Giải ngân ODA tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005

lời mở đầu Cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hiện nay là nguồn tài chính rất quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với khoản ODA trị giá 17,5 tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam và 41% trong số đó đã được giải ngân trong 8 năm qua, ODA đã khẳng định vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam. Nguồn ngoại tệ này đóng góp một phần quan trọng để khắc phục tình trạng th

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải ngân ODA tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếu vốn và cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật thấp kém ở nước ta. Bên cạnh đó, sự gia tăng của nguồn vốn ODA còn giúp Chính phủ Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế và giáo dục cơ bản. Trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời gian qua, mức giải ngân thấp luôn luôn là chủ đề thảo luận với nhiều nhà tài trợ song phương và đa phương nhằm tìm ra những nguyên nhân và giải pháp để khắc phục. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự tiến bộ đáng kể mà còn xuất hiện xu hướng tốc độ giải ngân chậm lại trong thời gian gần đây. Giải ngân thấp thể hiện sự không hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn ODA và là một sự lãng phí lớn, trong điều kiện nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế còn rất lớn như hiện nay. Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam giai đoạn 2001-2005 " làm đề tài nghiên cứu cho bài Luận văn tốt nghiệp của mình. Mục tiêu của đề tài là trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận về ODA, phân tích thực trạng giải ngân ODA ở Việt Nam trong những năm qua để tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy tốc độ giải ngân ODA, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, bài Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này được bố cục như sau: Chương I : Cơ sở lý luận chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và giải ngân vốn ODA. Chương II : Đánh giá tổng quan về tình hình giải ngân nguồn vốn ODA tại Việt Nam giai đoạn 1993-1999. Chương III : Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA giai đoạn 2001-2005. chương I cơ sở lý luận chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) I-Những lý luận cơ bản về ODA 1-Khái niệm và đặc điểm của ODA 1.1-Khái niệm ODA là tên gọi tắt của ba từ tiếng Anh Official Development Assistance có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức. Năm 1972, tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra định nghĩa như sau: "ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%". Tại Điều I Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban hành ngày 5-8-1977 có nêu khái niệm về ODA như sau :" Hỗ trợ phát triển chính thức được hiểu là sự hợp tác phát triển giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, bao gồm các hình thức sau: Hỗ trợ cán cân thanh toán. Hỗ trợ theo chương trình. Hỗ trợ kỹ thuật. Hỗ trợ theo dự án. ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA cho vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại chiếm ít nhất 25% giá trị khoản vay. Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại , viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển. Nguồn vốn đưa vào các nước đang và chậm phát triển được thực hiện qua nhiều hình thức: -Tài trợ phát triển chính thức ( Official Development Finance - ODF ) là nguồn tài trợ chính thức của chính phủ cho mục tiêu phát triển. Nguồn vốn này bao gồm ODA và các hình thức ODF khác, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. -Tín dụng thương mại từ các ngân hàng ( Commercial Credit by Bank ) là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thương mại... -Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Invesment - FDI ) là loại hình kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn tự thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê người quản lý (đầu tư 100% vốn ), hoặc góp vốn với một hay nhiều xí nghiệp của nước sở tại thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, rồi cùng các đối tác của mình làm chủ sở hữu và cùng quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này ( xí nghiệp liên doanh ). -Viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ ( Nongovernment Organisation - NGO ). -Tín dụng tư nhân: loại vốn này có ưu điểm là hầu như không gắn với các ràng buộc chính trị - xã hội, song các điều kiện cho vay khắt khe ( thời hạn hoàn trả vốn ngắn và mức lãi suất cao), vốn được sử dụng chủ yếu cho các hoạt động xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Vốn này cũng được dùng cho đầu tư phát triển và mang tính dài hạn. Tỷ trọng của vốn dài hạn trong tổng số có thể tăng lên đáng kể nếu triển vọng tăng trưởng lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là khả quan. Các dòng vốn quốc tế này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hện đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn vốn FDI, cũng như vay vốn tín dụng khác để mở rộng kinh doanh. Nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút các nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác thì chính phủ sẽ không có đủ thu nhập để trả nợ cho các loại vốn ODA. 1.2-Đặc điểm của nguồn vốn ODA: -ODA là một giao dịch quốc tế, thể hiện ở chỗ hai bên tham gia giao dịch này không có cùng quốc tịch. Bên cung cấp thường là các nước phát triển hay các tổ chức phi chính phủ. Bên tiếp nhận thường là các nước đang phát triển hay các nước