trưởng ban và có từ 1-2 phó trưởng ban. * Chức năng, nhiệm vụ của ban quản lý chợ Chức năng quản lý nhà nước về chợ: ban quản lý chợ phải xây dựng các cơ chế, quy chế hoạt động của chợ ph._.ục vụ cho công tác quản lý và kinh doanh tại chợ. Các công cụ được sử dụng là: kinh tế, hành chính, kỹ thuật, tuyên truyền vận động… để điều hành, tổ chức, kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm bảo đảm cho các hoạt động đó diễn ra một cách an toàn, hiệu quả, có kỷ cương, văn minh theo đúng các quy định của nhà nước. Chức năng kinh doanh khai thác chợ: ban quản lý chợ có chức năng khai thác các hoạt động và các điểm kinh doanh tại chợ để thu hồi vốn đầu tư xây dựng chợ, bảo toàn các tài sản của nhà nước và mang lại lợi nhuận tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Chức năng hoạch định chiến lược phát triển chợ: Ban quản lý chợ có chức năng tư vấn, đề xuất hoặc phối hợp với nhà nước để hoạch định các chiến lược phát triển chợ cho phù hợp với đòi hỏi của tiến trình phát triển kinh tế – xã hội địa phương. - Ưu điểm của mô hình ban quản lý chợ Với mô hình này, nhà nước có thể can thiệp để điều tiết các hoạt động quản lý chợ. Có thể giải quyết các vấn đề phát sinh tại chợ nhanh chóng. - Nhược điểm của mô hình ban quản lý chợ Do cơ chế không tự chủ về tài chính nên mô hình này không phát huy được tính chủ động, sáng tạo cũng như chưa phát huy được hiệu qủa hoạt động của đội ngũ nhân viên tham gia quản lý chợ làm cho hiệu quả của công tác quản lý chợ không cao. Cơ cấu tổ chức còn mang nặng tính chất của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp theo cơ chế cũ, không năng động và nhanh nhậy với những vấn đề phát sinh. Hiệu quả của công tác quản lý, kinh doanh và khai thác các công năng của chợ còn thấp. Ngoài ra, một trong những nhược điểm của các ban quản lý đó là những khó khăn về vốn do chưa đủ tư cách pháp nhân để vay vốn cho đầu tư xây dựng chợ hoặc xin cấp kinh phí để sữa chữa, đầu tư nâng cấp chợ 1. 7. Nhân tố ảnh hưởng đến mô hình kinh doanh chợ. 1.7.1. Quy mô và tính chất các loại chợ Quy mô và tính chất các loại chợ sẽ có ảnh hưởng quyết định đến phương thức kinh doanh, tổ chức quản lý, cơ cấu bộ máy, các bộ phận chức năng và các dịch vụ sẽ được cung cấp qua chợ. Việc tổ chức và quản lý chợ một cách có hiệu quả tuỳ thuộc rất lớn vào tầm nhìn và định hướng phát triển chợ trong tương lai của các cơ quan có thẩm quyền. Đối với quá trình hình thành và phát triển mô hình kinh doanh chợ, nhân tố tổ chức, quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, chi phối hầu hết các phương diện phát triển của chợ, cũng như quyết định các bộ phận chức năng trong bộ máy kinh doanh chợ, các dịch vụ sẽ được cung ứng trên chợ và mối quan hệ giữa các bộ phận chức năng của chợ. 1.7.2. Công nghệ quản lý chợ. Đây là nhân tố kỹ thuật để quản lý chợ. Công nghệ quản lý chợ càng hiện đại thì càng tạo điều kiện tốt cho quản lý chợ; Nhà quản lý chợ dù tài giỏi nhưng nếu như không áp dụng công nghệ quản lý chợ phù hợp thì rất khó có thể thành công trong công tác quản lý. Công nghệ quản lý ở đây được xem như là công cụ cho các nhà quản lý thực hiện thành công mục tiêu của quản lý. Công nghệ quản lý bao gồm các nhân tố: Hệ thống máy móc thiết bị (hệ thống máy tính để kiểm tra và kiểm soát nguồn hàng hoá lưu thông trên chợ); Hệ thống các phần mềm để nhập các dữ liệu về hàng hoá cũng như các phần mềm kế toán quản lý hệ thống tài chính. 1.7.3. Trình độ của người tham gia quản lý chợ. Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, trình độ của người tham gia quản lý chợ có vai trò quyết định đến hiệu quả của công tác quản lý. Nhân tố này có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phát triển chợ, góp phần thúc đẩy sự phát triển của chợ theo mục tiêu đề ra. Thực tế cho thấy, trình độ của người tham gia quản lý chợ ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa ở nước ta hiện nay còn nhiều non yếu. Cán bộ tham gia vào quá trình quản lý trước đây đa số được điều động từ các ngành khác, chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ. 1.7.4. Điều kiện tự nhiên và không gian địa lý của địa bàn chợ Thực tế cho thấy, chợ thường được hình thành và phát triển ở những nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Các điều kiện tự nhiên chủ yếu bao gồm: địa hình, vị trí địa lý đảm bảo sự thuận tiện về giao thông, sự dồi dào về nguồn cung ứng sản phẩm hàng hoá cho lưu thông (đặc biệt đối với các chợ đầu mối). Ngoài các điều kiện tự nhiên, việc xác định vị trí không gian hay địa điểm cụ thể của chợ còn tuỳ thuộc vào sự phân bố và mật độ dân cư. Không gian địa lý cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của chợ. Vị trí càng thuận lợi, chợ càng có điều kiện để phát triển. Ở những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vị trí địa lý khó khăn và điều kiện giao thông không thuận lợi thường khó có điều kiện để phát triển chợ. Chính những điều kiện để hình thành các loại chợ ở những khu vực địa lý khác nhau với quy mô và trình độ khác nhau cũng sẽ quyết định đến mô hình kinh doanh chợ. 1.7.5. Điều kiện kinh tế Quá trình phát triển kinh tế - xã hội tạo ra cơ sở kinh tế cho chợ và có vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển của chợ trên nhiều phương diện khác nhau như: quy mô của chợ, dung lượng và cơ cấu mặt hàng lưu thông qua chợ, phẩm cấp và chất lượng hàng hoá lưu thông qua chợ... Sự phát triển sản xuất, lưu thông và tiêu dùng là cơ sở trực tiếp hình thành và phát triển chợ. Quá trình phát triển sản xuất nói chung tạo ra nguồn hàng cung ứng cho các chợ, đặc biệt đối với các chợ đầu mối nông sản thì quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp sẽ là cơ sở nguồn hàng cung cấp cho các chợ này. Ngày nay, trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa nói chung, các phương thức kinh doanh chủ yếu được áp dụng bao gồm: Mua bán trực tiếp giữa các cá nhân (người sản xuất với người tiêu dùng, người sản xuất với thương nhân và thương nhân với người tiêu dùng), phương thức kinh doanh qua mạng, phương thức kinh doanh theo hợp đồng (giao sau)… 1.7.6. Các điều kiện xã hội Điều kiện xã hội cũng có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phát triển của chợ cũng như mô hình kinh doanh chợ. Các điều kiện xã hội bao gồm: Sự phân bố dân cư, quy mô dân số và cơ cấu dân số theo nghề nghiệp, trình độ dân trí, các phong tục tập quán và các điều kiện sinh hoạt văn hóa, giải trí của các tầng lớp dân cư, trình độ đô thị hóa trong vùng... Thực tế cho thấy, chợ ở các vùng nông thôn, vùng núi vùng sâu vùng xa vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển hơn rất nhiều (về cơ sở vật chất, quy mô chợ cũng như chủng loại và chất lượng hàng hóa trên chợ) so với các chợ ở khu vực thành thị, các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm. Trình độ dân trí, phong tục tập quán và các điều kiện sinh hoạt văn hóa giải trí của các tầng lớp dân cư cũng là một trong những cơ sở hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh trên chợ, kể cả kiểu dáng kiến trúc của công trình chợ. Ở các khu đô thị, các khu vực có trình độ dân trí cao, chợ thường được phát triển theo hướng kiên cố hóa và hiện đại hoá. 1. 