Lời mở đầu
Lãi suất là giá cả của tiền tệ, là công cụ điều hành kinh tế vĩ mô. lãi suất tác động đến cung- cầu vốn thị trường, tạo động lực kích thích tiết kiệm, phân bổ các nguồn vốn tài chính, chống lạm phát thông qua kích thích hoặc hạn chế đầu tư.
Thực tiễn hoạt động ngân hàng trong thời kỳ mới vừa qua cho thấy lãi suất vừa là tín hiệu thị trường hết sức quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời lại là công cụ trong tay Ngân hàng Nhà nước để điều chỉnh các luồng vốn và khối
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam” (cụ thể tại Sở Giao dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượng tiền nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã hoạch định và điều hành chính sách lãi suất một cách chủ động, nới lỏng dần sự kiểm soát lãi suất theo hướng tự do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu. Sự di chuyển vốn giữa các quốc gia là tự do, lãi suất hoàn toàn được xác định theo quan hệ cung cầu, giá vốn vì vậy cũng phải được tự do hoá, mà Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó.
Từ chỗ lãi suất được quy định các mức cụ thể, thứ đến là quy định sàn lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay, rồi tự do hoá hầu hết lãi suất tiền gửi, chỉ khống chế trần lãi suất cho vay. Từ tháng 8/ 2000, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng lãi suất cơ bản, và đến tháng 6/ 2002 là cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận, một bước tiến quan trọng trong tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Đây là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm chú ý thường xuyên của nhiều người, nhiều ngành, đặc biệt là ngành Ngân hàng. Là một sinh viên khoa Ngân hàng- Tài chính, em mong muốn được nghiên cứu vấn đề này để được hiểu sâu về cơ chế lãi suất ngân hàng mà hiện nay là cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận đang được áp dụng cho hệ thống các NHTM Việt Nam. Vì vậy tên luận văn em thực hiện là : “Giải pháp áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại các NHTM Việt Nam” (cụ thể tại Sở Giao dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam).
Bố cục của luận văn:
Lời mở đầu
Nội dung của luận văn được chia ra 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về lãi suất cho vay của NHTM
Chương 2: Thực trạng áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại SGD I
Chương 3: Giải pháp áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận bằng VNĐ
Kết luận
Do sự hạn chế về kiến thức nên luận văn không thể không có những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo hướng dẫn của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng- Tài chính, đặc biệt là thầy giáo Đặng Ngọc Đức, các cán bộ SGD I- NHCT VN để em có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I
Những vấn đề chung về lãi suất cho vay của NHTM
1.1. Lãi suất Ngân hàng
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế như huy động tiền gửi, cho vay, bảo lãnh, thanh toán,... ngân hàng mua nguyên liệu và bán sản phẩm thông qua giá: Giá đó chính là lãi suất và các khoản phí khác. Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng phải trả giá cho khách về phần lớn nguồn tiền mà ngân hàng huy động được cấu thành chi phí của ngân hàng và ngược lại khách hàng cũng phải trả giá cho các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp- cấu thành thu nhập của ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi:
Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng, là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận. Lãi suất tiền gửi là lãi suất hiện tại tính trên tài khoản tiền gửi được niêm yết tại tất cả các chi nhánh của ngân hàng. Lãi suất tiền gửi là lãi suất danh nghĩa, là lãi suất không tính đến tác động của lạm phát, hay nói cách khác lãi là lãi suất ghi trên hợp đồng tín dụng, hay các giấy tờ có giá.
Lãi suất tiền gửi = Lãi suất cơ bản + Tỷ lệ lạm phát
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại hình tiền gửi khác nhau, có thể phân loại như sau:
Tiền gửi giao dịch ( tiền gửi thanh toán ): bao gồm
Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi
Tiền gửi giao dịch hưởng lãi :
-Tài khoản NOW- negotiable order of withdrawal- tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng.
-Tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA): là tài khoản tiền gửi có thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần hay vài tháng. Lãi suất của loại này cao nhất trong 3 loại tiền gửi giao dịch không hưởng lãi.
-Tài khoản Super NOW (SNOW) : là tài khoản có thể được phát sec thường xuyên nên lãi suất của SNOW thấp hơn của MMDA.
Tiền gửi phi giao dịch ( tiền gửi tiết kiệm):
Lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch.
Các loại tiền gửi có các mức lãi suất khác nhau, và được tuân theo nguyên tắc :
Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn và sinh lợi với các hoạt động đầu tư khác như mua vàng, bất động sản, chứng khoán;
Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay với cùng kỳ hạn;
Lãi suất tỷ lệ thuận với kì hạn;
Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô;
Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản;
Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng của tiền gửi;
Lãi suất tỷ lệ nghịch với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng cung cấp.
Mỗi loại tiền gửi nói trên đều mang một mức lãi suất khác nhau. Nói chung, theo lý thuyết giá trị của tiền theo thời gian và theo mối quan hệ tỷ lệ thuận trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh toán càng dài sẽ tạo ra mức lãi càng cao cho người gửi tiền. Ví dụ, tài khoản NOW và tài khoản tiết kiệm đều có thể được rút tiền ngay lập tức, và do đó lãi suất đối với loại này là thấp nhất.
Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lãi suất tiền gửi. Ví dụ, các ngân hàng ở Newyork, London nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất, trong khi lãi suất thông báo ở các ngân hàng khác thường cao hơn. Những yếu tố quan trọng là triết lý về Marketing và mục tiêu của việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng nào quyết định chọn mục tiêu là cạnh tranh giành tiền gửi sẽ luôn luôn đặt ra mức lãi suất cao hơn để kéo khách hàng khỏi các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại khi ngân hàng muốn hạn chế quy mô của một loại hình tiền gửi nào đó, ngân hàng sẽ hạ lãi suất công bố thấp hơn mức lãi suất các đối thủ cạnh tranh đưa ra.
Hiện nay, hầu hết các nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi- nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ lớn để thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao vì điều này sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng thường phải lựa chọn giữa hai mục tiêu tăng trưởng và khả năng sinh lời. Trả lãi suất cao hơn cho các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác giúp cho ngân hàng tăng trưởng nhanh hơn, nhưng lại có thể khiến cho lợi nhuận của ngân hàng giảm. Vì vậy nghiên cứu các phương pháp định giá tiền gửi là rất cần thiết, có nhiều mô hình định giá tiền gửi, chủ yếu gồm : Định giá theo chi phí- thu nhập; Định giá xâm nhập thị trường; Định giá có điều kiện; Định giá mục tiêu trọng điểm và Định giá theo quan hệ với khách hàng.
1.1.1.1. Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí- thu nhập
Mỗi dịch vụ liên quan tới tiền gửi thường được định giá sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phí cho việc cung cấp dịch vụ đó. Giá của các dịch vụ này được xác định theo công thức tổng hợp chi phí- thu nhập như sau:
Giá khách hàng phải trả cho một đơn vị dịch vụ tiền gửi
=
Chi phí hoạt động cho một đơn vị dịch vụ tiền gửi
+
Chi phí quản lý chung dự tính phân bổ cho bộ phận nhận tiền gửi
+
Định mức lợi nhuận từ một đơn vị dịch vụ tiền gửi
Việc định giá theo phương pháp này đòi hỏi ngân hàng phải tính toán chính xác chi phí cho mỗi dịch vụ tiền gửi, khuyến khích các ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí.
1.1.1.2. Định giá xâm nhập thị trường:
Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh tới vấn đề lợi nhuận, ít nhất là trong ngắn hạn. ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất , thường là cao hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ thấp hơn mức phí thị trường để có thể thu hút được nhiều khách hàng. Ngân hàng hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng tiền gửi và những khoản tín dụng sẽ bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi nhuận cận biên. Với chiến lược này, ngân hàng muốn tối đa hoá thị phần trong một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng.
1.1.1.3. Định giá có điều kiện (Thiết lập bảng giá đối với các nhóm khách hàng gửi tiền)
Theo phương pháp này, khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ thậm chí là không phải trả lệ phí nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định hoặc khách hàng sẽ phải trả một lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trung bình thấp hơn mức giới hạn. Do đó mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ thuộc vào việc họ sử dụng tiền gửi như thế nào
Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một số những yếu tố sau:
-Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản
-Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định
-Kỳ hạn của tiền gửi theo ngày, tuần, hoặc tháng.
