PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu và cấp bách không chỉ ở nước ta mà ở cả nhiều nước trên thế giới và khu vực. Đối với nước ta mặc dù nông thôn chiếm hơn 70% dân số và 75% tổng lực lượng lao động cả nước nhưng chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất lao động thấp, phương thức sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao. Hiện nay 90% số người nghèo của cả nước vẫn đang sống ở nông thôn, tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nông thôn chiếm 28,9%, thất nghiệp thành thị 6,9%. Như vậy thất nghiệp, thiếu việc làm cho người lao động đang diễn ra khá phức tạp kìm hãm quá trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Không những thế thất nghiệp, thiếu việc làm còn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đói nghèo, một trong những nhân tố gây ra mất ổn định kinh tế chính trị, xã hội của đất nước. Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, từng địa phương và ngay cả trong mỗi gia đình. Việc làm phù hợp và có hiệu quả góp phần quan trọng trong việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời gian qua, một số nơi đã làm tốt giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho lao động nông thôn có điều kiện và cơ hội tìm được việc làm. Tuy nhiên quá trình giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đang còn nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng lao động và khả năng tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn thời gian tới.
Hà Tĩnh là một tỉnh ở vùng Bắc Trung Bộ với quy mô dân số xấp xỉ 1,2 triệu người, tốc độ phát triển dân số bình quân 1,18 % năm, nguồn lao động bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm trên 3 vạn người.
Trong nhiều năm qua, vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Hà Tĩnh đã có nhiều chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Song thực tiễn đặt ra còn nhiều khó khăn, đó là tình trạng người chưa có việc làm và thiếu việc làm còn lớn, đặc biệt là ở nông thôn. Điều đó đòi hỏi cần có sự nghiên cứu và xây dựng hệ thống chính sách giải quyết việc làm đồng bộ và hiệu quả hơn trong giải quyết việc làm nói chung và ở nông thôn nói riêng.
Xuất phát từ áp lực về lao động, việc làm ngày càng gia tăng và có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội ở Hà Tĩnh nên tôi chọn đề tài: “Giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh”. Với mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé vào sự phát triển bền vững của Hà Tĩnh trong thời gian tới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung cấp và hậu thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Lực lượng dồi dào như vậy nhưng trình độ chuyên môn của lao động nông thôn chưa cao. Hầu hết các thị trường lao động chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại chưa phát triển nên dẫn đến thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao động. Đây cũng chính là hạn chế lớn nhất của lao động nông thôn làm cho việc khai thác nguồn nhân lực ở đây vẫn còn yếu kém.
Những vấn đề trên là thách thức đối với chính lao động nông thôn và các nhà hoạch định chính sách. Chính vì vậy mà giải quyết việc làm được nhiều cơ quan, ban, ngành và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như:
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1993): Thị trường lao động ở nông thôn, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1997): Kinh tế đại chúng với vấn đề tạo mở việc làm, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1998): Giải quyết việc làm với tăng trưởng kinh tế, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1999): Phương hướng, biện pháp hình thành sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2001): Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam, Hà Nội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Viện Khoa học lao động và xã hội (2009): Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập. NXB Lao động – Xã hội.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan quản lý nhà nước về lao động việc làm. Việc nghiên cứu về lĩnh vực lao động - việc làm thường được tập trung vào điều tra, khảo sát phản ánh trung thực về thực trạng lao động - việc làm của đất nước. Từ đó đưa ra các mô hình giải quyết việc làm có hiệu quả.
Các viện nghiên cứu, các trường đại học cũng như các cá nhân cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Về cơ bản các công trình nghiên cứu đi từ tổng kết thực tiễn để đưa ra các giải pháp trong việc giải quyết việc làm.
Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa (1991): Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở nông thôn Việt Nam, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.
Lê Văn Lương (1995): Giải quyết việc làm cho người Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.
Lê Văn Lương, Thái Ngọc Tịnh (1995): Giải quyết việc làm cho người lao động Hà Tĩnh trong thời gian tới, Chương trình nghiên cứu khoa học đề tài cấp tỉnh.
Thái Ngọc Tịnh (1997): Lao động việc làm ở Hà Tĩnh, Tạp chí lao động xã hội số 128.
Chu Tiến Quang (2001): Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Đào Quang Vinh (2005): Kết quả giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2004 và phương hướng giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010. Tạp chí quản lý kinh tế -CIEM.
Viện khoa học lao động và xã hội (2006): Dự báo xu hướng việc làm tại Việt Nam giai đoạn 2005-2015, Báo cáo của Dự án SIDA-CIEM, Hà Nội.
Chương trình giải quyết việc làm (2005-2009), Hà Tĩnh
Ở địa bàn Hà Tĩnh cũng đã có nhiều cá nhân có chương trình nghiên cứu nhằm giải quyết việc làm, tuy nhiên các chương trình nghiên cứu đã khá lâu và hiện nay trong điều kiện phát triển của đất nước nói chung và Hà Tĩnh nói riêng đã có nhiều thay đổi và không còn phù hợp nữa. Dựa trên các vấn đề lý luận và thực tiễn thực trạng việc làm và giải quyết việc làm hiện nay, tôi sẽ đưa ra một số giải pháp khác phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay của Hà Tĩnh, nhằm nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân nông thôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh từ đó đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động phù hợp với điều kiện cụ thể ở vùng nông thôn Hà Tĩnh, nhằm tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở vùng nông thôn, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống dân cư.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: lao động, người lao động, việc làm và giải quyết việc làm…
- Đánh giá đúng thực trạng lao động và việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh
- Đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu vấn đề lao động việc làm trên địa bàn nông thôn Hà Tĩnh.
Thời gian: từ năm 2006 đến năm 2008.
Không gian: Huyện Thạch Hà.
5. Mẫu khảo sát
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu phải đại diện cho vùng nghiên cứu trên phương diện điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm sinh thái vùng.
Căn cứ vào tình hình đặc điểm cụ thể của vùng nông thôn Hà Tĩnh, và năng lực của cá nhân tác giả chọn Huyện Thạc Hà làm địa điểm nghiên cứu.
Thạch Hà là một huyện thuộc vùng ven biển của Hà Tĩnh, cách trung tâm tỉnh lỵ 5km. Đây là một huyện vừa có biển, đồng bằng và miền núi, hoạt động sản xuất bao gồm: đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, làm muối. Hộ thuần nông của toàn huyện chiếm 60%, hộ chuyên ngành dịch vụ chiếm hơn 10%, hộ nông kiêm ngành dịch vụ chiếm 20%, hộ chuyên ngư chiếm 5%, hộ diêm nghiệp chiếm 5%.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế của sự phân vùng địa lý và sinh thái, tác giả chọn 6 xã đại diện cho 3 vùng nghiên cứu giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh bao gồm: đại diện cho vùng ven biển: xã Thạch Hải, xã Thạch Văn; đại diện cho vùng đồng bằng: Thạch Việt, Thạch Kênh ; đại diện cho vùng núi: xã Thạch Vĩnh, Thạch Ngọc.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu được trình bày dưới dạng câu hỏi:
Thực trạng lao động việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay như thế nào?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay ở nông thôn Hà Tĩnh còn hơn 70.000 lao động thiếu việc làm. Lao động thiếu việc làm và có thời gian nhàn rỗi cao chủ yếu tập trung ở miền núi và vùng ven biển. Chất lượng nguồn lao động nông thôn chủ yếu là chưa qua đào tạo lao động chân tay là chính…Thời gian qua tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện nhiều giải pháp giải quyết việc làm như: phát triển kinh tế xã hội, tạo nguồn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đào tạo nghề cho người, xuất khẩu lao động…Tuy nhiên giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Nghiên cứu tài liệu: Sinh viên tiến hành thu thập thông tin, tài liệu, số liệu liên quan đến đề tài. Những số liệu được thu thập từ các nguồn khác nhau như: Cục thống kê Hà Tĩnh, điều tra lao động và việc làm, số liệu từ các báo cáo sơ kết, tổng kết của Sở Lao động thương binh và xã hội Hà Tĩnh và một số sách báo, tài liệu khác…
- Khảo sát thực tế: sinh viên tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi các đối tượng liên quan là các hộ gia đình ở nông thôn để làm rõ thực trạng việc làm ở nông thôn.
- Tổng hợp phân tích: dựa trên việc nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài và việc tìm hiểu thực tế ở địa phương sinh viên tiến hành phân tích tổng hợp vấn đề từ đó đưa ra giải pháp cho việc giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh.
9. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương, 6 tiết:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan trực tiếp đến giải quyết việc làm
1.1.1. Khái niệm liên quan đến lao động và người lao động
1.1.2. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.3. Khái niệm thất nghiệp và thiếu việc làm
1.2. Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
1.3.1. Nhân tố liên quan đến chính sách
1.3.2. Nhân tố liên quan đến giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
1.3.3. Nhân tố về dân số
1.3.4. Nhân tố quốc tế
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾTVIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HÀ TĨNH.
2.1. Tông quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
2.2. Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh.
2.2.1. Hiện trạng lao động, việc làm nói chung
2.2.2. Tình hình thiếu việc làm hiện nay ở Hà Tĩnh
2.3. Những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Hà Tĩnh trong thời gian tới
2.3.1. Các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế
2.3.2. Giảm sức ép về nhu cầu giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh
2.3.3. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
2.3.4. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
2.3.5. Tăng cường sự quản lý nhà nước về lao động, củng cố và phát triển hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan trực tiếp đến giải quyết việc làm
Việc làm và giải quyết việc làm luôn luôn là mối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt là đối với người lao động nói chung và đối với người lao động nông thôn nói riêng. Để có những chính sách, biện pháp phù hợp trong giải quyết việc làm cho người lao động chúng ta cần làm rõ được một số khái niệm liên quan đến đề tài:
1.1.1. Khái niệm liên quan đến lao động và người lao động
- Lao động:
Trong lời nói đầu của Luật lao động đã ghi rõ: “ Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước”. [5,1]
Với ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu hoạt động của con người ở đây như là những công nhân đang làm việc ở nhà máy, công trường; những người nông dân đang làm việc trên đồng ruộng; những cán bộ, công chức, nhân viên làm việc trong các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp; những người hoạt động nghệ thuật…
- Người lao động:
Người lao động là những người trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Trong Bộ Luật lao động ghi rõ: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động” [5, điều 6].
Trong Luật lao động không quy định độ tuổi của người lao động, tuy nhiên trong các văn bản luật pháp khác liên quan như Luật bảo hiểm xã hội, Luật công chức… đã có quy định tuổi lao động đối với nam là đủ 60 tuổi và nữ đủ 55 tuổi. Đây là quy định chung cho mọi lao động ở các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thì thực tế người lao động có thể tham gia lao động độ tuổi còn thấp hơn 15 tuổi vầ cao hơn 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ.
- Lực lượng lao động
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về lực lượng lao động
Từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ) (1977): lực lượng lao động là khái niệm định lượng của nguồn lao động.
Từ điển thuật ngữ Pháp (1977-1985): lực lượng lao động là số lượng và chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả năng lao động có thể sử dụng.
Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Từ những quan niệm trên có thể đưa ra quan niệm về lực lượng lao động như sau: lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
Từ những khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm lao động nông thôn như sau: lao động nông thôn là những người trong độ tuổi lao động do luật quy định nhưng sống và làm việc trong khu vực nông thôn trong đó chủ yếu là những nông dân chuyên sản xuất nông nghiệp, những người làm nghề thủ công, buôn bán nhỏ, các hoạt động dịch vụ ở nông thôn…
- Thị trường lao động
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội thì thuật ngữ “Thị trường lao động” đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với nhiều khái niệm khác nhau.
Giáo trình giảng dạy của khoa Kinh tế lao động trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội đưa ra khái niệm về thị trường lao động như sau:
- Là không gian trao đổi tiến tới thỏa thuận giữa người sở hữu sức lao động và người cần có sức lao động để sử dụng.
- Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm việc làm để có thu nhập và người sử dụng lao động để có thể thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Là toàn bộ quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
Theo ILO: “thị trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động cũng như mức độ tiền công tiền lương”.[13,22]
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm, thì được gọi là thị trường lao động”. [13,22]
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau về những nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao động đó là không gian, người cần bán sức lao động, người cần mua sức lao động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về nội dung này.
Thị trường sức lao động ở nông thôn thực tế đã có từ lâu nhưng kém phát triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền thống trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất, và không được pháp chế hóa. Vì vậy giá trị cộng lao động thường được đánh giá theo thỏa thuận trực tiếp, việc thanh toán kết hợp cả giá trị và hiện vật. Quan hệ thuê mướn dựa trên mối quan hệ thân quen là chủ yếu, vừa kết hợp làm thuê, vừa theo thời vụ. Lao động thủ công cơ bắp là chính. Một số nơi do chưa phát triển ngành nghề, dẫn đến dư thừa lao động, nhất là thời vụ nông nhàn, người lao động phải đi làm thuê vùng khác, xã khác hoặc ra đô thị tìm kiếm việc làm.
Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
- Việc làm
Giải quyết việc làm cho lao động xã hội là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được toàn thế giới cam kết trong tuyên bố về chương trình hành động toàn cầu.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm việc làm:
Việc làm đã được ILO quan tâm ngay từ khi nó được thành lập năm 1919. Theo ILO “ Việc làm là những hoạt động được trả công bằng tiền và hiện vật”[12]
Quan điểm xem xét việc làm như một tế bào, một đơn vị nhỏ nhất phân chia từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cho rằng: “ Việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội”.
Những năm gần đây, tiếp thu có chọn lọc các khái niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và một số nước lân cận, nước ta đã có những thay đổi trong quan niệm về việc làm. Bộ luật Lao động ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [5, điều 13].
Ngoài những khái niệm trên còn có rất nhiều khái niệm về việc làm được các nhà nghiên cứu đưa ra như:
Tác giả Đặng Xuân Thao trong cuốn sách “Mối quan hệ giữa dân số và việc làm” đã định nghĩa việc làm như sau: “Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng”. [12,11]
Liên quan chặt chẽ với khái niệm việc làm, hai tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung trong cuốn sách “ Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam” đã đưa ra khái niệm về người có việc làm như sau: “Người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình”. [8,9]
Tác giả TS Chu Tiến Quang và cộng sự trong cuốn “Việc làm ở nông thôn” đã đưa ra khái niệm như sau: “ Việc làm có thể được hiểu ở hai trạng thái “tĩnh” và “động”. Ở trạng thái “tĩnh” việc làm chỉ nhu cầu sử dụng sức lao động và các yếu tố vật chất kỹ thuật khác nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoặc kết quả có ích cho cá nhân, cộng đồng… Ở nghĩa “động” thì việc làm là hoạt động của dân cư nhằm tạo ra thu nhập có lợi cho cá nhân hoặc cộng đồng trong khuôn khổ pháp luật cho phép”. [18,10]
Như vậy từ các khái niệm trên việc làm có thể được hiểu như sau: Việc làm là hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, tạo thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân, gia đình người lao động hoặc cho một cộng đồng nào đó.
Với cách hiểu trên, nội dung của khái niệm việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng sức lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết để tạo việc làm và tự do thuê mướn lao động theo luật pháp của nhà nước để tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường.
- Việc làm tự tạo:
Đây là khái niệm mới được đưa ra từ TS Lê Xuân Bá và các cộng sự trong đề tài “ Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam” (Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thực hiện 2006)
Theo nhóm tác giả này thì các hoạt động được xem là việc làm tự tạo “liên quan đến sự quản lý và sở hữu một cơ sở sản xuất các hàng hóa và dịch vụ”. Ví dụ những người có xưởng sản xuất, cửa hàng, cửa hiệu…chỉ có trách nhiệm với chính bản thân họ. Báo cáo đề tài này cũng nói rõ thêm: ở các nước đang phát triển, sự phân chia giữa lao động làm công ăn lương và việc làm tự tạo nhiều khi không rõ. Có một khoảng trùng lặp giữa lao động được trả và lao động tự trả công mà ở đó các hoạt động này có thể được xem là lao động được thuê vừa có thể là lao động tự thuê.
Với ý nghĩa của khái niệm này, liên hệ với nông nghiệp, nông thôn có thể thấy việc làm tự tạo trong nông nghiệp, nông thôn là rất lớn và rất quan trọng. Tuyệt đại bộ phận nông dân làm việc trên đồng ruộng đều là những lao động tự trả công hay nói một cách khác là người nông dân là những người tự tạo ra việc làm. Đây là điều rất có ý nghĩa trong nghiên cứu tìm giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
- Việc làm ổn định:
Có thể nói, đến nay chưa có khái niệm về việc làm ổn định. Tuy nhiên trong thực tế tại nhiều văn bản, báo cáo của chính phủ, các bộ, ngành thì cụm từ việc làm ổn định đã được đề cập đến rất nhiều. Chúng ta vẫn thường nói: cần phải tạo việc làm ổn định cho người lao động. Nhưng thế nào là việc làm ổn định? Tiêu chí nào để xác định đó là việc làm ổn định?
Qua sự phân tích ở trên và qua thực tế, tác giả đưa ra khái niệm về việc làm ổn định đó là những công việc mà người lao động có thể làm việc trong một thời gian dài, có mức thu nhập (tiền công) đảm bảo cho cuộc sống người lao động và cho con cái họ và có tích lũy. Trong nông nghiệp, nông thôn, đó là việc làm quanh năm với thu nhập cao.
Từ các khái niệm về việc làm trên đây có thể đưa ra khái niệm giải quyết việc làm như sau:
Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động có cơ hội làm việc với chất lượng việc làm ngày càng cao.
Như vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo ra việc làm cho người lao động để họ có thể nuôi sống bản thân, gia đình và góp phần xây dựng quê hương đất nước.
1.1.3. Khái niệm thất nghiệp và thiếu việc làm
Để giải quyết việc làm những khái niệm quan trọng cần phải làm rõ đó là khái niệm thất nghiệp và thiếu việc làm.
Thất nghiệp
Theo định nghĩa của Aigred Sanvy: “Người thất nghiệp là người khỏe mạnh, muốn lao động để kiếm sống nhưng không tìm được việc làm”.
Theo quan điểm khác: một người được coi là thất nghiệp, nếu người đó không có việc làm và đang cố gắng đi tìm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường.
Cũng có quan điểm cho rằng: thất nghiệp là hiện tượng gồm người mất thu nhập, do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn trong độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế.
Người được coi là thất nghiệp phái có 3 tiêu chuẩn:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện đang chưa có việc làm
Với cách hiểu như thế, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu chuẩn quan trọng để xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có muốn đi làm việc hay không. Bởi lẽ trên thực tế nhiều người có sức khỏe, có nghề nghiệp song không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu nhờ sự trợ cấp của gia đình, hay các nguồn tài trợ khác…
Đây là khái niệm chung đối với các ngành, các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có thất nghiệp hay không thì còn có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo giáo sư DaVid L Lindaver (Viện phát triển quốc tế Harvard) thì trong nông nghiệp không có thất nghiệp, mà chỉ có bán thất nghiệp. Trong cuốn “Theo hướng rồng bay – Cải cách kinh tế ở Việt Nam” ông đã viết: “Việt Nam đang đối diện với một cuộc khủng hoảng về lao động. Nền kinh tế thực chất vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp có tỷ lệ bán thất nghiệp cao”. Tuy nhiên theo ông thì các định nghĩa và cách thức đánh giá mức độ bán thất nghiệp thường khó có thể chính xác, nhưng khu vực nông nghiệp Việt Nam với mật độ dân cư cao, cơ sở hạ tầng nông thôn còn thấp đang phải tiếp nhận một lượng lao động lớn đáng ra có thể tìm được công ăn việc làm ổn định hơn nếu nhu cầu về lao động tăng. Và ông cho rằng, do kinh tế nông thôn có vị trí thống lĩnh nên vấn đề chủ yếu về lao động hiện nay là tình trạng bán thất nghiệp ở nông thôn.
Điều này cũng trùng với suy nghĩ của cử nhân kinh tế Tạ Thị Xuân trong cuốn: “Chống lạm phát – Lý thuyết và kinh nghiệm” cho rằng: “Việt Nam một đất nước sau chiến tranh thì còn biết bao nhiêu việc phải làm cho sự cường thịnh của quốc gia. Một quốc gia như vậy mà thiếu việc làm cho 10 triệu lao động thì thật là điều nghi ngại và khó hiểu”… Theo bà thì cái thiếu nhất ở đây là: thiếu vốn đầu tư, thiếu bí quyết và quyết tâm chiến thắng giặc đói nghèo, thiếu chính sách tài chính – vốn – tiền tệ khôn ngoan, thiếu con đường làm giàu. [20,66].
Từ quan điểm của các tác giả nêu trên, chúng ta nhìn nhận vào nền nông nghiệp Việt Nam thấy rằng: sản xuất nông nghiệp của Việt Nam cho tới nay vẫn còn ở trình độ thấp kém, nền nông nghiệp Việt Nam tuy đã có bước phát triển khá, nhưng sự phát triển đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của nông nghiệp nước ta
Bán thất nghiệp hay thiếu việc làm ở nông thôn có thể được hiểu như là “lao động thời vụ”. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp theo mùa vụ nên người lao động có lúc rất bận rộn, họ phải lao động với cường độ lao động và thời gian lao động cao. Vấn đề đáng quan tâm ở đây là mặc dù làm việc vất vả nhưng do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan nên năng suất lao động thấp, thu nhập không cao không đảm bảo được đời sống của họ.
b. Thiếu việc làm
Theo ILO thì người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
Theo ILO khái niệm thiếu việc làm được biểu hiện dưới dạng vô hình và hữu hình.
Thiếu việc làm vô hình: là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp.
Thiếu việc làm hữu hình: là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc.
Ở Việt Nam theo hướng dẫn điều tra lao động của Bộ Lao động thương binh và xã hội thì “người đủ việc làm bao gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ, hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 nhưng lớn hơn giờ quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành”.
Người thiếu việc làm bao gồm “những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn giờ quy định đối với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định của nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ, sẵn sàng làm việc nhưng không có việc làm”.[2,17]
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì người thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm.
Như vậy thiếu việc làm là người thuộc lực lượng lao động đang có việc làm nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho người đủ việc làm và mang lại thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
1.2. Đặc điểm lao động, việc làm ở nông thôn.
Khu vực nông thôn của nhiều nước đang phát triển và của nước ta có đặc điểm chung là dân số tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn đến nguồn lao động tăng với tốc độ cao hàng năm. Vì thế, khả năng tạo việc làm luôn thấp hơn nhu cầu việc làm của lao động nông thôn. Ở Việt Nam, số việc làm tăng hàng năm ở nông thôn chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu.