8. Một số bài học kinh nghiệm có thể áp dụng đối với Vĩnh Phúc. Qua tham khảo mô hình quản lý và kinh doanh thực tiễn Chợ Tại Trung Quốc và Thái Lan (nguồn .........), những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng mô hình đối với Vĩnh Phúc như sau: * Về mô hình chợ quy mô lớn nói chung và chợ bán buôn nông sản nói riêng. + Cơ sở vật chất được đầu tư tương xứng với vai trò và quy mô của chợ. Chẳng hạn như đối với chợ đầu mối nông sản: Cơ sở hạ tầng hoàn thiện, hệ thống đường giao thông trong chợ rộng thoáng, vấn đề an ninh được đảm bảo, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống cháy nổ cũng được chú trọng, trang bị hệ thống máy móc hiện đại để phục vụ công tác kiểm tra hàng hoá,... + Chủ thể tham gia quản lý kinh doanh khai thác chợ là các doanh nghiệp đứng ra đảm nhiệm. + Mô hình tổ chức theo mô hình công ty chợ. + Vốn đầu tư cho xây dựng chợ: Đối với các chợ lớn, vốn đầu tư xây dựng chợ chủ yếu là do doanh nghiệp đóng góp, Chính phủ chỉ hỗ trợ một phần vốn về cơ sở như hệ thống thoát nước, khu vực điện, hạ tầng công công, hệ thống xử lý rác thải. + Cơ cấu tổ chức của chợ: Gồm có các phòng, ban, các trung tâm quản lý. + Phương pháp quản lý chợ: Giám sát và quản lý theo các nội quy, quy tắc hoạt động trong chợ. + Nội dung quản lý chợ: Quản lý tất cả các hoạt động mua bán diễn ra trong chợ; Quản lý các vấn đề an ninh, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống cháy nổ; Quản lý và kiểm tra hàng hoá, quản lý các dịch vụ trong chợ; Quản lý các phương tiện trong chợ; Quản lý hành chính,... * Về mô hình chợ bán lẻ tổng hợp: + Cơ sở vật chất của chợ cũng được đầu tư nâng cấp cơ bản. + Chủ thể tham gia quản lý chợ: phần lớn là do cán bộ xã (phường),... quản lý. + Vốn đầu tư xây dựng chợ: Chủ yếu là vốn NSNN (Trung ương, Địa phương) và một phần do người tham gia kinh doanh đóng góp. + Phương pháp quản lý chợ: Thường xuyên giáo dục tuyên truyền đối với quần chúng, đối với người tiêu dùng và với nhân viên phục vụ khách hàng. + Nội dung quản lý chợ: Quản lý nhân viên, quản lý hàng hoá, quản lý vệ sinh môi trường và quản lý và xử lý các vấn đề phát sinh. * Kinh nghiệm đối với quản lý Chợ tại Vĩnh Phúc: Mô hình quản lý kinh doanh và khai thác chợ của các nước chủ yếu là mô hình doanh nghiệp do tính ưu việt của mô hình này mang lại. Đối với Vĩnh Phúc, có thể kết hợp áp dụng mô hình doanh nghiệp và mô hình hợp tác xã tuỳ theo loại hình chợ. Đối với các chợ lớn, vốn đầu tư cho xây dựng chợ, kinh doanh khai thác chợ chủ yếu là vốn của doanh nghiệp và của nhân dân đóng góp. Ngân sách tỉnh chỉ hỗ trợ một phần nào đó, từ đó mới phát huy được tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với các chợ nhỏ, chợ ở vùng sâu vùng xa,… vốn đầu tư xây dựng chợ chủ yếu là nguồn ngân sách tỉnh. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho hệ thống các chợ, đặc biệt là ở nông thôn, từng bước kiên cố hoá để tiến tới hiện đại hoá cho hệ thống chợ, xây dựng chợ văn minh hiện đại và phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của Vùng kinh tế trong điểm 8 tỉnh Bắc Bộ (trong đó Vĩnh Phúc là thành viên). 1.9. Kết luận: từ các mô hình kinh doanh và quản lý Chợ Truyền thống được thiết lập ở nước ta và một số nước đã nêu ở trên, vấn đề về nhận thức, phương án kinh doanh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút các nhà đầu tư vào quản lý Chợ. Mặt khác, từ mô hình mới này thấy được sự hiệu quả trong quản lý và kinh doanh, đảm bảo an toàn cho các hộ dân kinh doanh, an toàn vệ sinh môi trường, tăng ngân sách cho nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội văn minh hiện đại, giữ được nét đẹp truyền thống văn hoá Chợ PHẦN THỨ II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHỢ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC 1. Đặc điểm và phân loại chợ 1.1. Những đặc điểm chủ yếu của mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh 1.1.1. Đặc điểm hình thành chợ Đặc điểm nổi bật của mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là vị trí của các chợ thường gắn liền với các khu dân cư tập trung và các trục giao thông, đáp ứng nhu cầu mua bán hàng ngày của dân cư và thuận tiện cho việc giao thương, vận chuyển hàng hoá. Phần lớn chợ trong tỉnh hình thành từ khá lâu, gắn liền với lịch sử ra đời của các chợ làng, chợ xã. Chợ xã ra đời trước hết là để phục vụ cho sinh hoạt trong xã, sau này một số chợ đã dần phát triển thành chợ của nhiều xã và thậm chí trở thành trung tâm buôn bán của một vùng rộng lớn, có phạm vi ảnh hưởng ra ngoài tỉnh. Những năm gần đây, cùng với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, việc hình thành hệ thống chợ trên địa bàn cũng gắn liền với quá trình đô thị hoá, quá trình thực hiện qui hoạch các khu dân cư, các cụm công nghiệp, cụm thương mại dịch vụ và các trung tâm cụm xã. Quá trình hình thành hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cũng gắn liền với truyền thống buôn bán của dân cư. Với kinh nghiệm được đúc kết từ lâu đời cùng với khả năng nhạy bén trong kinh doanh, từ lâu các thương nhân ở Vĩnh Phúc đã biết khai thác và phân phối nguồn hàng nhằm thu lợi nhuận và từ đó hình thành khu vực bán sầm uất, với số lượng thương nhân đông đảo. Họ cũng là những tác nhân quan trọng trong quá trình hình thành chợ. Thông qua hoạt động tổ chức thu mua, chế biến và chuyên chở hàng hoá của giới buôn bán mà hình thành các điểm thu mua, phát luồng hàng hoá đi trong và ngoài tỉnh. Đặc điểm thứ ba trong quá trình hình thành chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc gắn liền với tiềm năng sản xuất nông nghiệp và sự phát triển của các vùng sản xuất hàng hoá. Cùng với sự hình thành của các làng nghề tập trung hay các vùng sản xuất các loại cây con đặc sản là sự hình thành của các chợ chuyên bán một số loại sản phẩm của vùng đó như chợ hoa, chợ giống cây trồng, vật nuôi… 1.1.2 Đặc điểm trao đổi hàng hoá qua mạng lưới chợ Về các hàng hoá trao đổi chính: các loại hàng hoá chủ yếu được trao đổi trên địa bàn tỉnh nói chung và qua mạng lưới chợ nói riêng là thực phẩm tươi sống, nông sản khô, thực phẩm công nghệ, hàng tạp hoá và may mặc. Các mặt hàng xa xỉ phẩm, điện tử điện lạnh, kim khí điện máy thường được mua bán ở các của hàng riêng trên mặt phố, bên ngoài chợ hoặc các loại hình thương mại hiện đại hơn. Về qui mô và phạm vi trao đổi: Phần lớn các chợ hình thành để phục vụ nhu cầu trao đổi của dân cư trong phạm vi hẹp (làng, xã), bên cạnh đó có một số chợ có phạm vi ảnh hưởng rộng (huyện, liên huyện và tỉnh). Mặt khác, cùng với sự phát triển và lớn mạnh của cộng đồng dân cư, sức mua và quy mô trao đổi hàng hoá cũng như tiềm lực của đội ngũ thương nhân, một số chợ không đơn thuần giới hạn trong nội bộ vùng mà lan toả ra các địa bàn trong và ngoài tỉnh. (chợ thành phố Vĩnh Yên, chợ hoa Mê Linh, chợ Thổ Tang…). Các đối tượng tham gia trao đổi: Đối tượng chủ yếu tham gia trao đổi hàng hoá trên chợ là người tiêu dùng, người sản xuất trên địa bàn. Ngoài ra, tại những chợ lớn, chợ đầu mối có đội ngũ thương nhân trong và ngoài tỉnh thực hiện các hoạt động thu gom, tích trữ và phát luồng hàng hoá đến các thị trường tiêu thụ bên ngoài. 