Lời mở đầu
Trong bối cảnh của nền kinh tế phát triển, tự do hóa thương mại và ngày càng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Vai trò của vốn đặc biệt là vốn đầu tư để phát triển kinh tế được đánh giá là rất quan trọng. Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện không thể thiếu được, đó là phải tạo, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho nền kinh tế. Vấn đề về vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế – xã hội đều được các quốc gia quan tâm. Việt Nam cung
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp cho việc tạo, huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm trong qui luật đó . Hay nói cách khác, Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu CNH-HĐH đất nước thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có vốn, và sử dụng sao cho có hiệu quả. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Các lý thuyết về đầu tư nêu lên những mối quan hệ giữa vốn đầu tư với phát triển kinh tế – xã hội. Việt Nam đã vận dụng các lý thuyết đó như thế nào? trong việc tạo, huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Những thành tựu đã đạt được và những mặt yếu kém còn tồn tại, giải pháp để khắc phục?
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của vốn đầu tư với việc phát triển kinh tế và những câu hỏi còn đang đặt ra vì vậy tôi quyết định chọn đề tài này, mong được đóng góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp về vốn đầu tư cho sự phát triển của kinh tế nước ta.
Chương I: Những Vấn Đề Lý Lụân Chung Về Đầu Tư Và Đầu Tư Phát Triển
I- Các khái niệm và bản chất của đầu tư và vốn đầu tư.
1. Các khái niệm và bản chất của đầu tư
1.1. Khái niệm.
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế . Các hoạt động mua báphân phối lại ,chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân,các tổc chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế
1.2. Bản chất đầu tư.
1.2.1.Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để được hưỏng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vao kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuả các công ty phát hành . Loại hình đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tái sản tài chính của tổ chức ,cá nhân đầu tư .
1.2.2.Đầu tư thương mại ,là loại đầu tử trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá . Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế ,nhưng có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đàu tư phát triển tăng thu cho ngân sách .
1.2.3.Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động. Người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhăm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế , làm tăng tiêm lưc sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác ,là điều kiện chủ yếu đã tạo ra việc làm ,nâng cao đời sống của mọi người trong xã hội . Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển .
2. Nguồn vốn đầu tư
2.1. Khái niệm
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng các nhu cầu chung của nhà nước và xã hội . Nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài .
2.2. Bản chất nguồn vốn đầu tư
Xét về mặt bản chất ,nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội . Điều này được cả kinh tế học cổ điển ,kinh tế học chính trị Mac-Lenin và kinh học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải các dân tộc “(1976),Adámmith,một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển cho rằng : “Tiết kiệm là nguyên nhân tr5ực tiếp gia tăng vốn .Lao động tạo sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm . Nhưng có tạo ra bao nhiêu chăng nữa ,nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên “.
Sang thế kỷ XIX ,thì nghiên cứu về cân đối kinh tế ,về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội ,về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ ,C.Mác đã chứng minh rằng :trong một nền kinh tế với hai khu vực ,khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất(TLSX) và khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (C+V+m trong đó C là phần tiêu hao vật chất ,(V+m) là thành phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó , điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xă hội phải đảm bảo :(V+m) >CII hay nói cách khác (V+C+m)I >CII +CI.
Điều này có nghĩa rằng ,TLSX được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực ) mà còn phải dưa thừa để đầu tư lam tăng qui mô TLSX trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực I,yêu cầu phải đảm bảo :
(C+V+m)II < (C+m)I + (V+M)II .
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn ,nền kinh tế mới có thể danh một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng . Từ đó ,qui mô vốn đầu tư cũng được gia tăng .
Như vậy , để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất gia tăng qui mô đầu tư ,một mặt phải tăng cườngg sản xuất TLSX ở khu vực I,đồng thời phải sử dụng tiết kiệm TLSX ở cả hai khu vực > Mặt khác ,phải tăng cường sản xuất sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
Với phân tích trên , chúng tá tháy rằng ,theo quan điểm của C.Mac, con đương cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và tiêu dùng . Hay nói cách khác ,nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế .
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm , lãi suất và tiền tệ “của mình ,John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng:Đầu tư hiện tại bằng phần thu nhập của kỳ hiện tại mà không chuyển vào tiêu dùng . Như vậy ,đầu tư =tiết kiệm .
Theo Keynes ,sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song phương của hai giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên là người tiêu dùng .Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa mức danh thu từ bán hàng hoá hoằc cung ứng dịch vụ hoặc tổng chi phí . Nhưng toàn bộ sản phấmản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc các nhà sản xuất khác . Xét về tổng thể , phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên , điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng . Trong đó hân tíêt kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và chính phủ .Điều cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên giac độ toàn nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào . Có thể có cá nhân doanh nghiệp lại thực hiên đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đủ . Khi đó , thị trường vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết khoản vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng .
Trong nền kinh tế mở ,đẳng thức đầu tư =tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập . Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại ,khi đó vốn có thể chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư . Ngược lại ,vốn tích luỹ của nền kinh tế phảihuy động tiết kiệm tư nước ngoài . Trong trường hợp này , mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai
CA= S –I
Trong đó : CA là tàI khoản vãng lai
Như vậy , trong nền kinh tế mở nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ của nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thậm hụt thì có thể huy động vốn từ đầu tư nước ngoài . Khi đó đầu tư ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế . Nếu tích luỹ lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quỗc gia có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoàivay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sư dụng vốn của nền kinh tế .
II. Một số lý thuyết chính về đầu tư
1. Lý thuyết về đầu tư và tăng trưởng kinh tế
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế,đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế và cho sự tăng trưởng .Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn: “của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của “số lao động hữu dụng và hiệu quả” . Việc tích tụ vốn đầu tư sẽ cho phép dân số và lực lượng lao động gia tăng, cung cấp những người lao động với trang thiết bị tốt hơn và quan trọng là có thể tạo ra việc phân công lao động xã hội một cách rộng rãi hơn . Việc tăng vốn đầu tư sẽ làm tăng cả tổng sản lượng và sản lượng bình quân mỗi lao động , tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
Cho đến những năm đầu của thập kỷ 50 của thế kỷ XX,Murkse đã nhấn mạnh vai trò của đầu tư và vốn đầu tư đến sự phát triển của nền kinh tế . Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói . Ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn của sư nghèo đói (vicions circle of poverty),.
Về phía cung : Một quỗc gia có thu nhập thấp sẽ có khả năng tích luỹ thấp, tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư , thiếu vốn đầu tư dẫn đến nằng lực sản xuất bị hạn chế và năng suất lao động cũng không thể cao ,năng lực sản xuất thấp dẫn đến thu nhập thấp .
Về phía cầu :Thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm cho động lực gia tăng đầu tư bị hạn chế dẫn đến năng lực sản xuất thấp và từ đó sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp .
Thực tế cho thấy ,các nước nghèo hiện nay trên thế giới hầu hết chịu ảnh cảnh nghèo đói , một phần do những nguyên nhân trên . Tức là sự nghèo đói tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đáng có hiệu quả .
Điều này cho thấy rằng ,để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn trên. Một trong nhưng biện pháp để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn là xuất phát từ khía cạnh đầu tư . Nên kinh tế phải tạo được sự chuyển tăng mức tích luỹ tư thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư . Từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập .
Trong hầu hết các mô hình tăng trưởng, từ mô hình Harrod_Domar (Mô hình 1 khu vực) hay mô hình Arthuslewis (mô hình 2 khu vực ),đều thể hiện một mối quan hệ chặt chẽ và rõ ràng giữa sự gia tăng của đầu tư và thu nhập của nền kinh tế. Quan điểm cho rằng tích tụ vốn cho đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện trong các chính sách phát triển tại nhiều quốc gia (pakistan và An độ đều sử dụng kế hoạch năm năm trong những năm đầu thập kỷ 60 trong đó nhấn mạnh đến nhu cầu vốn trong giai đoạn mở đầu quá trình công nghiệp hoá ,trong đó việc sử dụng một lượng vốn tư nước ngoài là có thể chấp nhận được.
