Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển là vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Bởi ở đó là một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ mà sự tham gia của các thành phần kinh tế, nếu như có sức mạnh và đôi chân vững chắc thì mới thoát khỏi cơn bão thị trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của doanh nghiệp, trong đó nguyên nhân cơ bản là không có được nguồn tài trợ đúng lúc và đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác tạo lập vốn có ảnh hưởng rất lớn t
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo lập vốn là bước đi đầu tiên quan trọng làm cơ sở cho các hoạt động tiếp theo của doanh nghiệp.
Trong tiến trình phát triển chúng ta đã và đang có sự tập trung rất lớn vào các ngành nghề trọng tâm của đất nước, ở đó ngành may mặc là một trong những ngành trọng điểm. Công ty cổ phần may Thăng Long là một doanh nghiệp có bề dày trưởng thành và phát triển đi cùng với sự phát triển của ngành may mặc nói chung. Chiến lược phát triển của công ty là trở thành một trong các doanh nghiệp phát triển ngành may mặc hàng đầu của việt nam và vươn xa rộng hơn đến các mảnh đất khác. Để làm được điều đó công ty cần có sự đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị công nghệ, dây chuyền sản xuất…nhằm mở rộng và nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy nhiên cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế công ty may Thăng Long cũng gặp không ít khó khăn trong công tác tạo lập vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty hiện nay chưa thể đáp ứng nhu cầu đứng vững và phát triển của công ty trong môi trường cạnh tranh ngày càng trở lên khốc liệt. Vì vậy tạo lập vốn luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp của công ty.
Trên cơ sở nhận thức về mặt lý luận và quá trình thực tập ở công ty cổ phần may Thăng Long, em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần May Thăng Long” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề này.
Trong chuyên đề em đã tập trung tìm hiểu các hình thức tạo lập vốn của doanh nghiệp và dựa trên cơ sở nghiên cứu thực trạng tạo lập vốn ở công ty để đưa ra một số giải pháp tạo lập cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về vốn và tạo lập vốn trong công ty cổ phần (CTCP)
Chương II: Thực trạng tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở CTCP may Thăng Long
Chương III: Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn ở CTCP may Thăng Long.
Do còn nhiều hạn chế về lý luận và nguồn dữ liệu nên các kết quả phân tích thống kế chưa mang tính tổng quát cao. Em rất mong có sự góp ý kiến của cô và các bạn nhằm hoàn thiện hơn nữa bản chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo cùng các anh chị trong phòng kế toán CTCP may Thăng Long đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Mai Thị Thu Hằng
Nội dung
Chương I: Tổng quan về vốn và tạo lập vốn trong công ty cổ phần
Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Khái niệm về vốn
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về vốn, tuỳ theo góc độ nhìn nhận vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định tới mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Vốn trong sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn luôn tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Dưới dạng hình thái giá trị vốn tồn tại dưới dạng hình thái tiền. Đây là hình thái ban đầu và cũng là hình thái cuối cùng của vốn, bởi vì sau một chu kỳ kinh doanh vốn kinh doanh lại được thu hồi về dưới dạng ban đầu là tiền theo vòng chu chuyển T- H- T’.
Dưới dạng hình thái hiện vật: vốn tồn tại dưới dạng hình thái tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,…
Đối với sự phát triển của một quốc gia vốn được coi là một trong bốn nguồn lực của nền kinh tế quốc dân. Đó là nhân lực, vốn, kỹ thuật công nghệ, và tài nguyên. Như vậy xét trong một quốc gia muốn phát triển nên kinh tế quốc dân ngoài nhân lực, kỹ thuật công nghệ và tài nguyên thì cần phải có vốn.
Vốn kinh doanh của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản dùng cho kinh doanh:
Về phương diện vật chất vốn bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà cửa, kho tàng, vật kiện trúc, vật tư hàng hoá…là các phạm trù gắn với nền sản xuất hàng hoá.
Vốn có thề là tiền như tiền Việt nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý…Nhưng tiền chỉ có thể trở thành hàng hoá khi nó được đưa vào lưu thông, sản xuất kinh doanh. tiền có sự luân chuyển từ hình thái vật chất sang tiền tệ với một lượng lớn hơn và ngày càng mở rộng.
Ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất nó còn tồn tại dưới dạng là những tài sản vô hình như quyền sở hữu công nghệ, uy tín của doanh nghiệp, nhãn mác độc quyền, kinh nghiệm tay nghề, nguồn nhân lực, nguồn chất xám…Những yếu tố này cũng được coi là vốn.
Đặc trưng của vốn
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước can thiệp và kiểm soát trực tiếp mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Đồng tiền về mặt lý thuyết mang đầy đủ năm chức năng như lý luận của Mác ( trao đổi, cất trữ, lưu thông, thanh toán, quốc tế) nhưng thực tế không đúng như vậy. Nhà nước thâu tóm tất cả hoạt động của nền kinh tế, quyết định đến các vấn đề trong kinh tế từ kế hoạch đến các bước thực hiện, nhu cầu về vốn hầu như không tồn tại.
Chuyển sang cơ chế thị trường mọi hoạt động đều thay đổi, nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết ở tàm vĩ mô, các doanh nghiệp tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trong quá trình hoạt động ấy đồng tiền thực hiện được đúng chức năng vai trò nhiệm vụ vốn có, khi đó vốn ngày càng trở thành nhu cầu bức xúc quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Vốn có các đặc trưng sau:
Một là: Vốn phải đại diện cho một lượng gía trị tài sản, điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng gía trị của những tài sản hữu hình. Những tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy móc, đất đai, nguyên liệu,… được sử dụng vào sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm mới. Nhưng tài sản hiện vật sử dụng cá nhân không đưa vào sản xuất không được gọi là vốn, chính từ đặc điểm này mà ta có thể huy động được một nguồn vốn khá lớn từ những tài sản xã hội còn đang cất trữ chưa được sử dụng.
Hai là: Vốn phải vận động và sinh lợi. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để biến thành vốn thì tiền đó phải được vận động và sinh lời. Trong quá trình vận động tiền thay đổi hình thái biểu hiện: Đầu tiên tiền được đưa vào sản xuất nó trở thành vốn, sau một chu kỳ hoạt động vốn trở thành điểm xuất phát ban đầu với lượng giá trị lớn hơn. Phần dôi ra đó chính là lợi nhuận, là khả năng sinh lời của vốn. Tuy nhiên để đảm bảo chức năng sinh lời thì người sử dụng vốn phải biết qui luật vận động của vốn, nắm bắt được thời cơ để vốn hoạt động một cách có hiệu quả.
Ba là: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới phát huy được tác dụng. Để đầu tư vào sản xuất kinh doanh vốn phải được tích tụ thành món lớn. Do đó các doanh nghiệp không những chỉ khai thác tiềm năng về vốn của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn như nhận vốn liên doanh, phát hành cổ phần, vay vốn…
Bốn là: Vốn có giá trị mặt thời gian - điều này cũng có nghĩa là phải xem xét giá trị thời gian của đồng vốn. Có nhiều yếu tố tác động từ lạm phát, sự biến động của giá cả…
Năm là: Vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định. Mỗi một đồng vốn đều có chủ sở hữu nhất định . Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng vốn vô chủ, ở đâu có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả. Ngược lại chỉ khi xác định rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới hiệu quả. Cũng tuy theo hình thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với người sử dụng vốn, hoặc người sở hữu vốn tách khỏi người sử dụng vốn. Song dù trong trường hợp nào thì người sở hữu vốn vẫn phải được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu vốn của mình. Đây là nguyên tắc huy động và quản lý vốn.
Sáu là: Trong nền kinh tế thị trường vốn phải được quan niệm là một loại hàng hoá đặc biệt. Những người sẵn có thể đưa vốn vào thị trường còn có những người khác cần có vốn lại tới thị trường này. Quyền sở hữu vốn không di chyển nhưng quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay, nợ. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi xuất tức là họ phải trả gía cho quyền sử dụng vốn. Như vậy khác với các hàng hoá thông thường khác hàng hoá vốn khi bị bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà người sở hữu của nó chỉ mất quyền sử dụng. Người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải trả cho người sở hữu vốn một khoản tiền được gọi là lãi suất.
Bẩy là: trong nền kinh tế thị trường vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền các tài sản hữu hình mà nó còn được biểu hiện bằng giá trị những tài sản vô hình khác: vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sang chế, bí quyết công nghệ…Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ thì những tài sản vô hình ngày càng phong phú, đa dạng và chúng ngày càng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì vậy tất cả những tài sản vô hình này đều phải được lượng hóa để qui về gía trị. Vấn đề này rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá doanh nghiệp, khi xác định giá trị cổ phần phát hành, khi bán hoặc thanh lý tài sản…
Trên đây là các đặc trưng cơ bản của vốn, có thể khái quát lại: vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của toàn bộ tài sản đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Nắm được các đặc trưng của vốn và hiểu được quy luật vận động của nó sẽ là điều kiện tiên quyết để các tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng vốn có hiệu quả
Phân loại vốn
Vốn được phân loại theo nhiều cách khác nhau, tuỳ theo mục đích quản lý mà doanh nghiệp sử dụng hình thức phân loại phù hợp. Vốn được phân thành vốn vay, vốn ngắn hạn, vốn dài hạn, vốn tự bổ sung, vốn do ngân sách nhà nước cấp, vốn liên doanh liên kết…nhưng về cơ bản vốn được phân loại trên một số tiêu thức chính:
à Trên giác độ phương thức chu chuyển vốn.
Đây là tiêu thức phân loại vốn chủ yếu nhất, có hiệu quả nhất trong việc quản lý vốn, căn cứ theo tiêu thức này thì vốn được phân thành 2 loại vốn cố định và vốn lưu động
Vốn cố định
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản cố định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu như máy móc, thiết bị , nhà xưởng, công trình kiến trúc, chi phí mua phát minh sáng chế … tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định có hai thuộc tính như mọi hàng hoá khác là giá trị và giá trị sử dụng , nó được mua bán, trao đổi trên thị trường
Đối với các doanh nghiệp khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải ứng trước một lượng tiền tệ nhất định để mua sắm tài sản cố định, vốn đầu tư để mua sắm tài sản cố định này được goi là vốn cố định của doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó mà sự tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định lại được giải quyết bởi đặc điểm của tài sản cố định. Quy mô vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định.
Tài sản cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất cùng với mức độ hao mòn tài sản cố định sẽ có một phần vốn cố định thể hiện qua các chu kỳ sản xuất tương ứng với giá trị hao mòn tài sản cố định. Đến khi tài sản cố định hết giá trị sử dụng thì vốn cố định cũng hoàn thành một vòng luân chuyển của nó.