1.2. Phân loại chợ Theo số liệu tổng hợp của phiếu điều tra trực tiếp năm 2006, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 67 chợ đã quy hoạch. Phân bố chợ theo địa bàn các huyện, thị như sau: thị xã Phúc Yên 3 chợ, thành phố Vĩnh Yên 4 chợ, huyện Lập Thạch 18 chợ, huyện Bình Xuyên 7 chợ, huyện Tam Đảo 5 chợ, huyện Tam Dương 5 chợ, huyện Vĩnh Tường 12 chợ và huyện Yên Lạc 5 chợ. Ngoài ra, chưa kể rất nhiều chợ cóc, chợ tạm (39 chợ – niên giám thống kê Vĩnh Phúc) hình thành tự phát ở hầu hết các địa bàn trong tỉnh. Việc phân loại và phân tích hiện trạng phát triển chợ dựa trên kết quả của điều tra trực tiếp tiến hành năm 2006. Chợ được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, cụ thể như sau: 1.2.1. Phân loại chợ theo năm thành lập Phần lớn các chợ của tỉnh được hình thành trước năm 1975. Trong tổng số 67 phiếu điều tra, có 5 phiếu không trả lời về năm thành lập chợ. Trong 62 chợ còn lại, có 37 chợ được thành lập trước 1975, chiếm 59,7 %; 11 chợ thành lập trong giai đoạn 1985 - 1995 và 7 chợ trong giai đoạn 1975 - 1985. Từ năm 1995 đến nay, chỉ có 7 chợ mới thành lập, chiếm 11,29 %. Bảng 1: Phân loại chợ theo năm thành lập Chỉ tiêu Huyện/thị Tổng số Năm thành lập Trước 1975 1975 - 1985 1985 - 1995 1995 đến nay Ko trả lời 1. Thị xã Phúc Yên 3 2 1 2. Huyện Lập Thạch 18 10 1 4 2 1 3. Huyện Bình Xuyên 7 4 1 1 0 1 4. Huyện Tam Đảo 5 0 0 4 0 1 5. TP. Vĩnh Yên 4 0 1 2 1 6. Huyện Tam Dương 5 4 1 0 0 7. Huyện Vĩnh Tường 12 8 1 0 3 8. Huyện Yên Lạc 5 3 1 0 0 1 Toàn tỉnh 59 31 7 11 6 4 Chợ khụng trả lời: Chợ Lôi (Lập Thạch); Chợ Nội (Bỡnh Xuyờn); Chợ Minh Quang (Tam Đảo); Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. Những chợ xây dựng trước năm 1975 tập trung nhiều ở huyện Lập Thạch (10 chợ), huyện Vĩnh Tường (8 chợ). Một số huyện thị không có chợ xây mới trong giai đoạn từ 1985 đến nay là thị xã Phúc Yên, huyện Tam Dương và huyện Yên Lạc. Như vậy, có thể thấy, việc phát triển chợ mới trong thời gian gần đây diễn ra khá chậm chạp. Mạng lưới chợ được hình thành từ khá lâu đã có nhiều biểu hiện không phù hợp với qui mô dân số, với nhu cầu tiêu dùng của sản xuất và dân cư ngày càng tăng đã dẫn đến tình trạng quá tải ở một số chợ, sự không đảm bảo về các điều kiện về văn minh thương mại hay các yêu cầu về vệ sinh môi trường trên chợ…. Điều này cũng phần nào lý giải về sự hình thành tự phát của các chợ cóc chợ tạm. 1.2.2. Phân loại chợ theo vị trí hình thành Toàn tỉnh Vĩnh Phúc có 27 chợ nằm ven đường giao thông và 49 chợ nằm ở các khu dân cư tập trung, chiếm 87,7%. Trong khi đó, chỉ có 4 chợ ở gần bến xe và 6 chợ ở ven sông. Bảng 2: Phân loại chợ theo vị trí hình thành Chỉ tiêu Huyện, thị Thị tứ Ven đường GT Khu dân cư tập trung Gần bến xe Ven sông 1. Thị xã Phúc Yên 1 1 3 1 0 2. Huyện Lập Thạch 4 8 13 2 5 3. Huyện Bình Xuyên 1 4 6 0 0 4. Huyện Tam Đảo 1 2 3 0 0 5. Thành phố Vĩnh Yên 1 3 4 0 0 6. Huyện Tam Dương 0 4 5 0 0 7. Huyện Vĩnh Tường 0 3 11 1 1 8. Huyện Yên Lạc 3 2 4 0 0 Toàn tỉnh 12 27 49 4 6 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. Qua điều tra, có thể thấy, sự phát triển của các tuyến giao thông ®­êng bé và viÖc hỡnh thành cỏc khu dõn cư mới của tỉnh đó và sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu và khả năng hỡnh thành các chợ mới. Những đặc điểm này cần phải được tính đến trong việc quy hoạch m¹ng l­íi chợ trong tương lai. 1.2.3 Phân loại chợ theo tính chất kinh doanh và lịch họp chợ - Phân loại theo tính chất kinh doanh Trong số 63/67 chợ trả lời câu hỏi này, chợ bán lẻ trên địa bàn tỉnh chiếm tỉ trọng lớn với 37 chợ, tương ứng 58,7%; có 25 chợ vừa bán buôn, vừa bán lẻ, chiếm 39,7% - đây là tỉ lệ khá lớn so với các địa phương khác. Một số huyện có tỷ lệ chợ bán buôn, bán lẻ cao hơn mức chung của tỉnh là: huyện Bình Xuyên 57,1%, huyện Lập Thạch 38,8%, Thị xã Phúc Yên 66,7%. Trên địa bàn tỉnh có xã Thổ Tang - một địa danh khá nổi tiếng về hoạt động bán buôn hàng hoá (chủ yếu là nông sản). Với truyền thống và kinh nghiệm buôn bán từ lâu đời, các hộ tư thương xung quang khu vực chợ Giang là các chủ đầu mối thu gom và phát luồng hàng không chỉ trên địa bàn tỉnh. Hàng hoá được tập kết cả từ các tỉnh miền núi phía Bắc và phát luồng cả tới các tỉnh phía Nam. Tuy nhiên, do chưa có địa điểm họp chợ riêng biệt nên hoạt động thu gom, sơ chế, vận chuyển hàng hoá gây nên tình trạng ùn tắc giao thông, mất vệ sinh và mất mỹ quan ở khu vực chợ Giang. Việc xây dựng một chợ đầu mối bán buôn nông sản với các chức năng bảo quản, phân loại, sơ chế hàng hoá, cung cấp các dịch vụ vận chuyển, thông tin, bảo hiểm, ngân hàng, tín dụng…. sẽ tạo thuận lợi cho doanh nhân phát triển và cải thiện điều kiện kinh doanh là vô cùng cần thiết. - Phân loại theo lịch họp chợ Tỷ lệ chợ phiên trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn khá lớn, tới 41/63 chợ trả lời khảo sát, tương ứng 65,07%. Những huyện thị có nhiều chợ phiên là huyện Lập Thạch (16/18 chợ), Tam Đảo (4/5 chợ), huyện Tam Dương (5/5). Chợ họp theo phiên thể hiện rõ tập quán sinh hoạt của người dân nông thôn. Bảng 3: Phân loại chợ theo tính chất kinh doanh và lịch họp chợ Chỉ tiêu Huyện thị Tổng số Theo tính chất kinh doanh Theo lịch họp chợ Bán lẻ Bán buôn, bán lẻ Bán buôn Hàng ngày Chợ phiên 1. Thị xã Phúc Yên 3 1 2 3 0 2. Huyện Lập Thạch 18 11 7 2 16 3. Huyện Bình Xuyên 7 2 4 2 4 4. Huyện Tam Đảo 5 2 2 0 4 5. Thành phố Vĩnh Yên 4 3 1 2 2 6. Huyện Tam Dương 5 3 2 0 5 7. Huyện Vĩnh Tường 12 9 3 9 3 8. Huyện Yên Lạc 5 3 1 1 3 Toàn tỉnh 59 34 22 0 19 37 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. Một số chợ họp hàng ngày nhưng chỉ vào buổi sáng, chiều, hoặc vài tiếng một ngày. Các chợ này thường có quy mô nhỏ, khối lượng hàng hoá lưu chuyển không lớn, đối tượng mua bán thường là người sản xuất trực tiếp và người tiêu dùng cuối cùng. Điều này cần tính đến khi xác định qui mô cũng như thiết kế mô hình chợ ở khu vực nông thôn để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng chợ 1.2.4. Phân loại chợ theo quy mô điểm kinh doanh và cơ sở vật chất chợ - Phân loại chợ theo quy mô điểm kinh doanh Việc phân loại chợ theo qui mô điểm kinh doanh được tiến hành dựa trên Nghị định số 02/2003/NĐ-CP. Theo kết quả tổng hợp phiếu điều tra của 59 chợ, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện chỉ có 2 chợ hạng I (chợ Phúc Yên và chợ Vĩnh Yên). Có 12 chợ đạt quy mô hạng II và 45 chợ đạt quy mô hạng III. Chợ quy mô hạng III tập trung chủ yếu ở huyện Lập Thạch (14 chợ), huyện Vĩnh Tường (9 chợ) và huyện Bình Xuyên (7 chợ). Các chợ có qui mô lớn, ở các trung tâm kinh tế thương mại của tỉnh, huyện, số hộ kinh doanh cố định khá lớn cộng thêm lực lượng bán hàng rong đông đảo nên thưởng xảy ra tình trạng không đủ diện tích cho người kinh doanh. Ngược lại, ở nhiều chợ, số hộ kinh doanh cố định lại ít hơn số điểm kinh doanh. Một số chợ hạng III chỉ có vài chục hộ kinh doanh. - Phân loại chợ theo tình trạng cơ sở vật chất chợ Ở hầu hết các huyện thị của tỉnh Vĩnh Phúc đều tồn tại chợ lán tạm. Tổng số chợ lán tạm toàn tỉnh là 27 chợ, chiếm 40,3%, chợ bán kiên cố 38,8%, chỉ có 15 chợ được xây dựng kiên cố, thậm chí 2 huyện Tam Đảo và Tam Dương không có chợ kiên cố. Tỉ lệ này là khá thấp so với cả nước và so với các tỉnh lân cận ở vùng Đồng bằng sông Hồng. Các huyện có nhiều chợ hoàn toàn lán tạm là Lập Thạch (7/18 chợ), Bình Xuyên (3/7 chợ), Tam Dương (4/5 chợ), Vĩnh Tường (7/12 chợ). Bảng 4: Phân loại chợ theo quy mô điểm KD và cơ sở vật chất chợ Chỉ tiêu Huyện/thị Tổng số Quy mô điểm Cơ sở vật chất > 400 200 - 400 <200 KC BKC Lán tạm Đất trống Không trả lời 1. Thị xã Phúc Yên 3 1 0 2 1 1 1 2. Huyện Lập Thạch 18 0 4 14 5 5 7 1 3. Huyện Bình Xuyên 7 0 0 7 2 3 2 1 4. Huyện Tam Đảo 5 0 0 5 0 3 2 1 5. TP. Vĩnh Yên 4 1 2 1 2 1 2 6. Huyện Tam Dương 5 0 0 5 1 5 1 7. Huyện Vĩnh Tường 12 0 3 9 2 7 4 8. Huyện Yên Lạc 5 0 1 4 1 2 1 1 Tổng 59 2 10 47 13 23 24 1 4 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. - Phân loại theo diện tích kinh doanh bình quân 1hộ kinh doanh Diện tích quy chuẩn tối thiểu của một điểm kinh doanh trong chợ theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP là 3m2/điểm. Qua tổng hợp thống kê trên phiếu điều tra cho thấy, toàn tỉnh chỉ có 1 chợ có diện tích bình quân/1 hộ kinh doanh 5m2, (5 chợ không thống kê chỉ tiêu này). Như vậy, các chợ của tỉnh đã cơ bản đáp ứng được chỉ tiêu diện tích tối thiểu của 1 điểm kinh doanh. Tuy nhiên, theo điều tra thực tế có thể thấy rằng, các tiêu chuẩn khác về diện tích trên các chợ đều không đảm bảo như: tiêu chuẩn về diện tích dành cho khách hàng, khoảng cách giữa các gian hàng, quầy hàng, diện tích giao thông nội bộ, diện tích lưu không, diện tích bãi đỗ xe và nhà vệ sinh, diện tích kho… Bảng 5: Diện tích bình quân 1 hộ kinh doanh