1.1.1.4. Định giá nhằm mục tiêu trọng điểm:
Mỗi ngân hàng đều xây dựng mục tiêu trọng điểm trong chiến lược hoạt động. Mục tiêu trọng điểm có thể gắn với lợi thế và duy trì lợi thế so sánh của ngân hàng. Định giá nhằm mục tiêu trọng điểm là xác định giá mang lại lợi thế so sánh cho khách hàng qua đó ngân hàng mong muốn thu hút các cá nhân và doanh nghiệp gửi tiền. Ví dụ: mục tiêu trọng điểm của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là phục vụ xuất nhập khẩu, do đó phí dịch vụ hoặc giá mua bán ngoại tệ thường ở mức thấp so với nhiều ngân hàng khác.
Ngày nay, trên các thị trường tiền gửi, sức cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng cùng với việc ngày càng nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp định giá mục tiêu trọng điểm và phương pháp định giá có điều kiện đã khiến cho khách hàng có được thông tin tốt hơn và nhạy cảm hơn với giá tìm được cho mình sao cho có lợi nhất.
1.1.1.5. Định giá tiền gửi trên cơ sở mối quan hệ tổng thể với khách hàng.
Với ý tưởng tranh thủ những khách hàng tôt nhất, ngân hàng đã tiến hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng. Những khách hàng sử dụng từ hai dịch vụ trở lên có thể phải chịu lệ phí ở mức thấp, thậm chí không phải trả lệ phí, còn những khách hàng chỉ có quan hệ hạn chế với ngân hàng sẽ phải trả lệ phí cao hơn. Nhà quản lý cho rằng việc sử dụng nhiều các dịch vụ sẽ làm tăng sự phụ thuộc của khách hàng vào ngân hàng và điều này sẽ khiến khách hàng khó rời bỏ ngân hàng để tìm một ngân hàng khác. Bởi vậy, ít nhất là trên lý thuyết, chính sách định giá trên cơ sở quan hệ sẽ tạo sự trung thành của khách hàng và làm cho họ kém nhạy cảm hơn với lãi suất tiền gửi của đối thủ cạnh tranh.
Trong các phương pháp định giá trên, phương pháp định giá phổ biến nhất hiện nay là lập bảng định giá hay định giá có điều kiện, theo đó phí dịch vụ phụ thuộc vào mức độ sử dụng từng loại dịch vụ tiền gửi. Phương pháp này cho phép khách hàng dễ dàng lựa chọn kế hoạch tiền gửi để tối thiểu hoá chi phí, qua đó ngân hàng cũng nhận được các thông tin về thói quen sử dụng tiền của khách hàng.
Lãi suất cho vay:
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và truyền thống của ngân hàng. Khi cạnh tranh trên thị trường cho vay càng cao, ngân hàng càng phải cố gằng duy trì giá của các khoản tín dụng tại mức hợp lý, phù hợp với mặt bằng chung của thị trường tài chính. Trong một thị trường có tính cạnh tranh cao, ngân hàng chỉ có thể đóng vai trò là người chấp nhận giá, ngân hàng không thể là người đặt giá. Cùng với quá trình tự do hoá hoạt động ngân hàng tại nhiều quốc gia, sự gia tăng trong cạnh tranh đã thu hẹp đáng kể khả năng sinh lời của ngân hàng từ các nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay. Chính vì vậy, việc định giá chính xác các khoản cho vay ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Lãi suất cho vay là tỷ lệ số tiền lãi so với số tiền gốc khách hàng vay phải trả cho ngân hàng thương mại.
Lãi suất cho vay
=
Lãi suất tiền gửi
+
Chi phí nghiệp vụ Ngân hàng
Nhiều yếu tố cần được xem xét khi định giá những khoản cho vay bao gồm:
Phí tổn lãi suất trực tiếp của các quỹ
Chi phí quản lý ngân hàng
Các chi phí để kiếm và điều hành khoản cho vay. Chi phí này phụ thuộc quy mô của khoản cho vay, số lãi suấtượng điều tra tín dụng cần thực hiện, chi phí bảo quản và duy trì sự kiểm soát vật cầm cố và chi phí để thu nợ.
Rủi ro tín dụng ( vỡ nợ ) của khoản cho vay.
Rủi ro đáo hạn ( lãi suất ) của khoản cho vay.
Mức lãi có thể chấp nhận đối với người vay từ nguồn vốn cạnh tranh, bao gồm người cho vay và các thị trường trái phiếu và thương phiếu.
Toàn bộ mối liên hệ giữa ngân hàng và người vay, điều này bao gồm lãi suất thu được ở số dư tiền gửi của người vay cũng như các chi phí nảy sinh trong việc thực hiện các dịch vụ như chi trả séc và thâu ngân các khoản được ký thác cho người vay.
Lợi tức có thể thu được nhờ các nguồn đầu tư khác.
Lợi tức chia cho vốn cổ phần.
Ngân hàng định lãi suất cho tất cả các loại hình cho vay, bao gồm :
1.1.2.1. Lãi suất cho vay kinh doanh:
Lãi suất áp dụng cho các hoạt động kinh doanh thường là thấp nhất trong số tất cả các mức lãi cho vay của ngân hàng, đặc biệt là các lãi suất cho vay ngắn hạn.
Các phương pháp định giá:
Phương pháp định giá tổng hợp chi phí:
Theo phương pháp này, ta có :
Lãi suất
=
Chi phí cận biên huy động vốn cho vay
+
Chi phí hoạt động
+
Phần bù rủi ro
+
Mức lợi nhuận cận biên dự tính
Trong đó :
Chi phí hoạt động : bao gồm tiền công, lương cho nhân viên và chi phí về trang thiết bị cho việc giải quyết các thủ tục cho vay.
Phương pháp định giá theo lãi suất cơ sở:
Do những hạn chế của phương pháp tổng hợp chi phí nêu trên, người ta đã đưa ra mô hình định giá theo lãi suất cơ sở. Lãi suất cơ sở được xem như là lãi suất thấp nhất mà ngân hàng áp dụng trên các khoản cho vay ngắn hạn ( vốn lưu động) đối với các khách hàng có chất lượng tín dụng cao nhất. Lãi suất đối với từng món vay cụ thể được xác định bằng công thức sau:
Lãi suất cho vay
=
Lãi suất cơ sở ( gồm lợi nhuận cận biên, chi phí quản lý và hoạt động)
+
Phần bù rủi ro tín dụng
+
Phần bù rủi ro kỳ hạn
=
Lãi suất cơ sở
+
Chi phí tăng thêm
Lãi suất cơ bản của một ngân hàng là một loại lãi suất quan trọng đối với đa số khách hàng đi vay vốn. Lãi suất cơ bản là lãi suất mà một ngân hàng cần phải tính cho người đi vay để trang trải phần lớn chi phí hoạt động của ngân hàng trong khi vẫn đảm bảo thu hút nguồn tiền gửi một cách có hiệu quả. Lãi suất cơ bản sẽ rất sát với lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, thường nhạy cảm với các nhân tố trên thị trường tiền tệ và vì vậy rất dễ bị thay đổi. Ví dụ, nếu lãi suất cơ bản của một ngân hàng thấp hơn lãi suất của thị trường tiền tệ, thì khách hàng sẽ vay vốn của ngân hàng và sau đó đem số vốn này cho vay trên thị trường tiền tệ và kiếm được lời.
Có nhiều phương pháp xác định lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên tổng chi phí và thu nhập, áp dụng cho khách hàng vay tốt nhất ( rủi ro bằng không).
Lãi suất cơ bản
=
Lãi suất huy động
+
Chi phí ròng khác
+
Thuế
+
Thu nhập dự tính
Lãi suất cơ bản dựa trên lãi suất thị trường liên ngân hàng, là lãi suất các ngân hàng cho nhau vay. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng nổi tiếng như LIBOR, SIBOR thường trở thành lãi suất cơ bản của nhiều ngân hàng thương mại. Lãi suất này thường xuyên thay đổi. Do đó, nếu ngân hàng áp dụng cho vay với lãi suất thả nổi thường chọn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hình thành lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản
=
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng
+
Thuế
+
Thu nhập dự tính
Phương pháp định giá dưới cơ sở:
Lãi suất cho vay
=
Chi phí vay vốn trên thị trường tiền tệ
+
Phần bù cho rủi ro và lợi nhuận
Hiện nay, hoạt động cho vay quy mô lớn chủ yếu dựa vào các lãi suất cơ bản trên thị trường tiền tệ với một tỷ lệ lợi nhuận hạn chế. Điều này phản ánh sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng nhằm thu hút những khách hàng tốt nhất và lớn nhất. Tuy nhiên xu hướng định giá cho vay kinh doanh trên cơ sở tổng thể mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, tính tới mọi khoản thu nhập và chi phí của việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng xin vay vốn đang được chú ý thay vì chỉ căn cứ vào bản thân yêu cầu tín dụng.