Tài sản cố định còn được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, cũng tuỳ thuộc vào phương thức quản lý mà doanh nghiệp ứng dụng hợp lý:
Theo hình thái thể hiện: tài sản cố định bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản biểu hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, đất đai…
Tài sản cố định vô hình là những tài sản không biểu hiện bằng các hình thái hiện vật cụ thể. Đó là những khoản chi cho phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, các chi phí đầu tư ban đầu cho việc khảo sát thăm dò, chi phí cho việc đào tạo cán bộ…
Do tài sản cố định có chu kỳ vận động dài do đó sau nhiều năm mới có thể thu hồi đủ vốn ban đầu đã đầu tư nên đồng vốn luôn bị đe doạ bởi những rủi ro những nguyên nhân khách quan làm thất thoát vốn. Phân loại tài sản cố định theo hình thái này giúp doanh nghiệp trong việc quản lý và tính toán khấu hao chính xác và hợp lý.
Ngoài ra tài sản cố định còn phân loại theo hiện trạng sử dụng: tài sản cố định chia thành tài sản cố định đang dùng, tài sản cố định chưa dùng và tài sản cố định chờ thanh lý.
Theo sự phân chia này doanh nghiệp sẽ nắm bắt được tình hình sử dụng vốn cố định hiện tài cũng như khả năng sử dụng tiềm tàng để có thể điều chỉnh lại cơ cấu vốn cố định một cách hợp lý tránh tình trạng lãng phí do sự tồn đọng vốn chưa sử dụng một cách có hiệu quả.
Như vậy: vốn cố định là một bộ phận của vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiển giá trị của tài sản cố định. Nó có thể tham gia toàn bộ hoặc một phần vào quá trình sản xuất nhưng chỉ luân chuyển giá trị từng phần vào giá trị sản phẩm, phần giá trị luân chuyển này sẽ trở về doanh nghiệp sau khi quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá kết thúc.
vốn lưu động
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiển toàn bộ tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thường xuyên liên tục. Tài sản lưu động là loại tài sản mà thời gian thu hồi luân chuyển thường trong vòng 1 năm hoặc không quá 1 chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động có đặc điểm gồm nhiều loại tồn tại ở nhiều khâu của quá trình sản xuất kinh doanh và biến động rất nhanh, do đó việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động như thế nào ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự vận động của tài sản lưu động được diễn ra theo một qui trình nhất định : T – H - Sx ….H’ - T’
Giai đoạn 1: T – H: doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư mua sắm nguyên nhiên liệu, các loại đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh
Giai đoạn 2: Sx …: đây là giai đoạn các vật tư nguyên nhiên liệu đầu vào được đưa vào quá trình sản xuất, cùng với lao động con người và các loại máy móc thiết bị cần thiết các đối tượng lao động chuyển sang hình thái thể hiện vật chất khác là thành phẩm hoặc sản phẩm dở dang hoặc sản phẩm đã hoàn thành.
Giai đoạn 3: T’ – H’: giai đoạn hàng hoá được kiểm dịch và tung ra thị trường.
Toàn bộ đối tượng lao động ở giai đoạn 1 và 2 được gọi là tài sản lưu động. Như vậy vốn lưu động tham gia vào quá trình sản xuất và chuyển qua nhiều hình thái khác nhau. Lúc đầu là tiền tệ, sau đó là hình thái dự trữ hàng hóa rồi cuối cùng quay về hình thái tiền tệ ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn.
Vốn lưu động gắn chặt với từng bước thực hiện của hoạt động sản xuất kinh doanh, như vậy để sử dụngvốn lưu động có hiệu quả thì phải căn cứ vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doan, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, tránh tình trạng ứ đọng vốn, hay thiếu vốn.
à Trên giác độ nguồn hình thành của vốn:
Vốn được phân chia thành vốn tự có và vốn vay:
â vốn tự có( vốn chủ sở hữu):
Vốn tự có là nguồn vốn thuộc sở hữu của các chủ sở hữu doanh nghiệp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. doanh nghiệp về mặt pháp lý là người sở hữu nguồn vốn này có toàn quyền sử dụng chúng, tỷ trọng vốn chủ sở hữu so với tổng nguồn vốn phản ảnh mức độ sở hữu và chủ động của doanh nghiệp trong kinh doanh.
ở mỗi loại hình sở hữu doanh nghiệp khác nhau thì nguồn vốn này cũng có nguồn khác nhau:
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: thì nguồn vốn này là vốn ngân sách, ngân sách nhà nước cấp một phần vốn ban đầu thì doanh nghiệp bắt đầu hoạt động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp sau đó, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của ngân sách nhà nước cấp. Bên cạnh đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cũng có thể có được nguồn tài trợ của nhà nước thông qua việc cấp tài sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị…
- Đối với các doanh nghiệp cổ phần: nguồn vốn tự có hình thành từ đóng góp của các cổ đông bằng việc phát hành và bán cổ phiếu công ty trên thị trường khi sáng lập công ty. Trong quá trình hoạt động của mình doanh nghiệp cũng có thể tăng lượng vốn này bằng cách phát hành thêm cổ phiếu ra thị trường…
- Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn…: nguồn vốn tự có là phần vốn góp của các chủ doanh nghiệp chủ đầu tư bỏ ra để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh khi mới thành lập hoặc đầu tư dự án, theo qui định của pháp luật, số vốn pháp định đối với các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc không thấp hơn tổng vốn đầu tư các dự án nếu dùng để đầu tư thực hiện dự án.
â Vốn nợ( nợ phải trả):
Nếu như với vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp có thể sử dụng mà không có sự ràng buộc nào thì vốn nợ là khoản vốn mà doanh nghiệp phải cam kết thanh toán, doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng vốn trong phạm vi những ràng buộc nhất định mà không có quyền sở hữu. trong mối quan hệ với vốn nợ thì doanh nghiệp là con nợ, có nghĩa vụ trả lãi số vốn vay và hoàn trả gốc vay. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tiến hành vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau như vay các tổ chức tín dụng ( ngân hàng, công ty tài chính…), từ dân cư trong và ngoài nước, từ các tổ chức kinh tế xã hội dưới các hình thức như tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại , …Sử dụng vốn nợ doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí nhờ thuế, nhưng cũng không phải có lợi hoàn toàn, vì bên cạnh đó còn các yếu tố về khả năng kinh doanh, khả năng trả nợ, tỷ lệ lãi vay…
Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp… song tất cả các mục tiêu đó đều nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Do đó mỗi doanh nghiệp phải có cơ cấu vốn hợp lý, cân nhắc các yếu tố bên trong và bên ngoài để đưa ra các quyết định nhằm tối thiểu hóa chi phí, tăng gía trị tài sản của chủ sở hữu.
à Theo quá trình tuần hoàn vốn:
Vốn của doanh nghiệp được chia thành 3 loại:
- Vốn dự trữ: là hiện thân bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản dự trữ trong doanh nghiệp. Tài sản dự trữ là các loại tài sản chưa được đưa vào quá trình sản xuất hoặc lưu thông như giá trị còn lại của tài sản cố định, nguyên vật liệu tồn kho, tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng.
- Vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị sản xuất như sản phẩm dở dang đang nằm trên dây chuyền sản xuất, các loại chi phí tiền lương chi phí quản lý…
- Vốn lưu thông là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các tài sản lưu thông của doanh nghiệp. Tài sản lưu thông của doanh nghiệp là loại tài sản đang tồn tại trên kĩnh vực lưu thông như hàng hoá gửi bán chi phí bán hàng các khoản phải thu. Sau quá trình lưu thông giá trị sản phẩm được thực hiện vốn của doanh nghiệp được thu về với hình thái tiền tệ như ban đầu nhưng với số lượng thường là lớn hơn và vòng chu chuyển của vốn đã hoàn thành.
Trên đây là các cách phân loại vốn cơ bản của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình thức phân loại khác nhau tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý vốn sao cho hợp lý và dễ quản lý nhất.
1.1.3 Vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Bất kể một hoạt động nào muốn thực hiện được đều phải có những tiền đề cơ bản. ví dụ như để nấu được cơm thì trước hết phải có gạo và nước. Và để hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được thực hiện thì trước hết phải cần có vốn.
Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có thể thuộc sở hữu nhà nước, cá nhân, tập thể. Sở hữu cá nhân nếu số vốn đó nằm trong công ty tư nhân. sở hữu tập thể nếu số vốn đó nằm trong công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần. Vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hình thành từ nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp thuộc sở hữu nhà nước. Nhưng dù ở hình thức sở hữu nào thì vai trò của vốn cũng không thay đổi.
Với mọi doanh nghiệp dù ở hình thức nào thì muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được đều phải có lượng vốn nhất đinh. Đây là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình kinh doanh mà luật qui định doanh nghiệp phải có số vốn pháp định nhất định. Tuỳ theo nguồn vốn kinh doanh cũng như phương thức huy động vốn mà doanh nghiệp có các tên gọi khác nhau như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…Có vốn doanh nghiệp mới có điều kiện để trang bị các thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như văn phòng, phương tiện hoạt động, … cùng với việc ứng dụng khoa học vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn cũng quyết định đến khả năng đổi mới thiết bị, công nghệ, phương pháp quản lý,…của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động.
Số lượng vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một trong những tiêu thức quan trọng để xếp doanh nghiệp vào qui mô lớn, hay nhỏ và nó cũng là điều kiện để sử dụng các tiềm năng hiện có cũng như các yếu tố đầu vào doanh nghiệp. ví dụ khi doanh nghiệp có ít vốn thì chỉ có thể sử dụng các loại máy móc có công nghệ trung bình và sử dụng nhiều nhân công. Ngược lại doanh nghiệp có lượng vốn lớn thì có khả năng sử dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm được nhiều chi phí và nhân công. Ngoài ra vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ còn quyết định đến qui mô thị trường và khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp vốn còn đóng vai trò thể hiện ở chức năng giám đốc tài chính đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể đánh giá có hiệu quả kinh doanh hay không thông qua các chỉ tiêu sinh lời.
Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục từ khoản mua sắm vật tư, sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có các bí quyết công nghệ tiên tiến để nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện được cả quá trình trên thì doanh nghiệp phải có vốn để đầu tư.
Bên cạnh đó vốn còn ảnh hưởng đén phạm vi hoạt động đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp bởi tất cả nhũng hoạt động xây dựng phương án kinh doanh đầu tư máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm, phân tích thị trường… đều phụ thuộc vào quy mô vốn nhất định.
Việc đảm bảo tốt nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp trong việc chống đỡ được những tổn thất, rủi ro, biến động thị trường, khủng hoảng tài chính…trong quá trình hoạt động, đặc biệt là những ngành kinh doanh nhiều rủi ro như ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường cùng với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, việc có vốn và tập trung vốn nhiều hay ít vào doanh nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh. Đồng thời nó cũng là nguồn lực để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh nghiệp, là điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược, kinh doanh, và nó cũng là chất keo để chắp nối, kết dính các quá trình kinh tế là dầu nhớt để bôi trơn cỗ máy kinh tế vận động.
Như vậy vai trò của vốn rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng chi thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn thì càng có thể chủ động trong kinh doanh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh doanh không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất cơ hội kinh doanh, cũng như vai trò của mình trên thị trường mất bạn hàng thường xuyên ổn định không tạo ra sức mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh.