cố định trên chợ Chỉ tiêu Huyện/thị Tổng số Diện tích điểm kinh doanh <3 m2 3-5m2 > 5m2 Không rõ/ không TK 1. Thị xã Phúc Yên 3 0 1 1 1 2. Huyện Lập Thạch 18 0 7 10 1 3. Huyện Bình Xuyên 7 1 1 4 1 4. Huyện Tam Đảo 5 0 2 2 1 5. Thành phố Vĩnh Yên 4 0 3 1 0 6. Huyện Tam Dương 5 0 5 0 0 7. Huyện Vĩnh Tường 12 0 4 7 1 8. Huyện Yên Lạc 5 0 0 4 1 Tổng 59 1 23 29 5 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. Như vậy, việc phát triển mạng lưới chợ trong thời gian tới rất cần chú trọng đến việc cải thiện điều kiện cơ sở vật chất chợ, từ việc mở rộng diện tích của các chợ quá tải, đến việc nâng cấp cơ sở hạ tầng chợ, đảm bảo các yêu cầu qui định về diện tích phụ trợ, cấp thoát nước, an toàn cháy nổ, vệ sinh... 1.2.5 Phân loại chợ theo phạm vi ảnh hưởng Theo tổng hợp từ phiếu điều tra của 63/67 chợ trả lời về phạm vi ảnh hưởng, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 6 chợ có phạm vi ảnh hưởng ra bên ngoài tỉnh, bao gồm chợ Phúc Yên, 2 chợ ở huyện Mê Linh (chợ Ba Đê và chợ Hạ) và chợ Vĩnh Yên). Ngoài ra, điểm bán buôn nông sản ở xã Thổ Tang, (hiện nay đang được đầu tư xây dựng thành chợ đầu mối) cũng thực hiện chức năng thu gom và phát luồng hàng ra ngoài tỉnh. Điều đó cho thấy rằng, ngoài khu vực Thổ Tang, các chợ có phạm vi ảnh hưởng rộng chủ yếu là do có lợi thế về vị trí (trung tâm tỉnh, huyện, hay ở vị trí giao thương thuận tiện với các tỉnh khác) chứ không phải do khả năng thu hút và phát luồng hàng hoá với qui mô khá lớn ra phạm vi ngoài tỉnh. Bảng 6: Phân loại chợ theo phạm vi ảnh hưởng Chỉ tiêu Huyện/thị Trong thôn Xã phường Liên xã phường Liên huyện Toàn tỉnh Liên tỉnh Không trả lời 1. Thị xã Phúc Yên 1 1 1 2. Huyện Lập Thạch 3 10 5 3. Huyện Bình Xuyên 1 4 2 1 4. Huyện Tam Đảo 1 2 1 1 5. Thành phố Vĩnh Yên 3 1 1 6. Huyện Tam Dương 1 1 2 1 7. Huyện Vĩnh Tường 1 3 6 2 8. Huyện Yên Lạc 1 2 1 1 Tổng 1 11 28 12 2 4 3 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. Số lượng chợ có ảnh hưởng trong phạm vi xã, phường và liên xã vẫn chiếm tỉ lệ lớn nhất, tới 85,0%. Như vậy, ảnh hưởng của các chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc phần lớn còn ở phạm vi hẹp, chủ yếu là mang tính chất bán lẻ, phục vụ nhu cầu trao đổi nội vùng của dân cư trên địa bàn huyện, xã. 2. Thực trạng phát triển chợ trên địa bàn tỉnh 2.1. Thực trạng phát triển mạng lưới chợ 2.1.1 Thực trạng phát triển mạng lưới chợ theo địa bàn xã, phường Với tổng số 59 chợ (không tính các chợ tạm) trên tổng số 152 xã phường, Vĩnh Phúc có mật độ chợ tính theo đơn vị hành chính là 0,44 chợ/xã,phường. Chỉ số này là thấp so với mức bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng (0,65 chợ/xã, phường) và cả nước (0,71 chợ/xã,phường). Tính theo địa bàn huyện, thị nơi có mật độ chợ cao nhất là huyện Tam Đảo (0,55 chợ/xã) và huyện Bình Xuyên (0,54 chợ/xã), hai huyện có mật độ thấp nhất là huyện Yên Lạc và thị xã Phúc Yên, lần lượt là 0,29 chợ/xã và 0,33 chợ/xã. Bảng 7: Một số chỉ tiêu cơ bản về mạng lưới chợ Chỉ tiêu Huyện, thị Chợ/xã, phường Bán kính phvụ (km/chợ) Dân số/chợ (ng/chợ) 1. Thị xã Phúc Yên 0,33 3,57 29.058 2. Huyện Lập Thạch 0,50 2,39 11.870 3. Huyện Bình Xuyên 0,54 2,57 15.303 4. Huyện Tam Đảo 0,55 3,87 13.631 5. Huyện Mê Linh 0,47 2,37 22.862 6. TP Vĩnh Yên 0,44 2,01 20.951 7. Huyện Tam Dương 0,38 2,61 19.024 8. Huyện Vĩnh Tường 0,41 1,94 16.299 9. Huyện Yên Lạc 0,29 2,60 29.378 Toàn tỉnh 0,44 2,55 17.618 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. 2.1.2. Thực trạng phát triển mạng lưới chợ theo diện tích tự nhiên Diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh Vĩnh Phúc là 1372,23 km2. Như vậy, bình quân cứ 20,5 km2 có một chợ hay bán kính phục vụ của 1 chợ là 2,55 km. Đây là một chỉ số ở mức trung bình, thấp hơn so với toàn quốc (3,69 km) nhưng lại cao so với toàn vùng (1,79 km). Trong đó, huyện có bán kính phục vụ ngắn nhất của một chợ thuộc về huyện Vĩnh Tường với 1,94 km và huyện có bán kính phục vụ xa nhất của một chợ thuộc về huyện Tam Đảo 3,87 km và thị xã Phúc Yên 3,57 km. 2.1.3 Thực trạng phát triển mạng lưới chợ theo dân số Theo số liệu thống kê năm 2006, dân số trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là 1.180.418 nghìn người. Như vậy, bình quân 1 chợ của tỉnh phục vụ 17.648 người. So với bình quân của vùng Đồng bằng sông Hồng (12.249 người/chợ) và toàn quốc (10.759 nghìn người/chợ) thì đây là chỉ số cao. Nếu tính theo địa bàn huyện, thị thì dân số bình quân trên một chợ từ 10 nghìn - 20 nghìn người thuộc về huyện Lập Thạch, Bình Xuyên, Tam Đảo, Tam Dương và Vĩnh Tường. Dân số bình quân ở mức trên 20 nghìn người/chợ thuộc về thị xã Phúc Yên, thành phố Vĩnh Yên và huyện Yên Lạc. Trong đó, cao nhất là huyện Yên Lạc, tới 29.378 người/chợ. 2.2. Thực trạng phát triển kinh doanh trên chợ 2.2.1. Về lực lượng tham gia kinh doanh trên chợ Lực lượng tham gia kinh doanh trên chợ của tỉnh Vĩnh Phúc chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư nhân, các hộ tư thương, người buôn bán nhỏ, hàng rong, quà vặt và người sản xuất nhỏ trực tiếp bán sản phẩm. Thành phần thương nghiệp nhà nước và thương nghiệp hợp tác xã ít tham gia kinh doanh trên chợ. Tại một số chợ ở Tp.Vĩnh Yên, huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Vĩnh Tường có thành phần thương nghiệp nhà nước và hợp tác xã nhưng quy mô và số lượng không đáng kể. Thành phần thương mại tư nhân (dưới hình thức các hộ kinh doanh) đóng vai trò ngày càng quan trọng. Trong tổng số 59 chợ, có 4 chợ không trả lời về số hộ kinh doanh cố định, tổng hợp số liệu điều tra của 63 chợ cho thấy, có tổng cộng 8.507 hộ kinh doanh cố định. Cụ thể trên từng địa bàn huyện thị như sau: Hộ kinh doanh cố định trên chợ tỉnh Vĩnh Phúc Hộ kinh doanh cố định Hộ KD cố định bình quân/chợ Số lượng % so với tổng số Toàn tỉnh 8.507 100,0 132,9 1. Thị xã Phúc Yên 616 7,24 205,3 2. Huyện Lập Thạch 1.857 21,8 103,2 3. Huyện Bình Xuyên 498 5,85 83,0 4. Huyện Tam Đảo 810 9,52 202,5 6. TP Vĩnh Yên 1.115 13,1 278,8 7. Huyện Tam Dương 473 5,56 94,6 8. Huyện Vĩnh Tường 1.139 13,39 94,9 9. Huyện Yên Lạc 492 5,78 123,0 Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra và khảo sát thực tế mạng lưới chợ tỉnh Vĩnh Phúc năm 2007. Trung bình có 132,9 hộ kinh doanh trên một chợ ở Vĩnh Phúc, cao hơn so với mức chung của cả nước (100 hộ/chợ) và vùng Đồng bằng sông Hồng (107 hộ/chợ). Các địa bàn có hộ kinh doanh cố định trên chợ lớn là Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên và huyện Mê Linh. Các huyện có hộ kinh doanh trung bình trên chợ thấp là Bình Xuyên, Tam Dương, Vĩnh Tường. 2.2.2. Về cơ cấu ngành hàng kinh doanh trên chợ Trong tổng số 8.507 hộ kinh doanh cố định, trong đó 1.019 hộ chưa phân loại. Vì vậy, cơ cấu kinh doanh theo ngành hàng của 7.488 hộ kinh doanh cố định trên các chợ như sau: Cơ cấu ngành hàng kinh doanh trên chợ tỉnh Vĩnh Phúc Ngành hàng kinh doanh Số hộ kinh doanh So với tổng số (%) 1. Hàng thực phẩm tươi sống 2205 29,45 2. Hàng nông sản khô, sơ chế 626 8,36 3. Hàng thực phẩm công nghệ 86 1,15 4. Hàng tạp hoá 1550 20,7 5. Hàng may mặc 1336 17,76 6. Hàng giày dép 597 7,97 7. Hàng kim khí. điện máy 47 0,63 8. Hàng điện tử, điện lạnh 39 0,52 9. Hàng nông cụ 169._.