Ở nông thôn sản xuất nông lâm ngư nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống và thu hút nhiều lao động của cư dân nông thôn, nhưng bị giới hạn bởi diện tích đất canh tác vốn rất hạn hẹp và có xu hướng giảm dần do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang phát triển mạnh ở các nước. Điều đó đã hạn chế khả năng giải quyết việc làm ở nông thôn. Nếu tình trạng dân số còn gia tăng thì sự khan hiếm đất nông nghiệp càng trầm trọng hơn, đưa đến hậu quả ngày càng thiếu việc làm cho lao động nông nghiệp, nếu lực lượng này không được chuyển dần sang khu vực sản xuất khác.
Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao động của cả nước, giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng lao động của cả nước đạt 2,79%, trong đó tốc độ tăng trưởng của lao động nông thôn là 2,18%. Ở nông thôn, tỷ lệ lao động thiếu việc làm luôn ở mức cao, vì việc nhà nông có những đặc điểm rất khác biệt so với thành thị. Cụ thể, theo điều tra của Bộ này, năm 2008, tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn là 6,1%.
Lao động việc làm ở nông thôn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
Ở nông thôn, người lao động chủ yếu sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp tuy nhiên sản xuất nông nghiệp luôn chịu tác động và bị chi phối mạnh mẽ của các quy luật sinh học và các điều kiện tự nhiên cụ thể của từng vùng như: đất đai, khí hậu, thời tiết…Ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố cơ sở hạ tầng như: giao thông, thủy lợi, và các hoạt động dịch vụ sản xuất như cung ứng giống, phân bón, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm…Quá trình sản xuất mang tính thời vụ rất cao, thu hút lao động không đồng đều, trong ngành trồng trọt việc làm chỉ tập trung chủ yếu vào thời điểm gieo trồng và thu hoạch, thời gian còn lại là rỗi rãi, không có việc làm, đó là lao động nông nhàn ở nông thôn.
Trong thời kỳ nông nhàn, một bộ phận lao động nông thôn thường chuyển sang làm các công việc phi nông nghiệp hoặc đi sang các địa phương khác hành nghề để tăng thu nhập. Phần lớn là di chuyển lao động từ nông thôn lên thành thị để làm các công việc chân tay. Điều đó xuất phát từ tình trạng thời gian nông nhàn cùng với thu nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp.
Ở nông thôn các hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp (công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ) thường bắt nguồn từ lao động của kinh tế hộ gia đình. Các thành viên trong gia đình có thể chuyển đổi, thay thế để thực hiện công việc của nhau. Vì thế, việc chú trọng thúc đẩy phát triển các hoạt động khác nhau của kinh tế hộ gia đình là một trong những biện pháp tạo việc làm có hiệu quả.
Khả năng thu hút lao động trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi với các cây trồng vật nuôi khác nhau là khác nhau, đồng thời thu nhập cũng rất khác nhau, vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng thu dụng được nhiều lao động cũng là biện pháp tạo thêm việc làm ngay trong sản xuất nông nghiệp.
Hoạt động dịch vụ ở nông thôn bao gồm những hoạt động cung ứng đầu vào cho sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp và các mặt hàng nhu yếu phẩm cho đời sống dân cư nông thôn và tạo ra thu nhập cao cho người lao động.
Nhìn chung việc làm ở nông thôn thường là những công việc giản đơn, thủ công, ít đòi hỏi tay nghề cao. Tư liệu sản xuất c._.hủ yếu trong ngành này chủ yếu là đất đai và công cụ cầm tay, dễ học, dễ chia sẻ. Nhưng sản phẩm làm ra chất lượng thấp nên thu nhập bình quân của lao động nông thôn nói chung không cao, tỷ lệ nghèo đói ở nông thôn còn khá cao so với khu vực thành thị.
Ở nông thôn, có một số lượng khá lớn công việc tại nhà không định thời gian như: trông nhà, trông con cháu, nội trợ, làm vườn…có tác dụng hỗ trợ tích cực tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Thị trường sức lao động ở nông thôn thực tế đã có từ lâu nhưng kém phát triển. Hình thức trao đổi sức lao động diễn ra tự phát theo quan hệ truyền thống trong cộng đồng, thiếu một cơ chế điều tiết thống nhất. Quan hệ thuê mướn dựa trên mối quan hệ thân quen là chủ yếu.
Những đặc điểm trên có ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương chính sách và định hướng giải quyết việc làm ở nông thôn. Nếu có cơ chế phù hợp, mở rộng và phát triển các biện pháp tạo việc làm thích ứng sẽ góp phần giải quyết tốt quan hệ dân số-việc làm tại chỗ.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
1.3.1. Nhân tố liên quan đến chính sách
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Chính sách việc làm là nhân tố chủ quan có vai trò rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình phát triển việc làm trong xã hội. Chính sách giải quyết việc làm thực chất là một hệ thống các biện pháp có tác động mở rộng cơ hội để lực lượng lao động của toàn xã hội tiếp cận được việc làm.
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết một vấn đề xã hội vừa cấp bách vừa lâu dài ở mỗi nước là đảm bảo việc làm, đời sống cho lao động toàn xã hội, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi đang tồn tại tỷ lệ người chưa có việc làm, thiếu việc làm khá cao.
Cũng như những chính sách xã hội khác, chính sách việc làm cũng rất đa dạng, phong phú, có thể phân loại như sau:
Nhóm chính sách chung có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lao động nông thôn như: chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách đất đai, chính sách thuế.
Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường (chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực phi kết cấu, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, chính sách di chuyển lao động, chính sách khôi phục và phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống.
Ngoài ra còn có các chính sách việc làm cho các đối tượng là người có công và chính sách xã hội (thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người tàn tật…)
Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, song phương thức và biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế, đồng thời liên quan đến những vấn đề thuộc tổ chức sản xuất kinh doanh như: tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ. Vì thế bất cứ chính sách kinh tế - xã hội nào của Nhà nước cũng ảnh hưởng và tác động đến vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Ở Việt Nam nhiệm vụ của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm là phải góp phần hoàn thiện một hệ thống chính sách, đưa ra được các biện pháp hữu hiệu, tiến hành các hoạt động đồng bộ, kết hợp lồng ghép với các chương trình khác, cùng với hoạt động của các ngành, các cấp trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sự tác động mạnh mẽ của một chương trình quốc gia liên quan trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
1.3.2. Nhân tố liên quan đến giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
+ Về giáo dục đào tạo
Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học, công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học, công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục.
Giáo dục nằm ở trung tâm của sự phát triển. Giáo dục – đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc và rõ ràng, người lao động qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội phân công sắp xếp.
Giáo dục đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Giáo dục và đào tạo nhằm vào định hướng phát triển, trước hết nhằm cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động mới đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
+ Về khoa học công nghệ
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cùng với việc mở rộng hợp tác liên doanh với các nước cũng như sự phát triển của công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu đội ngũ lao động.
Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành nghề mới và cùng với nó là xu hướng tri thức hóa công nhân, chuyên môn hóa lao động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.
Khoa học công nghệ trong tri thức của người lao động và trong thực tế sản xuất trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự tiến bộ vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới.
Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các công việc xã hội yêu cầu, trước hết họ phải là những người được trang bị nhất định về khoa học công nghệ. Tuy nhiên trong thực tế ở những nước sản xuất phát triển thường có sự mâu thuẫn: nếu công nghệ sản xuất tiên tiến, với các dây chuyền sản xuất tự động hóa, chuyên môn hóa cao mà trình độ người lao động chưa bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao động bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế, bên cạnh công việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động, vấn đề lựa chọn áp dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền sản xuất kinh doanh, phải tính toán rất kỹ, bởi lẽ khoa học công nghệ có tác động mạnh mẽ đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
1.3.3. Nhân tố về dân số
Dân số, lao động, việc làm và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của một đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ và quy mô hợp lý là nguồn cung cấp nhân lực vô giá. Tuy nhiên nhiều quốc gia đã gặp phải nhiều tình huống ngược lại. Tăng trưởng dân số không phải là yếu tố tích cực mà lại là gánh nặng cho nền kinh tế. Đó chính là giai đoạn mà phát triển dân số quá nhanh, quy mô phát triển vượt quá khả năng đáp ứng và yêu cầu của xã hội.
Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, cơ cấu giới, tuổi của dân số đều ảnh hưởng đến quy mô của lực lượng lao động. Nếu tỷ lệ sinh cao dẫn đến gia tăng nhanh chóng số lượng người trong độ tuổi lao động tương lai. Mục tiêu của hầu hết các quốc gia là giảm tỷ lệ chết, gia tăng tuổi thọ. Điều này cũng làm cho số người trong độ tuổi lao động tăng lên, sức khỏe được cải thiện nên số người có khả năng cung cấp sức lao động tăng.
Ngoài ra vấn đề di dân và các dòng di dân, đặc biệt là di dân từ nông thôn ra đô thị gây ra các áp lực kinh tế - xã hội và chính trị còn nguy hiểm hơn so với tỷ lệ gia tăng dân số nhanh chóng. Quá trình đô thị hóa gây ra hậu quả trực tiếp đến vấn đề việc làm, để có thể thu hút hết số lao động này cần nhanh chóng tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc. Một vấn đề khác là chất lượng của số lao động này về học vấn, đào tạo, trình độ nghề nghiệp không đáp ứng được với yêu cầu công việc trong khu vực đô thị.
Trong nhiều kế hoạch phát triển, việc khống chế mức gia tăng dân số được gắn với vấn đề giảm áp lực đối với Việt Nam. Ở Việt Nam dân số và việc làm đã được Đảng và Nhà nước thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 như sau:
“Tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số, sớm ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý (khoảng 88 - 89 triệu người vào năm 2010); giải quyết đồng bộ, từng bước và có trọng điểm chất lượng dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư. Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Đến năm 2010, nước ta có 56,8 triệu người ở độ tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế. Chú trọng bảo đảm an toàn lao động. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động, đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài.”[1]
Như vậy con người là mục tiêu và động lực chính của sự phát triển. Cần đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển.
1.3.4. Nhân tố quốc tế
Bối cảnh quốc tế và khu vực là điều kiện bên ngoài tác động rất lớn đến giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Tác động đó nhiều hay ít, mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của tầng quốc gia trong những hoàn cảnh cụ thể. Trong điều kiện thế giới ngày nay, để khai thác và sử dụng tốt các yếu tố bên ngoài đồng thời phát huy tối đa nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp trong giải quyết việc làm một cách năng động, hiệu quả, bền vững, tránh được những rủi ro cần có những nghiên cứu mang tính hệ thống tình hình thế giới, khu vực và các mối quan hệ giữa các điều kiện bên trong và bên ngoài, nhận thức và vận dụng đúng đắn các quan hệ đó khi xây dựng chiến lược việc làm.
Lao động, việc làm là vấn đề bức xúc không của riêng quốc gia nào, nó đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nước trên thế giới. Giải quyết việc làm của cả nước nói chung và ở nông thôn nói riêng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả tạo việc làm mới cho lực lượng lao động. Chính vì vậy để giải quyết việc làm ở nông thôn được thực hiện tốt thì cần quan tâm nghiên cứu các yếu tố trên để tìm ra những giải pháp tốt nhất.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN HÀ TĨNH.