Nhận biết được vai trò của vốn trong kinh doanh, nhưng để có được lượng vốn cần thiết thì nhất thiết doanh nghiệp phải có các biện pháp tạo lập hữu hiệu và phù hợp, đồng thời phải có chính sách sử dụng hiệu quả và hợp lý. Tuy nhiên sử dụng hình thức tạo lập nào, thời hạn dài hay ngắn, chi phí huy động cao hay thấp… bắt buộc doanh nghiệp phải luôn có sự cân nhắc, vừa đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa tối thiểu hoá chi phí, hạn chế thấp nhất rủi ro nhằm thực hiện được các mục tiêu của mình.
Mặt khác mỗi doanh nghiệp đều có các đặc điểm riêng, có những lợi thế riêng và những hạn chế nhất định. Chính vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tự đánh giá phân tích những ưu và nhược điểm của mình để tìm ra những phương thức tạo lập vốn phù hợp nhất hiệu quả nhất phát huy khả năng tiểm ẩn và hạn chế những nhược điểm.
1.2 Tạo lập vốn, các hình thức tạo lập và các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn
1.2.1 Khái niệm tạo lập vốn
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo lập vốn khác nhau. Nhưng sử dụng hình thức nào phù hợp nhất mang lại hiệu quả cao nhất còn là vấn đề khó khăn của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt không chỉ ở thị trường tiêu thụ mà cả ở thị trường vốn, thì vấn đề tạo lập vốn và phương thức tạo lập vốn trở nên hết sức cấp thiết, luôn được các nhà quản lý đặt lên hàng đầu. Để giải quyết nó thì trước hết doanh nghiệp phải chủ động, tích cực tìm kiếm các nguồn để thu hút được một lượng vốn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. Đó chính là cách hiểu về tạo lập vốn.
Tạo lập vốn được hiểu là các phương thức huy động mà doanh nghiệp sử dụng để nhằm thiết lập nguồn tài chính để đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình tạo lập vốn được bắt đầu từ khâu xác định nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển, sau đó là việc lập các kế hoạch huy động vốn, có gắn với thời gian và phương thức huy động. Cuối cùng tiến hành huy động vốn.
Để công tác tạo lập vốn thành công thì trong mỗi giai đoạn của quá trình tạo lập vốn phải được phân tích và lựa chọn cho phù hợp với điều kiện từng môi trường hoạt động và lĩnh vực mà mình kinh doanh.
1.2.2Các hình thức tạo lập vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng
1.2.2.1 Tạo lập từ nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của một doanh nghiệp thuộc bất kể loại hình doanh nghiệp nào tổng hợp chung gồm các bộ phận sau:
vốn góp ban đầu ( vốn tự có)
Nguồn tích luỹ từ lợi nhuận không chia
Vốn tăng thêm từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp liên doanh
đ Vốn góp ban đầu ( vốn tự có)
Đây là vốn ban đầu do các chủ sở hữu đóng góp khi thành lập doanh nghiệp. Lượng vốn này được tạo lập từ nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Vốn tự có là vốn do nhà nước cấp phát và bổ sung. Việc giao vốn cho các doanh nghiệp nhà nước do cục quản lý vốn và tài sản tại doanh nghiệp trước đây và hiện nay là cục tài chính doanh nghiệp trực thuộc bộ tài chính đảm nhận có sự chứng kiến của các đại diện cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp nhà nước tài trợ hầu như toàn bộ vốn kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế, nên có hiện tượng ỉ lại vào sự bao cấp của nhà nước. Hậu quả là làm giảm tính năng động của các xí nghiệp trong việc chủ động khai thác các nguồn vốn cũng như tìm kiếm các giải pháp để bảo toàn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Khi bước sang cơ chế thị trường đi đôi với việc mở rộng và khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển, chính phủ đã xúc tiến các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc doanh nhằm giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp chủ động bổ sung phần thiếu hụt bằng các nguồn tài trợ khác.
- Đối với công ty cổ phần: vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phần. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty cổ phần, việc phân chia quyền kiểm soát và lợi nhuận sau thuế căn cứ vào tỉ lệ vốn góp. Trong công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau, qui định quyền và nghĩa vụ của các cổ đông.
- Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: vốn góp ban đầu do các bên tham gia đóng góp theo tỉ lệ thoả thuận và đây là căn cứ để phân chia lợi nhuận.
- Đối với công ty hợp danh: các thành viên cũng tiến hành góp vốn để thành lập công ty nhưng được phân chia thành hai loại đối tượng: vốn do thành viên hợp danh đóng góp là yếu tố chính để thành lập doanh nghiệp và trong quá trình hoạt động, các thành viên này tham gia quản lý điều hành hoạt động của công ty; còn thành viên góp vốn tham gia vào công ty hợp danh chỉ được phân chia lợi nhuận theo qui định của điều lệ công ty.
- Đối với doanh nghiệp liên doanh thì nguồn vốn của doanh nghiệp không đơn thuần là vốn góp của các tổ chức hoặc cá nhân trong nước hay vốn ngân sách nhà nước cấp, nó còn có sự tham gia góp vốn của các bên nước ngoài hay doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là vốn do nhà đầu tư nước ngoài mang sang để kinh doanh. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp này tối thiểu phải bằng một tỉ lệ nào đó so với vốn pháp định do pháp luật qui định.
Vốn góp ban đầu này có qui mô phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà quan trọng hàng đầu là luật pháp. Nhà nước qui định mức vốn ban đầu tối thiểu là vốn pháp định hay vốn điều lệ để thành lập doanh nghiệp. Vốn này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn góp ban đầu là một trong những nguồn tạo lập nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ lợi nhuận.
đ Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại
Lợi nhuận để lại là một bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và hấp dẫn của các doanh nghiệp vì nó giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp nhà nước việc tái đầu tư không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước.
Mặt khác đối với công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liện quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận số lợi nhuận đó nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ng._.ắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì cổ phiếu có thể bị giảm sút. Do đó để đảm bảo mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu mà không làm giảm giá cổ phiếu trên thị trường, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số vấn đề liên quan như:
Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước
Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
Hiệu quả của việc tái đầu tư
đ Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu mới
Phương thức tạo lập này chỉ thực hiện ở công ty cổ phần vì chỉ ở công ty cổ phần mới có hình thức cổ đông, quyền sở hữu tập thể. Cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn chứng nhận quyền sở hữu một phần tài sản và thu nhập của cổ đông đối với công ty cổ phần. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng việc phát hành cổ phiếu. Đây là nguồn tài trợ dài hạn và rất ổn định cho doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu mới cần phải đánh gía và lựa chọn kỹ càng bởi có nhiều loại cổ phiếu với các tính chất khác nhau:
- cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán điều đó chứng minh được tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác. Tuy nhiên việc phát hành cổ phiếu còn có những hạn chế và ràng buộc nhất đinh, chứ không phải chỉ đơn thuần đưa cổ phiếu ra thị trường. Giới hạn phát hành là qui định ràng buộc có tính pháp lý, chịu sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ của uỷ ban chứng khoán nhà nước.
Phát hành cổ phiếu thường có một số thuận lợi sau:
+ đối với nhà phát hành:
Tạo lập được vốn chủ sở hữu với độ an toàn khi sử dụng cao do không phải lo hoàn trả gốc, có thể không phải trả cả lãi
Là nguồn tài trợ dài hạn và ổn định
Rủi ro được tiếp tục phân tán cho các cổ đông mới nên độ rủi ro tính trên một đồng vốn chủ sở hữu giảm đi
+ đối với người mua:
Có quyền yêu cầu về thu nhập nên công ty hoạt động càng hiệu quả, cổ tức càng cao do không giới hạn về thu nhập
Có quyền kiểm soát đối với hoạt động của công ty
Trở thành chủ sở hữu công ty, lợi nhuận kỳ vọng từ khoản đầu tư này cao hơn so với chủ nợ.
Bên cạnh những thuận lợi rất hấp dẫn thì cổ phiếu thông thường cũng có những hạn chế:
+ đối với nhà phát hành:
Quyền kiểm soát bị chia sẻ
Do rủi ro của việc sử dụng vốn từ phát hành cổ phiếu thấp nên khả năng sinh lời sẽ giảm đi
Chi phí vốn cao hơn chi phí nợ vì đây là chi phí cao nhất trong các loại vốn huy động
Chi phí vốn chủ sỏ hữu là chi phí sau thuế nên không được lợi từ khoản tiết kiệm nhờ thuế
+ đối với người mua:
Quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản là sau cùng
Rủi ro gánh chịu là cao hơn so với chủ nợ ( rủi ro không thu hồi được vốn đầu tư)
- Cổ phiếu ưu tiên: loại cổ phiếu này thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định, chủ sở hữu cổ phiếu ưu tiên có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Một đặc điểm khác là cổ đông cổ phiếu ưu tiên vẫn là chủ sở hữu công ty nhưng không có quyền tham gia biểu quyết không được tham gia đại hội đồng cổ đông, nó mang tính chất như thành viên góp vốn trong công ty hợp danh.
Một vấn đề rất quan trọng khi đề cập đến cổ phiếu ưu tiên, đó là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên. mặc dù vậy cổ phiếu ưu tiên vẫn có những ưu điểm nổi bật:
tạo lập được vốn chủ sở hữu (huy động vốn vô thời hạn với chi phí thấp so với phát hành cổ phiếu thường.
Không phải chia xẻ quyền kiểm soát
Không bị ràng buộc bởi trách nhiệm trả nợ gốc
Như vậy việc lựa chọn phát hành cổ phiếu mới hay sử dụng lợi nhuận không chia để nhằm tạo lập vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Nếu đã lựa chọn phát hành cổ phiếu mới thì vấn đề quyết định loại cổ phiếu nào cũng rất quan trọng bởi nó có liên quan đến chi phí vốn của từng loại cổ phiếu. Trên cơ sở phân tích so sánh những điểm lợi và bất lợi của từng phương thức tạo lập, doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định chính xác, phù hợp cho mình.
1.2.2.2 Tạo lập từ nguồn tín dụng
Nguồn tín dụng là nguồn quan trọng nhất của bất kể doanh nghiệp nào, bởi vì sử dụng nguồn này doanh nghiệp có những ưu thế hơn sử dụng vốn chủ sở hữu, ở một số điểm sau:
- Khả năng sinh lời của khoản nợ lớn hơn khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu do rủi ro sử dụng nợ cao hơn tức là lợi nhuận kì vọng cao hơn.
- Các khoản lãi phải trả cho khoản nợ là đối tượng khấu trừ thuế ( chi phí trước thuế ) nên doanh nghiệp sẽ được hưởng khoản tiết kiệm nhờ thuế.
- Chi phí nợ nhỏ hơn chi phí vốn chủ sở hữu ( đối với doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định)
Do sử dụng nợ có những ưu thế trên nên các doanh nghiệp thường khai thác triệt để nguồn này để tạo đòn bẩy tài chính khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu.
đ Tín dụng ngân hàng
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn này xuất hiện từ sớm trong lịch sử và tiếp tục khẳng định ưu thế của nó cho đến ngày hôm nay và cả tương lai. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển kinh tế nhiều loại hình ngân hàng đã ra đời với nhiều loại hình dịch vụ để thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Ngay trong nghiệp vụ cho vay của ngân hàng cũng đã rất đa dạng. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương thức cho vay khác nhau như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay hợp vốn… tuỳ thuộc vào mục đích vay của doanh nghiệp là để tài trợ cho dự án, đầu tư tài sản cố định hay vay bổ sung vốn lưu động. Ngân hàng thoả mãn các nhu cầu của khách hàng với các thời hạn khác nhau ngắn, trung, và dài hạn.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm là linh hoạt, huy động được một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, doanh nghiệp chỉ phải chịu trách nhiệm với một chủ nợ ngân hàng.