ệp chợ cần chú trọng trong việc tổ chức và khuyến khích phát triển bộ phận phát triển văn hoá chợ (thông qua các tổ, hiệp hội phụ nữ…) và bộ phận hỗ trợ và phát triển thương nhân đang hoạt động tại địa bàn chợ. 3.3.3. Giải pháp về đầu tư phát triển chợ Để chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ theo mô hình doanh nghiệp chợ, cần huy động được nguồn vốn đa dạng từ mọi thành phần trong nền kinh tế, tránh tình trạng chỉ huy động nguồn vốn từ các hộ tư thương tham gia kinh doanh trên chợ. Theo tinh thần của Nghị định 02/2003/NĐ - CP về phát triển và quản lý chợ ngày 14/01/2003 và các văn bản hướng dẫn của Bộ Thương mại, vốn đầu tư xây dựng chợ được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, theo phương châm "xã hội hoá đầu tư". Cụ thể của nguồn vốn đầu tư xây dựng chợ ở đây bao gồm: Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp, cá nhân sản xuất kinh doanh và của nhân dân đóng góp; Nguồn vốn vay tín dụng, nguồn vốn đầu tư phát triển của nhà nước, trong đó chủ yếu là nguồn vốn của các doanh nghiệp, cá nhân sản xuất kinh doanh và nguồn vốn vay tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của chợ đang đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải có những biện pháp và chính sách phù hợp để giải quyết - Làm rõ tiêu chí một số loại hình và cấp độ chợ, nhất là chợ đầu mối cấp vùng, cấp tỉnh, không ít dự án chợ đầu mối nông sản sẽ không được hỗ trợ đầu tư từ ngân sách trung ương vì . - Nhà nước không hỗ trợ đầu tư các chợ hạng I theo qui hoạch ở vị trí trọng điểm về kinh tế thương mại của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là tỉnh), làm trung tâm giao lưu hàng hoá và phục vụ nhu cầu tiêu dùng ở các thành phố, thị xã lớn, thay vào đó là huy động nguồn lực của doanh nghiệp, hộ kinh doanh và vốn vay. - Đối với các chợ ở vị trí trung tâm huyện: Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng của chợ, nhà lồng chợ và công trình liên quan huy động từ các nguồn vốn khác. Hai là, vấn đề phân bổ và sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn đầu tư phát triển của nhà nước được coi là nguồn vốn “mồi”, bao gồm: Vốn từ ngân sách Trung ương, địa phương và các nguồn viện trợ không hoàn lại Theo quan điểm của nhà nước hiện nay, mạng lưới chợ nói chung được xem là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng thương mại. Do đó, mạng lưới chợ nói chung, đặc biệt là các chợ ở vùng nông thôn và miền núi có thể được xem như là hàng hoá công mà tỉnh cần trực tiếp đầu tư. Đối với nguồn vốn ngân sách, để đảm bảo khả năng đầu tư ổn định và lâu dài, cần xây dựng kế hoạch ngân sách hàng năm và dài hạn dành cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của chợ trên địa bàn. Việc xác định quy mô của nguồn vốn đầu tư xây dựng chợ từ ngân sách được căn cứ vào các khoản nộp ngân sách hàng năm của hệ thống chợ, kể cả khoản thuế thu từ các hộ kinh doanh trên chợ và nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, cụ thể theo Nghị định 02 Chính Phủ, nguồn vốn này chỉ hỗ trợ đầu tư xây dựng một số loại chợ sau: + Chợ đầu mối chuyên ngành nông sản, thực phẩm để tiêu thụ hàng hoá ở các vùng sản xuất tập trung về nông, lâm, thuỷ sản. + Chợ ở các cụm xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải đảo thuộc các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, định canh định cư của nhà nước. + Chợ loại I theo quy hoạch ở vị trí trọng điểm về kinh tế thương mại của tỉnh, thành phố, làm trung tâm giao lưu hàng hoá và phục vụ nhu cầu tiêu dùng ở các thành phố, thị xã lớn. Tuy nhiên thực tế cho thấy, do ngân sách nhà nước còn nhiều eo hẹp nên quy mô vốn đầu tư xây dựng mạng lưới chợ chưa tương xứng với yêu cầu đầu tư của mạng lưới chợ ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, việc hạch toán và thu hồi vốn đã đầu tư vào hệ thống chợ lại không được quan tâm đúng mức dẫn đến việc giảm khả năng đầu tư tiếp theo của nguồn vốn này. Vì vậy, để đảm bảo khả năng đầu tư, tỉnh cần thực hiện một số biện pháp sau: Xuất phát từ khả năng sinh lời của các chợ, tỉnh cần xác định rõ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các chợ là vốn cần được thu hồi; Cần nghiên cứu và áp dụng các quy định cụ thể về thu hồi vốn đầu tư cả về thời gian thu hồi và định mức thu hồi vốn đầu tư hàng năm; Cần mở riêng một chương mục để cấp vốn và theo dõi nguồn vốn đầu tư vào hệ thống chợ; Để theo dõi nguồn vốn đầu tư này, cần phân chia nguồn vốn theo tính chất nguồn vốn, chẳng hạn như vốn hỗ trợ ban đầu không tính lãi suất, vốn cho vay có hỗ trợ lãi suất và vốn vay thông thường. Ba là, vấn đề thu hút vốn đầu tư từ các thương nhân tham gia kinh doanh tại chợ và các nguồn vốn xã hội khác. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư hoặc góp vốn cùng nhà nước đầu tư xây dựng các loại chợ. Đây là biện pháp phổ biến hiện nay và là biện pháp quan trọng để đảm bảo vốn đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay việc thu hút vốn đầu tư trong lĩnh vực này đang gặp phải những khó khăn và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý và nâng cao khả năng thu hút nguồn vốn từ các thương nhân, cần áp dụng một số biện pháp sau: - Thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng về quy hoạch xây dựng và phát triển chợ trên địa bàn để các chủ thể sản xuất, kinh doanh (trong và ngoài tỉnh) yên tâm bỏ vốn đầu tư xây dựng chợ hoặc các cơ sở hạ tầng liên quan đến chợ; - Áp dụng các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển chợ đối với tất cả chủ thể, sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, ngoài các hộ kinh doanh, doanh nghiệp là chủ yếu cần huy động các nguồn vốn khác trong xã hội nhằm đa dạng nguồn vốn trong xây dựng và phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn; - Trung tâm xúc tiến thương mại của tỉnh phối hợp với các trung tâm xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch... tổ chức tuyên truyền, quảng bá và kêu gọi đầu tư chợ; - Về huy động vốn của thương nhân, trước hết là những người buôn bán tại chợ theo phương thức ứng trước tiền thuê diện tích kinh doanh để xây dựng chợ mới, sau đó trừ dần vào quá trình kinh doanh (có phương án riêng đối với từng chợ); - Vận động các doanh nghiệp ngành hàng liên quan, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn trích một phần kinh phí (quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu mặt hàng mới...) để đầu tư đổi lại doanh nghiệp có một phần diện tích (trong thời gian nhất định) trong chợ để giới thiệu hàng; - Chủ đầu tư có thể liên kết, liên doanh với nhau cùng đầu tư xây dựng chợ và cùng tham gia quản lý. Cần xác định rõ chủ đầu tư là người đảm nhận việc huy động vốn và chịu trách nhiệm quản lý mọi nguồn vốn đầu tư, trong đó chủ đầu tư có thể là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân; Đối với các nguồn vốn xã hội khác sẽ được huy động dưới hình thức đóng góp cổ phần. Ngoài ra để thu hút mạnh vốn đầu tư từ các thành phần khác nhau trong xã hội, tỉnh cần có những chính sách như sau: - Chính sách đất đai + Nhà đầu tư tự chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư phát triển chợ trên địa bàn tỉnh phù hợp với qui hoạch được phê duyệt thì được miễn nộp tiền sử dụng đất (nếu đất đó không phải chuyển mục đích). + Nếu nhà đầu tư được nhà nước giao đất, có thu tiền sử dụng đất (trường hợp đất do nhà nước quản lý và không thuộc diện đấu giá đất) để đầu tư xây dựng, kinh doanh, khai thác chợ phù hợp với qui hoạch được duyệt thì giảm tiền sử dụng đất (mức độ giảm tuỳ theo địa phương và loại hình, cấp độ chợ); + Trong trường hợp có dự án phát triển chợ theo qui hoạch được duyệt và công bố công khai nhưng chỉ có một nhà đầu tư xin giao đất hoặc xin thuê đất để thực hiện dự án thì tuỳ theo từng dự án cụ thể, Hội đồng thẩm định sẽ trình UBND tỉnh quyết định giá đất giao hoặc cho thuê trên cơ sở khung giá đất được UBND tỉnh công bố hàng năm; + Nếu nhà đầu tư chợ chọn hình thức thuê đất thì thời hạn cho thuê đủ độ dài cần thiết để nhà đầu tư có thể hoàn vốn đầu tư. Riêng đối với những dự án có vốn đầu tư lớn nhưng khả năng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào chợ nông thôn đồng bằng thì thời hạn thuê đất có thể dài hơn các dự án khác và được xem xét gia