2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam, nằm trên tọa độ 17°54' đến 18°45' vĩ độ Bắc, 105°05' đến 106°30' kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên 6.025 km², chiếm 1,8% diện tích cả nước, dân số hơn 1,2 triệu người.
Hà Tĩnh nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An, có ranh giới bởi dòng sông Lam và dãy núi Thiên Nhẫn. Phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, có ranh giới bởi dãy núi Hoành Sơn. Phía Đông giáp biển đông, có chiều dài bở biển 137 km. Phía Tây giáp tỉnh Bôlikhămxay và tỉnh KhămMuộn của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào có chiều dài đường biên giới 145 km, ranh giới bởi đỉnh của dãy núi Trường Sơn.
Hà Tĩnh có vị trí quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế khu vực và thế giới; có các trục giao thông: Bắc - Nam (quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh, đường sắt), và Đông - Tây (quốc lộ 8A với cửa khẩu quốc tế Cầu Treo, đường 12 qua cửa khẩu Cha Lo - Quảng Bình), nối với liên hợp cụm cảng biển nước sâu Vũng Áng.
b. Địa hình
Hà Tĩnh nằm trên một dải đất hẹp và dốc nghiêng từ Tây sang Đông với chiều dài 122 km, chiều rộng trung bình 60 km với đầy đủ các dạng địa hình: rừng núi, gò đồng, đồng bằng, trung du và biển… Phía Tây là núi cao (độ cao trung bình 1.500 m), kế tiếp là các dãy đồi thấp dần sang Đông, đến dải đồng bằng hẹp và cuối cùng là bãi cát ven biển. Với đặc điểm địa hình này, Hà Tĩnh có điều kiện để phát triển trồng rừng nguyên liệu, trồng cây công nghiệp dài ngày và phát triển công nghiếp chế biến thủy sản và lâm sản.
Địa hình Hà Tĩnh bị chia cắt phức tạp bởi núi đồi và sông suối, tạo nên các vùng sinh thái khác nhau. Do địa hình hẹp và dốc nên các con sông ngắn, khả năng tích nước ngọt thấp hay bị hạn hán.
c. Khí hậu
Hà Tĩnh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp của miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có mùa đông giá lạnh của miền Bắc.
Hàng năm Hà Tĩnh có 2 mùa rõ rệt:
- Mùa mưa có nhiều bão lụt, kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11. Lượng mưa trung bình hàng năm khá cao, đến 2.000 mm, lũ lụt thường xảy ra từ tháng 8 đến tháng 10.
- Mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 7 năm sau. Đặc điểm đầu mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau là mưa phùn kèm theo gió lạnh Đông - Bắc. Từ tháng 4 đến tháng 7 ít mưa, nắng gắt, thường có gió Tây - Nam (gió Lào), nóng (nhiệt độ cao nhất đến 40°C), lượng mưa bốc hơi nhanh gây hạn hán. Vì vậy, việc xây dựng các công trình thủy lợi để giữ nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Với điều kiện địa hình và khí hậu nêu trên, Hà Tĩnh gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế nông nghiệp.
d. Tài nguyên thiên nhiên
- Tài nguyên đất
Đất đai là nguồn tài nguyên quý giá nhất cho phát triển kinh tế - xã hội. Diện tích đất tự nhiên Hà Tĩnh là 602.560 ha. Diện tích đã đưa vào sử dụng 538.946 ha, bằng 89,4% diện tích đất tự nhiên. Trong đó đất đã đưa vào sử dụng sản xuất nông-lâm-ngư-diêm nghiệp là 461.883 ha; đất được sử dụng vào các mục tiêu phi nông nghiệp là 77.063 ha. Diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn (bằng 10,6% diện tích đất tự nhiên), trong đó đất đồi 44.704 ha, đất bằng 16.214 ha, núi đá không có rừng cây 2.696 ha. Diện tích đất bằng chưa sử dụng chủ yếu tập trung ở các dải cát ven biển từ Nghi Xuân đến Kỳ Anh và các vùng bãi sông thuộc các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ. Khả năng có thể khai thác đưa vào sử dụng sản xuất nông-lâm-ngư và phi nông nghiệp đối với diện tích đất bằng chưa sử dụng là khoảng 30%.
Nhìn chung đất ở Hà Tĩnh chủ yếu là đất Feralit, độ màu mỡ không cao. Chỉ khoảng 1/3 diện tích đất trên địa bàn tương đối màu mỡ, 2/3 là trung bình đến xấu, nghèo chất dinh dưỡng. Hạ lưu các con sông lớn, nhỏ là những cánh đồng nhỏ hẹp, thích hợp trồng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Đất cồn cát ven biển phân bố dọc bờ biển Nghi Xuân, Can Lộc Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Loại đất này ít chua, nghèo mùn, kém màu mỡ. Một số vùng có thể đầu tư nuối tôm, trồng rừng…Nhóm đất đồi núi phù hợp với trồng rừng nguyên liệu, cây công nghiệp dài ngày và phát triển chăn nuôi.
- Tài nguyên nước
Hà Tĩnh có nguồn nước mặt khá lớn, lượng mưa trung bình hàng năm là 2000 mm, cùng với 13 con sông lớn nhỏ có tổng chiều dài 400km, đã tạo một nguồn nước khoảng 13 tỷ m³/năm. Nguồn nước mặt của Hà Tĩnh tuy lớn nhưng phân bố không đều giữa các tháng trong năm gây khó khăn cho sản xuất.
Hà Tĩnh đã xây dựng được 357 hồ đập lớn nhỏ để trữ nước, có tổng dung tích thiết kế là 846 triệu m³, trữ lượng nước là 727,93 triệu m³/năm. Ngoài ra còn có 3 trạm bơm lớn, lấy nước từ các sông.
Để có nguồn nước luôn dồi dào, không bị ô nhiễm, đủ khả năng cấp nước chủ động, trước hết phải có quy hoạch bảo vệ và khai thác sử dụng một cách hợp lý, tránh lãng phí.
- Tài nguyên rừng và động thực vật
Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2008, Hà Tĩnh hiện có 339.765 ha đất lâm nghiệp, chiếm 56,67 %, diện tích đất tự nhiên của tỉnh, trong đó:
+ Đất có rừng: 299.590 ha (rừng tự nhiên 217.238 ha, rừng trồng 84.654 ha)
+ Đất không có rừng: 65.987 ha.
Với quỹ đất lâm nghiệp Hà Tĩnh có một tiềm năng to lớn về tài nguyên rừng. Hiện đã quy hoạch 170,546 ha cho rừng sản xuất. Tuy nhiên rừng tự nhiên chiếm tỷ lệ ít, chủ yếu là rừng tái sinh, rừng nghèo hoặc trung bình, trữ lượng gỗ không lớn. Mỗi năm chỉ khai thác rừng tự nhiên từ 10.000 - 15.000 m³ gỗ và hàng ngàn tấn mây, giang, nứa và khoảng 35.000 - 40.000 m³ gỗ rừng trồng.
Thực vật đa dạng và phong phú có trên 86 họ và 500 loại cây dạng thân gỗ. Có nhiều loại quý như: lim, sến, táu, mật, đinh, gõ…và các loại động vật quý hiếm như: voi, hổ, vượn đen, sao la…
- Tài nguyên của biển và ven biển
Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km, trên 13 con sông lớn nhỏ đổ ra biển với 4 cửa lạch lớn, tạo tiềm năng lớn trong việc phát triển toàn diện kinh tế biển.
Nước biển thường xuyên ấm áp, là nơi cư trú tốt cho các loài tôm cua và cá. Trên vùng biển có khoảng 267 loài cá kinh tế và hải sản sinh sống, trữ lượng cá vào khoảng 85,8 nghìn tấn, trong đó cá nổi 41 ngìn tấn, cá đáy 44,8 nghìn tấn. Trữ lượng tôm vùng lộng: 3.000 – 3.500 tấn.
Dọc bờ biển có 4 cửa lạch lớn là Cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng và cửa Khẩu, tạo ra vùng nước lợ và bãi ngập mặn khoảng 6.000 ha, có cấu trúc đất đai, độ mặn thích hợp để nuôi tôm, cua, trồng rau câu. Đồng thời các cửa lạch cũng thích hợp để xây dựng các bến cá, cảng cá…
Ven biển Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng khoáng sản như cát, quặng, lại có điều kiện xây dựng cảng biển. Ngoài ra, bờ biển Hà Tĩnh có một số bãi biển đẹp, có khả năng phát triển du lịch như: Thiên Cầm, Xuân Thành, Thạch Hải…
Tuy vậy ven biển Hà Tĩnh có một số yếu tố không thuận lợi cho phát triển kinh tế:
+ Mức độ khai thác nguồn lợi hải sản ở vùng ven bờ đã sát hoặc thậm chí cao hơn mức sản lượng bền vững cho phép. Tình trạng nổ mìn đánh bắt cá vẫn còn gây hủy diệt đến các nguồn lợi thủy hải sản.
+ Nồng độ muối ở các con sông nước lợ biến đổi theo mùa, những tháng có mưa lớn nồng độ muối giảm, nhưng từ tháng 4 đến tháng 8 nồng độ muối lại khá cao, không thực sự thích hợp cho nuôi trồng thủy sản.
+ Hàng năm, Hà Tĩnh chịu ảnh hưởng trực tiếp của 1-2 cơn bão, thường làm mực nước biển dâng cao đến 2m. Nếu tính cả độ cao sóng và triều cường thì mực nước biển có lúc dâng cao tới 7-8m gây khó khăn cho dân sinh và kinh tế, đặc biệt cho nuôi trồng thủy sản.
- Tài nguyên khoáng sản
Hà Tĩnh có tiềm năng rất lớn về khoáng sản nhưng chưa được đầu tư khai thác.
Mỏ sắt Thạch Khê có trữ lượng trên 500 triệu tấn. Mỏ thiếc Sơn Kim huyện Hương Sơn, mỏ than Hương Khê và nhiều sa khoáng ở Kỳ Anh, Hương Sơn.
Titan là nguồn tài nguyên hiếm, trữ lượng khoảng 4,6 triệu tấn, chiếm 1/3 trữ lượng của cả nước. Mỏ oxit titan chạy dọc từ Nghi Xuân đến Kỳ Anh. Từ năm 2001 đến 2008 đã khai thác và xuất khẩu gần 500 nghìn tấn Ilmenite, tạo nguồn thu ngân sách cho tỉnh, giải quyết việc làm cho lao động địa phương.
e. Tài nguyên du lịch
Hà Tĩnh có các địa danh nổi tiếng như: Cửa Sót, Đèo Ngang, bãi tắm Xuân Thành, Thiên Cầm, khu du lịch sinh thái Nước Sốt Sơn Kim, Hồ Kẻ Gỗ, vườn quốc gia Vũ Quang. Đây là những nơi có điều kiện phát triển tiềm năng du lịch.
Toàn tỉnh có hơn 400 di tích lịch sử, trong đó có 62 di tích quốc gia, 2 di tích danh thắng: Chùa Thiên Tượng và Chùa Hương Tích; nhóm di tích tưởng niệm các danh nhân và nhân vật lịch sử chiếm số lượng lớn như: di tích tưởng niệm Nguyễn Du, Lê Hữu Trác, Nguyễn Công Trứ... Nhóm di tích cách mạng có 14 di tích trong đó đặc biệt là Ngã Ba Đồng Lộc.