Bên cạnh đó nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn ( lãi suất)
- Điều kiện tín dụng: Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ tiến hành phân tích để quyết định có nên cho vay hay không.
- Các điều kiện bảo đảm tiền vay: có những doanh nghiệp được ngân hàng vay vốn theo hình thức tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba nhưng cũng co doanh nghiệp muốn vay được vốn ngân hàng cần phải có tài sản đảm bảo phổ biến là tài sản thế chấ. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay. Do đó, doanh nghiệp cần tính đến các yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.
- Sự kiểm soát của ngân hàng: trong quá trình cho vay ngân hàng tiến hành kiểm soát doanh nghiệp nhằm đảm bảo doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích. Nói chung sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp nhưng trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”.
- Lãi suất vay vốn (chi phí sử dụng vốn): lãi suất phản ánh chi phí sử dụng vốn. Yếu tố này phụ thuộc vào tình hình trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Đây là hình thức tạo lập vốn phổ biến và nó chiếm gần 90% nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Cùng với nguồn tín dụng ngân hàng doanh nghiệp còn có thể sử dụng nhiều hình thức khác như tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu (vay trên thị trường chứng khoán )
đ Tín dụng thương mại
Thông thường quan hệ mua bán giữa các doanh nghiệp không kết thúc ngay ở một thời điểm, nghĩa là dòng tiền tài chính xuất hiện chậm hơn dòng vật chất, nếu doanh nghiệp là người bán hàng thì đây là chính sách tín dụng khách hàng, còn nếu doanh nghiệp là người mua hàng thì đây là trường hợp doanh nghiệp được hưởng một khoản tín dụng nhà cung cấp. Tín dụng khách hàng và tín dụng nhà cung cấp thực chất chỉ là hai mặt của tín dụng thương mại.
Đối với doanh nghiệp đây là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng, linh hoạt trong kinh doanh, có thể đáp ứng nhu cầu cấp bách của doanh nghiệp, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác các quan hệ trong kinh doanh một cách lâu bền.
Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại không phải là không có chi phí. Chi phí được tính vào giá thành sản phẩm, dịch vụ và có thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được thoả thuận khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung, hay khi giao hàng hóa. Do vậy các doanh nghiệp không nên quá lạm dụng nguồn vốn tín dụng thương mại bởi vì nếu quy mô quá lớn doanh nghiệp dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn tới phá sản.
đ Tín dụng thuê mua
Do nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng lớn, để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất hiện nhiều hình thức tài trợ vốn trong đó có hình thức tín dụng thuê mua.
Tín dụng thuê mua là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản qui định tại hợp đồng cho thuê ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Thuê mua là nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hoặc là hoạt động của một công ty độc lập. Nghiệp vụ thuê mua có những ưu việt và những bất lợi nhất định. Song do những ưu việt vượt trội nên nó đã có lịch sử rất lâu trên thế giới. Ngày ngay nghiệp vụ này đang phát triển mạnh rộng khắp ở các nước và bắt đầu phát triển ở nước ta đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Lợi ích của thuê tài chính đối với người thuê rất lớn:
- Người thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Bởi vì nếu vay ngân hàng thì không cung ứng đủ điều kiện mà họ đặt ra, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, uy tín trên thị trường không cao. Chẳng hạn như doanh nghiệp không phải thế chấp khi vay, bản thân doanh nghiệp có thể tự tìm cho mình đối tác phù hợp với nhu cầu…
- Phương thức này cho phép rút ngắn thời gian triển khai đầu tư thiết bị đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh do người thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản đàm phán hoặc thoả thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu công ty cho thuê tài trợ cho mình.
- Thông qua nghiệp cụ bán và tái thuê các doanh nghiệp có thể dịch chuyển vốn đầu tư cho các dự án khác đang cần vốn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn tiếp tục được sử dụng.
- Trong điều kiện bùng nổ công nghệ như hiện nay chỉ trong một thời gian ngắn một tài sản trở lên lạc hậu về công nghệ. Vì vậy nếu đi thuê tài chính, doanh nghiệp có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị hiện đại vào sản xuất. Do những điều kiện để doanh nghiệp được thuê tài chính đơn giản hơn vay ngân hàng nên doanh nghiệp phải chấp nhận mức chi phí cao hơn. Đó là số tiền phải đủ để bù đắp chi phí mua tài sản cố định tại thời điểm bắt đầu hợp đồng và mang lại thu nhập cho bên cho thuê.
đ Phát hành trái phiếu ( vay trên thị trường chứng khoán)
Doanh nghiệp có thể tạo lập vốn trên thị trường chứng khoán qua việc phát hành trái phiếu công ty. Trái phiếu công ty là một công cụ nợ dài hạn được doanh nghiệp phát hành để tạo lập vốn từ các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn của trái phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán tiền gốc cho người mua. Thông thường trái phiếu được phân thành hai loại:
- Trái phiếu có lãi xuất cố định: là loại trái phiếu mà lãi suất được ghi ngay trên bề mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Cả người đi vay (doanh nghiệp) và người nắm giữ trái phiếu( người cho vay) đều biết rõ khoản nợ và khoản thu của mình.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là loại trái phiếu mà lãi suất của nó có thể biến động theo một công thức chỉ số hoặc theo những cách thức khác được dự đoán ngay khi phát hành. Công thức biến động này thường gắn liền với những biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng phát hành trái phiếu công ty phải hội tụ đủ các điều kiện quy định của pháp luật ban hành về lưu thông chứng khoán các được sự chấp nhận của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực thị trường chứng khoán.
Mặt khác để phát hành chứng khoán thành công thì doanh nghiệp tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào những yếu tố sau:
- Lãi suất trái phiếu: lãi suất trái phiếu được đặt trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến cạnh tranh với trái phiếu công ty khác và trái phiếu chính phủ. đương nhiên người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng doanh nghiệp phát hành cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được vì đó chính là chi phí vốn mà doanh nghiệp phải trả, tác động trực tiếp đến lợi nhuận.
- Kỳ hạn của trái phiếu: phải phù hợp với nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Kỳ hạn càng dài thì độ rủi ro đối với các nhà đầu tư càng lớn nên sẽ càng giảm tính hấp dẫn của trái phiếu. Doanh nghiệp cần phải cân đối giữa nhu cầu của doanh nghiệp và ý muốn của nhà đầu tư.
- Uy tín của doanh nghiệp: không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của doanh nghiệp thì mới quyết định mua hay không. Các doanh nghiệp có uy tín và vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động.
1.2.2.3 Một số phương thức tạo lập khác
Ngoài các hình thức tạo lập vốn chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu và từ nguồn tín dụng doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức tạo lập từ nguồn liên doanh liên kết, từ nguồn vay từ các tổ chức nước ngoài.
Nguồn vốn liên doanh liên kết là hình thức cũng khá phổ biến trong nền kinh tế hiện nay, nó nhằm tích luỹ một số vốn lớn cho doanh nghiệp. Khi thực hiện một dự án đầu tư đầu tư nào đó mà doanh nghiệp không đủ vốn hoặc không muốn bỏ toàn bộ vốn dự án đầu tư thì doanh nghiệp có thể mời các đơn vị hoặc tổ chức kinh tế khác cùng tham gia góp vốn và thực hiện sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp và các chủ đầu tư cùng nhau góp vốn trong một thời gian tương đối dài, cùng chịu trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn, phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp. Việc góp vốn liên doanh liên kết này không chỉ thực hiện ở môi trường trong nước và cả thị trường ngoài nước. Với hình thức này doanh nghiệp không chỉ thực hiện việc huy động vốn mà còn thúc đẩy quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn
1.2.3.1 Các nhân tố khách quan
Đây là các nhân tố tồn tại ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp chỉ có thể dự đoán trước nhằm giảm thiểu những rủi ro và có các hướng đi phù hợp cho mình.
{ Trạng thái nền kinh tế
Doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế xã hội, với nhiều biến động mạnh mẽ. Do đó mà hoạt động doanh nghiệp trước hết chịu tác động của trạng thái kinh tế. Trạng thái nền kinh tế có các thăng bậc từ tăng trưởng, phát triển và suy thoái, mỗi một trạng thái đều có các tác động đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp. Khi nền kinh tế suy thoái việc sử dụng nợ không những không tạo ra hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương mà còn làm giảm thu nhập của chủ sở hữu. Hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương nghĩa là doanh nghiệp sử dụng nợ với tỷ trọng tổng nguồn của doanh nghiệp càng cao thì thu nhập dành cho các chủ sở hữu càng lớn. Như vậy trong trường hợp này việc sử dụng nợ là có hại. Khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển nguồn lực kinh tế là rất lớn, do đó việc sử dụng nợ hay vốn chủ sở hữu đều đem lại kết quả như nhau. Trong giai đoạn này việc sử dụng nợ đem lại hiệu quả tích cực, nó có thể khuyếch đại thu nhập cho chủ sở hữu một cách nhanh chóng do khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên ở bất kể thời kỳ nào thì doanh nghiệp cũng đều phải cân đối giữa vốn chủ sở hữu và nợ.
{ Chính sách kinh tế của nhà nước
Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế xã hội bằng nhiều công cụ kinh tế, cụ thể là ban hành các điều luật qui định thực hiện. Do đó trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào thì các doanh nghiệp cũng phải đề cập đến các qui định của nhà nước. Trước hết thể hiện ở việc qui định vốn pháp định hay vốn điều lệ của từng ngành nghề kinh doanh. Có những ngành nghề yêu cầu vốn pháp định phải lớn nhưng có ngành nghề có sự ưu đãi phát triển của nhà nước.
Một mặt quan trọng trong chính sách pháp luật của nhà nước là chính sách về thuế. ở đó thuế thu nhập doanh nghiệp tác động tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp thông qua ảnh hưởng đến chi phí nợ vay. Bởi vì chi phí nợ vay là chi phí trước thuế, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ thuế từ khoản này. Thuế suất thuế thu nhập càng cao phần tiết kiệm thuế càng lớn thì sử dụng nợ càng có lợi, càng khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ hơn.
Ngoài ra các chính sách khác như các qui định của nhà nước về thủ tục và điều kiện vay vốn, thủ tục và điều kiện phát hành chứng khoán, nhứng hạn chế trong quy mô và hình thức tài trợ của tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp… đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến chi phí sử dụng vốn cũng như việc doanh nghiệp có vay được vốn hay không.