1.1.2.2. Lãi suất cho vay tiêu dùng:
Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất đối với hầu hết các khoản cho vay khác do quy mô nhỏ và rủi ro. Lý do chủ yếu là trong quá trình cho vay, cần đến nhiều người thực hiện. Do nhiều rủi ro trong cho vay tiêu dùng góp phần làm cho chi phí cho vay tương đối cao so với các loại tín dụng khác. Khả năng hoàn trả của người vay có thể bị gián đoạn bởi thất nghiệp, bệnh tật, tai nạn...
1.1.2.3. Lãi suất cho vay bất động sản
Lãi suất cho vay bất động sản bị ảnh hưởng đặc biệt bởi kỳ hạn cho vay, tỷ lệ cho vay, nhu cầu về thanh khoản, và tính chất bảo đảm hay bảo hiểm bởi một cơ quan thuộc chính phủ.
Kỳ hạn cho vay là một yếu tố rất quan trọng vì kỳ hạn càng lâu thì rủi ro càng lớn. Tỷ lệ của khoản cho vay với giá trị càng cao thì lãi suất càng cao vì rủi ro tín dụng chắc chắn lớn hen. Sự bảo đảm và bảo hiểm của các cơ quan chính phủ về thế chấp bất động sản ảnh hưởng đến lãi suet, rủi ro tín dụng giảm xuống. Do các ngân hàng thương mại có nhu cầu về thanh khoản lớn hơn những người cho vay vốn bất động sản, khi nhu cầu thanh khoản gia tăng, lãi suất thường được tăng theo.
Lãi suất cho vay liên ngân hàng:
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là thị trường mà các ngân hàng thương mại thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau sau khi họ đã tự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tại ngân hàng của mình. Lãi suất cho vay liên ngân hàng là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nó chỉ dẫn khá chính xác về chi phí vốn vay của các NHTM và cung- cầu vốn trên thị trường.
Nói đến lãi suất cho vay liên ngân hàng thì không thể không nhắc tới lãi suất cho vay liên ngân hàng London ( LIBOR). Về thực chất, đối với ngân hàng, đó là lãi suất tiền vay qua phương thức huy động tiền gửi; còn đối với khách hàng thì đó là lãi suất tiền gửi. LIBOR được xác định hàng ngày giữa một nhóm 5 ngân hàng ở London có hoạt động kinh doanh hàng đầu về hối đoái, gồm có : National Westminster Bank (Anh), Chi nhánh ngân hàng Morgan (Mỹ), Chi nhánh ngân hàng Banque National de Paris (Pháp), Chi nhánh Ngân hàng Deutsche Bank ( CHLB Đức ), và Chi nhánh Ngân hàng Bank of Tokyo Misubishi ( Nhật Bản). LIBOR áp dụng các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tự do, tức là ngoại tệ không thuộc sự quản lý của Nhà nước hữu quan, thường được gọi là “ngoại tệ Châu Âu” ( Eurocurrency), như Euro USD, Euro GBP, Euro JPY v.v...Mỗi loại ngoại tệ được chào mời với một lãi suất riêng biệt, chủ yếu với thời hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng vào thời điểm khoảng 11 giờ (giờ London) khi mà tình hình cung cầu đã rõ nét trên thị trường vốn quốc tế. Các khoản lớn và có tính quốc tế thường áp dụng LIBOR, trừ khi có thoả thuận riêng vì rằng London là trung tâm tài chính truyền thống lớn nhất và sôi động nhất thế giới và những ngân hàng thuộc nhóm đề ra LIBOR là những ngân hàng có nhiều hoạt động và kinh nghiệm trên thị trường vốn quốc tế.
Ngày nay, với sự xuất hiện các con rồng Châu á và sự hình thành khối kinh tế ASEAN đầy tiềm năng, Singapore đã trở thành một trung tâm tài chính tầm cỡ ở Đông á và SIBOR ( Singapore InterBank offered Rate) đã được nhiều ngân hàng sử dụng trong nhiều quan hệ tín dụng lẫn nhau.
Từ những năm 90 ( thế kỷ 20) trở về trước, chúng ta chỉ sử dụng LIBOR trong quan hệ vay mượn với các ngân hàng nước ngoài, còn bây giờ, việc sử dụng LIBOR hay SIBOR tuỳ thuộc vào sự lựa chọn và thoả thuận của cả hai bên cho vay và vay nợ, và thường do bên cho vay đề xuất.
1.2. Cơ chế lãi suất cho vay của ngân hàng:
1.2.1. Lãi suất cố định:
Lãi suất cố định là mức lãi suất cho vay được ấn định ngay khi cho vay vốn và không thay đổi trong một thời khoảng, thời hạn nhất định. Đây là cách làm cổ điển nhất ( vì nó có từ trước thời đại Hy- La). Các ngân hàng đưa ra các thang lãi suất đã lập sẵn để thông báo cho các khách hàng có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng, khách hàng chỉ có việc chấp nhận mức lãi suất ấy nếu muốn vay tiền. Cách làm này có những mặt tích cực:
-Giúp ngân hàng ước tính khá chính xác được lợi nhuận từ mỗi khoản cho vay,
-Chủ động tính được lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gửi và các loại tài sản nợ khác.
Tuy nhiên, cơ chế này cũng bộc lộ những mặt bất tiện như:
-Cố định lãi suất làm cho ngân hàng tự hạn chế mình về khả năng cho vay và đầu tư, ngân hàng không thể cho vay dưới mức ấn định, vì thế có tình trạng nhiều khi thừa vốn mà không thể hoặc không giám đầu tư.
-Cố định lãi suất có nghĩa là không có việc thương lượng về chi phí vốn giữa người cần vay và người cho vay.
-Với lãi suất cố định, khách hàng luôn bị trói chặt vào mức lãi suất này trong một khoảng thời gian nào đó, dù cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào. Vì vậy người đi vay mà vay với lãi suất cố định trong khi lãi suất cao, sẽ bất lợi khi lãi suất giảm.
-Cố định lãi suất cũng sẽ làm cho ngân hàng khó đầu tư vào chứng khoán, vì hầu hết chứng khoán ngày nay đều để lãi suất cho cung cầu quyết định.
Từ những nguyên nhân trên, cách cố định lãi suất trong hoạt động chỉ thịnh hành từ thập niên 60 trở về trước, tiền mặt mà các ngân hàng thừa vào cuối kỳ rất lớn xấp xỉ 20% tổng tài sản có, nguyên nhân chính là do các ngân hàng cố định lãi suất để đảm bảo an toàn cho lợi nhuận và vì thế không cho vay hoặc đầu tư được hết nguồn huy động, hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trở nên kém và rủi ro cao hơn. Do vậy, từ những năm 1970 trở đi, ngân hàng các nước đã bắt đầu áp dụng lãi suất thả nổi.
1.2.2. Lãi suất thả nổi:
Lãi suất thả nổi là lãi suất thay đổi theo cung cầu trên thị trường. Khi ngân hàng thả nổi lãi suất và chấp nhận tính lãi theo từng kết quả thương lượng của từng hợp đồng, sẽ có nhiều khách hàng tìm đến và ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội tốt để chọn lựa đầu tư. Cả khách hàng và ngân hàng đều thấy có lợi qua thương lượng, một sự “thuận mua vừa bán”. Ngân hàng sẽ có thể ở một vài trường hợp- cho vay với lãi suất thấp để giữ những khách hàng có uy tín, hoặc sẵn sàng đầu tư vào những loại chứng khoán với lãi suấtợi nhuận thấp để giải quyết hết ER.
Với lãi suất cố định, ngân hàng quan tâm đến lợi nhuận về mặt ngắn hạn mà bỏ quên khách hàng, quản lý tài sản có kém hiệu quả. Ngược lại với lãi suất thả nổi, ngân hàng quan tâm đến khách hàng và lợi nhuận trong những mục tiêu dài hạn. Cách làm đơn giản của các ngân hàng thương mại Âu- Mỹ là nó đưa ra những mục tiêu về tài sản có cho tương lai rồi vận động vốn cấp và lãi suất theo từng tình huống.
1.2.3.Khung lãi suất ( lãi suất cơ bản)
Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản mà NHTW công bố được dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách hàng có uy tín. Mức lãi suất cơ bản được cộng thêm một biên độ bằng số phần trăm (%) tuyệt đối sẽ là giới hạn lãi suất tối đa cho các TCTD được phép cho vay. Việc điều chỉnh các mức lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh hoạt đã tạo điều kiện bám sát tín hiêụ thị trường, cung cầu vốn tín dụng, đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của NHNN trên thị trường tiền tệ.