Tài nguyên du lịch tự nhiên kết hợp với du lịch nhân văn sẽ tạo ra được nguồn lực đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
a. Về kinh tế
Năm 2008 GDP đạt 5.650,175 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2005-2008 là 9,546%/năm. Chuyển dịch cơ cấu trong GDP giảm tỷ trọng nông lâm ngư từ 51,31% năm 2000 xuống 37,63% năm 2008, tăng giá trị công nghiệp xây dựng từ 13,45% năm 2000 lên 30,35% năm 2008. Giá trị dịch vụ phát triển không ổn định. Thu nhập bình quân đầu người tăng cao gấp 1.5 lần.
Biểu số 1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tỉnh Hà Tĩnh
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2008
GDP
Tỷ trọng
GDP
Tỷ trọng
GDP
Tỷ trọng
Tổng sản phẩm GDP
3.402,552
100
6.104,362
100
10.913,787
100
Nông,lâm,thủy sản
1.745,887
51,31
2.634,005
43,15
4.107,245
37,63
CN-XD
457,720
13,45
1.560,188
25,56
3.311,948
30,35
Dịch vụ
1.198,945
35,23
1.910,169
31,29
3.494,594
32,02
Biểu số 2: Diễn biến GDP bình quân đầu người
Các chỉ tiêu
Đơn vị
2005
2006
2007
2008
- GDP/người (giá cố định 1994)
- Quy ra USD
Tr.đồng
USD
3,335
284,8
3,654
332,2
3,995
363,2
4,465
405,9
- GDP/người
(giá thực tế)
Tr.đồng
4,736
5,465
6,865
8,625
Nguồn: Xử lý theo số liệu Cục thống kê Hà Tĩnh
Trong giai đoạn qua, tăng trưởng kinh tế đã góp phần nâng cao thu nhập cho dân cư trong tỉnh. Tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2006-2008: 11,1 % năm.
Sản lượng lương thực vượt chỉ tiêu, các loại nông sản hàng hóa như lạc, đậu ớt tăng nhanh cả diện tích và sản lượng, cơ cấu cây trồng có bước biến đổi khá. Việc quy hoạch và triển khai trồng và phát triển một số vùng cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như dứa, chè, cao su, cây ăn quả đặc sản như: bưởi Phúc Trạch, cam, chanh, hồng…Kinh tế trang trại có chuyển biến khá, xuất hiện nhiều mô hình cây ăn quả có hiệu quả.
Tỷ trọng chăn nuôi chiếm 32,58% (năm 2008) trong cơ cấu nông nghiệp. Đàn trâu, bò, lợn và gia cầm tiếp tục phát triển.
Kinh tế rừng, gò đồi, vườn trại, công tác bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh rừng có nhiều tiến bộ đã đưa độ che phủ rừng từ 31% lên 38%.
Về thủy sản tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm hơn 2%. Sản lượng khai thác thủy sản năm 2008 đạt 22 ngàn tấn, sản lượng nuôi trồng đạt hơn 10 ngàn tấn. Việc nuôi tôm, cua xuất khẩu chế biến khá.
Đã tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cho gần 75% diện tích trồng lúa. Xây dựng mới trên 220 kênh mương bê tông. Nâng cấp 3925 km đường nông thôn, trong đó có trên 440 km đường nhựa, 464 cầu các loại.
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển bình quân hàng năm đạt hơn 11%. Nhiều cơ sở công nghiệp từng bước phát huy hiệu quả như khai thác và chế biến Titan, xi măng, gạch, đá xây dựng, đóng tàu, vận tải biển, bia, chế biến chè, thủy sản xuất khẩu, sản xuất mộc dân dụng, sửa chữa cơ khí, may mặc và một số dịch vụ sản xuất khác…
Đối ngoại: đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường hợp tác với Lào, Thái Lan, mở rộng quan hệ với nhiều nước, và các tổ chức quốc tế, tạo điều kiện để giao lưu, mở rộng tầm nhìn, tìm kiếm thị trường
b. Về văn hóa - xã hội
Cùng với mức tăng trưởng về nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, sự hỗ trợ về vốn của nhà nước thông qua chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cùng với sự nỗ lực vươn lên của người dân, nên đời sống của người dân từng bước được cải thiện. Những vùng khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển đời sống tuy còn khó khăn nhưng mức độ không còn gay gắt như trước đây.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 33,41% năm 2006 xuống còn 12,69% năm 2009 giảm 20,72%. Đời sống của đại bộ phận người hưởng chính sách có công với cách mạng được cải thiện rõ rệt. Công tác miền núi ngày càng được quan tâm.
Tuy nhiên khi đời sống tăng cao, kinh tế phát triển không ít tệ nạn xã hội đã xuất hiện.
Về lĩnh vực văn hóa nhiều năm qua trong hoạt động văn hóa tỉnh đã tập trung chỉ đạo việc phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và truyền thống văn hóa địa phương, xây dựng đời sống văn hóa mới, đời sống văn hóa cơ sở. Toàn tỉnh có 151 làng, xã đạt tiêu chuẩn làng văn hóa, trên 138.000 gia đình được công nhận gia đình văn hóa. Các thiết chế văn hóa đang từng bước được hoàn thiện; một số tập tục lạc hậu và những biểu hiện không lành mạnh được đấu tranh, khắc phục dần.
Cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa, thể thao, truyền thanh, truyền hình, bưu điện đều được tăng cường. Đã nâng cấp hình thành nhiều chợ ở nông thôn.
2.2. Thực trạng lao động, việc làm nông thôn Hà Tĩnh.
2.2.1. Hiện trạng lao động, việc làm ở nông thôn nói chung
2.2.1.1. Về số lượng và chất lượng của lực lượng lao động ở nông thôn
Số lượng lao động ở khu vực nông thôn không ngừng tăng lên từ 583.541 người năm 2006 lên 594.235 người năm 2008. Lực lượng lao động nông thôn gia tăng về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên giải quyết việc làm ở nông thôn vẫn gặp phải những hạn chế nhất định.
- Trình độ học vấn
Theo kết quả điều tra lao động việc làm các năm 2006, 2007, 2008, nhìn chung trình độ học vấn của lực lượng lao động có việc làm ở nông thôn ngày càng được nâng cao, tỷ lệ người mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ngày càng giảm. Năm 2006 số người chưa tốt nghiệp tiểu học là 23.513 người (chiếm 4,37%), năm 2007 là 19.814 người (chiếm 3,45%), năm 2008 còn 16.119 người (chiếm 2,61%). Bình quân hàng năm giảm 4.697 người.. Đồng thời số người tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông không ngừng tăng, trong đó tăng nhanh là số người tốt nghiệp trung học phổ thông. Năm 2006 số người tốt nghiệp trung học phổ thông là 126.911 người đến năm 2008 là 147.412 người. Tăng 2,18%. Bình quân hàng năm số lao động có việc làm ở nông thôn tốt nghiệp trung học phổ thông tăng 8.167 người.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động nông thôn Hà Tĩnh ngày càng khả quan hơn mặc dù ở mức xuất phát điểm thấp.
Trình độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động nông thôn được phản ánh ở biểu sau:
Biểu số 3: Lực lượng lao động ở nông thôn chia theo trình độ học vấn phổ thông.
Đơn vị: Người
Năm
2006
2007
2008
Tổng số
Nữ
Tổng số
Nữ
Tổng số
Nữ
Mù chữ
2.367
0,41
1.163
848
0,14
560
0,09
124
Chưa tốt nghiệp tiểu học
% so với tổng số
25.513
4,37
16.284
19.814
3,45
12.606
16.119
2,61
11.592
Tổt nghiệp(TN) tiểu học
% so với tổng số
131.382
22,52
75.605
101.123
17,08
60.423
126.140
20,44
77.684
TN trung học cơ sở
% so với tổng số
297.341
50,90
149.272
324.976
54,89
163.447
326.266
52,88
182.614
TN trung học phổ thông
% so với tổng số
126.911
21,80
54.281
145.269
24,44
62.597
147.912
23,98
72.874
Nguồn: điều tra lao động việc làm của sở Lao động – Thương binh và Xã hội(LĐTB-XH) năm 2006 -2008
Trình độ học vấn của lao động nông thôn chủ yếu là tốt nghiệp cấp 2 tỷ lệ trên 50%, thực tế này cho thấy việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa và tay nghề cho người lao động nông thôn là một yêu cầu cấp bách.
Ở khu vực nông thôn, giữa nam và nữ cũng có sự khác biệt lớn về trình độ văn hóa. Càng ở mức học cao thì tỷ lệ nữ càng thấp. Tuy nhiên qua các năm số lượng nữ được học ở mức học cao đã tăng lên. Số lượng nữ tốt nghiệp trung học phổ thông tăng lên từ 126.911 người năm 2006 lên 151.412 người năm 2008. Tăng 24.501 người.
Những chuyển biến tích cực về trình độ văn hóa của người dân nông thôn Hà Tĩnh sẽ tạo thêm nhiều thuận lợi trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động trong thời gian tới.
Từ kết quả điều tra ở 6 xã đại diện cho vùng nghiên cứu ta thấy ở các vùng khác nhau, trình độ văn hóa của lực lượng lao động cũng có sụ khác biệt rõ nét.
Biểu số 4:Trình độ văn hóa của chủ hộ điều tra
Xã
Trình độ văn hóa
Số hộ (hộ)
Cơ cấu (%)
Thạch Hải
- Chưa biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
-
2
2
6
-
-
20
80
Thạch Văn
- Chưa biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
-
2
5
2
10
20
50
20
Thạch Việt
- Chưa biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
-
1
3
7
-
10
30
70
Thạch Kênh
- Chưa biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
-
2
1
7
-
20
10
70
Thạch Vĩnh
- Chưa biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
-
4
2
4
-
40
20
40
Thạch Ngọc
- Chưa biết chữ
- Cấp 1
- Cấp 2
- ≥ Cấp 3
-
2
3
5
-
20
30
50
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ phiếu điều tra
Ở vùng đồng bằng là 2 xã Thạch Việt, Thạch Kênh số lượng người học hết cấp 2 và trên cấp 3 chiếm tỷ lệ cao hơn ở vùng núi: Thạch Ngọc, Thạch Vĩnh và vùng biển: Thạch Hải, Thạch Văn. Ở vùng núi số lượng người mới chỉ học hết cấp 1 chiếm tỷ lệ lớn.
Như vậy có thể nói trình độ học vấn của lực lượng lao động nông thôn đã có sự chuyển biến tích cực tuy nhiên không đồng đều giữa các vùng và giới tính. Vì vậy cần có giải pháp phù hợp để giảm thiểu sự chênh lệch giữa vùng đồng bằng và ven biển, miền núi.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Biểu số 5: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động nông thôn
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Nông thôn
(người)
% so với tổng số
Nông thôn
(người)
% so với tổng số
Nông thôn
(người)
% so với tổng số
Tổng số
583.514
100
592.030
100
594.235
100
Không có chuyên môn kỹ thuật
520.532
89,21
521.967
88,67
526.285
88,57
Sơ cấp
12.826
2,20
13.909
2,35
15.375
2,59
Công nhân kỹ thuật có bằng
12.369
2,12
13.287
2,24
13.658
2,30
Công nhân kỹ thuật không bằng
7.798
1,34
6.758
1,14
3.099
0,52
Trung học chuyên nghiệp
19.984
3,42
23.879
4,03
24.691
4,16
Cao đẳng, đại học
10.005
1,71
12.230
1,57
11.127
1,86
Nguồn: Xử lý theo số liệu điều tra lao động việc làm của sở LĐTB-XH Hà Tĩnh
Xét về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động nông thôn Hà Tĩnh thấy một số nét cơ bản sau:
Lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất cao trong cơ cấu lực lượng lao động mặc dù tỷ lệ này qua các năm đều có giảm. Năm 2006 là 89,21%. Năm 2007 là 88,67%, năm 2008 là 88,57 giảm 0,64%.