{ Sự phát triển của thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi mà doanh nghiệp có thể thu hút vốn và tạo lập vốn một cách nhanh chóng và hiệu quả. Với hai dòng tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp, doanh nghiệp có nhiều cơ hội chọn lựa và khai thác nguồn vốn phù hợp với mình. Tuy nhiên một thị trường tài chính phát triển đòi hỏi thông tin về doanh nghiệp phải được công khai và mọi sự cạnh tranh là hoàn hảo, với sự can thiệp của nhà nước là thấp nhất, ở đó doanh nghiệp có nhiều thuận lợi trong việc tạo lập vốn. Còn trong những nền kinh tế mà thị trường tài chính còn ở giai đoạn đầu thì hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp sẽ bị hạn chế. Chẳng hạn khi phát hành chứng khoán, với thị trường tài chính phát triển sẽ góp phần tạo nên tính thanh khoản cho chứng khoán, khả năng huy động vốn cho doanh nghiệp sẽ tăng lên. Và ngược lại, ở một thị trường kém phát triển thì chứng khoán khó lưu hành hơn.
Ngoài ra còn một số các yếu tố khách quan khác thuộc về môi trường tự nhiên như thiên tai lụt bão…xảy ra ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án tác động gián tiếp đến công tác huy động vốn doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc về địa bàn dân cư như thu nhập, mức sống, điều kiện kinh tế địa phương cũng là các nhân tố ảnh hưởng đến việc tạo lập vốn của doanh nghiệp.
1.2.2.2.Các nhân tố chủ quan
Nếu như các nhân tố khách quan nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp thì các nhân tố chủ quan lại thuộc về bản thân doanh nghiệp. Đây là các nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, sự tồn tại phát triển hay sự lụi tàn phá sản của doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố tác động, sau đây là các nhân tố cơ bản:
{ Mục đích sử dụng vốn hay chiến lược đầu tư
Bất kể hoạt động nào cũng có mục đích và kì vọng của hành động đó. Doanh nghiệp xác định mục đích cho việc tạo lập vốn của mình nhằm tài trợ cho khoản mục nào. Tuỳ thuộc vào tính chất và đặc điểm của từng khoản mục mà doanh nghiệp có các hướng tạo lập vốn và đầu tư phù hợp. Với những khoản đầu tư cho tài sản cố định doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn tài trợ từ vốn chủ sở hữu hay nợ dài hạn. Do đặc điểm tài sản cố định là có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài, hao mòn được chuyển dần vào giá trị sản phẩm sản xuất và được thu hồi trong quá trình sản xuất kinh doanh thông qua hình thức lập quỹ khấu hao, nên doanh nghiệp có thể sử dụng chủ yếu từ nợ để tài trợ, phần lãi và gốc được trả đều đặn trong từng thời kỳ sản xuất. Đồng thời có thể tiết kiệm được chi phí nhờ thuế. Với tài sản lưu động thường xuyên thì lại được tài trợ bằng nguồn dài hạn và khi đó doanh nghiệp phải tìm hình thức tạo lập phù hợp như nguồn vốn chủ sở hữu hay nguồn vay dài hạn ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán…Với nhu cầu bổ sung thiếu hụt tạm thời doanh nghiệp sử dụng nguồn ngắn hạn như vay ngắn hạn ngân hàng hay nguồn tín dụng thương mại. Tóm lại tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư mà doanh nghiệp có chiến lược tài trợ khác nhau. Tuy nhiên trong doanh nghiệp cũng là tổng hoà của các mối quan hệ, hoạt động sản xuất cũng diễn ra theo một quá trình, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ các yếu tố. Như vậy doanh nghiệp phải có chiến lược đầu tư toàn diện, điều này liên quan đến cơ cấu vốn và chi phí vốn, hai yếu tố cũng hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc tạo lập vốn của doanh nghiệp.
{ Chi phí vốn và cơ cấu vốn
Chi phí vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kì vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Để được sử dụng vốn thì doanh nghiệp phải trả cho người sở hữu hiện thời khoản vốn đó một khoản tiền gọi chung là chi phí vốn. Khoản chi phí này cao hay thấp ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải tính toán lựa chọn đối tác để vay và các phương thức vay phù hợp với doanh nghiệp và đảm bảo mức lợi nhuận của doanh nghiệp, không thể vay khi chi phí tiền vay cao hơn mức lợi nhuận đem lại.
Cơ cấu vốn là cách mà mỗi doanh nghiệp thực hiện nhằm phân chia nguồn vốn của mình trong quá trình sử dụng. Cùng với chi phí vốn thì cơ cấu vốn là nhân tố có tác động không nhỏ tới quyết định tạo lập vốn của doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là phải xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý ( cơ cấu vốn tối ưu), cơ cấu vốn này có thể thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Một cơ cấu vốn được xem là tối ưu khi nó đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, kết quả là chi phí vốn bình quân sẽ là thấp nhất.
Có bốn nhân tố tác động tới cơ cấu vốn:
- Thứ nhất, rủi ro trong kinh doanh. Đây là loại rủi ro tiềm ẩn trong tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp
- Thứ hai là chính sách thuế. thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chi phí của nợ vay thông qua điều tiết phần tiết kịêm nhờ thuế. thuế suất cao sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên.
- Thứ ba, khả năng tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là khả năng tăng vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu. Các nhà quản lý biết rằng tài trợ vốn vững chắc là một trong những điều kiện cần thiết để doanh nghiệp hoạt động ổn định và có hiệu quả. Nhu cầu vốn trong tương lại và những hậu quả thiếu vốn có ảnh hưởng quan trọng với mục tiêu cơ cấu vốn
- Thứ tư, sự bảo thủ hay phóng khoáng của nhà quản lý. Một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn, trong khi đó một số khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.
Bốn nhân tố trên tác động rất lớn đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một cơ cấu vốn khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng của tài sản cố định trong tổng tài sản cao hơn so với các doanh nghiệp thương mại. Do đó cơ cấu vốn của doanh nghiệp cũng phải phù hợp với đặc điểm này nghĩa là các doanh nghiệp sản xuất cần nhiều nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định, còn các doanh nghiệp thương mại thì ưu tiên cho việc huy động các nguồn vốn ngắn hạn nhằm đầu tư vào tài sản lưu động.
{ Hiệu quả việc sử dụng vốn
Sử dụng vốn và tạo lập vốn có tác động qua lại với nhau, sử dụng vốn có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp, tạo lập vốn là cơ sở để có các quyết định sử dụng vốn. Doanh nghiệp có vốn mà không biết sử dụng có hiệu quả thì nguồn vốn đó không có tác dụng, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh, làm giảm thiểu lợi nhuận của doanh nghiệp tức là giá trị sở hữu doanh nghiệp giảm xuống. Ngược lại việc sử dụng vốn có hiệu quả sẽ làm tăng khả năng tạo thêm vốn thông qua hoạt động của chính bản thân doanh nghiệp. Bởi nếu doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả sẽ là điều kiện tốt để doanh nghiệp có các phương thức thu hút vốn nguồn vốn từ các nguồn khác nhau, đồng thời khả năng tự tài trợ bằng nguồn nội bộ cũng tăng lên, làm tăng giá trị vốn chủ sở hữu doanh nghiệp.
Có rất nhiều chỉ tiêu đo hiệu quả sử dụng vốn, sau đây là một số các chỉ tiêu cơ bản đối với tất cả các doanh nghiệp:
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) = thu nhập sau thuế/ vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Doanh lợi tài sản (ROA) = thu nhập sau thuế/ tổng tài sản
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố đinh = DT trong kỳ / VCĐ sử dụng bq
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Kỳ thu tiền bq = tổng số ngày trong kỳ/ vòng quay khoản phải thu trong kỳ
Vòng quay khoản phải thu = DT bán hàng trong kỳ/ các khoản phải thu bq
{ Uy tín doanh nghiệp
Đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập vốn của doanh nghiệp. Có thể hiểu uy tín theo nghĩa rộng bao gồm uy tín trong thanh toán, uy tín trong sản xuất kinh doanh biểu hiện bằng quá trình thực hiện hợp đồng, danh tiếng của doanh nghiệp trong ngành và trên thị trường. Với các doanh nghiệp lớn hoạt động lâu năm trên thị trường và được nhiều người biết đến thì việc huy động vốn thuận lợi và dễ dàng hơn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ hoặc vừa bước chân vào thị trường. Bởi bất kể nhà đầu tư nào cũng không muốn mạo hiểm với số tiền của mình, khi đã quyết định đầu tư thì luôn kì vọng vào một giá trị lớn hơn họ sẽ nhận được trong tương lai. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì việc tạo dựng uy tín của doanh nghiệp là rất quan trọng, bởi sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở chất lượng, số lượng giá trị sản phẩm mà còn ở uy tín doanh nghiệp, hình ảnh của doanh nghiệp trong lòng các nhà đầu tư.
{ Chiến lược hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai
Nếu trong tương lai doanh nghiệp dự định đầu tư những dự án lớn thì ngay bây giờ các nhà quản lý doanh nghiệp đã phải lên kế hoặch tìm kiếm nguồn tài trợ. Công việc này không phải muốn là thực hiện được, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để có khối lượng lợi nhuận tích luỹ đủ lớn, các nhà quản lý thiết lập uy tín, tận dụng các mối quan hệ để kêu gọi nguồn hỗ trợ từ bên ngoài.
Trên đây là một số hình thức huy động vốn nói chung trong nền kinh tế thị trường, tuỳ từng loại hình doanh nghiệp khác nhau, đặc điểm kinh doanh khác nhau mà áp dụng các hình thức tạo lập vốn phù hợp.
1.3 Vốn trong công ty cổ phần: Một số những đặc điểm cơ bản
Bước vào nền kinh tế thị trường, cùng với nền sản xuất hàng hóa là sự cạnh tranh diễn ra ngày càng ngay ngắt, đòi hỏi bản thân mỗi doanh nghiệp và từng thành viên trong công ty phải lỗ lực hết mình cùng nhau sản xuất và phát triển. Trong xu thế đó các doanh nghiệp nhà nước cần phải tự khẳng định mình tự mình đứng vững trên thương trường mà bước ra khỏi sự bảo hộ của nhà nước. Hàng loạt các công ty cổ phần đã chính thức được triển khai, các doanh nghiệp nhà nước được chủ trương cổ phần hoá, các doanh nghiệp mới cũng được hình thành với cơ cấu cổ phần, hoạt động theo luật doanh nghiệp.
1.3.1Đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp đã và đang được phổ biến rộng rãi, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Đặc điểm công ty cổ phần được quy đinh rất rõ trong luật doanh nghiệp. Sau đây là một số những đặc điểm cơ bản:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vị số vốn đã góp vào doanh nghiệp
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo qui định về chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần bao gồm đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc (hoặc tổng giám đốc). Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông thì phải có ban kiểm soát.