Mô hình ArthusLewis tíêp tục kế thừa kế thừa các quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển nhấn mạnh đến sự tăng trưởng của tư bản vốn để tăng lợi nhuận và tích luỹ từ đó sẽ gia tăng đầu tư . Trong mô hình kịnh tế nhị nguyên ,Lewis cho rằng :Vấn đề quan trọng trong lý thuyết phát triển kinh tế là hiểu được quá trình mà nền kinh tế trước đây chỉ tích luỹvà đầu tư từ 4 hay 5% thu nhập quốc gia hay thậm chí hơn, chuyển sang nền kinh tế mà mức tích luỹ tư nguyện là 12 -15%thu nhập quốc gia hay hơn .
Theo Lewis ,tất cả cá quốc gia mà hiện nay đã tương đối phát triển đã từng có thời kỳ gia tăng mạnh mẽ về vốn ,trong đó tỷ lệ đầu tư thuần của các nền kinh tế này tăng từ mức 5% hay ít hơn đến mức 12% hay hơn . Quá trình đó chúng ta gọi là cách mạng công nghiệp .
Để đánh gía mức gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia (Y),các nhà kinh tế thường bắt đầu với việc ước tính tỷ lệ tích luỹ và khối lượng sản phẩm đâù ra thuần tuý được tạo ra từ đầu tư thuần . Nhiều nghiên cứu đã cố gắng lượng hoá số vốn –sản lượng (capital output ratio) hay hệ số vốn (capital coefficient), tỷ số vồn sản lượng gia tăng(incrememtal capital output ratio) hay cận biên (Marginal) viết tắt là ICOR được tính bằng lượng vốn gia tăng cần thiết
Để tạo ra một đơn vị gia tăng trong tổng sản lượng quốc gia(Dy).
Tỉ số Icor của các nước đang phát triển thường là từ 2:1 –> 5:1
Ví Dụ : nếu muốn tăng sản lượng quốc gia 20, khi mà Icor tính được cho nền kinh tế là 4:1 thì lượng vốn gia tăng cần thiết để đầu tư là 80.
Theo mô hình Harod-Domar, tốc dộ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ số vốn –sản lượng và năng suất của vốn đầu tư
g= Dy\y =D k.Dy\Dk.y =Dy\Dk . Dk\y =1\Icor .1\y
Từ đây chúng ta có thể xác định mức vốn đầu tư cần thiết của nền kt để đạt được mức tăng trưởng nào đó với hệ số Icor cố định .
Người ta cũng có thể viết tỉ lệ tăng trưởng dự kiến của nền kt (g) như sau :
g =Dy\y =1\icor . s\y
Bởi I =S =>s\y =g .icor .
Ví dụ : nếu tỉ lệ tăng trưởng của nền kt năm 200x dựkiến là 5% và hệ số Icor là 15%.
s\y = g .icor = 0,005 . 3 = 0,15 hay 15%
2. Lý thuyết của Keynes về đầu tư
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất . Do vậy , làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến lượt mình tănh thu nhập lại làm tăng đầu tư mới . Qúa trình này thể hiện thông qua 1 đại lượng gọi là số nhân đầu tư . Số nhân đầu tư thể hiện qua tác dộng dây chuyền : tăng đầu tư ,làm tăng thu nhập ,tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới. Qua quá trình hoạt động này, số ngân đầu tư làm phóng đại thu nhập lên .
Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng thu nhập cà mức gia tăng đầu tư .Số nhân này xác định sự gia tăng đầu tư sẽ làm cho thu nhập tăng lên như thế nào . Nếu kí hiệu dy là mức gia tăng thu nhập , dI là mức giá tăng đầu tư và m là số nhân đầu tư thì :
m = dy \ dI
vì I =s nên : m =dy \ds = dy \ (dy –dc) =1 \ (1 –dy\dc) =1\ (1 -c)
Trong dó c là khuynh hướng tiêu dùng cận biên . chẳng hạn khuynh hướng tiêu dùng cận biên của xã hội là C thì theo nguyên lý số nhân từ 1 tỉ đồng đầu tư ta có thể có mức thu nhập là 4 tỉ đồng hay là hệ số phóng đại đến 4 lần .
Cũng theo keynes , hiệu quả cận biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỉ suất thu lợi dự kiến của số tiền đầu tư mới chứ không phải so với phí tổn nguyên thuỷ của nó. Như vậy , cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu quả cận biên của mỗi đồng vốn gia tăng bị giảm sút . Bởi vì : đầu tư làm tăng thêm khối lượng hàng hoá sản xuất thêm và tăng cung hàng hoá cung ứng trên thị trường làm giảm giá của các hàng hoá sản xuất thêm và tăng hàng hoá sẽ làm chi phí vốn đầu tư tăng từ đó giảm hiệu quả sử dụng vốn .Do đó ,tăng đầu tư sẽ dẫn đến giảm hiệu quả cận biên của vốn .Mặt khác , sự tăng đầu tư sẽ dẫn đến giảm hiệu quả cận biên của vốn . Mặt khác , sự khuyến khích đầu tư lại phụ thuộc vào lãi xuất . Người ta xẽ tiếp tục đầu tư trừng nào hiệu quả cận biên của vốn bằng hoặc vẫn lớn hơn lãi suất huy động vốn . Khi hiệu quả cận biên của vốn bằng hoăc thấp hơn lãi suất thì người ta không đầu tư nữa . Vì vậy, để kích thích đầu tư cần tìm biện pháp tăng hiệu quả cận biên của vốn hoặc giảm lãi xuất .
3. Các lý thuyết khác về đầu tư.
Keynes và các nhà kinh tế học cổ điển giả thiết 1 cách khái quát rằng đầu tư là 1 hàm của lãi suất . I =f(i) . Tuy nhiên , bắt đầu từ cuối năm 30 của thế kỉ XX , các nhà kinh tế học đã trở nên hoài nghi về tầm quan trọng của lãi xuât trong việc xác định biến số đầu tư . Hơn nữa , các nghiên cứu thực nhiệm ban đầu cho thấy rằng đầu tư là tương đối ít nhạy cảm với sự biến động của lãi xuất và kết quả là 1 số lí thuyết khác về đầu tư đã được đưa ra . Chúng ta sẽ xem xet 1 vài lý thuyết quan trọng trong số các lí thuyết trên .
3.1. Lí Thuyết gia tốc đầu tư ( the accelerator theory of investment)
Lí thuyết gia tốc đầu tư ở hình thức đơn giản nhất dựa vào giả thiết rằng cần phải có 1 khối lượng nhất định vốn đâù tư (capital stock) để sản xuất ra 1 lượng sản phẩm đầu ra ( output) cho trước .Điều này cho thấy một mối qua hệ cố định giữa vốn đầu tư và sản lượng đầu ra.
Có thể biểu diễn mối quan hệ dưới dạng công thức sau :
X = Kt \ Yt
x : là đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa hai biến số vốn đầu tư và sản lượng đầu ra.
Kt : là khối lượng vốn đầu tư của nền kinh tế trong thời gian t
Yt : là sản lượng đầu ra trong thời gian t
Kt = x . Yt
Nếu giả định rằn x là không thay đổi , hay mối quan hệ này là như nhau tại các thời điểm khác nhau .khi đó trong giai đoạn t-1 ta cũng có :
Kt -1 = x . Yt-1
Từ đó có thể suy ra :
Kt - K( t -1) = x(Yt - Y(t-1))
K = x . Y
Như vây , đầu tư thuần (net investment) : Kt-K(t-1) bằng với x ( hệ số gia tốc đầu tư ) nhân với mức thay đổi trong tổng sản lượng đầu ra . Với giả thiết x là số cố định thì chúng ta thấy rằng đầu tư thuần là 1 hàm số của mức thay đỏổi sản lượng đầu ra . Nếu mức sản lượng đầu ra tăng , đầu tư thuần sẽ là 1 số dương , Nếu mức sản lượng đầu ra tăng càng nhiều thì đầu tư ròng tăng càng lớn .ngược lại , nếu mức sản lượng đầu ra mà giảm thì đầu tư thuần sẽ là 1 số âm.