1.3. Lãi suất cho vay thoả thuận
Nghị quyết Hội nghị lãi suấtần thứ năm BCHTW Đảng Khoá IX về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 đã đề ra chủ trương: “ Các tổ chức tín dụng ( ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần...) hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng ở nông thôn với lãi suất thoả thuận...”. Chủ trương này đặt ra yêu cầu bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản hiện nay, chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận hay còn gọi lãi suấtà cơ chế lãi suất thị trường. Đây lãi suấtà vấn đề lãi suấtớn , mang dấu ấn có tính bước ngoặt trong điều hành chính sách tiền tệ, tác động đến thị trường tài chính-tiền tệ.
Có thể nói thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận lãi suấtà bước tiến quan trọng về điều hành lãi suất trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất . Tự do hoá lãi suất được hiểu là lãi suất được hình thành và biến động theo cung cầu vốn trên thị trường. Sự can thiệp của Nhà nước lúc này chỉ bằng công cụ gián tiếp tác động lên cung-cầu vốn nhằm hướng lãi suất thị trường biến động, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Trong điều hành chính sách lãi suất , NHTW chỉ công bố các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay, tái chiết khấu của mình đối với các NHTM. Khi đó, cơ cấu về các mức lãi suất ( bao gồm lãi suất cho vay và huy động vốn ) của các NHTM đối với nền kinh tế do NHTM tự quyết định dựa trên cơ sở cung-cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó mà hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường.
1.3.1. Cơ sở khoa học, thực tiễn của lãi suất thỏa thuận
Lãi suất là giá cả của tín dụng Ngân hàng, bao gồm giá mua và giá bán. Hoạt động tín dụng thực chất là đi vay để cho vay, vì vậy Ngân hàng luôn tìm cách đi vay được, đồng thời cũng phải cho vay được. Muốn vậy, một điều kiện cơ bản là lãi suất đi vay và cho vay phù hợp, cả người gửi và người vay đều chấp nhận. Chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào đủ bù đắp chi phí nghiệp vụ Ngân hàng, trích lập rủi ro và mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường lãi suất do thị trường mà cụ thể trước hết là do người vay quyết định. Khi nền kinh tế phát triển, lợi nhuận tăng, nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh phát triển, nhu cầu vốn cao, người vay chấp nhận lãi suất vay cao hơn. Nói cách khác giá cả của tiền vốn cũng do cung cầu thị trường vốn quyết định. Nhưng khác với các hàng hóa thông thường, “ hàng hóa” tiền vốn gắn chặt và ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế : Lạm phát, tỷ giá, và lãi suất gắn chặt với nhau và nếu không có cơ chế quản lý tốt phù hợp, có thể dẫn tới rối loạn, khủng hoảng kinh tế. Điều này đã xảy ra ở khu vực các năm 1997-1998 và mới đây Mehico, Achentina. Nghĩa là, mặc dù là sản phẩm của thị trường, kinh tế hàng hóa, lãi suất phải được quản lý với cơ chế thích hợp. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước qua điều hành lãi suất 10 năm qua đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của công cuộc đổi mới ở nước ta. Giả sử, ngay từ khi xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp, chúng ta cũng cho tự do hóa lãi suet, giống như bỏ quản lý giá cả đối với gạo, thực phẩm... thì điều gì sẽ xảy ra :
Trước hết do các cơ chế quản lý vĩ mô và hoạt động của các Ngân hàng Nhà nước chưa đủ mạnh, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chặt chẽ, các tổ chức tín dụng còn non yếu cả về nghiệp vụ và quản lý, nhiều tổ chức tín dụng sẽ huy động và cho vay vô tôị vạ, cốt kiếm lợi nhuận cao, buông lỏng điều kiện cho vay. Điều này đã xảy ra với hệ thống quỹ tín dụng đô thị các năm 1989-1990 khi cho áp dụng lãi suất thỏa thuận.
Thứ hai: Do cạnh tranh không lành mạnh, các Tổ chức tín dụng đua nhau nâng lãi suất huy động và cho vay. Vốn đầu tư sẽ dẫn về khu vực có lợi nhuận giả tạo ( thí dụ kinh tế bong bóng, hoặc kinh doanh lừa đảo...) trong khi các khu vực sản xuất kinh doanh lành mạnh không hấp thụ được vốn vì : Lãi suất cho vay cao hơn lợi nhuận thu được.
Hệ quả của hai điều kiện trên sẽ dẫn tới đổ vỡ từng tổ chức hoặc thậm chí cả hệ thống tín dụng, bởi vì khu vực kinh tế bong bóng đương nhiên sẽ phá sản, không trả được nợ Ngân hàng. Chúng ta đã có kinh nghiệm thực tế trong các thời kỳ 1989-1990, 1997-1998...
Tuy vậy, khi các điều kiện thực tế đã có mà vẫn duy trì một cơ chế quản lý cũ thì sẽ hạn chế sự phát triển kinh tế.
Có thể nói, cho tới nay cơ chế lãi suất cơ bản cộng biên độ được phép đối với cho vay VNĐ đã bộc lộ hạn chế. Do lãi suất cơ bản được xác định qua tham khảo một số khách hàng tốt nhất và lớn nhất mà số khách hàng này thường là các doanh nghiệp, Tổng công ty lớn ở các Ngân hàng lớn nên không đại diện cho toàn bộ khách hàng, nhất là hộ nông dân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khu vực nông thôn có đặc điểm là nhu cầu vốn có tính thời vụ, cấp bách. Những vùng kinh tế hàng hóa phát triển, như Đồng bằng Sông Cửu Long, nhu cầu vốn lớn, thường xuyên hơn, và sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao hơn. Trong khi lãi suất cho vay các doanh nghiệp lớn hiện nay khoảng 0.6%-0.7%/tháng, thì từ nhiều năm nay hầu hết các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp ở khu vực nông thôn cho vay hộ nông dân, doanh nghiệp nhỏ lãi suất biên độ tối đa ( ngắn hạn 0.9%/tháng, trung hạn 1.1%/tháng ), và nhu cầu vốn vẫn rất lớn. Ngân hàng có thể tạo vốn để mở rộng cho vay thêm bằng cách nâng lãi suất huy động và điều vốn từ các khu vực khác nhưng điều này sẽ làm tăng chi phí, trong khi không tăng được lãi suất cho vay sẽ dẫn đến không lãi hoặc lỗ.
Tỷ trọng nguồn vốn / dư nợ của các vùng tại NHN0&PTNT cuối năm 2001 như sau:
- Miền núi trung du Bắc bộ 129%
- Đồng bằng Sông Hồng 203%
- Khu IV cũ 96%
- Duyên hải miền Trung 94%
- Tây Nguyên 51%
- Đông Nam bộ 112%
- Đồng bằng Sông Cửu Long 40%
Như vậy để khắc phục hạn chế trên, đáp ứng nhu cầu vốn ở các vùng nông thôn, kích thích sản xuất hàng hóa phát triển, cần áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận thay thế cơ chế lãi suất cơ bản thực chất vẫn là khống chế mức lãi suất hiện nay.
Vấn đề đặt ra là nếu thực hiện liệu có dẫn đến những tiêu cực :
Một là: Các tổ chức tín dụng ở khu vực nông thôn cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lãi suất cao dẫn đến buông lỏng, cho vay khách hàng chấp nhận lãi suất cao nhưng không đủ điều kiện tín dụng.
Hai là: Vốn sẽ tập trung cho các khu vực kinh tế thuận lợi, các hộ nông dân trang trại giàu. Những khu vực sản xuất khó khăn, hộ nông dân nghèo không tiếp cận được vốn Ngân hàng.
Ba là: ở những địa bàn chỉ có một Tổ chức tín dụng, thì Tổ chức tín dụng này sẽ độc quyền tăng lãi suất bắt bí nông dân.
Tuy nhiên, những lo ngại trên là không có cơ sở bởi vì môi trường kinh tế xã hội hiện nay đã khác xa so với giai đoạn đầu đổi mới. Nói cách khác hiện nay các điều kiện cơ bản cho việc áp dụng lãi suất thoả thuận đã chín muồi.
1.3.2. Tác động tích cực và tính tất yếu của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường:
Lãi suất thỏa thuận là lãi suất được xác định trên cơ sở sự nhất trí giữa người cho vay và người đi vay tron._.g thoả thuận về một hợp đồng vay mượn. Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu mức lãi suất thỏa thuận này không bị khống chế bởi biên độ quản lý, thì mức lãi suất thoả thuận trong các quan hệ vay mượn song phương cũng không nằm ngoài mức lãi suất thị trường được hình thành trên quan hệ cung cầu.