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết , là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần, quyết định các vấn đề liên quan đến chiến lược phát triển dài hạn của công ty, quyết định các loại cổ phần, bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, quyết định tổ chức lại và giải thể công ty, quyết định sửa đổi bổ sung điều lệ công ty…Các vấn đề thuộc đại hội đồng cổ đông quyết định thường là biểu quyết và sẽ được thông qua khi có ít nhất 51% số cổ phần có quyền biểu quyết. Tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý ._.hân tích nhưng chủ yếu còn phụ thuộc rất lớn vào các chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Công ty cần có chiến lược cụ thể và định hướng hoạt động nhằm thực hiện tốt hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, quan trọng là có các phương thức tạo lập vốn hợp lý đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chương III: Giải pháp chủ yếu trong việc tạo lập vốn ở CTCP May Thăng Long
3.1 Định hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới
Là doanh nghiệp có bề dày phát triển công ty cổ phần May Thăng Long đã có hơn 45 năm xây dựng và trưởng thành, và trong thời gian tới công ty vẫn đang tiếp tục tìm hướng đi cho mình
Trong nền kinh tế thị trường khi mà xu thế phát triển toàn cầu đang ngày càng diễn ra hết sức mãnh liệt, đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, nhưng cùng với sự phát triển đó là sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt, đặt các doanh nghiệp trước những thách thức to lớn. Công ty May Thăng Long cũng như các doanh nghiệp khác cũng đang hối hả bước vào nền kinh tế với nhiều định hướng phát triển, trước hết phải phân tích được những cơ hội và thách thức của mình, trong lĩnh vực hàng dệt may.
3.1.1 Cơ hội và thách thức
Là một lĩnh vực được coi là thế mạnh của đất nước, ngành dệt may đã và đang tạo rất nhiều nguồn thu cho nhà nước. Nước ta có nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển may mặc như thuận lợi về nguồn lao động dồi dào, nguồn nguyên nhiên liệu phong phú, với tiền thân là ngành thủ công truyền thống …Nền kinh tế phát triển bước sang giai đoạn mới cùng với tiến bộ khoa học và kỹ thuật, mức sống con người cũng ngày càng nâng cao các yêu cầu và nhu cầu cũng ngày càng tăng lên các quan hệ kinh tế cũng ngày càng mở rộng, các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế cũng ngày càng khăng khít và ràng buộc lẫn nhau, đã mở ra nhiều cơ hội mới cũng như đặt doanh nghiệp trước nhiều trở ngại thách thức:
3.1.1.1 Cơ hội
Vẫn là những thuận lợi của ngành dệt may công ty May Thăng Long có nhiều cơ hội trong việc thu hút nguồn nhân lực, có khả năng khai thác được nhiều nguồn nguyên nhiên liệu trong nước, phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Ngành may mặc là ngành đi theo thời đại không bao giờ là cũ là lạc hậu, do đó con đường phía trước với công ty rất rộng mở.
Trong tiến trình hội nhập kinh tê, tin vui đến với các ngành kinh tế nói chung trong đó ngành dệt may có nhiều cơ hội hơn cả, đó là việc Việt Nam được đàm phán gia nhập WTO. Cùng với việc gia nhập tổ chức lớn uy tín này chúng ta có cơ hội tăng cường vị thế quốc tế và bảo vệ quyền lợi khi tham gia xây dựng những qui định của WTO. Hàng hoá dịch vụ của Việt Nam sẽ được trao đổi bình đẳng như hàng hoá và dịch vụ của các nước khác, khả năng xuất khẩu của chúng ta sẽ cao hơn rất nhiều so với trước đây, các qui định về hạn ngạch và thuế sẽ được cải thiện. Đây là cơ hội rất lớn đối với hàng dệt may nói chung và với công ty may Thăng Long nói riêng vì khi đó thị phần cho hàng may mặc xuất khẩu của công ty cũng được nới rộng, ở các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản…việc giao lưu hợp tác kinh tế được mở rộng, doanh nghiệp có cơ hội thu hút nhiều dự án đầu tư hơn.
Đặc biệt ngày 1/1/2005 hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ theo thoả thuận của các nước thành viên trong WTO như vậy các nước xuất khẩu sang EU sẽ có nhiều cơ hội hơn để tham gia chiếm lĩnh thị trường “màu mỡ” này mà không hạn chế về số lượng. Đây là cơ hội rất lớn nhưng không phải là dễ dàng để chúng ta thực hiện.
Bên cạnh những thuân lợi luôn kèm theo những thách thức của nó, thậm chí những thách thức đó còn bao trùm lên những cơ hội chúng ta có vướt qua được những rào cản đó thì cơ hội mới thực sự đến với mình.
3.1.1.2 Thách thức
Có thể nói cơ hội của chúng ta có nhiều nhưng những rào cản và những thách thức thì còn nhiều hơn. Với bất kể lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh nào nằm trong kinh tế thị trường thì điều trước hết cần lo lắng là làm sao tạo được vị thế cạnh tranh trên thương trường, đặt cho mình một chỗ đứng vững chắc.
Với sản phẩm may mặc công ty may Thăng Long đã và đang vấp phải nhiều sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, các đối thủ lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Thuỵ Điển…mà đặc biệt là Trung Quốc. Hàng hoá của Trung Quốc khách quan mà nhận xét đã tràn ngập trên khắp đất nước ta ở tất cả các lĩnh vực, do đó cũng khẳng định được tính thị trường của chúng rất cao. Đây là thách thức lớn không chỉ đối với riêng công ty May Thăng Long mà còn cho toàn ngành may nói chung.
Đặc biệt một khi hạn ngạch được bãi bỏ các nhà sản xuất có chi phí thấp và hiệu suất cao sẽ được tự do xuất khẩu theo khả năng cung ứng của họ và nhiều chuyên gia dự báo Trung Quốc là nước hưởng lợi nhiều nhất và nước này sẽ giành vị trí thống soái trên thế giới. Báo cáo WTO cho rằng xuất khẩu của Trung Quốc và ấn Độ sẽ tăng mạnh trong năm nay. Tại thị trường dệt may Mỹ, tỷ trọng của Trung Quốc năm nay sẽ tăng lên 50% từ mức 16% năm 2002, tỷ trọng của ấn Độ tăng từ 4% lên 15%. Tại thị trường dệt may EU tỷ trọng Trung Quốc sẽ tăng từ 20% lên 29% và tỷ trọng của ấn Độ tăng từ 5% đến 9%.
Vậy tại sao mặt hàng Trung Quốc lại chiếm lĩnh được thị phần nhiều như vậy? Bởi vì Trung Quốc có khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại trong lĩnh vực dệt may, nguồn nguyên phụ liệu sản xuất sản phẩm dệt may với chất lượng cao có thể mua trực tiếp ngay trong nước, giảm thiểu được chi phí và thời gian là một thuận lợi rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Không chỉ gặp thách thức trước cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà trên thị trường nội địa sự cạnh trạnh cũng diễn ra hết sức gay gắt. số lượng các doanh nghiệp dệt may ngày càng nhiều công ty có nhiều đối thủ mạnh như May 10, May Đức Giang, May Việt Tiến…Đều là các doanh nghiệp trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam được cạnh tranh tự do trên thị trường trong nước một thị trường đang được đánh giá cao, các công ty cũng đang lỗ lực để thu hút thị phần về phía mình. Cùng một loại snar phẩm các mặt hàng của các công ty này luôn đứng cạnh nhau trong các cửa hiệu các hội chợ triển lãm … và tất nhiên khi quyết định chọn lựa sản phẩm khách hàng sẽ chọn sản phẩm có chất lượng tốt và giá thành thấp và mẫu mã đẹp. Đây chính là thách thức thực tế nhất đối với công ty.
ở thị trường nội địa không chỉ có các đối thủ là các doanh nghiệp trong nước mà sự cạnh tranh còn bao gồm cả với các mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào. Việc chúng ta gia nhập WTO đã mang lại nhiều cơ hội nhưng đó cũng là thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Việt Nam sẽ phải cắt giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Năm 2005 thực hiện xóa bỏ định lượng nhập khẩu. 1/6/2006 sẽ bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ thuế. Như vậy các doanh nghiệp trong nước nếu không có sự chuẩn bị tốt rất có thể các doanh nghiệp của ta sẽ phải tụt hậu, thậm chí trong cuộc chiến cạnh tranh sẽ bị thua ngay trên “sân nhà”. Đơn cử như sản phẩm may mặc Trung Quốc nhập khẩu vào thị trường nước ta, đã chiếm lĩnh rất nhiều thị phần vì sản phẩm của họ có giá thành hợp lý, có mẫu mã đẹp. Như vậy để tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là thách thức cơ bản và lâu dài, mà bất kể một doanh nghiệp nào cũng gặp phải. Công ty may Thăng Long cũng không nằm ngoài qui luật đó. Thách thức đặt ra đòi hỏi công ty phải tăng năng xuất lao động và giảm giá thành sản phẩm. Cùng một chi phí như vậy nhưng thay vì làm ra các sản phẩm thông dụng thì phải làm ra các sản phẩm có chất lượng cao để tăng mức tiêu thụ. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào công tác quản lý đổi mới kỹ thuật mà ở đây vốn là khâu yếu nhất.
Mặt khác nền kinh tế phát triển kèm theo nhu cầu và yêu cầu của con người ngày càng tăng lên. Đặc biệt với những sản phẩm có tính chất thời vụ và thời trang như sản phẩm may mặc thì những thay đổi này là rất lớn. Điển hình như việc nhập khẩu vào thị trường EU rào cản đầu tiên chính là những qui định về chất lượng, sau đó là các yêu cầu về yếu tố môi trường và trách nhiệm xã hội. Chất lượng được tiêu chuẩn hoá với các chỉ tiêu về an toàn sản phẩm đòi hỏi các yếu tố cấu thành cũng được tiêu chuẩn hoá.
Các sản phẩm muốn được người tiêu dùng chấp nhận thì phải đáp ứng được thị hiếu của họ. Người tiêu dùng có nhiều tầng lớp khác nhau, ở các lứa tuổi khác nhau thì thị hiếu cũng khác nhau, thị hiếu còn khác nhau ở các mùa trong năm. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp chính là ở điểm nắm bắt được thị hiếu này. Muốn vậy phải có chiến lược đầu tư tìm hiểu thị trường, mua sắm thiết bị cần thiết để phục vụ cho sản xuất. ở đây vốn lại thực sự đóng vai trò quan trọng.
Trên đây là những cơ hội và thách thức của công ty trong nền kinh tế hội nhập đầy sôi động. Công ty phải đánh giá được những điểm mạnh và điểm yếu của mình để cùng với những cơ hội và thách thức đó có hướng phát triển phù hợp
3.1.2 Định hướng hoạt động của công ty
Công ty xác định vấn đề giữ vững và mở rộng thị trường là vấn đề sống còn đảm bảo doanh thu lợi nhuận và thu nhập của người lao động, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của công ty.
Một trong những định hướng hàng đầu doanh nghiệp thực hiện đó là tăng dần tỷ lệ nội địa hoá. Đây là mặt hạn chế mà trước đây doanh nghiệp chưa tìm thấy, trong khi tập trung rất nhiều nguồn lực cho xuất khẩu thì thị trường tiềm năng trong nước lại không được khai thác. Năm 2004 doanh thu đạt 142,7 tỷ thì doanh thu từ hàng xuất khẩu xấp xỉ 124 tỷ chiếm 86,8%; tức là chỉ còn 13,1% cho thị trường nội địa. Đây là con số quá khiêm tốn.
Vậy làm thế nào để tăng dần tỷ lệ nội địa hoá?