Vậy có thể viết : NI =x(Yt - Y(t-1)) =x .DY
NI : là đầu tư thuần.
DY : mức thay đổi trong tổng sản lượng đầu ra
Theo lí thuyết này thì cần phải có 1 lượng vốn đầu tư nhất định để sản xuất ra một lượng sản phẩm đầu ra cho trước . Qua thời gian mà tổng cầu không thay đổi thì đầu tư thuần vẫn bằng không bởi không có động lực cho các hãng mở rộng quy mô của mình . Tuy nhiên , tổng đầu tư vẫn là số dương bởi các hang vẫn phải thay thế máy móc và thiết bị dã sử dụng . Gỉa sử tổng cầu tăng làm cho sản lượng đầu ra tăng lên theo lí thuyết gia tốc , khối lượng vốn của nền kinh tế sẽ tăng lên
3.2. Lí thuyết đầu tư nội bộ (the internal funds theory of investment)
Lí thuyết này cho rằng đầu tư phụ thuộc vào mức lợi nhuận .Lợi nhuận thực tế phản ánh 1 cách chính xác lơih nhuận kỳ vọng . Bởi đầu tư phụ thuộc vào lợi nhuận kì vọng nên nó có mối quan hệ đồng biến với lợi nhuận thực tế:
I = f(p) p : là lợi nhuận
Lí thuyết này cho rằng các doanh nhiệp có thể huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn : từ thu nhập gửi lại , từ khấu hao tài sản cố định , từ vay nợ và từ phát hành cổ phiếu ,trái phiếu .TRong đó nguồn từ thu nhập gửi lại và khấu hao là các nguồn vốn nội bộ của doanh nhiệp ,trong khi khoản vay nợ và phát hành chứng khoán là các nguồn huy động từ bên ngoài . với nhiều lí do khác nhau , lí thuyết ưũy đầu tư nội bộ để đầu tư .Biện pháp chủ yếu để tăng vốn nôi bộ là lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh phải cao.
3.3. Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư (the neoclassical theory of investment)
Theo lí thuyết tân cổ điển về đầu tư thì đầu tư sẽ phụ thuộc vào sản lượng đầ ra và giá tương đối của dịch vụ vốn với giá của sản lượng đầu ra . trong đó giá của dịch vụ vốn đầu tư phụ thuộc vào giá của các hàng hoá vốn hay lãi suất và chính sách thuế thu nhập . vì vậy , sự thay đổi của sản lượng đầu ra hoặc sự thay đổi của lãi suất , của thuế suất thuế thu nhập sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư của nền kinh tế .
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư , sản lượng đầu ra là yếu tố quyết định mức đầu tư . vì vậy tăng chi tiêu của chính phủ hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến đầu tư của nền kinh tế do nó tác độnh trực tiếp đến quy mô quỹ nội bộ . còn lí thuyết tân cổ điển cũng cho rằng chính sách thuế thu nhập cũnh ảnh hưởng mạnh đến đầu tư nhưng không phải do ảnh hưởng đến nguồn vốn nội bộ doanh nghiệp mà donó tác động đến giá của các dịch vụ vốn và từ đó có ảnh hưởng đến đầu tư
3.4. Lý thuyết q về đầu tư .
Lí thuyết này cho rằng đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ thuận với q . Trong đó q là tỷ số giữa giá trị thị trường của doanh nghiệp và chi phí thay thế tài sản của doanh nghiệp đó . giá trị thị trường của doanh nghiệp có thể tính được bằng cách cộng giá trị thị trường của các cổ phiếu thưòng , cổ phiếu ưu dãi cũng như giá trị vay nợ thuần của doanh nghiệp . Tài sản (vật chất ) của doanh nghiệp chủ yếu bao gồm nhà xưởng .trang thiết bị và hàng hoá dự trữ
Mối quan hệ này thể hiện như sau : nếu giá trị thị trường của doanh nghiệp mà tăng và cao hơn chi phí thay thế các tài sản của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp sẽ có động cơ huy động thêm vốn để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và tăng giá trị thuần của doanh nghiệp .khi đó đầu tư thuầ sẽ là số dương.
Chương II - ý NGHĩA VậN dụng các lý thuyết này trong việc tạo , huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ở nước ta
I - Thực trạng tạo huy động và sử dụng vốn đầu tư
1. Vốn đầu tư xã hội - nhu cầu nguồn vốn , huy động và sử dụng
1.1 . Vốn đầu tư xã hội.
Là yếu tố trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế , nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế không chỉ phụ thuộc vào số lượng vốn mà quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng vốn
Năm
Tổng vốn đầu tư XH
(tỷ đồng)
GDP theo giá thực tế
(tỷ đồng)
Tỷ lệ VDT xã hội so với GDP (%)
Tốc độ tăng GDP (%) giá so sánh
1995
68.048
228.892
29.7
9.54
1996
79.367
272.036
29.2
9.34
1997
96.870
361.468
30.9
8.15
1998
96.400
361.468
26.7
5.8
1999
103.900
399.942
26.0
4.8
Nhận xét :
Khi tỷ lệ vốn đầu tư xã hội so với GDP bị sút giảm , nếu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không tăng , thì tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ bị sút giảm theo .
Khi quy mô GDP dã lớn hơn , để tăng trưởng 1% đòi hỏi 1 lượng vốn lớn hơn trước , do đó hệ số ICOR Cũng tăng lên .
Do hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp và giảm nên hệ số ICOR đã tăng nhanh ,và hiệu quả ở mức cao .
1.2. Nhu cầu vốn lớn
Nhu cầu vốn đầu tư xã hội năm 2000 so với mức thực hiện 1999 đã tăng 27.8 -40.1% (bằng cách lấy 132.8+145.6 chia 103.9 nghìn tỷ đồng).
Tăng 29 - 42. Nhu cầu rất lớn so với tốc độ tăng của GDP theo giá thực tế chỉ có 11.8- 12.4%
Nhu cầu vốn đẩu tư cã hội 2000 so với mức thực hiện năm 1999 đã tăng 18.4 -29.9% tưong ứng 19-31 nghìn tỷ đồng.
Tổng hợp cả 2 phương án thì nhu cầu vốn đầu tư xã hội năm 2000 mức thấp nhất là 123 nghìn tỷ đồng và mức cao nhất là 145.6 nghìn tỷ đồng .so với mức thực hiện năm 1999 tăng 19 – 42 nghìn tỷ đồng , tương ứng 18.4-40.2% .