gặp khó khăn về nguồn lực trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế hay môi trường. -ODA thường được thực hiện qua hai kênh giao dịch là kênh song phương và kênh đa phương. Kênh song phương, quốc gia tài trợ cung cấp ODA trực tiếp cho chính phủ quốc gia được tài trợ. Kênh đa phương , các tổ chức quốc tế hoạt động nhờ các khoản đóng góp của nhiều nước thành viên cung cấp ODA cho quốc gia được viện trợ. Đối với các nước thành viên thì đây là cách cung cấp ODA gián tiếp. -ODA là một giao dịch chính thức. Tính chính thức của nó được thể hiện ở chỗ giá trị của nguồn ODA là bao nhiêu, mục đích sử dụng là gì phải được sự chấp thuận và phê chuẩn của chính phủ quốc gia tiếp nhận. Sự đồng ý tiếp nhận đó được thể hiện bằng văn bản, hiệp định, điều ước quốc tế ký kết với nhà tài trợ. -ODA được cung cấp với mục đích rõ ràng. Mục đích của việc cung cấp ODA là nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước nghèo. Đôi lúc ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các nước gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh...Do đó, có lúc các nước phát triển cũng được nhận ODA. Nhưng không phải lúc nào mục đích này cũng được đặt lên hàng đầu, nhiều khi các nhà tài trợ thường áp đặt điều kiện của mình nhằm thực hiện những toan tính khác. -ODA có thể được các nhà tài trợ cung cấp dưới dạng tài chính, cũng có khi là hiện vật. Hiện nay, ODA có ba hình thức cơ bản là viện trợ không hoàn lại (Ggant Aid), vốn vay ưu đãi ( Loans Aid ) và hình thức hỗn hợp. 2-Phân loại ODA 2.1-Phân loại theo tính chất -ODA không hoàn lại : Đây là nguồn vốn ODA mà nhà tài trợ cấp cho các nước nghèo không đòi hỏi phải trả lại. Cũng có một số nước khác được nhận loại ODA này khi gặp phải các vấn đề nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh... Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn này thường được cấp dưới dạng các dự án hỗ trợ kỹ thuật, các chương trình xã hội hoặc hỗ trợ cho công tác chuẩn bị dự án. ODA không hoàn lại thường là các khoản tiền nhưng cũng có khi là hàng hoá, ví dụ như lương thực, thuốc men hay một số đồ dùng thiết yếu. ODA không hoàn lại thường ưu tiên và cung cấp thường xuyên cho lĩnh vực giáo dục, y tế. Các nước Châu Âu hiện nay dành một phần khá lớn ODA không hoàn lại cho vấn đề bảo vệ môi trường, đặc biệt là bảo vệ rừng và các loài thú quý. -ODA vốn vay ưu đãi : đây là khoản tài chính mà chính phủ nước nhận phải trả nước cho vay, chỉ có điều đây là khoản vay ưu đãi. Tính ưu đãi của nó được thể hiện ở mức lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại vào thời điểm cho vay, thời gian vay kéo dài, có thể có thời gian ân hạn. Trong thời gian ân hạn, nhà tài trợ không tính lãi hoặc nước đi vay được tính một mức lãi suất đặc biệt. Loại ODA này thường được nước tiếp nhận đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng xã hội như xây dựng đường xá, cầu cảng, nhà máy...Muốn được nhà tài trợ đồng ý cung cấp, nước sở tại phải đệ trình các văn bản dự án lên các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ nước tài trợ. Sau khi xem xét khả thi và tính hiệu quả của dự án, cơ quan này sẽ đệ trình lên chính phủ để phê duyệt. Loại ODA này chiếm phần lớn khối lượng ODA trên thế giới hiện nay. -Hình thức hỗn hợp : ODA theo hình thức này bao gồm một phần là ODA không hoàn lại và một phần là ODA vốn vay ưu đãi. Đây là loại ODA được áp dụng phổ biến trong thời gian gần đây. Loại ODA này được áp dụng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. 2.2-Phân loại theo mục đích: -Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường. đây thường là những khoản cho vay ưu đãi. -Hỗ trợ kỹ thuật : là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư phát triển thể chế và nguồn nhân lực...Loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. 2.3-Phân loại theo điều kiện : -ODA không ràng buộc : Là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng. -ODA có ràng buộc : +Ràng buộc bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là nguồn ODA được cung cấp dành để mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch vụ chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc kiểm soát ( đối với viện trợ song phương ), hoặc công ty của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương). +Ràng buộc bởi mục đích sử dụng: Nghĩa là nước nhận viện trợ chỉ được cung cấp nguồn vốn ODA với điều kiện là phải sử dụng nguồn vốn này cho những lĩnh vực nhất định hay những dự án cụ thể. -ODA ràng buộc một phần: Nước nhận viện trợ phải dành một phần ODA chi ở nước viện trợ (như mua sắm hàng hoá hay sử dụng các dịch vụ của nước cung cấp ODA), phần còn lại có thể chi ở bất cứ đâu. 2.4-Phân loại theo hình thức: -Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc cho vay ưu đãi. -Hỗ trợ phi dự án: Là loại ODA được nhà tài trợ cung cấp trên cơ sở tự nguyện. Nhận thức về các vấn đề bức xúc ở nước sở tại, nhà tài trợ yêu cầu chính phủ nước sở tại được viện trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn đó. Khi được chính phủ chấp thuận thì việc viện trợ được tiến hành theo đúng thoả thuận của hai bên. Loại ODA này thường được cung cấp kèm theo những đòi hỏi từ phía chính phủ nước tài trợ. Do đó, chính phủ nước này phải cân nhắc kỹ các đòi hỏi từ phía nhà tài trợ xem có thoả đáng hay không. Nếu không thoả đáng thì phải tiến hành đàm phán nhằm dung hoà điều kiện của cả hai phía. Loại ODA này thường có mức không hoàn lại khá cáo, bao gồm các loại hình sau: +Hỗ trợ cán cân thanh toán: Trong đó thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hay hỗ trợ xuất nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển vào qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách. +Hỗ trợ trả nợ: Nguồn ODA cung cấp dùng để thanh toán những món nợ mà nước nhận viện trợ đang phải gánh chịu. +Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian xác định mà không phải xác định chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. 