Tăng tỷ lệ nội địa hoá tức là đưa sản phẩm của công ty ngày càng chiếm thị phần trong nước, được người tiêu dùng bình chọn. Để làm được như vậy thì doanh nghiệp phải khai thác được thị trường trong nước cần gì. 3 câu hỏi mấu chốt của bài toán kinh tế: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, phải được giải đáp cụ thể. Muốn vậy phải có sự đầu tư đồng bộ từ khâu tìm hiểu thị trường (sản xuất cái gì), đến việc thiết kế tìm các nguyên phụ liệu phù hợp, sử dụng máy móc công nghệ nào để sản xuất ( sản xuất như thế nào), và cuối cùng đưa đến “tay” người tiêu dùng. Đây là quá trình dài đòi hỏi sự đầu tư nhiều nguồn lực, đặc biệt là vốn.
Bên cạnh hướng mục tiêu phát triển vào thị trường trong nước, công ty vẫn phải đảm bảo giữ vững thị trường xuất khẩu với những khách hàng truyền thống như EU, Nhật, Mỹ …Đặc biệt chú trọng thị trường bán FOB, xác định đây là con đường phát triển lâu dài của công ty. Đầu tư xây dựng mạng lưới các nhà thầu phụ, nắm bắt thông tin, xây dựng hệ thống sáng tác mẫu mốt để chào hàng. Gắn việc sản xuất sản phẩm may với sản phẩm dệt và sản xuất nguyên phụ liệu để thúc đẩy toàn diện sự phát triển sản xuất kinh doanh. Khai thác thị trường tại chỗ giảm chi phí nhập khẩu rút ngắn thời gian cung ứng. Thực tế nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào như hiện nay thì đây quả là vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp phải đối diện. Riêng nguyên liệu may doanh nghiệp nhập 100% từ nước ngoài (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…), còn nguyên phụ liệu năm 2003 tổng giá trị sử dụng là 147.450 m2 thì trị giá nguyên phụ liệu trong nước chỉ có 2368 m2 chiếm1,6%.
Trước những thách thức to lớn trong nền KTTT muốn tồn tại được doanh nghiệp phải tạo được sức mạnh cạnh tranh. Định hướng hoạt động của công ty là phải nâng cao khả năng cạnh tranh cả trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Tâm lý chung của bất kể khách hàng nào đều muốn có sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp và mẫu mã đẹp. Đó chính là sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Để làm được điều đó thì yêu cầu đặt ra công ty phải có dây chuyền sản xuất tiên tiến, có đội ngũ công nhân viên kỹ thuật, lành nghề. Trong xu hướng phát triển hiện nay chúng ta có thuận lợi là được ứng dụng những tiến bộ khoa học mà không phải mất thời gian và chi phí nghiên cứu, chúng ta chỉ phải trả tiền để mua công nghệ hiện đại và chi phí cho việc sử dụng chúng. Nhưng để làm được điều đó thiết thực doanh nghiệp phải có nguồn vốn đầu tư lớn. Do đó đòi hỏi công ty phải đưa ra được các chiến lược phù hợp nhằm thu hút vốn đầu tư tạo lập thêm nhiều nguồn mới để phát triển sản xuất.
Trên đây là những định hướng cơ bản hoạt động của công ty trong thời gian tới, để cụ thể hoá công ty tiến hành hoạch định các chỉ tiêu hoạt động cho các năm tiếp theo:
Bảng 7: Chỉ tiêu hoạt động của công ty trong thời gian tới
Chỉ tiêu
2005
2006
Doanh thu thuần
283.200.000
337.031.800
Giá vốn hàng bán
250.530.834
302.708.238
Lợi nhuận gộp
32.689.166
34.323.562
Chí phí bán hàng
8.798.996
9.641.450
Chí phí quản lý
11.787.996
12.481.372
Chi phí hoạt động sxkd
20.586.346
22.122.822
Kết quả hoạt động sxkd
12.102.820
12.200.740
Thu nhập trước thuế
6.602.820
7.200.740
Mức chi trả cổ tức
13%
14%
Vốn điều lệ
23.306.700
23.206.700
Bước sang năm 2005 đã được 1 quý và cũng đã đạt được các kết quả khích lệ. Công ty đang tiếp tục phấn đấu để đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.
3.2 Giải pháp chủ yếu tạo lập vốn ở công ty
Trước những cơ hội và thách thức của thị trường, công ty cũng đã tìm cho mình hướng phát triển mới và các mục tiêu cụ thể trong thời gian tới. Để đạt được điều đó thiết thực công ty phải tìm được cho mình hướng đi đúng đắn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đầu tiên chính là các chiến lược tạo lập vốn và giải pháp để thực hiện sao cho có hiệu quả nhất. Sau khi đã nghiên cứu thực trạng công tác tạo lập vốn kết hợp tìm hiểu môi trường hoạt động của công ty em xin mạnh dạn có các giải pháp nhằm tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
3.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu
Đây là nguồn tạo lập công ty đã sử dụng rất hạn chế trong thời gian vừa qua. Chuyển sang hình thức cổ phần công ty cần có các chiến lược khai thác các điểm mạnh của hình thức này. Do công ty chưa thực sự có tiềm lực mạnh về tài chính nên trong thời gian đầu công ty có thể tạo kênh huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty, sau đó phấn đấu để tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bằng việc phát hành này công ty có điều kiện để cân bằng cơ cấu vốn, nâng cao tỷ lệ nguồn vốn chủ sở hữu. Mặt khác trong thời gian đầu công ty còn được ưu đãi về thuế. Công ty cần có các chiến lược chào bán cổ phần rộng rãi tới các thành viên trong công ty và các nhà đầu tư tiềm năng, điều này là thiết thực để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán khi thị trường bảng II được đưa vào vận hành. Do thị trường chứng khoán ở nước ta còn chưa phát triển nên việc đưa cổ phiếu ra niêm yết còn có nhiều khó khăn đòi hỏi công ty cần có sự đầu tư lâu dài, nâng cao giá trị cổ phiếu bên trong, tạo uy tín bên ngoài, là cơ sở để cổ phiếu có giá trị tiềm năng thu hút được nhà đầu tư.
Tuy nhiên việc tham gia vào thị trường chứng khoán có đạt được kết quả như mong muốn hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác.
Bên cạnh đó công ty có thể xem xét việc tách cổ phiếu. Việc tách cổ phiếu không làm ảnh hưởng đến vốn của công ty, không làm ảnh hưởng đển quyền lợi của các cổ đông song có thể làm cho cổ phiếu của công ty dễ tiếp cận với nhà đầu tư.
Cùng với việc phát hành cổ phiếu mới, công ty có thể sử dụng phương thức tạo lập vốn qua nguồn vốn chủ sở hữu bằng việc giữ lại lợi nhuận tái đầu tư. Đây là nguồn tài trợ quan trọng vì doanh nghiệp giảm được chi phí giảm bớt được sự phụ thuộc vào bên ngoài. Do đó trong thời gian tới một mặt công ty cần có các biện pháp nâng cao kết quả kinh doanh đồng thời thuyết phục đại hội đồng cổ đông đồng ý cho giữ lại lợi nhuận, tái đầu tư trở lại vào sản xuất.
3.2.2 Nguồn tín dụng ngân hàng
Đây là phương thức đã được công ty sử dụng rất nhiều trong thời gian vừa qua. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay việc tạo lập vốn qua kênh tín dụng này là nhanh chóng và tiện lợi nhất, có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Công ty đã thực hiện huy động trên 80% nguồn nợ từ hình thức này do đó mà để có các hợp đồng tiếp theo là vấn đề khó khăn. Do đó công ty phải thường xuyên duy trì được mối quan hệ tốt đẹp với các ngân hàng quen thuộc đồng thời tìm được nguồn mới. Vấn đề quan trọng là phải đảm bảo uy tín doanh nghiệp, tránh tình trạng nợ quá hạn gây mất khả năng thanh toán.
Tuy nhiên trong tình trạng nợ tín dụng ngân hàng như hiện nay công ty cần có các giải pháp tối ưu nhằm giảm thiểu tỷ trọng này. Thiết nghĩ đây sẽ là nguồn huy động cuối cùng để công ty sử dụng phòng khi có những bất lợi thị trường xảy ra doanh nghiệp vẫn có nguồn để trang trải.
3.2.3 Mở rộng các hình thức thuê tài sản
Hiện nay công ty mới chỉ áp dụng hình thức thuê tài sản đối với tài sản là ô tô tải, ô tô vận chuyển 7- 8 chỗ, 16 chỗ. Còn với các tài sản loại khác thì công ty chưa sử dụng, nghĩa là đối với những máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất mà có nhu cầu sử dụng nhiều thì công ty thường tự đầu tư mua sắm bằng nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vay dài hạn. Thực ra trong điều kiện khoa học kỹ thuật như hiện nay có rất nhiều máy móc dây chuyền mới hiện đại công ty vẫn chưa có khả năng đầu tư thay thế vì giá trị của nó rất lớn. Do đó để đầu tư một dây chuyền sản xuất hiện đại là vấn đề hết sức khó khăn, không chỉ đối với công ty may Thăng Long mà còn với hầu hết các doanh nghiệp khác. Thiết nghĩ với sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính trong và ngoài hệ thống ngân hàng thì công ty nên sử dụng hình thức này. Thay vì phải trả một khoản tiền lớn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thì hàng tháng công ty chỉ phải trả tiền thuê đủ để bù đắp chi phí mua tài sản và đem lại thu nhập cho bên thuê. Trong khi đó công ty vẫn được sử dụng tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh không làm ứ đọng vốn mà còn phát huy hiệu quả cao hơn. các quy định thuê được thoả thuận giữa hai bên. sau khi kết thúc hợp đồng thuê nếu công ty thấy tài sản còn cần thì có thể mua lại nguyên tài sản đó với giá phù hợp theo thị trường. Còn nếu không cần sử dụng nữa thì công ty có thể chấm dứt hợp đồng và thực hiện thuê các tài sản khác. Theo hình thức thuê này công ty có thể đăng kí thuê tài sản mà mình có nhu cầu cho công ty tài chính, đây là mặt thuận lợi vì nó đảm bảo cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Tuy nhiên trước khi có quyết định thuê hay mua mới công ty phải tính toán NPV và IRR của từng phương án để đưa ra quyết định phù hợp, vì nó còn phụ thuộc vào vòng đời của tài sản và giá trị tài sản.
3.2.4 Thực hiện liên doanh liên kết
Một đặc điểm quan trọng của hình thức này là vốn nhận được từ liên doanh liên kết không thuộc bên nợ phải trả mà được tính vào nguồn vốn chủ sở hữu. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nguồn vốn chủ sở hữu của công ty còn có tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn. Mặt khác vốn do các bên đóng góp không nhất thiết phải bằng tiền nên công ty có thể kêu gọi sự liên doanh dưới hình thức góp tài sản cố định bằng máy móc thiết bị dây chuyền sản xuất, hoặc bằng quyền sử dụng đất…
Ngoài ra với hình thức liên doanh liên kết cũng rất thích hợp để công ty có thể gia tăng năng lực sản xuất. Công ty có thể thực hiện liên doanh dưới hình thức :
- Cùng hợp tác kinh doanh với 1 doanh nghiệp khác có thể là doanh nghiệp may mặc hoặc doanh nghiệp cung cấp. Hình thức này có lợi cho cả hai bên bởi vì khi đã hình thành liên doanh thì hai bên có thể bổ sung cho nhau cùng nhau phát triển. Bởi vì các nguyên phụ liệu của công ty hầu hết là nhập khẩu từ nước ngoài nên nếu có thể mời liên doanh được với các đối tác này, hoặc với nhà đầu tư nước ngoài thì là kế hoach tốt. Công ty có cơ hội nâng cao khoa học kỹ thuật và máy móc công nghệ hiện đại từ đó có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao thị phần.