1.3. Nguồn ,huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số -tỷ đồng
68.048
79.367
96.870
96.400
103.900
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
1.vốn nhà nước -tỷ đồng
26.048
35.894
465.70
51.600
64.000
-%
38.3
45.2
48.1
53.5
61.6
a) vốn ngân sách NN -tỷ đồng
13.575
16.544
20.570
20.700
26.000
-%
19.9
20.8
21.2
21.5
25.0
b) vốn tín dụng -tỷ đồng
3064
8280
12700
14800
19000
-%
4.5
10.4
13.1
15.4
18.3
c) vốn tự có củaDNNN -tỷ đồng
9409
11070
13300
16100
19000
-%
13.8
13.9
13.7
16.7
18.3
2. Vốn ngoàI quốc doanh -tỷ đồng
20000
20773
20000
20500
18900
-%
29.4
26.2
20.6
21.3
20.2
3. vốn FDI -tỷ đồng
22000
22700
30360
24300
18900
-%
32.3
28.6
31.2
25.2
18.2
2. Tình hình tạo, huy động và sử dụng vốn ở nước ta.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn mà nhà nước có thể trực tiếp kế hoạch hoá và điều hành ,cũng là nguồn có tác dụng tạo ra các công trình trọng điểm của đất nước , chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đầu tư vào những lĩnh vực ,những địa bàn mà các thành phần kinh tế khác không làm được hoặc không muốn làm ,có tác dụng là nguồn vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác .nguồn vốn nhà nước bao gồm vốn thuộc ngân sách NN tập trung và nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư phát triển (ĐTPT) là yếu tố quan trọng hang đầu quyêt định tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả thì sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển đổi cơ cấu thành phần kinh tế, các vùng va lãnh thổ theo hướng CNH-HĐH. Với tầm quan trọng của đầu tư phát triển nhà nước đã thực hiện ưu tiên cho phát triển các nguồn lực cho đầu tư bằng các chính sách huy động vốn dựa trên các lý thuyềt về đầu tư. Trong các nguồn vốn đầu tư thì nguồn vốn đầu tư nhà nước có tính chất quan trọng và định hướng trong đầu tư phát triển. Nguồn vốn nhà nước bao gồm vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN). Đây chính là nguồn thu ngân sách cho đầu tư. Đó chính là phần chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi thường xuyên của ngân sách nhà nước. Đây là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lước phát triển kinh tế xã hội của mỡi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cầu hạ tầng KTXH, quốc phòng hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ...
Với lý thuyết đầu tư và tăng trưởng kinh tế thì ta thấy đầu tư tỷ lệ thuận với tăng trưởng kinh tế do đó phải huy động một nguồn vốn lớn cho đầu tư mà đối với nguồn vốn ngân sách Nhà nước thì đó là chênh lệch giữa thu (thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc Nhà nước quản lý) và chi tiêu thường xuyên. Nhà nước đã mở rộng và không ngừng gia tăng các khoản thu và cắt giảm các khoản chi thường xuyên không hợp lý để tăng cường tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, để đầu tư cho phát triển kinh tế.
Còn lý thuyết gia tốc đầu tư cho ta thấy mối quan hệ giữa vốn đầu tư và sản lượng đầu ra. Với một khối lượng vốn cố định sẽ tạo ra một sản lượng đầu ra nhất định tuỳ thuộc vào tỷ số giữa vốn đầu tư và sản lượng đầu ra (Kt/Yt). Với tình trạng ở Việt Nam thì vốn còn thiếu nên áp dụng lý thuyết này rất khó. Do vậy thì chúng ta phải tăng năng suất lao động xã hội bằng cách đầu tư đúng hướng, có hiệu quả từ ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn khác. Việc huy động nguồn vốn ngân sách cũng rất quan trọng trong việc đầu tư phát triển để làm tăng năng suất lao động xã hội.
Cụ thể là giai đoạn 1991 - 1995 nguồn vốn này trong GDP chiếm khoảng 6% thì giai đoạn 1996 - 1997 đạt 6,6%. Nếu so sánh nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội thì tỷ trọng này đạt 21,3% trong thời kỳ 1991 - 1995. Đi cùng với việc mở rộng qui mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ 2,3% GDP năm 1991 lên 6,1% GDP năm 1996.
Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Các lý thuyết về đầu tư đòi hỏi cần phải có nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội trong khi các nguồn vốn khác cũng đang được huy động thì nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có một ý nghĩa quan trọng là tăng cường các nguồn vốn cho đầu tư phát triển bắt buộc các dự án đầu tư từ nguồn này phải có hiệu quả, dự án có hiệu quả thì mới tạo đà cho việc đầu tư mới hay nói cách khác là khi dự án có hiệu quả thì dẫn đến lợi ích (lợi nhuận) sẽ tăng theo lý thuyết quĩ đầu tư nội bộ. Vì vậy để có vốn chúng ta có thể phát hành trái phiếu đầu tư có kỳ hạn dài...
Cụ thể về tình hình huy động vốn từ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong giai đoạn qua: Giai đoạn 1991 - 1995 nguồn vốn này mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 1996 - 1999 đã chiếm 14,5% và riêng năm 2000 nguồn vốn này đã đạt 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Cho đến năm 2001 nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và đầu tư vào ngành công nghiệp trên 60% tổng vốn đầu tư (gần 55% số dự án) đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế.
Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay bên cạnh đó vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định vào thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Tuy nhiên các doanh nghiệp này, sự tồn tại và phát triển của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động tài chính của bản thân chúng, hay nói cách khác sự sống còn của mọi doanh nghiệp đều phụ thuộc vào hiệu quả của việc huy động vốn và sử dụng vốn. Lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ cho rằng lợi nhuận sẽ làm tăng đầu tư do đó các doanh nghiệp Nhà nước phải huy động nguồn này để gia tăng đầu tư, mà muốn huy động được nguồn này thì các doanh nghiệp Nhà nước phải làm ăn có lãi nghĩa là hoạt động phải có hiệu quả để đem lại lợi nhuận làm tăng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp sau đó tái đầu tư .
ý nghĩa của việc vận dụng các lý thuyết về đầu tư đã được thể hiện qua tình hình huy động vốn của nguồn vốn này qua các thời kỳ cụ thể sau: Trong giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp Nhà nước là 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Trong giai đoạn 1998 - 2001 tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp Nhà nước chậm lại nhưng vẫn chiếm khoảng 40% GDP của toàn bộ nền kinh tế, nộp ngân sách chiếm 40% tổng thu của ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho 1,9 triệu lao động. Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng giảm nhanh trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội từ 13,5% thời kỳ 1986 - 1990 xuống 2,5% thời kỳ 1991 - 1995 và 2% thời kỳ 1996 - 1997. Gần đây nguồn vốn này đang có xu hướng tăng trở lại. Nguồn vốn này bao gồm khấu hao cơ bản để lại, một phần lợi nhuận sau thuế để tích luỹ.
Về quy mô số lượng doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua có xu hướng gia tăng. Tính đến cuối năm 1995 được ghi nhận là 6.480 trong đó số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng và doanh nghiệp có số công nhân dưới 100 người đang giảm dần, trong khi đó doanh nghiệp có số vốn trên 1 tỷ đồng và có số công nhân trên 500 người tăng lên. Số vốn của các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư trong năm 1995 là 2500 tỷ đồng (chỉ chiếm 32% trong tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước).
Tổng số
1991
1992
1993
1994
1995
Doanh nghiệp Nhà nước
88,25
78,2
7,1
63,2
58,1
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
0,15
4,1
6,2
6,6
5,7
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
11,6
17,7
22,8
30,2
36,2
Tỷ trọng vốn của các loại hình doanh nghiệp (đơn vị %)
Nguồn vốn ngân sách tập trung hiện chỉ dưới 10% tổng vốn đầu tư xã hội và phụ thuộc vào cân đối thu - chi ngân sách . trong điều kiện thu ngân sách còn hạn hẹp ,dân cư ầu tư trực tiếp còn ít , thường gửi ngân hàng .kênh đầu tư của ngân sách còn đang trầm lắng thì cần tăng tỉ lệ bội chi nân sách dành cho đầu tư ,phát hành công trái ,trái phiếu ,kỳ phiếu để đầu tư cho đân cư là cần thiết.
Nguồn vốn ODA cũng là 1 nguồn vốn quan trọng . Vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh tiến độ giải ngân và nâng cao hiệu quả ._.sử dụng nguồn vốn này.
Nguồn vốn tín dụng , vốn ngoài quốc doanh vốn FDI cũng là những nguồn vốn quan trọng.
2.1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Một nền kinh tế phát triển là đi với một thị trường vốn phát triển, mạng lưới dịch vụ Ngân hàng hoàn hảo và tiện lợi, các nguồn lực xã hội được sử dụng tối ưu và có hiệu quả. Đó là các công cụ để huy động một nguồn vốn rất lớn, còn tồn tại trong dân, chưa được huy động triệt để.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm: Phần tiết kiệm của dân cư,tích luỹ doanh nghiệp dân doanh, hợp tác xã.