1.3.2.1. Tác động ảnh hưởng tích cực
Thực hiện cho vay theo lãi suất thị trường, cung cầu về vốn sẽ quyết định mức lãi suất thị trường. Đây là bước tiến lớn của cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong tiến trình phát triển của hệ thống tài chính, tiến tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn. Kinh nghiệm của các nước cho thấy việc tự do hoá lãi suất sẽ có tác động tích cực tới sự phát triển của hệ thống tài chính trong nước. Sau mỗi giai đoạn tiến hành cải tiến cơ chế lãi suất , việc mở rộng cho vay của tổ chức tín dụng được nới lỏng hơn, dòng vốn đổ về khu vực nông thôn phục vụ phát triển khu vực này tăng cao
Việc áp dụng cơ chế lãi suất mới ngày càng tạo cơ hội cho NHNN thực hiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo hướng gián tiếp, hạn chế dần các công cụ trực tiếp, tiến tới việc điều hành chính sách tiền tệ theo một hệ thống các công cụ hiện đại, chỉ can thiệp vào các nguyên tắc thị trường mà không phá vỡ các nguyên tắc hoạt động của thị trường.
Cạnh tranh trên thị trường tín dụng mạnh hơn, có lợi cho nền kinh tế. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện thị trường. Chu chuyển vốn sẽ đến được nơi có hiệu quả kinh tế cao.
Tạo khả năng cho thị trường tài chính Việt Nam phát triển theo chiều sâu hơn, thể hiện trong biểu đồ biến động tăng chỉ tiêu M2/GDP:
Từ đó tạo môi trường thuận lợi cho các cơ chế chính sách của NHNN lan truyền nhanh chóng và tác động tích cực tới nền kinh tế.
Sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhưng cũng chính yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố kinh tế thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự “nới lỏng” để chuyển sang cơ chế lãi suất thỏa thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế- tài chính- đối ngoại ( vốn huy động và tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng trên 20%/năm; vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tuy tăng trưởng mức cao, năm 1991 tương đương 21% GDP, năm 2001 là 40% ).
Việc nới lỏng cơ chế lãi suất làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung cầu vốn thị trường, các luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao , nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy các NHTM phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất , sản phẩm dịch vụ thích hợp cho các khách hàng. Điều này sẽ rất hạn chế, như thực tế những năm 1991-1995, NHNN khống chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng vòng trên thị trường không chính thức, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất cho vay lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rất thấp, khả năng tài chính của các NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn, tổn thương cho thị trường tài chính.
Đẩy lùi được hiện tượng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Với việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất phản ánh đúng cung cầu thị trường, vốn sẽ được chu chuyển hợp lý hơn từ thành thị về nông thôn, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn như Nghị quyết Trung Ương V khoá 8 đề ra, (tín dụng đối với khu vực nông thôn 05 năm gần đây tăng bình quân 23-25%/năm, lớn hơn mức bình quân chung), dần tiến tới xóa bỏ các hiện tượng cho vay nặng lãi ở khu vực nông thôn hiện nay.
Quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thỏa thuận đi liền với quá trình “nới lỏng” kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm cho lãi suất trong nước bám sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn ở trong nước và từ nước ngoài tăng lên để tài trợ cho nhu cầu tín dụng trong nước.
Ngân sách nhà nước có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước để bù đắp thâm hụt, thay vì phải đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành.
1.3.2.2.Tác động ảnh hưởng tiêu cực:
1.3.2.3. Tính tất yếu:
1.3.2.3.1. ý nghĩa thực sự của lãi suất tín dụng:
1.3.2.3.1.1.ý nghĩa thương mại
Ngày nay hoạt động ngân hàng đã vô cùng phong phú và đa dạng. Các NHTM là các ngân hàng đa năng hoạt động trên nhiều lĩnh vực, với nhiều loại sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của nền kinh tế, của xã hội và của người dân. Song dù là hoạt động như thế nào, dịch vụ ra sao, thì hoạt động cho vay vẫn là một hoạt động “khởi thuỷ”, cơ bản mà các NHTM luôn coi là nghiệp vụ hàng đầu, và cũng là một nghiệp vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng cho đầu tư phát triển nền kinh tế.
Nói là “khởi thuỷ” vì vốn xưa nghiệp vụ cho vay là hoạt động đầu tiên của cái gọi là hoạt động ngân hàng. Ngay từ lúc đầu nó đã mang tính thương mại, bởi mục đích của cho vay là để lấy lời. Nói một cách khác, những người có tiền muốn cho người khác vay, sau một khoảng thời gian nào đó thu về với một khoản tiền lớn hơn khoản gốc ban đầu và thế là họ có một khoản lãi. Khoản lãi có được đó là do họ đã bán với giá cao hơn vốn gốc của họ và việc bán mua được thoả thuận giữa người bán và người mua ngay từ đầu. Khoản lãi được tính theo phần trăm đó là lãi suất . Như vậy lãi suất ra đời từ hoạt động thương mại. Vậy lãi suất tín dụng thực sự mang trong nó ý nghĩa thương mại.
1.3.2.3.1.2. ý nghĩa xã hội:
Thực ra mà nói hoạt động cho vay không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa thương mại, mà ngay từ thời xa xưa hoạt động này đã mang ý nghĩa xã hội. Trong thực tế không phải bao giờ người cho vay cũng chỉ với mục đích lấy lãi, họ cho vay đôi khi với ý định hỗ trợ người vay trong lúc thiếu thốn mà không đặt đến vấn đề lấy lãi. Sự trợ giúp hoàn toàn hay một phần lãi suất cho vay vì lợi ích của người vay chính là ý nghĩa xã hội của hoạt động tín dụng. Thời bao cấp, cái thời mà “đem tiền Chính phủ cho bản làng vay ...” đã nói lên hoạt động cho vay thấm đượm tình nhân đạo xã hội. Thời bao cấp, các tổ chức tín dụng ( thực sự là chỉ có ngân hàng thương mại quốc doanh và hợp tác xã tín dụng ) cho vay trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ và cũng chỉ cho vay chủ yếu các doanh nghiệp nhà nước. Tín dụng mang tính bao cấp. Các tổ chức tín dụng ít quan tâm đến hiệu quả kinh tế của việc cho vay, quan tâm đến bảo toàn vốn, đến đầu tư phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho đất nước.
1.3.2.3.1.3. ý nghĩa thực tiễn
Lãi suất tín dụng có ý nghĩa thực tiễn rõ rệt, ta đã biết lãi suất mang ý nghĩa thương mại, người cho vay muốn thu lời, thu lời để bù đắp các chi phí cho chính hoạt động quản lý về nghiệp vụ này. Thu lời để trả cho hoạt động vay vốn vì các tổ chức tín dụng chủ yếu là “đi vay để cho vay”. Và đương nhiên mục tiêu cuối cùng là thu lời để tồn tại ( tái sản xuất sức lao động) và để phát triển, góp phần giúp tổ chức tín dụng ngày một lớn mạnh.
Với lý do đó lãi suất cho vay phải là lãi suất “thực dương”. Trong thời kỳ bao cấp ngân hàng chỉ quan tâm đến quản lý tài sản, quản lý sử dụng vốn như cấp phát vốn cho đối tượng nào, với lãi suất bao nhiêu... nhưng chưa quan tâm đến lãi đó là thực chưa và lãi đó đã lớn hơn các chi phí cần thiết v.v...Nhưng từ khi 2 pháp lệnh ngân hàng ra đời, các tổ chức tín dụng đã chuyển từ quan niệm tín dụng bao cấp sang tín dụng thương mại, nghĩa là phải thực hiện chính sách lãi suất thực dương của NHNN. Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nhất thiết phải đem lại hiệu quả kinh tế, ít nhất phải bù đắp được các chi phí đã bỏ ra. Lãi suất cũng không thể cố định. Nó thay đổi đặc biệt trong cơ chế thị trường và thực tế khi NHNN điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ sao cho phù hợp với tín hiệu thị trường thì công cụ lãi suất cũng phát huy vai trò của nó. Chính sách lãi suất của NHNN đã từng bước đổi mới và do đó đã tạo sự thay đổi của lãi suất . lãi suất thay đổi thường gây ra rủi ro lãi suất trong hoạt động ngân hàng. Đây cũng là một thực tế cần tính đến. Khi lãi suất thay đổi đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập cuả ngân hàng. Chính vì lẽ đó, lãi suất là một mắt xích rất quan trọng trong một chuỗi các hoạt động của ngân hàng.