hạn sử dụng đất nếu chủ đầu tư có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất và chấp hành đúng pháp luật về đất đai; + Nhà đầu tư chợ có thể được xem xét miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản và những năm kế tiếp theo dựa trên nguyên tắc: khu vực nông thôn đồng bằng được tiếp tục miễn nộp tiền thuê đất với thời gian dài hơn so với khu vực đô thị; + Nhà đầu tư chợ được thuê diện tích đất đã đền bù và giải phóng xong mặt bằng (thời hạn thuê cụ thể tuỳ theo từng địa phương và từng loại hình, cấp độ chợ). Khi đến hết thời hạn sử dụng đất, nếu nhà đầu tư chấp hành đúng pháp luật về đất đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì sẽ được xem xét gia hạn sử dụng đất phù hợp với qui hoạch sử dụng đất và các qui hoạch khác đã được phê duyệt; + Đối với chợ thuộc địa bàn nông thôn miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thì nhà đầu tư không phải trả tiền sử dụng đất. - Chính sách tài chính, tín dụng + Nhà đầu tư được quĩ hỗ trợ phát triển xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi trong khoảng thời gian nhất định (mức cụ thể tuỳ theo từng dự án chợ cụ thể và năng lực của chủ đầu tư); + Nhà đầu tư xây dựng chợ được dùng quyền sử dụng đất và các công trình trong phạm vi chợ thuộc quyền sử dụng của mình để thế chấp vay vốn ngân hàng theo qui định hiện hành để đầu tư sửa chữa lớn, cải tạo, nâng cấp chợ…; + Doanh nghiệp chợ do cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập theo qui định của pháp luật có thể được vay vốn ngân hàng hoặc quỹ tài trợ khác để xây dựng, cải tạo, nâng cấp chợ; + Nếu đủ điều kiện, khi tham gia đầu tư xây dựng chợ, nhà đầu tư chợ sẽ được hưởng các ưu đãi, khuyến khích về thuế như đối với các dự án sản xuất theo qui định của các văn bản pháp luật về thuế; + Các doanh nghiệp kinh doanh và quản lý chợ được phép quy định giá cho thuê diện tích kinh doanh, các loại phí dịch vụ dựa trên khung giá quy định của cấp có thẩm quyền. - Các chính sách khác + Cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin về các loại qui hoạch có liên quan trong quá trình lập dự án đầu tư xây dựng chợ cho các nhà đầu tư kinh doanh chợ; + Nhà đầu tư được ưu tiên áp dụng rút gọn thời gian qui định trong thủ tục hành chính hiện hành đối với quá trình thụ lý, giải quyết hồ sơ có liên quan đến qui hoạch và kiến trúc của dự án đầu tư xây dựng chợ tại cơ quan chức năng; + Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận các nguồn vốn để xây dựng nhà chợ, các sạp hàng, quầy hàng, hàng rào, sân, công trình vệ sinh, bãi để xe, công trình hạ tầng trong hàng rào và các hạng mục khác. Những đề xuất về cơ chế, chính sách nêu trên mang tính định hướng, gợi mở cho tỉnh theo tinh thần Luật Đầu tư. Tuy nhiên do từng địa bàn có những đặc thù khác nhau. Do đó, trong quá trình thực hiện ở mỗi địa phương và từng địa bàn phải có phương án cụ thể và sự vận dụng linh hoạt. Bốn là, vấn đề thiếu hụt vốn đầu tư ban đầu. Đây là tình trạng các doanh nghiệp, chủ đầu tư sẽ gặp phải do tình trạng hỗ trợ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn eo hẹp trong khi lòng tin của người góp vốn còn chưa được củng cố. Trong trường hợp này, chủ đầu tư có thể chỉ dành quỹ đất cho các hạng mục công trình cần đầu tư và cho phép các doanh nghiệp khác đầu tư toàn bộ, chẳng hạn như các công trình kho, các cơ sở chế biến, bảo quản… Năm là, vấn đề đảm bảo cho các doanh nghiệp chợ hoạt động hiệu quả. Thực tế cho thấy, hiện nay các doanh nghiệp chợ hoạt động chưa hiệu quả, chưa có lãi, khả năng thu hồi vốn chưa nhanh và chưa đảm bảo khả năng tái đầu tư cho các chợ. Đây cũng là một trong những vấn đề cần được quan tâm, giải quyết hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, trước hết doanh nghiệp chợ và các cơ quan quản lý nhà nước cần lập và phê duyệt các phương án khai thác cơ sở vật chất - kỹ thuật của chợ như: khung giá cho thuê diện tích kinh doanh trong chợ, khung giá một số loại dịch vụ phục vụ kinh doanh. Thứ hai, cần áp dụng các chính sách ưu đãi khác dành cho doanh nghiệp chợ như chính sách ưu đãi về giá thuê đất xây dựng chợ, chính sách hỗ trợ lãi suất tín dụng, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp… Ngoài ra, về phía các địa phương cũng cần có các chính sách hỗ trợ ban đầu cho các doanh nghiệp chợ, như: UBND tỉnh, thành phố, thị xã, quận, huyện sẽ chịu trách nhiệm về các khoản đầu tư ban đầu như giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng chợ .... UBND tỉnh có các chính sách ưu đãi về đất đai cho doanh nghiệp chợ, như miễn thuế sử dụng đất cho doanh nghiệp trong khoảng thời gian nhất định (khoảng thời gian này do tỉnh tính toán căn cứ vào khả năng và nguồn lực của tỉnh) hoặc có các chính sách ưu đãi về thuê đất đối với doanh nghiệp chợ…Đồng thời, có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp kinh doanh chợ trong một số năm đầu đối với chợ mới xây dựng để khuyến khích các chủ thể sản xuất, kinh doanh bỏ vốn đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ. Trên cơ sở của các chính sách ưu đãi đó sẽ là những điều kiện thuận lợi, hỗ trợ ban đầu đối với doanh nghiệp chợ, giúp doanh nghiệp có đủ khả năng để thu hút các hộ kinh doanh đến tham gia hoạt động kinh doanh tại chợ, chẳng hạn như doanh nghiệp chợ sẽ cho các hộ thuê địa điểm kinh doanh tại chợ với giá ưu đãi, hoặc cho nợ tiền thuê địa điểm kinh doanh trong một vài năm đầu… Tỉnh tạo điều kiện trong việc cấp phép thành lập các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần trong lĩnh vực kinh doanh chợ. Tỉnh giao quyền cho các doanh nghiệp này được phép quy định giá cho thuê diện tích kinh doanh, các loại phí dịch vụ... dựa trên khung giá quy định của nhà nước và của địa phương. Mặt khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp chợ hoạt động không hiệu quả là xuất phát từ phía các đối tượng tham gia kinh doanh tại chợ: các doanh nghiệp chưa có các chính sách nhằm thu hút các đối tượng tham gia và hỗ trợ các đối tượng này mở rộng phạm vi và quy mô kinh doanh tại chợ dẫn đến hiệu suất sử dụng các công trình chợ chưa cao. Thực tế cho thấy, nhiều chợ được các doanh nghiệp đầu tư xây dựng song khi chợ đi vào hoạt động lại rất vắng vẻ, nhiều gian hàng còn bị bỏ trống. Vì vậy, để giải quyết tồn tại này, về phía bản thân các doanh nghiệp chợ và về phía nhà nước phải có các chính sách và biện pháp cụ thể như sau: Về phía doanh nghiệp chợ, cần có các chính sách và giải pháp sau: Giảm chi phí thuê diện tích kinh doanh cho các đối tượng tham gia kinh doanh tại chợ trong một vài năm đầu; Cung cấp các dịch vụ có chất lượng, độ tin cậy cao và với giá cả hợp lý; Thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho các đối tượng kinh doanh trên chợ, như cung cấp thông tin thị trường, giải quyết các thủ tục có liên quan (chẳng hạn như xin cấp, đổi giấy phép kinh doanh cho các hộ kinh doanh). Về phía cơ quan nhà nước, các chính sách và giải pháp hỗ trợ cụ thể của nhà nước đối với doanh nghiệp chợ nhằm tăng cường thu hút các đối tượng tham gia và hỗ trợ các đối tượng này mở rộng phạm vi và quy mô kinh doanh tại các chợ bao gồm: Đối với các đối tượng tham gia kinh doanh tại chợ là các doanh nghiệp hay các hộ kinh doanh lớn, nhà nước có thể quy định một số ưu đãi cho các đối tượng này, bao gồm: Miễn giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… so với các thương nhân kinh doanh ngoài chợ; Thực hiện cơ chế tín dụng thuận tiện và phù hợp với đặc điểm kinh doanh tại chợ; Thông qua các doanh nghiệp chợ để thực hiện các hoạt động hỗ trợ khác của nhà nước như cung cấp thông tin thị trường, tư vấn pháp lý… Đối với các hộ kinh doanh nhỏ, tham gia kinh doanh có tính thời vụ, không thường xuyên tại các chợ, nhà nước