Theo Adam Smith: “ Vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu số lao đông hữu dụng và hiệu quả”. Theo điều tra và đánh gì về giá trị vốn của các loại hình doanh nghiệp tư nhân:
Năm 1991: 11 tỷ đồng
Năm 1992: 540 tỷ đồng
Năm 1993: 1351 tỷ đồng
Năm 1994: 2090 tỷ đồng
Năm 1995: 2296 tỷ đồng
Vốn đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, góp phần cải thiện điều kiện sống của nhân dân, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Mặc dù, tỷ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư tăng trương hàng năm của nguồn vốn này đạt trên 18% và vẫnc có xu hướng tăng nhanh trong thời gian tới, chiếm 46,5% vốn đầu thị trườngư toàn xã hội thời kỳ 1986-1991; 38,3% trong thời ký 1991-1995 và 27,2% trong thời kỳ 1996-1997.
Theo các nhà hoạch định chính sách, thì giai dodạn 1996-2000, tỷ lệ tiết kiệm của dân cư đạt khoảng 15% GDP, trong khi đó, thời kỳ 1996-1997, chúng ta mới chỉ huy động được xấp xỉ 7,8% GDP cho đầu tư trực tiếp và gián tiếp, đạt 52% tổng số
Vốn đầu tư đã tăng lên rất nhanh. Nguồn vốn tiềm năng trong dân không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt…Khoảng 80% tổng nguồn vốn hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Cùng với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đã tạo ra một bước ngoặt quyêt định cho sự nghiệp phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đến lượt mình, sự phát triển của khu vực này đã đóng vai trò to lớn trong việc đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế và những khó khăn về chính trị – xã hội đi kèm theo nó.
Theo lý thuyết đầu tư và tăng trưởng kinh tế: Tích tụ vốn đầu tư làm cho dân số và lực lượng lao động gia tăng. Sự phát triển của khu vực này đã làm tăng số công ăn việc làm một cách đáng kể ở đô thị cũng như nông thôn.
Năm 1989: Tỷ lệ nông thôn ở thành thị giảm 13% xuống còn 6,08% năm 1994 và còn 5,88% năm 1996. Hàng năm có khoảng 1 triệu chỗ làm mới được tạo ra trong cả nước, chủ yếu là nhờ khu vực kinh tế này. Năm 1993, lao động ở khu vực này tăng 5,4 triệu người. Qua bảng thống kê trên chúng ta thấy lực lượng lao động của chúng ta gia tăng, tăng số công ăn việc làm
Mặc dù số vốn đầu tư của chúng ta chưa đạt được nhiều. Vẫn còn có những hạn chế trong khâu thu hút vốn.
Tăng vốn đầu tư, làm cho tổng sản lượng gia tăng. Kinh tế ngoài quốc doanh đã đóng góp cho nền kinh tế khoảng 2/3 GDP và tốc độ tăng trưởng có giữ được cao như mong muốn hay không, chắc chắn sẽ phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Năm 1991: Tỷ trọng vốn từ 66 tỷ đồng đến 7500 tỷ đồng năm 1995. Tăng hơn 100 lần, cùng với sự tăng mạnh mẽ của vốn kéo theo sư tăng lên của sản lương, của lực lượng lao động. Tăng vốn đầu tư làm cho tổng sản lượng gia tăng. Sự đóng góp của khu vực dân cư vào nền kinh tế là rất đáng kể.
Khoảng 15 triệu hộ gia đình đóng góp xấp xỉ 1/3 GDP. Năm 1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư của khu vực dân cư khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia đình thực sự trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
ở nước ta đã và đang vận dụng những biện pháp để huy động vốn từ dân cư như gửi tiền có kỳ hạn vào ngân hàng, được hưởng lãi suất thấp nhưng chắc ăn.
Mua trái phiếu chính phủ, thực hiện qua thị trường chứng khoán. Hình thức này có lãi suất cao hơn tiền gửi ngân hàng, nhưng kỳ hạn thường rất dài.
Mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn. Hay bỏ phiếu đầu tư kinh doanh, làm ăn. Trường hợp này đòi hỏi người có tiền phải có đầu óc kinh doanh, phải bỏ công sức lao động và hiệu quả đem lại tuỳ thuộc vào tài năng kinh doanh của anh ta.
Trong các hình thức nói trên, thì phổ biến là người dân gửi tiền vào tài khoản tại ngân hàng. Nhưng không phải mọi nguồn vốn trong xã hội cứ phải được tập trung vào các NHTM, mà phải khuyến khích người dân tự đầu tư, bỏ vốn kinh doanh, mở ra nhiều hình thức đẩu tư khác nhau. Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi, rõ ràng và nhất quán để mọi người dân an toàn bỏ vốn ra tự đầu tư kinh doanh như ngăn chăn các trường hợp hụi họ có động cơ xấu, nghiêm trị những kẻ lừa đảo vốn vay trong dân cư, có chính sáh thuế và tổ chức thu thuế nhất quán…
Các NHTM cần linh hoạt hơn trong việc điều hoà nguồn vốn giữa cac chi nhánh trong toàn hệ thông, không nên điều hành theo hình thức giao chỉ tiêu huy động vốn tại chỗ, hay kế hoạch điều hoà vốn cho từng chi nhánh một cach cứng nhắc. Mà cần phải có một phương châm điều hành và chỉ đạo linh hoạt theo hướng nơi nào có thế mạnh về huy động vốn, thì huy động vốn chuyển cho nơi có điều kiện mở rộng cho vay, thông qua lãi suất linh hoạt và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại.
Các NHTM cần có chiến lược tiếp cận nhanh với nghiệp vụ tiền gửi ngắn hạn với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường tiền tệ quốc tế.
2.1.3. Thị trường vốn.
Là nơi thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Theo lý thuyết về đầu tư và tăng trưởng kinh tế: “Khi vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữu dụng và hiệu quả” Khi tăng vốn đầu tư thì tổng sản lượng gia tăng. ở Việt Nam, thị trường vốn đã thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn tạm thời của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây có thể coi là một lợi thế của thị trường vốn mà không một phương thức huy động vốn nào có thể có được.
Thị trường vốn là phương tiện huy động vốn, có thể qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Xem xét hoạt động của thị trường vốn của nước ta vừa qua. Có thể thấy rằng thị trường vốn đã huy động được một khối lượng vốn rất lớn. Vốn đầu tư phát triển làm cho tổng sản lượng tăng lại quá trình tiếp tục đầu tư mới.
Thị trường vốn thực sự trở thành một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, thị trường vốn của ta là một khâu trong huy động vốn cho phát triển vì vậy cần có những biện pháp để tăng
2.2 Đối với nguồn vốn từ nước ngoài.
2.2.1 Nguồn vốn ODA.
ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển .Việt nam là một trong những nước đó .Hiện trạng đất nước vừa trải qua chiến tranh , nền kinh tế phải gánh chịu hậu quả nặng nề ,cùng với thời gian dàI của cơ chế tập chung bao cấp tạo nên một nền kinh tế kém phát triển , sản xuất đình trệ sức mua thấp ,đời sống nhân dân khó khăn ,thu nhập quốc dân / đầu ngườithấp .Sau công cuộc cải cách nền kinh tế chuyển từ cơ chế kinh tế tập chung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường ,nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi sự đáp ứng khối lượng lớn của các nguồn vốn nói chung và vốn ODA nói riêng.