3-Nguồn gốc lịch sử của ODA Sau Đại chiến thế giới lần thứ II, nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Nhiều nước tham chiến bị thiệt hại nặng nề về cả người và của. Với mục đích vực dậy nền kinh tế thế giới, nhiều tổ chức tài chính quốc tế đã được thành lập vào thời kỳ này. Một trong những kế hoạch tái thiết kinh tế lúc đó là kế hoạch Marshall, tiền thân của hình thức hỗ trợ phát triển chính thức sau này, có mục đích là hỗ trợ các nước châu Âu khôi phục lại nền kinh tế đã bị chiến tranh tàn phá. Ngày 14-12-1960, tại Paris, Tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu (OEEC ), tiền thân của tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) được thành lập để thực hiện kế hoạch Marshall. Các nước tham dự hội nghị Paris đã thống nhất mục tiêu của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu gồm: -Cải thiện mức sống và điều kiện lao động của các nước thành viên. -Đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững, duy trì sự ổn định về tài chính. -Hỗ trợ các nước khác đặc biệt là các nước thành viên và các nước chịu sự tàn phá nặng nề sau chiến tranh trong quá trình phát triển kinh tế. -Tăng cường phát triển thương mại quốc tế dựa trên cơ sở đa phương.Tổ chức này ban đầu có 19 thành viên gồm có áo, Bỉ, Canađa, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Aixơlen, ý , Lucxămbua, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ. Các nước gia nhập thêm sau đó là Nhật Bản (năm 1964), Phần Lan (năm 1969), Ôxtrâylia (năm 1971), Niuzilân (năm1973) và Mêhicô (năm 1994). OECD thành lập nhiều uỷ ban để phân chia quyền hạn và nhiệm vụ trong hoạt động của mình. Một trong số đó là ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC). Đây là ủy ban chuyên cung cấp ODA dạng tài chính cho các nước đang phát triển. Thành viên của ủy ban này gồm có Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Đức, Hà Lan, Vương Quốc Anh, Canađa, Thụy Điển, Đan Mạch, ý, Na Uy, Ôxtrâylia, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bỉ, áo, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Ailen, Niuzilân, Luxcămbua và ủy ban châu Âu. Ban đầu, OECD chỉ tập trung viện trợ cho các nước tham chiến trong chiến tranh thế giới thứ II và các nước bị chiến tranh tàn phá. Sau khi kinh tế các nước này đã được phục hồi, việc viện trợ được mở rộng ra các quốc gia khác với mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước đang phát triển thuộc phe Xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam hầu như không nhận được sự viện trợ trực tiếp từ các nước thuộc DAC mà chỉ nhận gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ và Liên Hợp Quốc. Việt Nam trong nhiều năm liền chủ yếu nhận viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu. Thời kỳ này việc cung cấp ODA chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố chính trị. Sau khi Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, các nước Xã hội chủ nghĩa khác đã phải tiến hành cải cách chính trị cho phù hợp với tình hình mới, các nước tư bản đã nối lại viện trợ cho Việt Nam, Trung Quốc và Cuba. Nhìn chung hiện nay, vấn đề chính trị không còn ảnh hưởng nhiều tới việc cung cấp ODA nữa. Nhờ những cải cách mang tính chất tích cực, nước ta nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ. Trong những năm qua, hoạt động của viện trợ chính thức đã góp nhiều công sức cho việc phát triển kinh tế toàn thế giới và giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia. Một số nước đã vươn lên từ đói nghèo và lạc hậu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô... đã chứng minh cho những thành công của ODA trên thế giới. Bên cạnh đó, ODA trong những năm qua còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Tuy vậy nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong con đường phát triển của toàn nhân loại. 4- Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển: Trong mỗi xã hội luôn tồn tại sự hoạt động của các ngành, các lĩnh vực không sinh lợi. Chẳng hạn như trong lĩnh vực môi trường, các công nhân thu dọn vệ sinh có thể bị coi là "ăn bám" xã hội bởi lẽ công việc của họ chẳng làm ra một đồng của cải nào cho xã hội cả. Thế nhưng chỉ thiếu họ một tuần hay một ngày thôi thì mùi xú uế sẽ bốc lên nồng nặc cả thành phố. Có hay không tồn tại của một công viên cây xanh cũng chẳng phải là vấn đề sống còn của bất cứ ai, nhưng nếu không có nó thì mọi người sẽ không có chỗ nghỉ ngơi, giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng. Đây là những lĩnh vực mà tư nhân hầu như không quan tâm đầu tư mặc dù nó giữ vai trò thiết yếu đối với bất kỳ xã hội hiện đại nào ngày nay. Bởi vì lĩnh vực này không sinh lời, nếu có thì cũng cần thời gian thu hồi vốn lâu. Hãy thử tưởng tượng một thành phố không có bóng dáng công nhân quét rác hay một công viên cây xanh thì điều gì sẽ xảy ra. Chắc chắn, người ta sẽ không chịu nổi sự ô nhiễm môi trường nặng nề mà chính họ là nguyên nhân gây ra. Môi trường không sinh lợi đã đành, ngay cả những lĩnh vực có sinh lợi nhưng hiệu quả kinh tế chậm như giao thông, thuỷ lợi, điện, nước... cũng chẳng có cá nhân nào dám bỏ tiền ra để xây dựng. Vì nó đòi hỏi vốn lớn và thời gian thu hồi chậm. Do đó các công trình cộng cộng thường phải do Nhà nước đầu tư thực hiện. Thế nhưng, Chính phủ các nước đang phát triển lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư vào các lĩnh vực công cộng. Đây hầu hết là các nước nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Do đó, có rất ít vốn tích lũy cho đầu tư phát triển. Dân nghèo thì số tiền thu ngân sách cũng không được là bao, không đủ để xây dựng các công trình công cộng, hạ tầng kỹ thuật. Các quốc gia đang phát triển hầu hết đều đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu. Vì vậy vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang trở lên hết sức cấp bách. Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang là điều kiện bắt buộc các nước đang phát triển phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế và vấn đề thiếu vốn đang là trở ngại lớn nhất trên con đường tìm kiếm sự phát triển của các nước này. Hàng năm, với tinh thần nhân đạo cao cả, các nước phát triển đã cung cấp một khối lượng ODA đáng kể trị giá hàng trăm tỷ USD cho các quốc gia đang phát triển. khối lượng ODA đó có vai trò rất quan trọng đối với các nước này, nó cho phép họ có một khoản tiền để giải quyết một số vấn đề cấp thiết, và đầu tư vào hạ tầng cơ sở, các công trình công cộng. Có thể nói, một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ là nền tảng cho sự phát triển của một đất nước. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển có hệ thống cơ sở hạ tầng lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh tế. Hiện nay, xu hướng chung của các nước đang phát triển là tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI và ODA), bổ sung cho nguồn vốn eo hẹp trong nước. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), có ưu điểm là khối lượng vốn đầu tư lớn và nước tiếp nhận không phải chịu gánh nặng nợ nần. Nhưng nếu muốn thu hút được nhiều nguồn vốn FDI thì đòi hỏi các nước đang phát triển phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, một môi trường kinh doanh thuận lợi. Đây là những yếu tố mà các nước đang phát triển còn thiếu. Nếu chỉ thu hút riêng vốn FDI thì không đủ nhu cầu ngày càng cao về vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thu hút nguồn vốn ODA để bổ sung nhu cầu về vốn. ODA có ưu điểm là nước tiếp nhận được chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này vào những lĩnh vực mà mình quan tâm. Ngoài việc sử dụng vốn ODA để giải quyết các vấn đề khác của đất nước thì ODA có thể tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, làm cho môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Điều này sẽ góp phần tích cực tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI của các nước đang phát triển. II- sự cần thiết phải tăng cường thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA để phát triển nền kinh tế Việt Nam 1-Một số hình thức chủ yếu của ODA ở Việt Nam 1.1-Hỗ trợ theo chương trình Hình thức này thường tập trung giải quyết các vấn đề xã hội như y tế, giáo dục và các vấn đề xã hội khác... Các chương trình thường được phía nhà tài trợ chủ động đề xuất. Đối với lĩnh vực y tế, một số chương trình chủ yếu của hình thức này là chương trình bảo vệ sức khoẻ sinh sản, chương trình tiêm chủng cho trẻ sơ sinh, chương trình kế hoạch hoá gia đình, chương trình thanh toán một số bệnh xã hội, xây mới và cải tạo hệ thống trạm xá, chương trình phẫu thuật nụ cười, chương trình cấp thuốc miễn phí cho một số vùng sâu, vùng xa... Các chương trình hỗ trợ cho ngành y tế thường mang tính nhân đạo cao và rất được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế. Đối với lĩnh vực giáo dục, một số hình thức chủ yếu là xây mới và cải tạo trường học cho một số tỉnh gặp khó khăn, chương trình cấp học bổng cho sinh viên đại học, chương trình đào tạo đại học và sau đại học... Ngoài ra hình thức này còn bao gồm nhiều chương trình khác như chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình cấp cây và con giống cho bà con nông dân, chương trình nước sạch nông thôn... Đối với Việt Nam, hình thức ODA hỗ trợ theo chương trình khá quan trọng, nó đảm bảo cho chúng ta một sự phát triển hài hoà, bền vững. Tuy vậy khối lượng ODA thời gian qua dành cho hình thức này chưa nhiều, mới chỉ giải quyết được một số vấn đề cấp bách nhất. Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải tăng cường thu hút ODA hỗ trợ cho các chương trình. 1.2-Hỗ trợ theo dự án Hình thức này khá phổ biến ở Việt Nam thời gian qua. Hỗ trợ theo dự án thường được thực hiện bằng nguồn vốn vay ưu đãi và hỗn hợp. Các dự án thường phải đáp ứng được một số yêu cầu từ phía các nhà tài trợ. Hình thức này thường phổ biến ở lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, thủy lợi, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội và lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Khối lượng ODA dành cho hỗ trợ dự án là rất lớn, chiếm phần lớn lượng vốn mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam kể từ năm 1993 đến nay. Đây là hình thức rất quan trọng bởi vì nó góp phần tạo đựng cơ sở vật chất thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. 