1.3.2.3.2.Thực hiện chính sách lãi suất trong thời gian qua:
1.3.2.3.2.1. Thời kỳ bao cấp:
Suốt trong thời kỳ bao cấp hay nói chính xác là ngay từ khi ngành ngân hàng ra đời, thì một trong những nhiệm vụ cơ bản và quan trọng lúc bấy giờ là cung cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Việc cấp tín dụng lúc này là theo chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước. Thực ra ngân hàng chỉ là người quản lý vốn và trong hoạt động của mình, ngân hàng không hề có được sự chủ động hay khái niệm kinh doanh bởi lẽ, hoạt động ngân hàng cũng không đặt hiệu quả kinh tế là vấn đề quan trọng. Thực tế là bao cấp tín dụng và đương nhiên chính sách lãi suất là chính sách hỗ trợ.
Một thời gian rất dài trong điều hành chính sách tiền tệ, NHNN không quan tâm mấy đến công cụ lãi suất , không vận dụng nó mà áp đặt nó trong quản lý.
1.3.2.3.2.2. Trong thời kỳ đổi mới:
Cùng với sự đổi mới của đất nước, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời rồi Luật ngân hàng được thực hiện. Hoạt động ngân hàng đã có được một môi trường pháp lý tương đối hoàn chỉnh. Chính sách tiền tệ được điều hành một cách bài bản, khoa học và từng bước phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính sách lãi suất được NHNN chú trọng và vận dụng nó một cách sáng tạo linh hoạt. Chính sách lãi suất thực dương đã tạo cho các NHTM ý thức kinh doanh tín dụng. Nhưng để thể hiện sự quản lý Nhà nước, giữ cho sự tự do kinh doanh trong khuôn khổ, chính sách lãi suất sàn, trần là một cách điều tiết tích cực, tạo sự chủ động của các NHTM. Song đã là khuôn thì khó mà có được sự tự do, sáng tạo, vận dụng linh hoạt.
Từ tháng 8 năm 2000, NHNN Việt Nam điều hành lãi suất cho vay của các NHTM bằng lãi suất cơ bản có cộng trừ biên độ 0.3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Chính sách lãi suất này áp dụng chung cho cả khu vực thành thị cũng như khu vực nông thôn.
Điều hành bằng lãi suất cơ bản là đã một bước nới rộng đối với các tổ chức tín dụng. Họ đã có thể vận dụng vào từng trường hợp cụ thể, vào tình hình nguồn vốn của từng ngân hàng trong từng giai đoạn. Tóm lại các tổ chức tín dụng đã có được quyền tự quyết, đã có chỗ dựa pháp lý để vận dụng sáng tạo trong kinh doanh.
1.3.2.3.3. Thực hiện lãi suất cho vay thỏa thuận bằng VNĐ:
1.3.2.3.3.1. Xuất phát từ thực tế:
NHNN thường xuyên phải công bố lãi suất cơ bản để các TCTD căn cứ vào đó mà vận dụng vào trường hợp khả năng nguồn vốn, nhu cầu tín dụng, lượng khách hàng của đơn vị mình để quyết định mức lãi suất cho vay cụ thể.
Từ khi áp dụng chính sách lãi suất này, NHNN đã 4 lần công bố thay đổi mức kể từ tháng 8/2000 đến nay. Sự thay đổi này là NHNN dựa trên tín hiệu thị trường vốn, nhu cầu thị trường, tình hình kinh tế đất nước. Song từ tháng 11/2001 đến tháng 5/2002, lãi suất cơ bản mà NHNN công bố vẫn giữ ở mức 0.6%/tháng cộng 0.3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0.5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn.
Đã goị là điều hành linh hoạt theo tín hiệu thị trường thì phải phản ánh kịp thời tính biến động của nó. Có như vậy chính sách mới luôn sát thực với thực tế của cuộc sống. Việc giữ ổn định mức lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của NHNN công bố thì đã không đúng bản chất của lãi suất trong cơ chế thị trường. Ông cha ta thường nói “một trăm kẻ bán, một vạn người mua”. Có kẻ bán, có người mua đó là thị trường, ở đó thị trường quyết định và có người bán khắc có người mua. Giá bán tuỳ theo từng phiên chợ. Và thị trường vốn cũng vậy, nhu cầu bao giờ cũng lớn hơn cung ( trừ trường hợp khủng hoảng trầm trọng hay chiến tranh khốc liệt). Nói chung nhu cầu vốn tín dụng ở Việt Nam rất lớn, đất nước đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá, như một công trường xây dựng khẩn trương thì vốn luôn là yếu tố cần thiết và không thể có chuyện thừa vốn. Vấn đề là giá bán vốn đó như thế nào? có hợp lý hay không? Khi còn ấn định một mức cần phải bán thì cho dù TCTD có thể bán dưới mức đó vẫn có thể chấp nhận được vẫn đành khoanh tay ngồi nhìn. Ví dụ NHN0&PTNT với biên độ 0.5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn chỉ sử dụng 0.3% hay hội sở Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam lãi suất cho vay cao nhất chỉ bằng lãi suất cơ bản do NHNN công bố không dùng đến các biên độ mà NHNN cho phép v.v....Ngược lại có TCTD có thể có thể có thể bán cao hơn kể cả đã cộng hết biên độ cũng không thể vượt rào. Ví dụ Ngân hàng TMCP Kỹ thương cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất cơ bản cộng biên độ mà NHNN công bố tới 0.1%/tháng. Như vậy là lãi suất cơ bản là chưa sát thực tế. Những TCTD nào có khả năng thu hút vốn, quản lý tốt, chi phí giảm nghĩa là họ có khả năng cung cấp tín dụng bằng hình thức thoả thuận được với khách hàng về lãi suất , còn về phía khách hàng họ cảm thấy được tự do mua với giá mà khả năng họ cho phép thì rất hợp lý.
Trong thực tế, chúng ta đã áp dụng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ qua việc bỏ cơ chế khống chế theo biên độ ( lãi suất SIBOR 3 tháng cộng 1% năm đối với cho vay ngắn hạn, lãi suất SIBOR 6 tháng cộng 2.5% năm đối với cho vay trung và dài hạn) thực sự là đã chuyển sang tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Với chính sách này, các tổ chức tín dụng đã có quyền tự quyết rất lớn trong việc cung cấp tín dụng ngoại tệ trong nước, và nó phù hợp kịp thời với xu hướng lãi suất trên thị trường quốc tế.
1.3.2.3.3.2. Các yếu tố khách quan
Nền kinh tế Việt Nam từ khi đổi mới đến nay, liên tục tăng trưởng khá. Đặc biệt cả ngay khi khủng hoảng khu vực Đông Nam á xảy ra, GDP Việt Nam vẫn tăng ở mức hơn 6% năm ( năm 2000 là 7.1%, năm 2001 là 6.8%). Có thể nói nền kinh tế- chỗ dựa căn bản cho hoạt động ngân hàng phát triển vừa để phục vụ trở lại, vừa để thực hiện những cải cách và hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với cơ chế hiện hành. Trong đó có vấn đề lãi suất . Từ hơn 10 năm nay vấn đề lạm phát đã được kiểm soát. Giá trị đồng Việt Nam được ổn định. Đây là những điều kiện thuận lợi để thay đổi chính sách lãi suất .
Trong điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản, các tổ chức tín dụng đã được tập dượt với việc năng động và sáng tạo trong công tác tín dụng. Sự cạnh tranh đã xảy ra tuy nhiên chưa ở mức độ quyết liệt. Nhưng các tổ chức tín dụng thực sự đã phải tính toán thận trọng trong áp dụng mức lãi cho vay, đồng thời đã tính đến chiến lược khách hàng và Marketing trong kinh doanh. Hơn nữa, mong muốn thực sự của các TCTD là được chủ động hơn nữa trong việc vận dụng cơ chế lãi suất . Chính vì lẽ đó, đã đến lúc phải thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận bằng VNĐ. Thực hiện chính sách này phù hợp chẳng những với tính tất yếu trong “buôn bán” mà còn là việc làm phù hợp với quy luật thị trường, phù hợp với xu thế tiến bộ của nguyên tắc quản lý trong cơ chế thị trường. Và trong điều kiện các tổ chức tín dụng đang cơ cấu lại, sắp xếp lại để mọi TCTD tồn tại tồn tại đều bình đẳng được với nhau trên cùng sân chơi và cạnh tranh nhau một cách đúng mức và đàng hoàng.