Lao động là công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học tăng lên đáng kể. Tuy nhiên vẫn chiếm tỷ lệ ít trong lực lượng lao động nông thôn. Điều đáng chú ý là tỷ lệ công nhân kỹ thuật cả có bằng và không bằng chiếm tỷ lệ rất ít chỉ có 2,82% năm 2008.
Lao động có trình độ cao đẳng, đại học qua các năm cũng được tăng lên đáng kể từ 10.005 người năm 2006 lên 11.127 người năm 2008. Trung bình mỗi năm tăng 374 người. Sô lượng tăng rất ít.
Kết quả điều tra của các chủ hộ; phần lớn lao động ở các xã đều là chưa qua các lớp đào tạo nghề. Nếu có cũng chỉ là đào tạo sơ cấp, chỉ đủ phục vụ sản xuất trong gia đình. Nếu được thuê làm các công việc khác cũng chỉ làm việc chân tay là chính.
Biểu 6: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của chủ hộ điều tra
Xã
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số hộ (hộ)
Cơ cấu (%)
Thạch Hải
- Chưa qua đào tạo
- Sơ cấp
- Trung cấp
- Đại học
9
1
-
-
90
10
-
-
Thạch Văn
- Chưa qua đào tạo
- Sơ cấp
- Trung cấp
- Đại học
8
2
-
-
80
20
-
-
Thạch Việt
- Chưa qua đào tạo
- Sơ cấp
- Trung cấp
- Đại học
6
2
2
-
60
20
20
-
Thạch Kênh
- Chưa qua đào tạo
- Sơ cấp
- Trung cấp
- Đại học
7
2
1
-
70
20
10
-
._.ến 3 năm.
- Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, tạo điều kiện cho các hộ, cơ sở ngành nghề được thuê đất để hoạt động sản xuất kính doanh; hỗ trợ giải phóng mặt bằng, bố trí một diện tích đất nhất định cho việc di dời các cơ sở sản xuất, cơ sở ngành nghề được ưu tiên thuê đất để phát triển nguyên liệu phục vụ sản xuất; xây dựng các làng nghề trên cơ sở truyền thống và thế mạnh về nguyên liệu của từng vùng, làm hạt nhân cho phát triển ngành nghề.
- Tìm được đầu ra cho sản phẩm: Các sản phẩm của làng nghề sản xuất ra mới chỉ dừng lại ở việc phục vụ cho đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt của gia đình và thị trường tiêu thụ nhỏ như nghề rèn đúc, nghề dệt, nghề thêu…Vì vậy cần giúp các hộ làng nghề tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài bằng cách ưu tiên về quảng cáo, triển lãm, hội chợ, giới thiệu sản phẩm, cấp quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp. Đưa sản phẩm làng nghề vào các chợ đầu mối
- Có chính sách ưu đãi đối với các nghệ nhân, thợ giỏi, hỗ trợ công tác đào tạo, truyền nghề để các ngành nghề không bị mai một.
Cụ thể đối với các ngành nghề như sau:
a. Nghề làm chăn, nệm bông:
- Ðầu tư xây dựng làng nghề Thạch Ðồng sản xuất chăn nệm đảm bảo tiêu chuẩn về kỹ thuật, mỹ thuật và độ bền cao đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.
- Khuyến khích một số địa phương phát triển nghề làm chăn nệm nhằm cung cấp cho thị trường theo nhu cầu ngày càng tăng về số lượng.
b. Sản xuất chế biến các sản phẩm từ cói:
- Duy trì và phát triển 2 làng nghề Nam Sơn (Can Lộc) và Hồng Lam (Nghi Xuân) với quy mô mỗi làng 350-500 lao động. Ngoài sản phẩm từ cói, cần phải kết hợp với việc sử dụng các nguyên liệu tổng hợp và nhân tạo để sản xuất sản phẩm đa dạng và hấp dẫn với thị hiếu của người tiêu dùng.
- Ðầu tư xây dựng vùng trồng cói ở ven Sông Nghèn và Sông Lam bao gồm: Giống, cải tạo đồng ruộng, vật tư phân bón, máy móc thiết bị nhằm tăng sản lượng và chất lượng cói, diện tích mỗi vùng 100-120 ha.
c. Nghề thêu ren, dệt thảm:
- Khôi phục các làng nghề đã có trước đây và phát triển thêm các làng nghề có nguồn gốc từ ngành dệt may bằng hình thức đào tạo thêm tay nghề cho lao động và đầu tư trang thiết bị bổ sung.
- Khuyến khích các tổ chức kinh tế-xã hội thành lập các trung tâm chuyên sản xuất để thu hút lao động đang còn dôi dư trong tỉnh, nhất là lực lượng thanh niên vừa học xong phổ thông.
- Thành lập các hợp tác xã, tổ hợp với hình thức sản xuất tập trung để có điều kiện chỉ đạo sản xuất, quản lý kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm.
d. Ðúc rèn và gia công cơ khí:
- Tập trung xây dựng làng nghề Trung Lương với quy mô 1,5 triệu sản phẩm/năm, thu hút 600 lao động tham gia. Diện tích mặt bằng quy hoạch cho khu công nghiệp làng nghề là 6,6 ha.
- Củng cố và mở rộng quy mô các cơ sở sản xuất và gia công các mặt hàng cơ khí như: Gò hàn các sản phẩm dân dụng và tiến tới sản xuất máy tuốt lúa, máy làm đất, máy gặt lúa và sữa chữa cơ khí nhỏ, sữa chữa xe máy ở các trung tâm thị xã, thị trấn để phục vụ nông nghiệp và nông thôn.
e. Sản xuất vật liệu xây dựng và xây dựng:
- Bố trí các vùng tập trung nhằm khai thác triệt để các mỏ đá, cát, đất sét đến mức tối đa, tránh gây thất thoát và lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có đồng thời không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
- Thành lập các hợp tác xã, tổ hợp sản xuất để đầu tư máy móc thiết bị và công nghệ nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
- Một số mỏ đá có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt cần đầu tư công nghệ để sản xuất đá xuất khẩu như ở Thạch Ðỉnh, Thạch Bàn (Thạch Hà), Kỳ Bắc (Kỳ Anh)...
g. Các ngành nghề dịch vụ nông nghiệp-nông thôn:
- Cho nông dân vay vốn để trang bị các phương tiện vận tải nhỏ, đảm bảo mỗi xã có 20-30 chiếc có trọng tải từ 1-3 tấn. Dự kiến đến năm 2010 có 5.000 phương tiện vận tải nhỏ đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật.
- Khuyến khích các tổ chức và cá nhân đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và công nghệ để làm dịch vụ cho các khâu thu hoạch và sơ chế sản phẩm sau thu hoạch.
- Du nhập một số ngành nghề có khả năng cho thu nhập cao, sử dụng được nhiều lao động, có nguồn nguyên liệu dồi dào như: Trồng nấm, mộc nhỉ, làm hương.
- Mở rộng các loại hình dịch vụ thương nghiệp, các nhà hàng ăn uống, giải khát, dịch vụ nhà nghỉ ở các thị trấn, thị tứ, các bãi tắm, các khu du lịch sinh thái.
2.3.2. Giải pháp giảm sức ép về nhu cầu giải quyết việc làm.
2.3.2.1. Dân số và kế hoạch hóa gia đình
Dân số và việc làm có quan hệ vừa tương hỗ vừa hạn chế lẫn nhau. Quy mô dân số lớn, dân số tăng nhanh tất yếu sẽ làm tăng nguồn lao động và đồng nghĩa với tăng sức ép về giải quyết việc làm. Tính đến năm 2008 dân số Hà Tĩnh có 1.265.410 người trong đó dân số nông thôn chiếm khoảng 88%. Mật độ dân số trung bình năm 2008 là 210 người/km² cao hơn trung bình toàn vùng Bắc Trung Bộ (207người/km²).
Dân số trong độ tuổi lao động năm 2008 là 675.980 người chiếm 53,4% dân số. Ở nông thôn số lao động thiếu việc làm là hơn 70.000.
Dân số có xu hướng tăng lên khi mà tỷ lệ sinh lớn hơn tỷ lệ tử. Năm 2008 ở khu vực nông thôn tỷ lệ sinh là 12,09 % trong khi đó tỷ lệ tử là 6,37 %. Tỷ lệ sinh lớn gấp đôi tỷ lệ tử. Dự báo trong các năm tới, dân số sẽ tăng khá nhanh. Và dân số trong độ tuổi lao động sẽ chiếm 62% vào năm 2020, khi đó số người trong độ tuổi lao động tăng. Vì vậy nhu cầu việc làm mới khá cao. Trong giai đoạn 2006-2010, mỗi năm cần chỗ làm mới cho trên 30 nghìn người, giai đoạn 2011-2020 là 25-30 nghìn người.
Biểu số 14 : Dự báo dân số và nguồn lao động
Chỉ tiêu
Đơn vị
2010
2015
2020
Tổng dân số
Nghìn người
1312
1366
1425
Dân số trong độ tuổi lao động
Nghìn người
748
792
840
% so với dân số
%
57
58
59
Lao động có nhu cầu làm việc
Nghìn người
703
752
800
% so tổng số
%
94
95
95
Nguồn : Quy hoạch phát triển Công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh. [17,6].
Để giảm sức ép về nhu cầu việc làm cần thực hiện tốt các chương trình kế hoạch hóa gia đình :
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng và Chính quyền các cấp đối với công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Ủy ban dân số, kế hoạch hóa gia đình các cấp tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp ban ngành các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động cụ thể, phù hợp với đặc điểm của địa phương, đồng thời phân công cán bộ chủ chốt trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số ở địa phương.
- Ủy ban nhân dân các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình tại địa phương mình, có trách nhiệm nâng cao hiệu quả chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình trên cơ sở hoàn thiện công tác quản lý, huy động rộng rãi các lực lượng tham gia.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời, đa dạng, an toàn với chất lượng ngày càng cao về dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và các phương tiện tránh thai.
- Đẩy mạnh thông tin - giáo dục – tuyên truyền, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc chuyển đổi nhận thức, thái độ của người dân.
- Kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống tổ chức làm công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng mạng lưới cán bộ chuyên trách và cộng tác viên ở cơ sở.
2.3.2.2. Di dân kinh tế mới và tái định cư
Tài nguyên đất là một thế mạnh đáng kể của vùng trung du miền núi. Vùng miền núi Hà Tĩnh còn trữ lượng về đất đai chưa sử dụng. Hiện nay cả tỉnh có 16.214 ha đất bằng chưa sử dụng, 44.704 ha đất đồi chưa sử dụng, 2.696 ha đất đồi không có rừng cây chưa sử dụng. Phần lớn đất đai chưa sử dụng tập trung ở các huyện vùng núi như: Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang. Ở những vùng này thế mạnh về trồng rừng, cây công nghiệp và cây ăn quả chưa được phát huy, đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc là một lợi thế phát triển. Việc di dân kinh tế mới nhằm điều hòa, phân bổ dân cư từ đồng bằng, vùng ven biển, có mật độ dân số cao lên khai thác kinh tế, miền núi.