- Thực hiện liên doanh hợp tác dưới hình thức góp vốn, không tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận sẽ được phân chia theo tỷ lệ vốn góp. Thông qua hình thức này công ty sẽ có vốn để đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động phục vụ cho sản xuất.
Việc tạo lập vốn thông qua hình thức này cần duy trì trong thời gian dài nhằm đảm bảo cho công ty có nguồn vốn ổn định phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
3.2.5 Nguồn huy động trực tiếp
Công ty có thể huy động nợ trực tiếp thông qua phát động các kỳ huy động với lãi suất hấp dẫn từ tất cả các cán bộ công nhân viên trong và ngoài công ty. Hình thức này công ty đang sử dụng có hiệu quả, mặc dù lượng huy động chưa cao song công ty nên có các hình thức hấp dẫn thông qua việc cân đối lãi suất, kỳ hạn trả nợ, hình thức thanh toán để thu hút khách hàng.
Công ty có thể sử dụng phương thức tạo lập vốn thông qua việc phát hành trái phiếu. Phương thức này giúp công ty chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn sẵn có và tiềm năng của các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ cho nhu cầu vốn kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu phải được đặt trong những điều kiện nhất định, nó chỉ thực sự đạt hiệu quả cao khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và mức lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay mới chỉ có một số ít doanh nghiệp đủ khả năng phát hành trái phiếu ra công chúng. Đối với công ty may Thăng Long thì trước hết nên có các hình thức phát hành trái phiếu trong nội bộ công ty, nhằm huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ công ty, tạo tiền đề cho việc phát hành trái phiếu sau này. Đây cũng là hình thức vay cán bộ công nhân viên. Song để phương thức này có hiệu quả công ty phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định khối lượng huy động, thời hạn của trái phiếu, mức lãi suất và hình thức thanh toán.
3.2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Chúng ta đã khẳng định tầm quan trọng của công tác tạo lập vốn thì vấn đề sử dụng vốn lại là yếu tố quan trọng hơn cả. Có vốn mà không biết sử dụng vốn thì việc tạo lập vốn trở lên vô ích. Do đó giải pháp quan trọng hàng đầu trong công tác tạo lập vốn thiết nghĩ là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do hiệu quả sử dụng vốn chưa cao nên tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận sau thuế của công ty chưa nhiều. Nó làm hạn chế việc bổ sụng lợi nhuận vào vốn kinh doanh, từ đó làm ảnh hưởng rất lớn đến các yếu tố khác. vì vậy để cho khối lượng lợi nhuận tích luỹ lớn hơn so với hiện nay tạo ra sự an toàn hơn cho vốn chủ sở hữu giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng thì trong thời gian tới công ty cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Điều này trước hết cần phải chú trọng đến công tác phân bổ vốn sao cho hợp lý để đạt tới cơ cấu vốn tối ưu, đồng thời thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động.
Trên đây là những giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Thăng Long. Ngoài các hình thức đã được nêu rõ ở trên công ty còn có thể sử dụng một số các hình thức khác như từ các nguồn phải trả như các khoản phải trả nhà cung cấp (tín dụng thương mại), các khoản phải trả nhà nước (thuế, các khoản phải trả khác). Đây là các hình thức mà doanh nghiệp vẫn đang sử dụng nhưng chỉ chiểm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn của doanh nghiệp. Đặc biệt với hình thức tín dụng thương mại là phương thức có lợi cho doanh nghiệp, công ty cần có các kế hoạch hợp lý tạo uy tín doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa nguồn tài trợ này.
Nền kinh tế thị trường có nhiều biến động với nhiều cơ hội và thách thức to lớn đối với công ty. Sử dụng phương thức tạo lập nào là sự biến đổi linh hoạt của đội ngũ cán bộ quản lý tài chính của công ty, cho phù hợp với điều kiện thị trường và nhu cầu sản xuất kinh doanh. Do đó mà trình độ của đội ngũ cán bộ tài chính cũng có tác động không nhỏ tới hiệu quả của công tác tạo lập vốn. Muốn công tác tạo lập vốn thành công thiết nghĩ công ty có các chiến lược đào tạo cán bộ, bởi nếu có đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ có tính sáng tạo nhanh nhạy để có thể thích ứng nhanh trước sự thay đổi của môi trường thì quá trình sản xuất kinh doanh của công ty luôn được đảm bảo đủ vốn.
3.3. Một số kiến nghị
Để các giải pháp trên có thể thực hiện được nhằm tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long trong thời gian tới, nếu chỉ bằng sự lỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước và các cơ quan cấp trên. Bởi vì các cơ quan này vừa là cơ quan cấp trên vừa là nơi ban hành các quy định các văn bản pháp luật mà sự tồn tại của chúng có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây bất lợi cho hoạt động tạo lập vốn của công ty. Do đó một số những kiến nghị được đưa ra với hi vọng được các cơ quan này quan tâm nhằm giảm bớt những khó khăn về tài chính cho công ty, tạo điều kiện cho công ty đa dạng hoá nguồn vốn đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của mình.
3.3.1. Kiến nghị với nhà nước
Nền kinh tế thị trường nước ta còn đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, do đó mà các chính sách và các quy định nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt là công tác quản lý thị trường, trong đó có công tác tạo lập vốn.
Nhà nước quản lý thị trường bằng các công cụ chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá, các quy định được thể chế thành pháp luật. Có những qui định nới lỏng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển nhưng cũng có quy định nhằm bảo hộ cho quyền lợi của nhà nước mà thắt chặt hoạt động. Đơn cử như khi nền kinh tế có lạm phát chính phủ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, điều này làm giảm lượng tiền cung ứng trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có chiến lược huy động trong thời gian này thì sẽ gặp khó khăn với chi phí vốn cao, nguồn thấp.
Hoạt động tạo lập vốn cho doanh nghiệp có vai trò quan trọng, có tác động rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có các chiến lược nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sự tác động có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong môi trường kinh tế cạnh tranh ngày nay, đặc biệt với sự nỗ lực gia nhập WTO nhà nước phải đảm bảo môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn hơn, nhà nước cần có các chính sách tích cực hơn nữa trong việc thu hút đầu tư, mở rộng quan hệ đối ngoại. Đây sẽ là tiền đề cơ bản để công tác tạo lập vốn của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi.
Công tác tạo lập vốn của doanh nghiệp chịu sự tác động rất lớn từ các yếu tố thị trường như thị trường chứng khoán, thị trường thuê tài chính. Nhà nước cần có sự tập trung phát triển các thị trường này, vì đây là kênh tập trung vốn có chất lượng và hiệu quả. Các doanh nghiệp có thể tạo lập vốn từ các thị trường này một cách hiệu quả.
3.3.2 Kiến nghị với tổng công ty
Công ty may Thăng Long trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam, cùng với các công ty khác chịu sự quản lý của tổng công ty. Mặc dù chuyển sang hình thức cổ phần hoá nhưng các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn có sự tác động rất lớn từ tổng công ty. Việc phân bổ các hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ, các quy định về công tác tổ chức và công tác tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bản thân công ty cần có sự quan tâm hơn nữa từ tổng công ty nhằm giảm bớt những khó khăn về tài chính và môi trường kinh doanh.
Tổng công ty là cơ quan bao trùm lên tổng thể các doanh nghiệp dệt may việt nam, do đó sự tác động của công ty có ảnh hưởng rất lớn. Tổng công ty nên có các hình thức tổ chức giới thiệu sản phẩm của toàn ngành, giới thiệu sản phẩm tới các bạn bè trên thế giới. Đồng thời có các buổi dự thảo thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo tiền đề cơ sở cho hoạt động thu hút vốn của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi.
Kết luận.
Là sinh viên chuyên ngành tài chính doanh nghiệp,trong quá trình học tập em đã được tìm hiểu những vấn đề cơ bản về vốn trong doanh nghiệp và các phương thức tạo lập vốn. Qua thời gian tìm hiểu thực tế tại công ty cổ phần may Thăng Long em đã có nhận thức được tầm quan trọng của công tác tạo lập vốn đối với một doanh nghiệp. Trên cơ sở “học đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn”, em đã lựa chọn đề tài “giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần may Thăng Long” cho chuyên đề tốt nghiệp.
Về cơ bản quá trình nghiên cứu đề tài và viết chuyên đề tốt nghiệp đã giúp em nâng cao kiến thức và đạt được những kết quả quan trọng.
Về lý luận trước hết em đã có những khái quát chung về vốn, các đặc trưng về vốn và làm sáng tỏ được tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp đó em đã đi sâu vào nghiên cứu về nguồn vốn và các phương thức tạo lập vốn mà một doanh nghiệp có thể sử dụng trong nền kinh tế thị trường, đồng thời phân tích được các nhân tố tác động tới công tác tạo lập vốn.
Trong thời gian thực tập tại công ty may Thăng Long em đã có sự tìm hiểu về công tác tạo lập vốn của công ty, về từng nguồn vốn và phương thức tạo lập mà công ty đã sử dụng trong thời gian qua và có những đánh giá chung về các kết quả đạt được và các mặt còn hạn chế của công ty. Trên cơ sở phân tích những cơ hội và thách thức của công ty trong nền kinh tế,và xuất phát từ định hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới, em đã đưa ra các giải pháp tạo lập vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, với mong muốn sẽ góp phần hoàn thiện công tác tạo lập vốn của công ty.
Trong quá trình nghiên cứu do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô và các bạn góp ý kiến để em có thể hoàn thiện đề tài này và bổ sung những kiến thức còn thiếu sót. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo và các anh chị trong phòng kế toán công ty may Thăng Long đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên thực hiện
Mai Thị Thu Hằng
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình tài chính doanh nghiệp – PGS. TS Lưu Thị Hương – Nhà xuất bản thống kê 2003
Giáo trình luật kinh tế – PGS. Nguyễn Hữu Viện – Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội 2001
Quản trị tài chính doanh nghiệp – PGS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ – Nhà xuất bản thống kê 2003.
Tạp chí thông tin tài chính số 18 (9/2004); số 24 (12/2004)
Tạp chí tài chính doanh nghiệp số 4/2003; số 6/2003; số 10/2004
Tạp chí kinh tế phát triển số 83 (5/2004); số 85 (7/2004); số 89 (11/2004)
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 2 (2/2004); số 6 (6/2004)
Tạp chí tài chính ngân hàng số 1/2001
Mạng vietnamnet: vnn.vn.com
Báo đầu tư chứng khoán
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24178.doc