Mặt khác, thực hiện cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng VNĐ là thực hiện đường lối của Đảng và yêu cầu của Chính phủ. Dù muốn dù không, trong xu thế hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam không thể làm theo cách riêng biệt những hoạt động nghiệp vụ mà thế giới cũng có. Ngày nay, với tốc độ phát triển cực nhanh và rộng khắp về công nghệ thông tin, đồng thời sự giao lưu quốc tế là một điều kiện thu nhận những tiến bộ và tính tiên tiến của các mặt. Nhờ phương tiện thông tin phong phú, trình độ dân trí đã được và sẽ được nâng cao hơn. Người dân đã quen dần với việc hoạt động và chấp nhận trong cơ chế thị trường. Họ rất muốn được quyền lựa chọn giá bán tín dụng, người chủ nợ và những lợi ích mà họ có được trong quyền tự do vay mượn.
1.4. Yêu cầu và điều kiện áp dụng lãi suất thả nổi trong hoạt động cho vay của các NHTM Việt Nam.
Quá trình tự do hoá lãi suất ở các nước trên thế giới cho thấy, tuỳ thuộc tình hình phát triển kinh tế, mức độ phát triển của thị trường tiền tệ ở mỗi nước mà có những bước khác nhau trong quá trình tự do hoá lãi suất . Tuy nhiên, ở bất kỳ nước nào quá trình tự do hoá lãi suất chỉ được xem là thành công nếu sau khi tự do hoá lãi suất hệ thống tiền tệ vẫn được ổn định, lãi suất trên thị trường tiền tệ không có giao động lớn do cạnh tranh quá mức của các trung gian tài chính dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ, làm ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế- xã hôịi, đến lợi ích của các nhà đầu tư, của người gửi tiền...
Và để đảm bảo sự thành công của tự do hoá lãi suất , Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đều đưa ra những bước đi thân trọng phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế của quốc gia. Trên thực tế, Việt Nam đã đặt nền tảng cho quá trình tự do hoá lãi suất từ năm 1992 khi nền kinh tế đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, và đến thời điểm này, Việt Nam đã gần tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn, cụ thể đã tự do hoá được lãi suất tiền gửi ở tất cả các loại kỳ hạn, ở tất cả các loại công cụ huy động vốn ( riêng lãi suất tiền gửi ngoại tệ chưa được tự do hoá hoàn toàn, mới tự do lãi suất tiền gửi ngoại tệ của khu vực dân cư). Đối với lãi suất cho vay VNĐ chưa được tự do hoá hoàn toàn, nhưng với cơ chế lãi suất cơ bản hiện nay, yếu tố thị trường chứa đựng trong đó là tương đối lớn, đó là bước đi tiếp theo, thận trọng trong tiến trình tự do hoá hoàn toàn lãi suất của Việt Nam. Tuy nhiên, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn có những hạn chế nhất định đến sự luân chuyển vốn hợp lý trong xã hội, đến sự phát triển của thị trường tiền tệ..., nên thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận không tồn tại biên độ quản lý là cần thiết để đảm bảo sự phân bổ nguồn vốn hợp lý, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Song, để đảm bảo cho sự thành công, và cho vay theo lãi suất thoả thuận mang lại những hiệu quả thiết thực, thì cần xem xét đến các điều kiện về kinh tế vĩ mô, về sự phát triển của khu vực tài chính trong thời điểm này. Bên cạnh đó cũng cần xem xét đến khía cạnh tâm lý, để việc thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận đảm bảo có nhiều người chấp thuận với ít tác động về mặt chính trị, tạo ra một động lực cho việc huy động tiết kiệm và sử dụng vốn có hiệu quả nhất là ở khu vực nông thôn.
Xét về điều kiện kinh tế vĩ mô:
Điều kiện chung nhất đặt ra cho tất cả các nước khi quyết định tự do hoá lãi suất là kinh tế vĩ mô phải ổn định. Điều này cũng đặc biệt quan trọng để giảm áp lực tăng lãi suất sau khi tự do hoá lãi suất . Nếu tự do hoá lãi suất được bắt đầu trong giai đoạn khi các điều kiện về lạm phát đang lan rộng và các công ty có nhu cầu cao về vốn, khi nền kinh tế đang phát triển quá nóng, áp lực về lạm phát sẽ rất cao, thì áp lực tăng lãi suất sẽ rất mạnh. Kinh nghiệm của các nước đã qua thời kỳ tự do hoá lãi suất thì ổn định kinh tế thực sự quan trọng cho việc tự do hoá lãi suất thành công. Tuy nhiên đảm bảo được các điều kiện ổn định kinh tế cũng cần xem xét đến chu kỳ kinh doanh. Nếu tự do hoá lãi suất trong giai đoạn mở rộng kinh doanh, nhu cầu vốn sẽ tăng lên làm tăng lãi suất trong giai đoạn đầu của quá trình tự do hoá lãi suất , việc kinh doanh bị chậm lại, tác động làm giảm nhu cầu tín dụng và đầu tư giảm. Ngược lại, nếu tự do hoá lãi suất trong giai đoạn chu kỳ sản xuất không mở rộng, thì áp dụng lãi suất trong giai đoạn đầu tự do hoá tương đối thấp.
1.4.2. Xét về các điều kiện tiên quyết trong khu vực tài chính:
“Tự do hoá lãi suất ”có thể được xem như con dao hai lưỡi tác động vào hệ thống tiền tệ. Trên thực tế ( ở các nước cũng như ở Việt Nam) cho thấy lãi suất bị quản lý đã hạn chế Ngân hàng Trung Ương kiểm soát diễn biến tiền tệ thông qua các công cụ tiền tệ gián tiếp, chẳng hạn khi NHTW muốn kiểm soát dự trữ của các NHTM thông qua nghiệp vụ thị trường mở, có nghĩa là kiểm soát tiền cung ứng, song do lãi suất bị quản lý (kém linh hoạt), sự thay đổi trong dự trữ của các NHTM không tác động một cách tích cực lên lợi nhuận hay khả năng thanh khoản của họ. Mặt khác lãi suất bị quản lý sẽ không có bất kỳ một mối quan hệ giữa giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp với lãi suất thị trường, các tín hiệu thị trường bị bóp méo, không thể phát huy tính hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với các trung gian tài chính, một cơ chế lãi suất quản lý làm giảm tính năng động kinh doanh của họ, nguồn vốn bị phân bổ méo mó, các giao dịch vốn trên thị trường tài chính bị hạn chế, qua đó hiệu quả sử dụng đồng vốn sẽ thấp. Chính vì vậy, tự do hoá lãi suất có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tiền tệ ( năng lực kiểm soát tiền tệ của NHTW được nâng lên, các giao dịch trên thị trường tiền tệ sẽ mở rộng, các NHTM có điều kiện đầu tư vốn hợp lý, hiệu quả...)
Tuy nhiên, thực tế cũng đã chứng minh, sau khi tự do hoá lãi suất , lãi suất trên thị trường có áp lực tăng lên, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM, các môi giới tài chính trở nên gay gắt hơn, nếu lúc đó NHTW với tư cách là người điều hành thị trường, quản lý các hoạt động tiền tệ tín dụng trên nguyên tắc an toàn, lại không thể sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp tác động vào thị trường tiền tệ để ngăn chặn áp lực tăng lãi suất , đồng thời chưa có một cơ chế thanh tra giám sát với một hệ thống quy chế an toàn đủ mạnh để hạn chế canh tranh gay gắt giữa các NHTM thì hệ thống tài chính dễ rơi vào tinh trạng khủng hoảng. Do vậy, điều kiện tiên quyết trong khu vực tài chính để có thể tự do hoá lãi suất , đó là:
-NHTW phải điều tiết được thị trường tiền tệ một cách kịp thời thông qua các công cụ tiền tệ gián tiếp và phải có cơ chế giám sát can thiệp đủ mạnh để phản ứng kịp thời những rủi ro có thể xảy ra đối với thị trường.
-Ngoài ra, sự vững mạnh của các NHTM đảm bảo được các tiêu chí an toàn về chất lượng tài sản Có, khả năng chi trả, mức vốn tự có v.v...cũng là một điều kiện quan trọng trong khu vực tài chính để đảm bảo tự do hoá lãi suất thành công. Vì các NHTM có vững mạnh thì mới có khả năng chống đỡ về lãi suất sau khi tự do hoá lãi suất . ở Thổ Nhĩ Kì, do xem xét không thận trọng nên tiến trình tự do hoá lãi suất vào đầu những năm 1980 đã thất bại. Ngay sau khi tự do hoá lãi suất , các ngân hàng đã bắt đầu cạnh tranh lãi suất tiền gửi, bằng cách đưa ra lãi suất cao mà không quan tâm tới việc làm thế nào họ có thể sử dụng tiền gửi với lãi suất cao như vậy. Cuối cùng, điều này đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng hệ thống tài chính, nhiều ngân hàng nhỏ yếu và các tổ chức môi giới đã bị sụp đổ.
-Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và có khả năng tài chính: năng lực tài chính thực tế của các doanh nghiệp cần phải ở mức đáp ứng được các nhu cầu thanh toán thường xuyên để giảm thiểu áp lực của việc tăng lãi suất vào giai đoạn thả nổi. Nếu doanh nghiệp với khả năng tài chính yếu thì các khoản thanh toán lãi suất tăng lên và các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn khi đương đầu với các biến động về lãi suất do tính không co dãn cầu về vốn của họ.
-Tài chính công mạnh: thể hiện ở việc thâm hụt ngân sách Nhà nước ở giới hạn cho phép và có dự trữ tài chính để đáp ứng các chi tiêu đột xuất cho khắc phục hậu quả thiên tai, an ninh, quốc phòng. Chính phủ không sử dụng tiền phát hành để chi tiêu, chấm dứt các khoản bao cấp cho các DNNN.
-Chính sách tỷ giá linh hoạt và sự ổn định của thị trường tiền tệ thế giới: Quá trình tự do hoá lãi suất đặt ra yêu cầu thực hiện cùng với chế độ tỷ giá linh hoạt, nhằm tăng khả năng huy động vốn từ nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu và quan hệ lãi suất nội tệ- tỷ giá- lãi suất ngoại tệ không bị bóp méo, tránh tác động xấu đối với thị trường tiền tệ trong nước.
-Tính minh bạch của thị trường được thực hiện trên thực tế: đảm bảo cho sự cạnh tranh bình đẳng giữa các định chế trung gian tài chính và Hiệp hội Ngân hàng thực hiện được vai trò thiết lập sự liên kết giữa các tổ chức tài chính trong việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận và lãi suất tiền gửi nhằm chống phá giá.
Các điều kiện nói trên, có điều kiện là yếu tố nôị sinh, có điều kiện là yếu tố ngoại sinh. Đối với các điều kiện mang tính ngoại sinh ( ổn định kinh tế vĩ mô, lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế) giúp chúng ta lựa chọn thời gian và không gian thích hợp, kết hợp với điều kiện có tính nội sinh đã được tạo lập để thực hiện thành công quá trình tự do hoá lãi suất .
Chương 2
Thực trạng áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận bằng VNĐ tại các NHTM nói chung và tại Sở Giao dịch I- NHCT Việt Nam.
2.1. Khái quát về Sở Giao dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam.(SGD I- NHCTVN).
2.1.1. Khái quát về bộ máy tổ chức của SGD I- NHCTVN
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SGD I- NHCTVN
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn tại Việt Nam với tổng tài sản chiếm 25% thị phần trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam. NHCTVN có mạng lưới kinh doanh rộng khắp, với trụ sở chính đặt tại Hà Nội, hai Sở Giao dịch ( Sở Giao dịch I -tại Hà Nội và Sở Giao dịch II- tại thành phố Hồ Chí Minh), hơn 100 chi nhánh và gần 700 điểm giao dịch tại các tỉnh, thành phố lớn trên toàn quốc. Trong đó SGD I là thành viên hạch toán phụ thuộc của NHCTVN, là đơn vị luôn có nguồn vốn lớn nhất trong hệ thống NHCTVN.
Từ 1988 trở về trước là Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Từ 1988 đến nay có thể phân thành ba giai đoạn chủ yếu:
-Từ 1988 – 4/1993 là Ngân hàng Công thương Hà Nội.
-Từ 4/1993-12/1998: giải thể Ngân hàng Công thương Hà Nội và sát nhập với NHCT Trung Ương và có tên gọi là Hội sở chính NHCT Việt Nam.
-Từ 1/1999- nay, theo quyết định 134/QĐHĐQT-NHCTVN, Hôi sở NHCT Việt Nam được tách ra và mang tên SGD I- NHCTVN, đơn vị hạch toán phụ thuộc vào NHCTVN, có trụ sở đóng tại số 10 Lê Lai- Hà Nội.
SGD I- NHCTVN có quyền tự chủ kinh doanh theo các nhiệm vụ được NHCTVN giao, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCTVN. Sở là đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong thanh toán ngoại tê theo uỷ quyền của NHCTVN, là nơi thử nghiệm và thực hiện các cơ chế chính sách, hệ thống công nghệ ngân hàng mới để rút kinh nghiệm, từ đó chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống. Khách hàng chính của Sở là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch và các khách hàng là các cá nhân khác.
2.1.1.2. Nghĩa vụ và Quyền hạn của SGD I- NHCTVN
2.1.1.2.1. Nghĩa vụ
-Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn lực của NHCTVN.
-Tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh đảm bảo an toàn hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
-Thực hiện nghĩa vụ về tài chính theo quy định của pháp luật và của NHCTVN.
2.1.1.2.2. Quyền hạn
-Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và dân cư trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại tệ.
-Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
-Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VNĐ & ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế tín dụng của NHNN và quy định của NHCTVN.
-Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá theo quy định của NHNN & của NHCTVN.
-Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Thanh toán nhờ thu, L/C nhập khẩu, thông báo L/C xuất khẩu, bảo lãnh thanh toán, kinh doanh ngoại tệ theo quy định của NHCTVN.
-Thực hiện các dịch vụ ngân hàng: Thanh toán, chuyển tiền trong và ngoài nước, chi trả kiều hối, thanh toán Séc...
-Thực hiện chế độ an toàn kho quỹ, bảo quản tiền mặt, ngân phiếu thanh toán và các ấn chỉ quan trọng đảm bảo chi trả tiền mặt, Ngân phiếu thanh toán chính xác, kịp thời.
-Thực hiện các dịch vụ tư vấn về tiền tệ, quản lý tiền vốn các dự án đầu tư phát triển theo yêu cầu của khách hàng.
-Theo dõi kiểm tra các ấn chỉ của NHCTVN, đảm nhận xuất kho ấn chỉ quan trọng cho các chi nhánh NHCT phía Bắc.
-Thực hiện một số nhiệm vụ khác do NHCTVN giao.
2.1.1.3. Tổ chức bộ máy điều hành của SGD I- NHCTVN
2.1.1.3.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức:
Ban lãnh đạo
Gồm 1 GĐ & 3 PGĐ
P.
KD
đối ngoại
P.
Tổ chức cán bộ
P. Kiểm tra kiểm toán
P. Ngân quỹ
P. Điện toán
P. Hành chính
P.
Kinh
Doanh
P.
Kế
Toán
P. NV cân đối tổng hợp
Bên cạnh đó, SGD I cho ra đời 1 phòng giao dịch vào 4/ 2002 và một tổ nghiệp vụ bán hàng. Tổng số cán bộ công nhân viên của SGD I là 279 người.
2.1.1.3.2. Nhiệm vụ các phòng ban:
Phòng nguồn vốn và cân đối tổng hợp
-Tổ chức huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế & dân cư bằng VNĐ & ngoại tệ theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN.
-Trực tiếp điều hành lao động tại các quỹ tiết kiệm của SGD I đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, tiền bạc của cơ quan và của Nhà nước tại quỹ tiết kiệm theo đúng chế độ hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN.
-Lập kế hoạch kinh doanh tổng hợp, phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của SGD I theo yêu cầu của Giám đốc SGD I, Giám đốc NHNN Hà Nội, Tổng giám đốc NHCTVN.
-Tổng hợp báo cáo các vấn đề liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng của SGD I.
Phòng Kinh doanh
-Thực hiện cho vay, thu nợ ngắn hạn, trung& dài hạn bằng VNĐ & ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo đúng cơ chế tín dụng của NHNN & hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN.
-Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp để tham gia dự thầu th0ực hiện hợp đồng, thanh toán mua hàng trả chậm theo đúng hướng dẫn của NHCTVN.
-Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu & các chứng từ có giá theo quy định của Thống đốc NHNN và Tổng giám đốc NHCTVN.
-Nghiên cứu, đề xuất biện pháp giải quyết vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của SGD, phản ánh kịp thời những vấn đề nghiệp vụ phát sinh để báo cáo Tổng giám đốc xem xét, giải quyết.
-Phân tích hợp đồng kinh doanh của khách hàng vay vốn tại Sở, cung cấp kịp thời có chất lượn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH357.doc