Vận dụng các lí thuyết về đầu tư vào việc huy động và sử dụng nguồn vốn ODA trong đầu tư phát triển ở nước ta như sau :
) Khía cạnh huy động vốn ODA
*) Lí thuyết về đầu tư cho rằng đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ thuận với q . q là tỷ số giữa giá trị thị trường của doanh nghiệp đó và chi phí thay thế tài sản của doanh nghiệp , như vậy tức là q tăng thì đầu tư tăng và ngược lại , mà để q tăng thì ta có hai cách
+) Thứ nhất ta có thể tăng giá trị thị trường của doanh nghiệp .Gía trị thị trường của doanh nghiệp bằng tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu thường , cổ phiếu ưu đãI , cũng như giá trị vay nợ thuần của doanh nghiệp. ởViệt nam vốn ODA được huy động và sử dụng vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng như gệ thống cấp thoát nước ,năng lượng đổi mới công nghệ , giao thông vận tảI, sự phát triển đó tạo cơ sở để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả đạt lợi nhuân cao làm tăng giá trị thị trường của các doanh nghiệp, về phía doanh nghiệp việc làm ăn có lãI sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút, huy động nguồn vốn ODA bởi vì khi doanh nghiệp có năng lực sản xuất , kinh doanh tốt ,sử dụng có hiệu quả sẽ tạo cho các nhà đầu tư niềm tin cao , họ sẽ sẵn sàng tàI trợ vốn đầu tư.
+) Thứ hai ta có thể tăng q bằng cách giảm chi phí thay thế tài sản của doanh nghiệp . Các doanh nghiệp phải thực hiện chính sách tiết kiệm , tránh lãng phí các nguồn lực sản xuất để giảm tới mức tối thiểu chi phí thay thế tàI sản.
Như vậy việc tăng năng lực sản xuất,việc tiết kiệm và tăng hiệu quả sản xuất của của các doanh nghiệp đặc biệt doanh nghiệp quốc doanh ,sẽ là cơ sở tạo niềm tin cho các nhà tàI trợ vốn ODA chủ động rót vốn .Hiện tại Việt nam đã giảm số doanh nghiệp quốc doanh và nhiều doanh nghiệp làm ăn đã có lãi nó sẽ là cơ sở để huy động nguồn vốn ODA Nhiều hơn .
*) Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư cho rằng đầu tư phụ thuộc vào sản lượng đầu ra và giá cả dịch vụ vốn đầu tư
+ Về quan điểm sản lượng đầu ra ảnh hưởng đến đầu tư của lí thuyết này có điểm giống với lí thuyết p về đầu tư
+ Về giá cả dịch vụ vốn đầu tư nếu xét ở khía cạnh nguồn vốn ODA (Không xét đến khía cạnh vốn nội bộ ) như là lãi xuất hay chính sách thuế thu nhập của doanh nghiệp nó ảnh hưởng đến đầu tư như sau : nếu thuế thu nhập cao sẽ ảnh hưởng đến phần thu được của doanh nghiệp như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanhvà đánh giá năng lực hấp thụ vốn của doanh nghiệp như vậy sẽ làm mất lòng tin trong các nhà đầu tư. ở Việt nam tuỳ vào loại hình doanh nghiệp mà có mức thuế xuất thuế thu nhập phù hợp khác nhau , như vậy tạo được cơ sở tốt để huy động vốn ODA.
*) Lí thuyết của KEYNES về đầu tư đề cập đến hiệu quả cận biên của vốn đầu tư , nó phụ thuộc vào tỷ xuất thu lợi dự kiến của số tiền đầu tư mới. Tăng đầu tư thì hiệu quả cận biên của mỗi đồng vốn giảm sút , mà vốn đầu tư phụ thuộc vào lãi xuất vì vậy các nhà đầu tư vẫn cứ tăng vốn đầu tư đến khi nào hiệu quả vốn đầu tư ≤ lãi xuất .Như vậy để khích thích đầu tư từ nguồn vốn ODA ta thực hiện các biện pháp nhằm tăng dược hiệu quả cận biên của mỗi đồng vốn.
) Khía cạnh sử dụng vốn ODA
*) Lí thuyết đầu tư và tăng trưởng kinh tế
- ADAM SMITH cho rằng vốn đầu tư quiết định “số lao động hữu dụng và hiệu quả ”.Việc tích tụ vốn đồu tư tạo nên sự gia tăng lực lượng lao động ,sự phân công lao động rộng rãi và làm tăng tổng sản lượng
- NURKSE cho rằng vốn đầu tư tác động đến tình trạng nghào đói
+ Phía cung : thu nhập thấp tạo ra khả năng tích luỹ thấp nên thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất thấp và lại tạo nên thu nhập thấp
+ Phía cầu : thu nhập thấp tạo ra sức mua thấp dẫn đến động lực tăng vốn đầu tư không có ,động lực tăng vốn đầu tư không có lại tạo ra thu nhập thấp
- HARROD_DOMAR cho rằng tích tụ vốn đầu tư là chìa khoá cho tăng trưởng.
- ARTHULEWIS cho rằng tăng tư bản vốn dẫn tới tăng lợi nhuận và tăng tích luỹ .
*) Lí thuyết của KEYNES về đầu tư cho rằng vốn đầu tư gia tăng dẫn tới tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và tăng tư liệu sản xuất . Thông qua số nhân đầu tư , vốn đầu tư tăng tạo ra thu nhập tăng dẫn tới đầu tư mới tăng.
Hầu hết các lí thuyết đều thể hiện một mối quan hệ chặt chẽ và ro ràng giữa sự gia tăng của đầu tư và thu nhập của nền kinh tế.
Thực trạng cho thấy tình trạng thiếu việc làm, sức mua nhỏ, thu nhập thấp , nhu cầu bổ sung về nhân công nhỏ, trang bị tư liệu sản xuất kém ,công nghệ lạc hậu…một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đángcó hiệu quả hoặc tỉ lệ tích luỹ trênnền kinh tế thấp . Cái vòng luẩn quẩn sẽ luôn tồn tại nếu như không có những biện pháp phá vỡ nó .Một trong những biện pháp xuất phát từ khía cạnh đầu tư .Nền kinh tế phải tạo được sự chuyển biến tăng mức tích luỹ từ thấp lên trung bìnhvà tới mức cao dể tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là tăng thu nhập.
Việt nam đã , đang và tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của cộng đồng về nguồn vốn ODA nhằm hỗ trợ cho phát triển kinh tế – xã hội , góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói ,giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Chính phử Việt nam dự kiến sử dụng các loại hình ODA theo các định hướng sau:
- Vốn ODA không hoàn lại :
Được ưu tiên sử dụng cho các trương trình , dự án thuộc các lĩnh vực : xoá đói giảm nghèo trức hết tại các vùng nông thôn , vùng sâu .vùng xa , vùng đồng bào dân tộc thiểu số ; ytế , đân số phát triển; giáo dục , phát triển nguồn nhân lực ;các vấn đề xã hội(tạo việc làm,cấp nước sinh hoạt ,phòng chống dịch bệnh,phồng chống các tệ nạn xã hội); bảo vệ môI trường , bảo vệ và phát triển các nguồn tàI nguyên thiên nhiên;nghiên cứu khao học và công nghệ ,nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai ;nghiên cứu cơ bản để chuẩn bị trương trình, dự án đầu tư phát triển(quy hoạch , điều tra cơ bản, tổng quan nghiên cứu khả thi);cảI cách hành chính ;tư pháp, tăng cường năng lưc của cơ quan quản lí Nhà nước ở TRung ương,địa phương và phát triển thể chế…
-ODA vốn vay:
Được ưu tiên sử dụng cho các chương trình ,dự án thuộc các lĩnh vực : xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn ;giao thông vận tảI , thông tin liên lạc; năng lượng ; cơ sở hạ tầng xã hội(các công trình phúc lợi xã hội,phúc lợi công cộng,ytế gióa dục và đào tạo); hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giảI quyết các vấn đề xã hội(tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo , khắc phục tệ nạn xã hội);hỗ trợ cán cân thanh toán…
*) Thành tựu đạt đươc từ việc huy động và sử dụng nguồn vốn ODA từ 1993 đến 2001
Hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác phát triển với 25 nhà tài trợ song phương , 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ (NGO). Từ 1993 tới nay ,Viêtj nam đã hợp tác với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ(Hội nghị CG) và được cộng đồng tàI trợ cam kết hỗ trợ nguồn vốn ODA với trị giá là 20.006 tỷ$ .Riêng Hội nghị lần thứ 9 vừa qua vẫn được cam kết hỗ trợ 2356 triệu $.
Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, trong thời gian từ 1993 đến tháng 10 năm 2001 , chính phủ Việt nam đã kí kết với các nhà tàI trợ các Điều ứơc Quốc tế cụ thê Về ODA trị giá 14.3 tỷ $ , đạt khoảng 81.5% tổng vốn ODAđã cam kết, trong đó , ODA vốn vay khoảng 12 tỷ $(83.9 %)và ODA vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 2.3 tỷ $ (16.1%)
Tình hình thực hiện ODA đã có bước tiến triển khá , năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giả ngân hàng năm . Từ 1993 đến hết 2001 vốn ODA giảI ngân khoảng 9.728 tỷ $/17.54 tỷ$
Như vậy nguồn vốn ODA đã giảI ngân đạt khoảng 55.5% so với tổng nguồn vốn ODA dẫ cam kết..
Nguồn vốn ODA đã đươc tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế –xã hội đó là : năng lượng điện(24%); nghành giao thông(27%); phát triển nông nghiệp,nông thôn bao gồm cả thuỷ sản ,lâm nghiệp,thuỷ lợi(12.74%); cấp thoát nước (7.8%); các nghành y tế –xã hội,giáo dục đào tạo,khoa học công nghệ môI trường()11.87%
Biểu: Cam kết và thực hiện ODA Thời kỳ 1993-2001
Đơn vị: triệu $
Năm
Cam kết ODA
Thực hiện ODA
Tổng số
20.006
9.728
1993
1.810
413
1994
1.940
725
1995
2.260
737
1996
2.430
900
1997
2.400
1.000
1998
2.200*
1.242
1999
2.210**
1.350
2000
2.400
1.650
2001
2.356
1.711
Ghi chú : (*) chưa kể 0.5$ tỷ $ dự định hỗ trợ cảI cách kinh tế
(*) chưa kể 0.7$ tỷ $ dự định hỗ trợ cảI cách kinh tế .
2.2.2 Vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
Tỷ trọng nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đang có xu hướng tăng dần. Nếu thời ky 1991-1995, tỷ trọng này mới chỉ đạt 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì thời kỳ 1996-1997 đạt gần 12,% bằng 3,4%GDP như vậy, nếu so với chỉ tiêu phấn đấu trong giai đoạn 1996 –2000 nguồn vốn tín dụng đạt 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và đến năm 2000 đạt 7% GDP, đòi hỏi phải có những biện pháp chính sách huy động vốn hợp lý và chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phù hợp mới có khả năng đảm bảo được nguồn vốn này.
Vốn tín dụng bao gồm cả nguồn vốn ưu đãi (ODA) và tín dụng thương mại. Đối với nguồn vốn tín dụng ưu đãi, tình hình giải ngân hiện nay còn tương đối chậm.
Đối với tín dụng thương mại, cần dỡ bỏ dần những trở ngại trong công tác huy động vốn, lựa chọn dự án đầu tư cho vay. Việc thống nhất quản lý các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để quản lý và cho vay có hiệu quả.
2.2.3 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Kể từ khi Nhà nước ta ban hành luật ĐTNN (1987) đến nay, sau hơn 10 năm dòng ĐTNN vào Việt Nam đặc biệt sôi động. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (VĐTTTNN) thật sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần bổ sung vốn cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các tiềm lực trong nước. Nguồn vốn này trong giai đoạn vừa qua có xu hướng tăng nhanh từ 12,5% trong tổng VĐTXH thời kỳ 1986-1990 lên 29,1% thời kỳ 1991-1995 và 36,2% thời kỳ 1996-1997. Ngồn vốn này chủ yếu bao gồm tiền mặt (76,7%) phần còn lại bao gồm thiết bị (15,4%) và các dịch vụ khác.
Tính từ năm 1988 cho đến hết năm 2000 trên phạm vi cả nước đã có 3251 dự án đước cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 44.587 triệu USD. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư. Nguồn vốn FDI thực sự là cứu cánh cho nền kinh tế nước ta trong giai đoạn vừa qua. Nó góp phần đáng kể làm tăng trưởng kinh tế. VDT FDI đóng góp vào GDP qua các năm có xu hướng tang dần. Năm 1996 là 7,9% và đến năm 1999 là 10, 3% tào ra 25% giá trị sản lượng ngành công nghiệp, thu hút hơn 25vạn lao động trực tiếp và hoạt động trên nhiều lĩnh vựckinh tế khác nhau như khai thác dầu khí, sắt thép, xi măng, điện tử, ô tô xe máy, viễn thông khách sạn, công nghiệp. Đồng thời vốn FDI vào Việt Nam làm cho công nghệ Việt Nam dược cải thiện hơn 60% trong tổng số voón FDI vào Việt Nam những năm qua được dòng đầu tư cho máy móc thiết bị và bí quyết kĩ thuật. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí công nghệ của Nước ngoài chuyển giao qua các dự án được đánh giá là tiên tiến, tương đương với công nghệ đang áp dụng của nhiều nước trên thế giới. Loại trừ một số trường hợp cá biệt, công nghệ áp dụng trong nhiều dự án, các lĩnh vực khác cũng được các chuyên gia đánh giá là tiên tiến hơn công nghệ hiện ở Việt Nam, tương đương công nghệ trung bình ở các nước trong khu vực ĐTTT của nước ngoài cũng là một kênh chuyển giao nghiệp vụ quản lý và tác động tích cực đối với việc tạo ra một phong cách mới trong quản lý sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam.
Những yếu tố đó đã góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội và tổng sản lương trong nền kinh tế gia tăng. Làm cho tăng trưởng kinh tế tăng đáng kể. Mặt khác, hoạt động ĐTTTNN đã góp phần hình thành một số ngành công nghiệp mới có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân như công nghiệp dầu khí, công nghiệp sản xuất ô tô, xe gắn máy… cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất của ccs ngành công nghiệp, nhiều dự án ĐTTNNN đã tạo ra sản phẩm xuất khẩu mới góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ví dụ như năm 1998 kim nghạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI đạt gần 2 tỷ USD ( không kể dầu khí) tăng 11,7% so với năm 1997. Trong khi đó mức tăng xuất khẩu của cả nước chỉ tăng chỉ tăng 98% so với năm 1997. Hơn nữa doanh thu của các dự án FDI năm 1998 đạt 3 tỷ USD, tăng 27,7% so với năm 1997. Mức đóng góp ngân sách của các dự án FDI cũng tăng 1,6% so với 1997. Đạt 320 triệu USD. Xuất khẩu tăng, NSNN tăng… làm cho tổng cầu tăng, sản lượng đầu ta tăng mà sản lượng đầu ta là yếu tố quyết định mức đầu tư. (theo lý thuyết gia tốc đầu tư).
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được. FDI còn một số mặt hạn chế còn phải vươt qua như là: sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nhà ĐTNN đối với sản xuất trong nước, như gian lận của một số nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng sản xuất kinh doanh, nhập khẩu máy móc thiết bị, những căng thẳng trong quan hệ lao động ở các xí nghiệp có VĐTNN … Một số nhà ĐTNN vẫn chưa hết than phiền về tình trạng yếu kém của chính cơ sở hạ tâng- kinh tế xã hội, môi trường đầu tư kém dần tính cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực… Thiết nghĩ cần có một sự nhìn nhận khách quan về những nhận định cả về bên trong lẫn bên ngoài, để có những biện pháp hữu hiệu.