1.3-Hỗ trợ cán cân thanh toán Chi ngân sách của nước ta thời gian qua thường lớn hơn thu hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm. Bội chi ngân sách cũng là tình trạng chung của các nước đang phát triển. Các nhà tài trợ đã sử dụng hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán như một công cụ để giữ vững sự ổn định của thị trường tài chính quốc tế và giúp đỡ một phần chính phủ các nước đang phát triển giảm nhẹ gánh nặng bội chi ngân sách. Hình thức này chưa phát triển ở Việt Nam và chủ yếu được thực hiện bằng các khoản vay ưu đãi nhỏ. 1.4-Hỗ trợ kỹ thuật Đây là một hình thức ODA quan trọng, đặc biệt là đối với những nước có trình độ kỹ thuật lạc hậu như Việt Nam. Hình thức này được thực hiện dưới dạng các chương trình hợp tác kỹ thuật như: chương trình cử chuyên gia, chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật, chương trình cung cấp trang thiết bị... Thời gian qua, các chương trình này đã đóng góp một phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. 2-Sự cần thiết phải tăng cường thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA để phát triển nền kinh tế Việt Nam Đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp, đất nước ta còn nghèo nàn và lạc hậu, hiện nay chúng ta chưa có đủ các tiền đề cần thiết cho một sự phát triển bền vững. Để phát triển nền kinh tế với tốc độ nhanh trong khi nền kinh tế nhỏ bé đang thiếu vốn nghiêm trọng và tiết kiệm trong nước còn quá thấp thì cần phải bổ sung vốn đầu tư bằng khối lượng lớn nguồn vốn nước ngoài. Huy động vốn nước ngoài rất cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế để hoà nhập với kinh tế thế giới, trong đó tranh thủ vốn ODA là một chủ trương lớn của nước ta từ giai đoạn mở cửa. Các công trình thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay đã xuống cấp nghiêm trọng, không thể duy trì phát triển kinh tế lâu dài. Hệ thống giao thông đường bộ chắp vá. Để nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông quốc gia xuyên suốt từ nay đến năm 2005, mỗi năm chúng ta cần hàng chục ngàn tỷ đồng, đó là chưa kể đến hệ thống giao thông nội tỉnh. Hệ thống giao thông đường thủy được xây dựng từ nhiều năm nay lại không được quan tâm bảo dưỡng hàng năm nên không thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá. Muốn phục vụ tốt cho xuất khẩu thì trước mắt phải nâng cấp một số cảng quan trọng như cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng; phải xây mới và nâng cấp các cầu cảng và hệ thống kho bãi của các cảng này. Hệ thống sân bay cũng cần được cải tạo hàng năm cho phù hợp với nhu cầu. Hệ thống thông tin liên lạc đã phát triển rất nhanh thời gian qua cần tiếp tục phát huy và có một số đổi mới cho thích hợp hơn. Mỗi ngành này cũng cần đầu tư hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng. Bên cạnh đó, các vấn đề cũ còn tồn tại và các vấn đề xã hội mới nảy sinh cũng đòi hỏi phải có nguồn lực để giải quyết. Một xã hội không thể phát triển bền vững nếu trẻ em không được đi học, người già và người tàn tật không được chăm sóc, bệnh dịch không được thanh toán... Do đó phát triển con người là chiến lược của Đảng ta trong công cuộc phát triển kinh tế. Để giải quyết những vấn đề đó mỗi năm chính phủ phải chi hàng chục ngàn tỷ đồng. Hiện nay các khoản thu của ngân sách không đủ đáp ứng các nhu cầu trên. Thuế là nguồn thu chủ yếu nhưng mỗi năm vẫn bị thất thu một số lượng lớn. Năm 1999 tổng thu ngân sách của Nhà nước khoảng trên 70.000 tỷ đồng trong khi tổng các khoản chi xấp xỉ 90.000 tỷ đồng. Như vậy chúng ta phải bù đắp bội chi ngân sách khoảng 20.000 tỷ đồng. Do đó, việc thu hút nguồn lực bên ngoài sẽ giúp chính phủ trong việc giảm bội chi ngân sách. Kể từ năm 1987, các công ty nước ngoài được phép chính thức hoạt động tại Việt Nam. Khối lượng vốn của các công ty này đã giúp đỡ rất nhiều cho chính phủ trong việc khắc phục tình trạng thiếu vốn. Chính nhờ quyết định mở cửa này, nền kinh tế Việt Nam đã có bước tăng trưởng vượt bậc trong hơn 10 năm qua, quan hệ sản xuất tỏ ra phù hợp hơn, lực lượng lao động được giải phóng, nến kinh tế trong nước phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, về cơ bản nền kinh tế đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài hàng chục năm qua. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất lớn trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng bộc lộ những mặt hạn chế. Nhà đầu tư chỉ quan tâm bỏ vốn đầu tư vào những lĩnh vực có khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh tế nhanh. Điều này đã gây ra sự phát triển mất cân đối trong nền kinh và không thực hiện được nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội khác. Ngoài ra còn có nguy cơ mất ổn định nền kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua của các nước khu vực Đông Nam á là một minh chứng cụ thể. Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của nguồn vốn ODA đối với tiến trình phát triển nền kinh tế- xã hội của đất nước. Do đó, phải tăng cường khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Hiện nay, việc giải ngân chậm đang là một tồn tại rất lớn cần sớm được khắc phục. Thời gian qua, Việt Nam đã khá thành công trong việc vận động, thu hút nguồn vốn ODA thông qua việc tổ chức Hội nghị các nhà tài trợ (CG). Kết quả của những nỗ lực trên là 15,14 tỷ USD vốn ODA mà cộng đồng các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam trong giai đoạn 1993-1999. Tuy nhiên, muốn có được số vốn này để đầu tư vào các chương trình, dự án thì còn là một quá trình từ xác định dự án, chuẩn bị dự án, thẩm định dự án, đàm phán vay vốn và phê duyệt khoản vay cho tới thực hiện dự án. Có thể hiểu, để đưa những đồng vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết vào thực hiện các chương trình, dự án chính là quá trình giải ngân vốn ODA. Như vậy, muốn tận dụng tốt nguồn vốn ODA, biến những cam kết của các nhà tài trợ thành hiện thực, chúng ta phải giải quyết triệt để những yếu tố gây cản trở quá trình giải ngân nguồn vốn này. Có tăng được tỷ lệ giải ngân thì việc thu hút nguồn vốn ODA mới thực sự có tác dụng. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân mới làm cho đồng vốn ODA thực sự đi vào cuộc sống góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Trong những năm qua, vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó có nhiều dự án đã hoàn thành và có tác động tích cực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nguồn vốn ODA đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển hiện nay của ngành năng lượng. Một loạt các nhà máy sản xuất điện đã được xây dựng bằng vốn ODA như nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi... Việc xây dựng những nhà máy này làm giảm bớt sự quá tải của mạng lưới điện Quốc gia, đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện ngày càng cao cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Những công trình giao thông chủ chốt của nền kinh tế Việt Nam đã được thực hiện bằng nguồn vốn ODA như cải tạo, nâng cấp và phát triển các đường quốc lộ huyết mạch (Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, xây dựng cầu Mỹ Thuận...). Phát triển nông nghiệp, nông thôn và miền núi được sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA thông qua một loạt các dự án phát triển cà phê, chè; chồng rừng; xây dựng các cảng cá ; phát triển chăn nuôi; thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và phát triển cơ sở hạ tầng ở nhiều tỉnh nghèo. Một số hệ thống thủy lợi lớn ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam đang được khôi phục và phát triển. Nguồn vốn ODA cũng được sử dụng để hỗ trợ các lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo như Dự án giáo dục tiểu học, Dự án Hỗ trợ y tế Quốc gia... Ngoài ra, việc cải thiện, cung cấp nước sinh hoạt tại các thành phố, thị xã và các vùng nông thôn, miền núi là lĩnh vực ưu tiên cao trong sử dụng vốn ODA. Đến nay, hầu hết các thành phố, thị xã của các tỉnh đã có các dự án ODA về phát triển hệ thống cung cấp nước sinh hoạt được thực hiện. Nguồn vốn ODA cũng góp phần hỗ trợ đáng kể nhằm thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa... Một số chương trình, dự án ODA thực hiện xong và hiện đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như Nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên Phú Mỹ 2 - giai đoạn 1 (công suất 400 MW). Một số công trình giao thông quan trọng đã đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả như Quốc lộ 5; Quốc lộ 1A đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn TPHCM - Cần Thơ, đoạn TPHCM - Nha Trang. Cảng Hải Phòng; các hệ thống cung cấp nước sinh hoạt ở Hà Nội, Lào Cai, Hoà Bình... Nhiều bệnh viện ở các thành phố và thị xã như Bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Đức (Hà Nội) và 9 bệnh viện ở Hà Nội... Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, các chương trình y tế khác (chống sốt rét, bướu cổ, AIDS - HIV...) được thực hiện có hiệu quả. Nhiều trường học nhất là các trường tiểu học ở các tỉnh hay bị bão, lũ lụt ở miền Bắc và miền Trung đã được xây dựng. Như vậy, ODA đã tham gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội, ODA đang và s._.ẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Trong Văn kiện Đại Hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 8 đã chỉ rõ: "Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và quản lý đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực". Chương II Đánh giá tổng quan về tình hình giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt nam giai đoạn 1993- 1999 I-Tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam trong mối quan hệ với nguồn vốN ODA 1-Những chuyển biến về kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian qua Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986), nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Việt Nam bị xếp vào một trong 10 nước chậm phát triển nhất thế giới với thu nhập dưới 200 USD/ người . Nhập siêu liên tục gia tăng, nợ nước ngoài hầu như không có khả năng trả. Cơ chế bao cấp bộc lộ nhiều khuyết điểm và không còn phù hợp. Tệ quan liêu, bao cấp, cửa quyền hoành hành trong bộ máy tổ chức Nhà nước làm cho nền dân chủ bị vi phạm nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Kẻ địch đã tận dụng cơ hội này để gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng. Đứng trước nguy cơ đó, năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh giá như sau: "Cơ chế tập trung quan liêu dựa trên bao cấp của Nhà nước được thực hiện từ nhiều năm nay, đã không tạo được động lực phát triển, lại còn làm suy yếu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, giảm sút năng suất , chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, đẩy phân phối và lưu thông vào tình trạng rối loạn và làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội chúng ta." Kết luận quan trọng này đã mở đầu giai đoạn tăng cường công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Quyết định đổi mới toàn diện, mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới của Đảng là tiền đề để các nhà tài trợ hướng tới Việt Nam. Khối lượng lớn nguồn vốn ODA mà Việt Nam nhận được kể từ năm 1993 thể hiện sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Đến nay sau hơn 10 năm đổi mới, tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao, tuy rằng sau cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ của khu vực đã làm cho Tốc độ tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn đạt cao so với các nước trong vùng. Tốc độ tăng GNP bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm và giai đoạn 