có thể thực hiện các biện pháp hỗ trợ: miễn giảm thuế môn bài; Hỗ trợ vay vốn kinh doanh ban đầu với lãi suất thấp để thuê địa điểm kinh doanh hoặc dùng làm vốn lưu động… Trên đây là những giải pháp và chính sách nhằm huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển chợ có hiệu quả. Tuy nhiên để sử dụng nguồn vốn ngân sách vào đầu tư kinh doanh phát triển chợ tại các địa phương có hiệu quả, tại mỗi địa phương, UBND tỉnh và Sở Công Thương phải thực hiện phân bổ, giao trách nhiệm và kiểm tra giám sát việc thực hiện vốn đầu tư hàng năm đến UBND thành phố, thị xã, quận, huyện. Đồng thời trong quá trình phân bổ vốn phải có tỷ lệ phân bổ khác nhau đối với các khu vực khác nhau tại mỗi địa phương: giữa thành thị và nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và có sự khác nhau giữa các loại hình và tính chất kinh doanh của từng chợ. 3.3.4. Giải pháp về nguồn nhân lực tham gia quản lý chợ Chuyển đổi từ mô hình ban quản lý chợ sang mô hình doanh nghiệp chợ đòi hỏi phải có sự chuyển đổi về chất lượng của các cán bộ tham gia quản lý chợ. Thực tế cho thấy trình độ của người tham gia quản lý chợ ở nước ta hiện nay, đặc biệt là ở các vùng nông thôn nói chung còn nhiều bất cập. Tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: Các cán bộ tham gia vào quá trình quản lý trước đây đa số là các cán bộ quản lý trong biên chế nhà nước được điều động sang từ các ngành khác, không được đào tạo trình độ chuyên môn, do đó sự hiểu biết và quan niệm về tính nghề nghiệp của chính những người làm công tác quản lý chợ còn thấp, chủ yếu quản lý theo kinh nghiệm; do quan niệm đơn giản về công tác quản lý chợ của cơ quan có thẩm quyền và trong việc cử người thực hiện công việc này (đối với các chợ do nhà nước đầu tư); còn thiếu các chương trình đào tạo phù hợp cho những người làm công tác quản lý chợ… Ngoài ra, hầu hết các chợ hiện nay đều do ban quản lý hoặc tổ quản lý, trong đó các đơn vị quản lý này chưa thực hiện tốt việc hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc các đối tượng buôn bán tại chợ thực hiện các quy định của nhà nước về kinh doanh - dịch vụ cũng như chưa tổ chức thống kê và thực hiện báo cáo theo quy định về hàng hoá lưu thông qua chợ, tình hình thị trường và giá cả trên địa bàn chợ. Để khắc phục tình trạng nêu trên đối với mạng lưới chợ hiện nay, giải pháp về nguồn nhân lực tham gia quản lý chợ đó là thực hiện theo phương châm “xã hội hoá đầu tư phát triển nguồn nhân lực quản lý kinh doanh chợ”. Để phát triển nguồn nhân lực quản lý kinh doanh chợ cần vận động và tổ chức xã hội tham gia đầu tư phát triển nguồn nhân lực quản lý kinh doanh chợ, huy động các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng, phát huy và sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực tạo điều kiện phát triển nhanh và có chất lượng đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho công tác quản lý kinh doanh chợ. Đây cũng được xem là một trong những giải pháp quan trọng trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ. Cùng với quá trình chuyển đổi mô hình kinh doanh chợ cũng chính là quá trình chuyển đổi cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý. Hay nói cách khác, chuyển đổi từ mô hình ban quản lý chợ sang mô hình doanh nghiệp chợ đòi hỏi một sự chuyển đổi về chất lượng của lực lượng lao động tham gia vào hoạt động quản lý chợ. Bởi vì, chuyển đổi từ mô hình ban quản lý chợ sang mô hình tổ chức quản lý doanh nghiệp chợ đó chính là sự chuyển đổi sang một mô hình quản lý trong đó đơn vị quản lý chợ (doanh nghiệp) tự chủ về tài chính để tự cân đối, tự hạch toán thu chi và tự chịu trách nhiệm về tài chính và các kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có các phương án quản lý và kinh doanh có lãi để tồn tại và phát triển. Do vậy, để chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp chợ, đòi hỏi phải có một hệ thống các yếu tố cùng tác động và tương hỗ với nhau. Một trong các yếu tố quan trọng không thể thiếu đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân viên năng động, nhanh nhậy, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao để có thể giải quyết các vấn đề một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý chợ của doanh nghiệp. Để nâng cao nghiệp vụ chuyên ngành và nghiệp vụ tổ chức, quản lý doanh nghiệp chợ, HTX chợ cần tiến hành một số giải pháp sau: - Tổ chức các cuộc điều tra cơ bản nguồn nhân lực tham gia hoạt động kinh doanh và quản lý chợ để có những thông tin cần thiết về độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn... nhằm phục vụ cho việc tổ chức phổ cập kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý chợ. - Mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công tác quản lý chợ cho một số cán bộ hiện có và đào tạo những cán bộ chuyên về công tác quản lý lâu dài cho các địa phương. - Chương trình đào tạo, bồi dưỡng có thể chia làm hai loại với nội dung phù hợp với hai nhóm đối tượng sau: + Nhóm 1: Các cán bộ quản lý nhà nước về chợ ; + Nhóm 2: Những người trong ban quản lý chợ, doanh nghiệp và hợp tác xã chợ, tổ quản lý chợ và các nhân viên trực tiếp làm công tác quản lý chợ. + Phối hợp với các trường thuộc Bộ Công Thương tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên quản lý chợ. Ngoài ra, tỉnh có thể tự tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày tại địa phương với các hình thức thích hợp. - Về phía doanh nghiệp chợ: + Doanh nghiệp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình có kế hoạch tuyển dụng để lựa chọn những nhân viên thực sự có năng lực, có trình độ chuyên môn và khả năng phù hợp với công việc. + Thường xuyên tổ chức những khoá học đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên để nâng cao tay nghề. + Cử cán bộ quản lý chợ đi học nâng cao trình độ và học hỏi kinh nghiệm ở các chợ trong và ngoài nước có mô hình phát triển. + Có chế độ tiền lương và ưu đãi, thưởng phạt nghiêm minh trong công việc để đội ngũ nhân viên tận tình với công việc, nâng cao hiệu quả công tác. 3.3.5. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện * Nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước Sở Công Thương là cơ quan chỉ đạo quá trình chuyển đổi mô hình quản lý chợ trong phạm vi toàn tỉnh, việc chỉ đạo này có thể thực hiện cùng với chương trình phát triển chợ theo Quyết định 559/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình phát triển chợ đến năm 2010.Sở Công Thương có trách nhiệm: + Xây dựng lộ trình, trình tự thủ tục của việc chuyển đổi mô hình quản lý chợ, đồng thời hướng dẫn các Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc xây dựng lộ trình riêng cho mình; + Chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư,Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Tài nguyên Môi trường cùng các Sở ban ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng, ban hành chính sách khuyến khích phát triển mô hình quản lý kinh doanh chợ là doanh nghiệp hay Hợp tác xã; + Giao cho các đơn vị chức năng tổ chức các khoá đào tạo nghiệp vụ quản lý chợ cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về chợ và lao động quản lý chợ; + Chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện việc chuyển đổi; tổ chức kiểm tra và đánh giá kết quả chuyển đổi định kỳ ở từng địa phương nhằm rút kinh nghiệm và có hướng chỉ đạo kịp thời; + Thành lập Tổ chỉ đạo thực hiện chương trình chuyển đổi mô hình quản lý chợ, tổ này có thể nằm trong Ban chỉ đạo Chương trình phát triển chợ đến năm 2010, là tổ chuyên trách theo dõi quá trình chuyển đổi. + Thành lập nhóm theo dõi và chỉ đạo thực hiện việc chuyển đổi mô hình quản lý chợ trên địa bàn tỉnh. * Thực hiện thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm, điều