Trong thời gian gần đây, Nhà nước đã có những cải thiện đáng kể trong việc cải thiện môi trương đầu tư như sửa đổi NĐ hướng dẫn thực hiện luật ĐTTNN vào Việt Nam, phân cấp quản lý và cấp giấy phép đầu tư theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và nhanh chóng, gia hạn, miễn thuế vật tư xây dung hình thành tài sản cố định của dự án, chính phủ trực tiếp gặp các nhà đầu tư… Tuy nhiên, cơ chế vận hành đòi hỏi phải linh hoạt, năng động hơn, đảm bảo lòng tin của nhà ĐTNN trong việc làm ăn lâu dài với chúng ta. Nguồn FDI là nguồn vốn rất năng động và dễ bị tổn thương. Nếu nền kinh tế chúng ta dựa hẳn vào nguồn vốn này thì sự phát triển kinh tế sẽ mang nhiều tính rủi ro, bấp bênh không chủ động do phải chịu ảnh hương rất lớn vào các điều kiện kinh tế bên ngoài. Do vậy, việc hướng trọng tâm vào việc huy động và phát huy hiệu quả nguồn vốn trong nước là hướng mục tiêu cơ bản đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
2.2.4 Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng phát triển toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho những quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nguồn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. Tính từ đầu những năm 70 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Vốn đầu tư trực tiếp của các nước thuộc nhóm G7 chỉ tăng 30 lần trong khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỉ 90, khối lượng cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần đạt khoảng ngàn tỉ USD.
Ngay tại nhiều nước đang phát triển dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ mặc dù vào nửa cuối những năm 90 có sự xuất hiện một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối những năm 99 khối lượngười giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể. Riêng năm 99, dòng vôn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào châu á đã tăng gấp 3 lần năm 98 đạt 15 tỉ USD.
Việt Nam nên huy động nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam. Vì vây, trong những năm qua nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế chưa phải là nguồn đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần đáng kể làm tăng trưởng kinh tế. Nhưng để phát triển kinh tế thì chúng ta cần khơi thông và tạo điều kiện cho nguồn này đi vào hoạt động.
II- Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển ở nước ta.
1. Nguồn vốn trong nước.
1.1. Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là một chỉ tiêu quan trọng, đóng vai trò quyết định, trong việc phát triển và tăng trưởng kinh tế đất nước: Nhất là đối với nước ta đang từ một nước có cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp với một nền kinh tế kém phát triển năng suất thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa được nâng cao do lịch sử để lại. Nay chuyển sang cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, cả nước đang bước vào thời kỳ đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì việc tăng cường các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội lại càng có một vị trí hết sức then chốt. Vì thế mà Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến việc thực hiện huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển ở trong nước cũng như nước ngoài.
Nhờ đó, từ năm 1995 đến năm 2000, thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (tính theo giá so sánh năm 1994) ngày một tăng cao. Từ 60,75 ngàn tỷ đồng năm 1995 lên 67,49 ngàn tỷ đồng năm 1996, 79,20 ngàn tỷ đồng năm 1997, 75,58 ngàn tỷ đồng năm 1998, 80,90 ngàn tỷ đồng năm 1999 và ước tính 91,80 ngàn tỷ đồng năm 2000.
Có thể nói, kết quả thực hiện huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 nhìn chung liên tục tăng với tốc độ cao, trừ năm 1998 có giảm chút ít so với năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực. Nếu so với 1995, năm 1996 tăng 11,1%, 1997 tăng 30,4%, 1998 tăng 24,4%; 1999 tăng 31,8% và năm 2000 ước tính tăng 48,1%.
Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện của cả giai đoạn 1996 - 2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với cả giai đoạn 1991 - 1995.
Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6%/năm.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996 - 2000 đã tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của đất nước như phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp và dịch vụ v.v.. Nhờ tăng vốn đầu tư, mà số lượng công trình hoàn thành đưa vào sử dụng cũng như năng lực của hầu hết các ngành sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đều được nâng lên, tạo ra một số năng lực sản xuất mới, là cơ sở thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn sau, giai đoạn 2001 - 2005.
Thật vậy, 5 năm qua cả nước đã làm mới được 1.200 km và nâng cấp 3.790 km đường quốc lộ, làm mới 115.000 mét cầu đường bộ, nâng cấp 200 km đường sắt, mở rộng cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy nhơn v.v.. Nâng cấp các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng. Hệ thống bưu chính viễn thông phát triển khá, tất cả các tỉnh, thành và các huyện đều có tổng đài điện tử và qua tuyến cáp quang, vi ba số, mật độ điện thoại đến nay đạt 3,6 máy/100 dân. Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Diện tích được tưới nước và tạo nguồn nước tăng thêm 82 vạn ha, tiêu úng tăng 43,3 vạn ha. Kết cấu hạ tầng ở các thành phố, đô thị và nông thôn được nâng cấp. Cơ sở vật chất ngành giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá xã hội, du lịch, thể dục, thể thao và các ngành dịch vụ khác đều được tăng cường. Trong số các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thì nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
Cụ thể tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn Nhà nước so với năm 1995 như sau:
%
Vốn Nhà nước
Chia ra
Vốn ngân sách tập trung
Vốn của các DNNN
Vốn tín dụng ưu đãi
1996
31
16,1
12,1
157
1997
64
38,8
29,4
279
1998
75
42,3
85,9
190
1999
114
71,5
72,2
428
2000
140
72,4
95,5
574
Trong khi các nguồn vốn thuộc vốn Nhà nước đều có tốc độ tăng nhanh (đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ưu đãi) thì nguồn vốn ngoài quốc doanh qua các năm 1996 - 2000 lại có chiều hướng ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so với 1995. Nếu lấy năm 1995 làm gốc so sánh thì năm 1996 giảm 1,1%, năm 1997 giảm 8,4%, năm 1998 giảm 10,9%, năm 1999 giảm 10,5% và ước tính năm 2000 giảm 1,8%.
Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong khu vực dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%.
Cùng với tình trạng trên, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) giai đoạn 1996 - 2000 cũng giảm sút (trừ năm 1997 so với 1995 tăng 26,1%). Cụ thể so với 1995 năm 1996 giảm 1,7%); 1998 giảm 3,9%; 1999 giảm 25,8%; và ước tính năm 2000 giảm 14,9%.
Tuy nhiên, tính chung cho cả giai đoạn 1996 - 2000 so với giai đoạn 1991 - 1995, thì tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vẫn tăng lên 1,67 lần. Trong đó: vốn Nhà nước tăng lên 2,34 lần (vốn ngân sách tăng lên 1,85 lần; vốn tín dụng ưu đãi tăng lên 3,91 lần; vốn các doanh nghiệp Nhà nước tăng lên 2,37 lần); vốn ngoài quốc doanh tăng lên 1,51 lần. Về cơ cấu tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1996 - 2000, chỉ có nguồn vốn Nhà nước là ngày càng tăng, từ tỷ trọng 38,3% năm 1995 lên 61,9% năm 2000. Còn vốn ngoài quốc doanh từ tỷ trọng 29,4% đã giảm xuống còn 19,5%. Và tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giai đoạn 1996 - 2000 cũng giảm từ 32,3% xuống còn 18,6% trong thời gian tương ứng.
Về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Tỷ trọng vốn đầu tư dành cho ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ lợi, thủy sản chiếm trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội có xu hướng tăng dần. Năm 1998 là 9,1%, 1999 là 15,6% và ước tính năm 2000 khoảng 15,8%.
Điều này phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển liên tục, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, xuất khẩu lương thực mỗi năm từ 3 đến 4 triệu tấn.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp cũng khá lớn. Từ năm 1998 - 2000, bình quân mỗi năm chiếm từ 45% đến 46% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Vốn đầu tư cho giao thông vận tải, bưu điện cũng được chú trọng, giai đoạn 1996 - 2000 vốn đầu tư cho ngành này bình quân hàng năm ở mức 16% đến 17% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nhờ vậy mà kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển mạnh, nhất là hệ thống đường giao thông, cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống đường giao thông nông thôn được cải tạo nâng cấp hàng chục vạn km đường, 95% số xã có đường ôtô vào đến trung tâm. Hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt. Những kết quả trên đây đã có tác dụng đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất văn hoá, tinh thần cho nhân dân, tạo m._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35440.doc