Trong thời gian qua Hà Tĩnh đã di chuyển đến vùng quy hoạch ổn định sản xuất lâu dài cho 9.050 hộ, 39.439 nhân khẩu, hình thành nhiều điểm dân cư mới; tạo công ăn việc làm cho 19.367 lao động; khai hoang mở rộng diện tích 7.163 ha đất sản xuất nông nghiệp, tăng thêm 18.135 ha đất rừng và xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân vùng kinh tế mới.
Mặt khác việc phát triển kinh tế xã hội cùng với sự xây dựng ngày càng nhiều các khu kinh tế và một số mỏ khai thác diện tích lớn như mỏ sắt Thạch Khê dẫn đến người dân không có đất đai canh tác, đời sống bị ảnh hưởng. Vì vậy, thực tái định cư để người dân ổn định đời sống và phát triển kinh tế có vai trò quan trọng.,
Để thực hiện được mục tiêu di dân cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau :
- Điều tra, lập quy hoạch chi tiết các tiểu vùng sinh thái của dựa án phát triển kinh tế - xã hội miền núi gắn với việc chuyển dân.
- Đầu tư cải tạo và nâng cấp xây dựng các công trình thủy lợi, đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng (giao thông, trường học, bênh viện, chợ, điện...) phục vụ phát triển kinh tế và điều kiện sinh hoạt của nhân dân. Đây là cơ hội tốt để quy hoạch, sắp xếp, bố trí lại dân cư một cách hợp lý hơn và từng bước xây dựng nông thôn mới; đảm bảo cho người nông dân có cuộc sống tốt hơn hoặc bằng nơi cũ và có việc làm mới, thu nhập và đời sống ổn định
- Có chương trình đào tạo nghề, việc làm và thu nhập cho nông dân chuyển sang nghề khác. Doanh nghiệp được giao đất phải có cam kết đào tạo nghề và tuyển dụng lao động của nông dân bị thu hồi đất.
- Thực hiện một số chính sách theo hướng ưu tiên cho đồng bào miền núi, cụ thể tăng tỷ lệ vốn cho vay dài hạn và trung hạn.
- Sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi bảo đảm chất lượng để đưa đến các mô hình sản xuất nhân rộng. Nghiên cứu các giống cây phù hợp với vùng núi. Nghiên cứu các công nghệ phục vụ cho các khâu gieo trồng, chăm sóc, tưới tiêu và chế biến.
- Thực hiện triệt để chính sách giao quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình. Thực hiện tốt công tác định canh, định cư.
2.3.3. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Giải quyết việc làm trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, con đường duy nhất là phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về mọi mặt, tư duy kinh tế, trình độ dân trí, tay nghề, sức khỏe, kỷ luật và tác phong công nghiệp.
2.3.3.1. Đổi mới giáo dục và đào tạo
- Đầu tư thích đáng để mở rộng quy mô, nâng cấp chất lượng hệ thống giáo dục, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, dạy nghề chính quy của nhà nước, khuyến khích và hỗ trợ hệ thống dạy nghề tư nhân và bán công. Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề, gắn đào tạo với sử dụng, phấn đấu đến 2015 sẽ có khoảng 85% lao động có việc làm sau khi đào tạo.
- Mở rộng quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học bằng đổi mới nội dung, quy trình và phương pháp đào tạo.
- Tiếp tục phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm để thực hiện các chức năng : dạy nghề phổ cập, đào tạo lại, chuyển giao công nghệ, cung ứng, giới thiệu việc làm...xúc tiến việc tổ chức đào tạo công nhân có tay nghề cao đáp ứng cho nhu cầu ra đời các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
- Hoàn thiện, bổ sung các chính sách liên quan đến hỗ trợ giáo dục, đào tạo cho các vùng kinh tế xã hội chậm phát triển, cho các đối tượng khó khăn trong xã hội.
- Đầu tư và khuyến khích các cơ sở gửi một bộ phận đi đào tạo và đào tạo lại chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề ở các nước có trình độ phát triển cao, chú trọng các nghề mũi nhọn, ngành nghề công nghệ kỹ thuật cao.
2.3.3.2. Đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động.
Hà Tĩnh tuy có lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng nguồn lao động còn thấp kém và mất cân đối giữa các ngành, các vùng. Trình độ học vấn của lực lượng lao động thấp, đa phần là lao động phổ thông và chưa qua đào tạo, đây là trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và giải quyết việc làm hiện nay ở Hà Tĩnh.
Biểu số 15: Tình hình đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động
Đơn vị: Người
Chỉ tiêu
Đơn vị
2006
2007
2008
Số lao động đào tạo trong năm
Người
23.365
20.250
26.500
Số lao dộng đào tạo dài hạn
+Nông thôn
+Thành thị
Người
4.620
1.100
3.520
5.550
1.250
4.300
6.852
1.550
5.302
Số lao động đào tạo ngắn hạn
+Nông thôn
+Thành thị
Người
18.745
14.670
4.075
14.700
12.000
2.700
19.648
16.515
3.133
Nguồn: Báo cáo kết quả đào tạo nghề năm 2006-2008 [16]
Hà Tĩnh là một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, lao động ở khu vực nông thôn chiếm gần 90% so với tổng số lao động, đa phần là lao động phổ thông chưa qua đào tạo.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên qua các năm. Từ 20.250 người năm 20061 lên 26.550 người năm 2008. Điều đó khẳng định trong những năm qua Hà Tĩnh đã chú trọng đào tạo tay nghề cho người lao động. Tuy nhiên phần lớn là đào tạo ngắn hạn. Đào tạo dài hạn bao gồm cao đẳng nghề và trung cấp nghề còn hạn chế và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong kết quả đào tạo. Kết quả đó một phần do cơ sở vật chất của các trường dạy nghề ở Hà Tĩnh còn rất yếu, trang thiết bị còn rất nghèo nàn lạc hậu.
Ở vùng nông thôn kết quả dạy nghề cũng có xu hướng tăng lên, nhưng số lượng người được dạy nghề còn ít; chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động. Phần lớn lao động nông thôn được đào tạo ngắn hạn. Số lượng đào tạo dài hạn tăng lên nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Như vậy mặc dù đã được đầu tư nhưng kết quả đào tạo và dạy nghề vẫn chưa cao. Chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động và người sử dụng lao động trong và ngoài nước.
Để đào tạo nghề có hiệu quả cần thực hiện tốt một số giải pháp như sau :
- Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo. Đào tạo nghề là sự nghiệp của toàn xã hội. Đào tạo nghề không chỉ bó hẹp trong các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề mà còn được thực hiện rộng rãi trong sản xuất, trong cộng đồng, trong các xã, bản, làng. Cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để toàn xã hội có nhận thức đúng đắn với sự nghiệp đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật – yếu tố quan trọng có tính chất quyết định để phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới.
- Quy hoạch các mạng lưới cơ sở dạy nghề: Cần quy hoạch lại các hệ thống mạng lưới dạy nghề cho phù hợp yêu cầu ngành nghề đào tạo trong nền kinh tế thị trường. Tăng cường đầu tư và củng cố các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là Trường dạy nghề kỹ thuật Việt Đức, tăng cường cơ sở vật chất cho các trung tâm dịch vụ việc làm. Trong những năm tới hệ thống dạy nghề phải được đổi mới cơ bản và toàn diện, để có đủ năng lực đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu chất lượng, nhu cầu số lượng lao động kỹ thuật của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xuất khẩu lao động.
Sắp xếp lại các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề ở các huyện, thị để đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Từng bước đào tạo, phổ cập nghề cho lao động nông thôn nhằm đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp mở cơ sở dạy nghề. Mọi cơ sở dạy nghề phải có đủ cơ sở vật chất (giáo trình đào tạo, giáo viên, thiết bị, phòng học, cở sở thực hành…) đăng ký và phải được Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp giấy phép cho các cơ sở dạy nghề theo quy định của pháp luật.
- Cần có các chính sách đầu tư vốn, cơ sở vật chất, ưu đãi thuế thu nhập đối với các cơ sở dạy nghề, ưu tiên mức thuế phù hợp với hoạt động sản xuất. Đối với giáo viên dạy nghề, ngoài các chế độ chính sách hiện hành cần có phụ cấp ưu đãi riêng: phương tiện bảo vệ cá nhân, chế độ bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng dạy nghề. Đối với học sinh học nghề: thực hiện đào tạo nghề miễn phí đối với con em các hộ nghèo, con em gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tác giả đã nêu lên một số giải pháp để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Các giải pháp được trình bày theo nhóm, trong đó có những giải pháp chung và những giải pháp cụ thể để hỗ trợ người lao động tự tạo việc làm.
2.2.4. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hướng quan trọng trong quá trình giải quyết việc làm. Hàng năm Hà Tĩnh có gần 3 vạn người bước vào độ tuổi lao động. Vấn đề tìm kiếm công ăn việc làm, có thu nhập ổn định là nhu cầu hết sức cấp bách. Ngoài vấn đề tạo công ăn việc làm cho lao động trong tỉnh là chính thì vấn đề xuất khẩu lao động để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa chiến lược cấp bách. Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng của xuất khẩu lao động, trong những năm qua được sự quan tâm của Bộ lao động – thương binh và xã hội các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã tạo điều kiện cho Hà Tĩnh đưa được một số lao động đáng kể đi lao động ở nước ngoài.
Biểu số 16: Báo cáo kết quả xuất khẩu lao động 2000-2008
Năm
Tổng số
Đài Loan
Hàn Quốc
Nhật Bản
Malaixia
Các nước khác
2000
1143
136
771
31
0
205
2001
1280
394
705
29
0
152
2002
4271
2095
788
77
1236
75
2003
7209
2575
850
73
3682
29
2004
5942
1940
845
156
1908
1093
2005
5030
1150
643
179
2749
309
2006
6125
504
736
180
4155
550
2007
6450
928
873
209
3064
1376
2008
6125
1220
1101
274
1683
1847
Tổng cộng
43575
10942
7312
1208
18477
6536
Nguồn: Báo cáo công tác quản lý xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh từ năm 2000-2009 [19]
Trong bối cảnh thị trường lao động quốc tế giảm sút, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu lao động ngày càng gay gắt nhưng Hà Tĩnh đã xuất khẩu được hơn 6.500 lao động năm 2008 đi lao động ở nước ngoài góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Thời gian qua công tác xuất khẩu lao động trên địa bàn Hà Tĩnh tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng còn nhiều hạn chế cần phải được khắc phục:
- Số lượng người đi xuất khẩu lao động chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn nhân lực của tỉnh, còn hiện tượng người lao động bị lừa, phải trả chi phí cao hơn mức quy định.[17,4]
- Một số doanh nghiệp chưa quan tâm hỗ trợ người lao động làm thủ tục vay vốn hay chậm làm thủ tục xuất cảnh nên người lao động thiếu tin tưởng.
- Các trung tâm đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu lao động. Chất lượng lao động đi xuất khẩu vẫn còn thấp, người lao động có trình độ tay nghề thấp, ý thức chấp hành hợp đồng lao động và các quy định của pháp luật nước sở tại còn thấp, tác phong làm việc chưa chuyên nghiệp hóa. [17,4]
- Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong tổ chức triển khai chính sách xuất khẩu lao động còn chậm và thiếu đồng bộ.