chỉnh mô hình Tại mỗi địa phương cần lựa chọn một số địa điểm cụ thể để tiến hành thực hiện thí điểm chuyển đổi mô hình theo hướng: có thể tiến hành chuyển đổi từ các chợ vốn có đang hoạt động ở dạng ban quản lý chợ sang mô hình doanh nghiệp chợ, hoặc có thể tiến hành đầu tư xây dựng mới chợ theo mô hình doanh nghiệp chợ. Mỗi khu vực thị trường (nông thôn, miền núi, thành phố thị xã, khu công nghiệp, khu dân cư) có đặc điểm kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng khác nhau. Do đó, nguyên tắc khi lựa chọn địa điểm tiến hành thí điểm đó là: mỗi một khu vực thị trường tiến hành lựa chọn một số chợ cụ thể cho việc tiến hành thí điểm để đảm bảo tính bao quát và đầy đủ đối với từng loại thị trường. Về phía nhà nước cũng như về phía các địa phương cần có các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các chợ thực hiện việc chuyển đổi cơ chế quản lý, chẳng hạn như ưu đãi về thuế, về đất đai, về nguồn vốn... Cuối cùng, tại các địa phương tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm trên cơ sở đó có những chỉnh sửa mô hình cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương. * Triển khai áp dụng rộng rãi trên từng địa bàn, phù hợp với từng khu vực thị trường Trước tiên, để tiến hành triển khai áp dụng rộng rãi trên từng địa bàn, tại mỗi địa phương cần tiến hành tổ chức điều tra, và phân loại các chợ hiện có trên địa bàn theo quy định của Nghị định 02. Đồng thời, về phía sở Công Thương cũng như các địa phương cần phối hợp để tổ chức các lớp về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Sau đó, các địa phương có các báo cáo điều tra cho cơ quan quản lý là Sở Công Thương, trên cơ sở đó, Sở Công Thương lập phương án và kế hoạch để từng bước chuyển giao tất cả các chợ sang cho doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý trong thời hạn nhất định là phải hoàn thành. Đồng thời, về phía các địa phương cũng phải lập phương án và kế hoạch chi tiết cụ thể để từng bước chuyển giao các chợ sang cho doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý. Sau khi các địa phương đã tiến hành thực hiện thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm, điều chỉnh mô hình, Sở Công Thương cần có những hướng dẫn cụ thể cho các địa phương trong việc lập báo cáo đánh giá tình hình, số liệu cũng như những kết quả đạt được và những vướng mắc tồn tại cần phải giải quyết. Bên cạnh đó, cần tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc kiểm tra công tác thực hiện ở các địa phương. Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của các chợ đã được thực hiện thí điểm, khắc phục những mặt tồn tại và phát huy những mặt tích cực của mô hình, tiến hành áp dụng mô hình rộng rãi tại các địa phương trên phạm vi cả nước trên cơ sở của việc phân tích và nghiên cứu từng khu vực thị trường cụ thể, tiến hành lựa chọn mô hình thích hợp và áp dụng vào từng khu vực thị trường có đặc điểm tương đồng về mọi mặt. Đồng thời, trong quá trình thực hiện phải tiến hành kiên quyết và khẩn trương. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận: Thông qua việc nghiên cứu đề tài về: “Giải pháp chuyển đổi mô hỡnh kinh doanh chợ trờn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”: Giúp cho tôi: - Nắm được tình hình quản lý kinh doanh có hiệu quả hay không của các Ban quản lý Chợ trên địa bàn tỉnh. - Tham mưu đề xuất với lónh đạo Ngành xây dựng các đề án quy hoạch và bảo tồn, các Chợ Truyền thống; Xây dựng kế hoạch đầu tư, cải tạo lại Các Chợ hiện nay cho phù hợp với điều kịên phát triển kinh tế xó hội của tỉnh. -Xây dựng đề án chuyển đổi các mô hỡnh quản lý kinh doanh Chợ hiện nay trỡnh cấp cú thẩm quyền phờ duyệt để thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu tư khai thác kinh doanh Chợ. - Định hướng phát triển và đổi mới mô hỡnh quản lý Chợ truyền thống trờn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xó hội, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO. Kiến nghị: Từ kết quả điều tra về chuyển đổi mô hỡnh quản lý kinh doanh Chợ truyền thống trờn địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, tôi có một số kiến nghị như sau: Đối với ngành Công Thương: - Phối hợp với cỏc sở ngành, UBND cấp huyện xây dựng Kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng Chợ trên địa bàn tỉnh. - Xây dựng đề án phát triển và chuyển đổi mô hỡnh kinh doanh Chợ trờn địa bàn tỉnh. Đối với UBND cấp tỉnh. - Phê duyệt đề án phát triển Chợ và giành nguồn vốn đề đầu tư xây dựng Chợ trên địa bàn. - Thành lập ban chỉ đạo về phát triển và đổi mới mô hỡnh kinh doanh Chợ. - Ban hành chế độ chính sách ưu đói đối với các nhà đầu tư khi đầu tư khai thác, quản lý kinh doanh Chợ trờn địa bàn tỉnh. Đối với Chính phủ, Bộ Công Thương . - Ban hành cơ chế chính sách, hướng dẫn cụ thể về việc chuyển đổi mô hỡnh kinh doanh Chợ khi chuyển đổi các hỡnh thức sở hữu, khai thỏc kinh doanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Trung tâm thông tin tư liệu Tỉnh Vĩnh Phúc. - Sở công thương Tỉnh Vĩnh Phúc. - Tư liệu, sở kế hoạch đầu tư Tỉnh Vĩnh Phúc. - Tư liệu sở xây dựng Tỉnh Vĩnh Phúc - Niên giám thống kê Vĩnh Phúc Google.com.vn Giíi thiÖu chung. 1 1.1. Lý do chän nghiªn cøu dù ¸n. 1 1. 2. VÊn ®Ò nghiªn cøu. 1 1. 3. Môc tiªu nghiªn cøu cô thÓ. 1 1. 4. §èi t­îng vµ ph¹m vi nghiªn cøu. 2 1.5. Ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu vµ thu thËp, xö lý d÷ liÖu. 2 1.6. Hạn chế của việc nghiên cứu: Dự án nghiên cứu chỉ tập tung trên địa bàn tỉnh 2 1.7. KÕt luËn: Từ việc nghiên cứu về thực trạng mô hình quản lý Chợ truyền thống 3 1.8. Nội dung đề tài: Đề tài nghiên cứu gồm 5 phần 3 PhÇn IC¸c c¬ së lý luËn vµ thùc tiÔn cña viÖc nghiªn cøu vÒ m« h×nh kinh doanh Chî 4 1.1. Mét sè kh¸i niÖm 4 1. 2. §Æc ®iÓm cña chî 5 1.3. Ph©n lo¹i chî 8 1.4. Chøc n¨ng cña chî 9 1. 5. Vai trß cña chî. 11 1. 6. Mét sè m« h×nh kinh doanh chî 13 1. 7. Nh©n tè ¶nh h­ëng ®Õn m« h×nh kinh doanh chî. 18 1. 8. Mét sè bµi häc kinh nghiÖm cã thÓ ¸p dông ®èi víi VÜnh Phóc. 20 1.9. KÕt luËn: tõ c¸c m« h×nh kinh doanh vµ qu¶n lý Chî TruyÒn thèng ®­îc thiÕt lËp ë 21 PhÇn thø II Thùc tr¹ng ph¸t triÓn chî trªn ®Þa bµn tØnh VÜnh Phóc 22 1. §Æc ®iÓm vµ ph©n lo¹i chî 22 1.1. Nh÷ng ®Æc ®iÓm chñ yÕu cña m¹ng l­íi chî trªn ®Þa bµn tØnh 22 1.1.1. §Æc ®iÓm h×nh thµnh chî 23 1.1.2§Æc ®iÓm trao ®æi hµng ho¸ qua m¹ng l­íi chî 23 1.2. Ph©n lo¹i chî 23 1.2.1. Ph©n lo¹i chî theo n¨m thµnh lËp 24 1.2.2. Ph©n lo¹i chî theo vÞ trÝ h×nh thµnh 25 1.2.3 Ph©n lo¹i chî theo tÝnh chÊt kinh doanh vµ lÞch häp chî 26 1.2.4. Ph©n lo¹i chî theo quy m« ®iÓm kinh doanh vµ c¬ së vËt chÊt chî 27 1.2.5 Ph©n lo¹i chî theo ph¹m vi ¶nh h­ëng 30 2. Thùc tr¹ng ph¸t triÓn chî trªn ®Þa bµn tØnh 31 2.1. Thùc tr¹ng ph¸t triÓn m¹ng l­íi chî 31 2.2. Thùc tr¹ng ph¸t triÓn kinh doanh trªn chî 32 2.3. Thùc tr¹ng mô hình kinh doanh chợ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phóc 37 3. §¸nh gi¸ chung 50 ch­¬ng III kiÕn nghÞ ph¸t triÓn c¸c m« h×nh kinh doanh chî 52 3.1. Quan ®iÓm vµ ph­¬ng h­íng ph¸t triÓn m« h×nh kinh doanh chî 52 3.1.1. Quan ®iÓm ph¸t triÓn m« h×nh kinh doanh chî 52 3.1.2. Ph­¬ng h­íng ph¸t triÓn m« h×nh kinh doanh chî 54 3.2. §Ò xuÊt mét sè m« h×nh tæ chøc kinh doanh chî 54 3.2.1. M« h×nh doanh nghiÖp chî 54 3.2.2. M« h×nh hîp t¸c x· chî 66 3.3. Mét sè gi¶i ph¸p chuyÓn ®æi m« h×nh kinh doanh chî 69 3.3.1. Gi¸p ph¸p vÒ qu¶n lý nhµ n­íc 69 3.3.2. Gi¶i ph¸p vÒ qu¶n lý kinh doanh chî 75 3.3.3. Gi¶i ph¸p vÒ ®Çu t­ ph¸t triÓn chî 80 3.3.4. Gi¶i ph¸p vÒ nguån nh©n lùc tham gia qu¶n lý chî 87 3.3.5. Nhãm gi¶i ph¸p vÒ tæ chøc thùc hiÖn 89 KÕt luËn vµ KiÕn NghÞ 91 tµi liÖu tham kh¶o: 93 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21476.doc
Tài liệu liên quan