- Thông tin về thị trường xuất khẩu lao động bị hạn chế do vị trí ở xa các thành phố lớn.
Để xuất khẩu lao động ở Hà Tĩnh đạt được kết quả cao và có hiệu quả cần thực hiện những giải pháp sau:
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và của tỉnh về hoạt động xuất khẩu lao động; giúp người dân nâng cao nhận thức, nắm rõ thông tin về thị trường lao động ngoài nước, số doanh nghiệp có đủ pháp nhân và đựơc phép tuyển dụng lao động xuất khẩu hoạt động trên địa bàn tỉnh, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động và phòng tránh thiệt hại cho người dân lao động.xác định trong giải quyết việc làm.
Để đưa lao động đi xuất khẩu ở các nước khác đòi hỏi phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật cho người lao động.
Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động; đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động; triển khai mô hình liên kết và xuất khẩu lao động; nâng cao hiệu quả dịch vụ xuất khẩu lao động; tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài; hoàn thiện các văn bản pháp luật về xuất khẩu lao động
Các ngành chức năng đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động, các cơ sở giới thiệu việc làm, tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước trên từng địa bàn, kiên quyết loại trừ các doanh nghiệp, cá nhân không đủ điều kiện, thiếu thủ tục pháp nhân hoạt động giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động.
2.3.5. Các giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về lao động, củng cố và phát triển hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm.
2.3.4.1. Tăng cường quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động - việc làm.
Lao động việc làm thuộc chương trình phát triển kinh tế xã hội rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức kinh tế xã hội. Vì vậy, để hoạt động giải quyết việc làm có hiệu quả phải thông qua một hệ thống quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động – việc làm hoàn chỉnh rộng khắp từ trung ương đến cơ sở.
Mấy năm trở lại đây, hệ thống quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động – việc làm ở nước ta đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội bao gồm: Vụ chính sách lao động việc làm, Cục quản lý lao động nước ngoài, Ban quản lý chương trình quốc gia xúc tiến việc làm, trung tâm nghiên cứu nguồn lao động, Viện khoa học lao động và xã hội…Các cơ quan này làm chức năng quản lý nhà nước và đã tổ chức triển khai các chương trình việc làm ở tầm quốc gia và đạt được những kết quả rất tích cực trong giải quyết việc làm.
Ở cấp tỉnh: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan giúp việc Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động – việc làm.
Ở cấp huyện: Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan giúp việc chp Ủy ban nhân dân huyện quản lý Nhà nước về lĩnh vực lao động – việc làm.
Ở cấp xã: Cán bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phụ trách về lĩnh vực lao động việc làm.
Để nâng cao vai trò và tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động – việc làm cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và quản lý sự nghiệp, trên cơ sở đó điều chỉnh tổ chức bộ máy và sắp xếp đội ngũ cán bộ bảo đảm trình độ chuyên môn, phẩm chất, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao tính hiệu quả của công tác lao động việc làm.
- Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học với nhiệm vụ quản lý Nhà nước, nghiên cứu thực hành và ứng dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ vào lĩnh vực hoạt động của ngành.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhân rộng những mô hình tiên tiến trong quá trình giải quyết việc làm.
- Tổ chức lồng ghép các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội với chương trình giải quyết việc làm.
2.3.4.2. Tăng cường hệ thống sự nghiệp về lao động việc làm
Về hệ thống sự nghiệp trong những năm vừa qua Hà Tĩnh đã đầu tư phát triển các trung tâm xúc tiến việc làm. Các trung tâm đi vào hoạt động và đóng góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm cụ thể cho người lao động. Đây là loại mô hình tương đối hoàn chỉnh, các trung tâm này có chức năng chủ yếu là:
- Dạy nghề xã hội gắn với việc làm ( nghề phổ biến ở địa phương, thời gian đào tạo ngắn, chi phí đào tạo ít…).
- Giới thiệu và cung ứng lao động.
- Tổ chức sản xuất gắn với thực hành và tạo nguồn, các trung tâm hoạt động theo cơ chế có thu, tiến tới tự trang trải.
Mô hình trung tâm xúc tiến việc làm là mô hình phù hợp và đang có hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên cần phải tiếp tục hoàn thiện mô hình trung tâm xúc tiến việc làm theo các hướng cơ bản sau:
- Cần phải quy hoạch tổng thể các trung tâm xúc tiến việc làm, nên quy thành một đầu mối tập trung vào một trung tâm đủ mạnh đầy đủ các cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị.
- Hoàn thiện hệ thống quản lý bằng hệ thống kỹ thuật hiện đại (vi tính, thông tin điều hành) nhất là nối mạng thông tin thị trường lao động và dịch vụ giới thiệu việc làm…Quản lý thống nhất về mặt Nhà nước các cơ sở dạy nghề tư nhân.
- Cùng với quy mô ngày càng mở rộng hệ thống sự nghiệp giải quyết việc làm và sự phát triển của trung tâm xúc tiến việc làm cần phải tăng số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác này.
Hiện nay, vấn đề đang đặt ra không những phải tăng hợp lý số lượng cán bộ dịch vụ việc làm mà phải từng bước nâng cao trình độ cho lực lượng cán bộ này, nhất là nghiệp vụ thông tin về thị trường lao động, giới thiệu và cung ứng lao động, sử dụng thiết bị kỹ thuật quản lý hiện đại, ngoại ngữ, vi tính… đó chính là tăng cường hệ thống sự nghiệp lao động việc làm trên địa bàn tỉnh.
Khuyến nghị:
1.Đối với Bộ Lao động thương binh xã hội:
- Cần có chính sách đầu tư ưu tiên cho các vùng khó khăn, vùng nghèo, vùng nông thôn để từng bước nâng cao tính đồng đều giữa các vùng trong cả nước.
- Cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư chế biến nông-lâm-thủy sản và phát triển các cơ sở sản xuất, dịch vụ trên địa bàn nông thôn, góp phần thúc đẩy sản xuất nông thôn phát triển và giải quyết việc làm cho người lao động.
- Hỗ trợ đầu vào và đầu ra nông dân trong sản phẩm nông nghiệp như vậy mói khuyến khích sản xuất và thông qua đó giải quyết việc làm ở nông thôn.
- Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã có nhưng vẫn còn hạn chế, số lượng người được đào tạo day nghề dài hạn còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân. Vì vậy cần nâng cao hơn nữa chính sách đào tạo nghề.
2. Đối Sở Lao động-Thương binh và xã hội:
- Xây dựng và phê duyệt đề án tổng thể về lao động và giải quyết việc làm của tỉnh đến năm 2015 và tầm nhìn 2020; trên cơ sở đó để cụ thể hóa và giao chỉ tiêu nhiệm vụ giải quyết việc làm cho các cấp các ngành liên quan.
- Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách về giải quyết việc làm đã ban hành. Tổ chức tuyên truyền, biểu dương khen thưởng kịp thời những mô hình , những tổ chức tạo ra nhiều chỗ làm việc mới.
- Phối hợp với trung tâm giới thiệu việc làm,làm tốt hơn nữa công tác xuất khẩu lao động, đào tạo người lao động không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn có tác phong lao động kỷ luật, nắm rõ phong tục tập quán và luật pháp nước ngoài.
- Đào tạo và đào tạo lại các cán bộ làm công tác lao động việc làm để nâng cao năng lực cho hoạt động giải quyết việc làm.
KẾT LUẬN
Công nghiệp hóa đất nước trước hết là công nghiệp hóa kinh tế nông thôn. Vấn đề này được đặt ra không chỉ bởi tầm quan trọng của phát triển kinh tế nông thôn mà còn vì nông thôn là nơi cư trú, sinh sống và làm ăn của một bộ phận lớn lao động và dân cư cả nước.
Từ khi Đảng và Nhà nước tiến hành các chính sách đổi mới nền kinh tế, khu vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn nói chung đã có bước tăng trưởng và phát triển tương đối cao. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu về kinh tế, nhiều vấn đề xã hội cũng nổi lên gay gắt như: người chưa có việc làm và thiếu việc làm ngày càng tăng; sự phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng gia tăng.
Trong các vấn đề xã hội nêu trên, việc làm cho người lao động là vấn đề bức xúc, được toàn thể xã hội hết sức quan tâm. Các văn hiện quan trọng của Đảng và Nhà nước và phương tiện thông tin đại chúng cũng đã thường xuyên đề cập đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động đang ngày một tăng lên ở khu vực nông thôn.
Hà Tĩnh là một trong những tỉnh nghèo của cả nước. Mỗi năm Hà Tĩnh có hơn 3 vạn lao động, và hơn 70.000 lao động nông thôn thiếu việc làm. Vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn hiện nay là vấn đề lớn của tỉnh phải được xem là một chủ trương quan trọng xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và cần có chính sách đồng bộ, hợp lực từ trung ương đến địa phương. Trong đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội và người lao động.
Chính vì vậy trong bối cảnh hiện nay, việc nghiên cứu về việc làm và các giải pháp giải quyết việc làm ở nông thôn có ý nghĩa thiết thực góp phần thúc đẩy quá trình tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010.
2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Trung tâm thông tin – Thống kê lao động và xã hội (2000): Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam. NXB Thống kê.
3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Viện Khoa học lao động và xã hội (2009): Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập. NXB Lao động – Xã hội.
4. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Viện Khoa học lao động và xã hội (2009): Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập. NXB Lao động – Xã hội.
5. Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2005. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Cục thống kê Hà Tĩnh (2009): Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh 2008. NXB Thống kê. Hà Nội.
7. Số liệu điều tra lao động việc làm của sở Lao động – Thương binh và xã hội Hà Tĩnh năm 2006-2008
8. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997): Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
9. Quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội Hà Tĩnh (2001-2010)
10. Nguyễn Văn Thanh (2004): Việc làm và một số chính sách giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh – Thực trạng và giải pháp. Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị khóa XIV. Hà Nội.
11. Đặng Xuân Thao (1998): Mối quan hệ giữa dân số và việc làm. NXB Thống kê. Hà Nội
12. Thông báo của Hội nghị quốc tế lần thứ 13 các nhà thống kê lao động thuộc ILO năm 1983
13. Tổng cục dạy nghề. Dự án giáo dục kỹ thuật và dạy nghề (2008): Thị trường lao động việc làm của lao động qua đào tạo nghề. NXB Khoa học và kỹ thuật. Hà Nội.
14. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn (2009): Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nông nghiệp - nông thôn đến năm 2010, định hướng năm 2020. Hà Tĩnh
15. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn (2009): Kế hoạch ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tĩnh năm 2010. Hà Tĩnh
16. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (2009): Báo cáo công tác đào tạo nghề giai đoạn 2001 – 2008. Hà Tĩnh
17. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (2009): Báo cáo công tác quản lý xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh từ năm 2000-nay. Hà Tĩnh.
18. TS. Chu Tiến Quang (2001): Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp. NXB nông nghiệp.
19. UBND Tỉnh Hà Tĩnh. Sở Công Thương (2009): Quy hoạch phát triển Công nghiệp Hỗ trợ và dịch vụ công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2015, tầm nhìn 2020.
20. Tạ Thị Xuân (1994): Chống lạm phát – Lý thuyết và kinh nghiệm. NXB Thống kê.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25889.doc