1996-2000 là 6,7%/năm. Với việc hoàn thành vượt mức và toàn diện những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995 mà các kế hoạch 5 năm trước đó chưa bao giờ thực hiện được đã đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa được vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đạt được nhiều kết quả. Vốn đưa vào thực hiện hàng năm chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi , phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Một số ngành công nghiệp quan trọng phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu: -Giao thông vận tải : Giao thông đường bộ được thiết lập trên 96,8% tổng số xã của cả nước. Hệ thống giao thông đường thủy được hiện đại hoá và mở rộng quy mô, hiện có khả năng vận chuyển 45 triệu tấn hàng mỗi năm. Giao thông hàng không cũng không ngừng nâng cao khả năng và chất lượng phục vụ. -Bưu chính viễn thông có bước phát triển khá, được hiện đại hoá về cơ bản. Tất cả các tỉnh và các huyện được trang bị tổng đài điện tử và nối với nhau qua các tuyến cáp quang, các tuyến viba số. Mật độ điện thoại đạt 4/100 dân, tăng 13,8 lần so với năm 1991. Mạng viễn thông quốc tế được xây dựng khá hiện đại, hoàn chỉnh và ngày càng được tăng cường về quy mô. Mạng lưới bưu chính được mở rộng. Công tác phát hành báo chí được bảo đảm tới 7 điểm truyền và in báo từ xa. Tất cả các tỉnh thành và 895 huyện thị và 74% số xã, phường có báo đến hàng ngày. -Điện: Cho đến nay, tổng công suất nguồn điện đạt 5.284,91 Mw, tổng chiều dài lưới điện là 105,096 km. Hết năm 2000, mục tiêu 100% số huyện, 80% số phường xã có điện là có thể đạt được. -Thủy lợi : Cả nước đã xây dựng được 743 hồ đập vừa và lớn, 3.500 hồ đập vừa và nhỏ, hơn 1.000 cống tưới tiêu lớn, khoảng 10.600 trạm bơm nước, tổng công suất tưới đạt 3,7 triệu ha, tiêu đạt 1,4 triệu ha. Các công trình thủy lợi đó đã đảm bảo tưới cho khoảng 6 trong 7 triệu ha gieo trồng lúa, 90 vạn ha rau và cây công nghiệp. Một số ngành công nghiệp khác cũng có chuyển biến rõ rệt như dầu khí, dệt, điện tử , may mặc, vật liệu xây dựng... Bên cạnh đó, nông nghiệp cũng đạt được những thành công rực rỡ. Chẳng những giải quyết triệt để vấn đề an ninh lương thực mà còn là nguồn thu ngoại tệ lớn với các mặt hàng xuất khẩu như gạo , cà phê, hạt tiêu... Giá cả được ổn định trong nhiều năm cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển vững vàng hơn. Giá đồng Việt Nam giảm đều đặn so với đồng Đô la Mỹ ở một tỷ lệ chấp nhận được, giúp cho việc xuất khẩu hàng hoá thuận lợi hơn. Nhờ đó, cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt. Năm 2000, xuất khẩu đã xấp xỉ nhập khẩu, tuy chưa hoàn toàn là điều đáng mừng vì nó cho thấy suy giảm đầu tư sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, song cũng không thể phủ nhận thành công của chính sách xuất khẩu. Tình hình xã hội cũng có những chuyển biến tích cực. Thu nhập của người dân, đặc biệt là của người nông dân tăng nhiều so với trước đây. GDP bình quân năm 2000 đạt 400 USD/người gấp 1,8 lần so với năm 1990. Đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện tốt hơn. Công tác xoá đói giảm nghèo được đặc biệt quan tâm đã trở thành phong trào sâu rộng trong quần chúng nhân dân và đạt được nhiều kết qủa, số hộ nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 20% năm 1995 và 10% năm 2000. Xuất hiện ngày càng nhiều các hộ gia đình làm kinh tế giỏi mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu đồng. Chất lượng khám chữa bệnh được từng bước nâng lên, trang thiết bị y tế được nâng cấp ở các tuyến, y tế cơ sở được củng cố, hầu hết các xã đều có trạm xá. Đã hình thành một số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân. Giáo dục cũng rất được chú trọng đầu tư, nhất là cơ sở vật chất. Trường lớp đã khang trang hơn, điều kiện học tập của học sinh, sinh viên đã tốt hơn nhiều so với trước đây. Đầu tư cho giáo dục tuy chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra song đã góp phần nâng cao dân trí của toàn dân. An ninh chính trị được giữ vững, sự ổn định xã hội cơ bản được duy trì. Tính dân chủ được phát huy trong nội bộ Đảng và toàn xã hội. Đảng cộng sản nhận được sự ủng hộ to lớn của toàn thể nhân dân. Quan hệ quốc tế được củng cố và mở rộng. Như vậy, thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công cuộc cải cách kinh tế là rất lớn, trong đó có một phần đóng góp không nhỏ của nguồn vốn ODA. Mặt khác, những thành quả đầy ấn tượng có được trong việc đổi mới nền kinh tế cũng giúp cho Việt Nam nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của cộng đồng các nhà tài trợ. 2-Một số đặc điểm của nền kinh tế có ảnh hưởng đến việc thu hút vốn ODA -Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao, nền kinh tế phát triển khá ổn định tạo niềm tin cho các nhà tài trợ ODA. Đặc điểm này cùng đặc điểm vị trí địa lý giúp cho nước ta trở thành mối quan tâm lớn của các nước khác trong chính sách ngoại giao nói chung và việc tài trợ ODA nói riêng. -Thứ hai, về cơ bản nước ta vẫn còn là một nước nghèo, GDP bình quân đầu người thấp. Đây là một đặc điểm khá thuận lợi vì một điều kiện quan trọng cho việc tài trợ ODA của các nước DAC là mức thu nhập bình quân thấp. -Thứ ba, cơ sở hạ tầng yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều nơi thiếu điện, nước sạch, hệ thống giao thông xuống cấp nghiêm trọng. Do đó, việc thu hút ODA để đầu tư phát triển hạ tầng là rất quan trọng và luôn được ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ ta. -Thứ tư, nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp, công nghiệp kém phát triển. Có tới gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, do đó phần lớn lực lượng lao động chưa được đào tạo, chất lượng lao động thấp. Công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế, thiếu công nghệ, công nhân lành nghề. Phong cách làm việc của cán bộ nhà nước còn chịu ảnh hưởng bởi tác phong nông nghiệp và chế độ bao cấp trước đây nên hiệu quả thấp, nhiều khi gây khó khăn cho phía đối tác cung cấp ODA. Do đó, các lĩnh vực như phát triển khoa học công nghệ, đào tạo, cơ khí hoá nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn và cần được đầu tư thích đáng. Việc thu hút ODA để giải quyết vấn đề này được Chính phủ ta rất chú trọng. -Thứ năm, môi trường đầu tư còn nhiều bấp bênh , rủi ro. Cuộc cải cách hành chính diễn ra rất chậm và chưa thu được kết quả đáng kể. Bộ máy hành chính vẫn còn cồng kềnh và trùng lắp chức năng, chưa đảm bảo được sự điều hành tập trung, thống nhất. Bên cạnh đó, hệ thông pháp luật còn chồng chéo, nhiều chỗ bất hợp lý gây khó khăn không ít cho các nhà đầu tư và các nhà tài trợ ODA. Tuy vẫn còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung nước ta đang có điều kiện thuận lợi cho việc thu hút nguồn vốn ODA và nâng cao tính hiệu quả của nó. Chúng ta cần phát huy những điểm thuận lợi và giảm thiểu những mặt hạn chế để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. II- thực trạng giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt nam giai đoạn 1993 - 1999 1-Đánh giá chung về tình hình giải ngân ODA 1.1-Tình hình cam kết Có thể nói các biện pháp cải cách kinh tế của Việt Nam trong hơn 10 năm qua đã giúp cho mức cam kết viện trợ tăng lên đáng kể. Nhìn chung, chúng ta đã tạo được lòng tin và xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với các nhà tài trợ. Tính đến hết năm 1999, qua 7 hội nghị nhóm tư vấn của các nhà tài trợ (CG) dành cho Việt Nam, tổng số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam là 15,14 tỷ USD, cụ thể là: Bảng 1: Khối lượng vốn ODA cam kết giai đoạn 1993-1999 Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số Cam kết ODA (tỷ USD) 1,81 1,94 2,26 2,43 2,40 2,20* 2,10** 15,14 Tốc độ tăng (%) --- 7,19 16,67 7,35 -1,27 -8,33 -4,54 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Dấu * , ** trong số liệu cam kết của hai năm 1998 và 1999 có nghĩa là: (*) Chưa kể 0,5 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế. (**) Chưa kể 0,7 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế. Số vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam nói trên được sử dụng trong một số năm để thực hiện các chương trình và dự án. Qua bảng số liệu có thể thấy được là nguồn vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam liên tục tăng lên từ năm 1993 đến năm 1996, năm 1993 mới chỉ là 1,81 tỷ USD nhưng đến năm 1996 đã là 2,43 tỷ USD. Đây là giai đoạn nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao và liên tục, đồng thời kinh tế thế giới không có những biến động lớn. Tuy nhiên, năm 1997, số ODA cam kết chững lại và giảm dần. Nguyên nhân của sự sút giảm trên là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực Đông Nam á, tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam và các nhà tài trợ. Lượng vốn ODA tuy có giảm, nhưng thể hiện một sự cố gắng, quan tâm rất lớn của các nhà tài trợ đối với nước ta trong bối cảnh kinh tế của họ cũng gặp không ít khó khăn. 1.2- Tình hình ký kết các Hiệp định Muốn sử dụng được nguồn vốn ODA đã cam kết, Việt Nam và các nhà tài trợ phải ký các Hiệp định (Nghị định thư, Bản ghi nhớ (MOR), văn kiện dự án...) để thực hiện các chương trình, dự án được hai bên thỏa thuận. Tính đến hết năm 1999, cam kết ODA được hợp thức hoá thành các Hiệp định có giá trị 10.894 triệu USD, bằng 72% tổng nguồn ODA được cam kết trong thời kỳ 1993 - 1999. Trong tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết, ba nhà tài trợ chủ yếu là Nhật Bản, Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu á (adb) có giá trị các Hiệp định đã ký kết là 8.373 triệu USD, chiếm 76,8% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết, trong đó: -Nhật Bản: 4.399 triệu USD, chiếm 40,3% tổng giá trị các hiệp định đã ký kết. -WB: 2.366 triệu USD, chiếm 21,7% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết. -ADB: 1.608 triệu USD, chiếm 14,7% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết. Như vậy, đây là ba nhà tài trợ giữ vai trò quan trọng hàng đầu đối với nguồn vốn ODA vào Việt Nam, đặc biệt Nhật Bản đã đóng góp tới 40,3% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết. Do đó, cần phải khai thác triệt để sự hỗ trợ của các nhà tài trợ này, đẩy nhanh tiến độ giải ngân làm cho đồng vốn được sử dụng có hiệu quả hơn. Về cơ cấu nguồn vốn theo hình thức cung cấp, (ODA vốn vay và ODA không hoàn lại) của các Hiệp định đã ký kết, ODA vốn vay có giá trị 9.167,7 triệu USD, chiếm 84,1% tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết. vốn ODA viện trợ có hoàn lại là 1.726,8 triệu USD chiếm 15,9% giá trị các Hiệp định đã ký. Trong số các nhà tài trợ, hiện chỉ có một vài nhà tài trợ cung cấp thuần túy viện trợ không hoàn lại như úc (bình quân hàng năm khoảng 50 triệu đôla úc), Canađa (bình quân hàng năm khoảng 20 triệu đô la Canađa)... Đại bộ phận các nhà tài trợ cung cấp cả ODA vốn vay và ODA không hoàn lại. Riêng ODA vốn vay cũng có nhiều hình thức khác nhau. Có nhà tài trợ chỉ cung cấp một hình thức vốn vay ưu đãi, thí dụ Nhật Bản. Có nhà tài trợ cung cấp vốn vay hỗn hợp, một phần vốn vay ưu đãi kết hợp với một phần vốn vay thương mại từ các ngân hàng, thí dụ như Tây Ban Nha. Việc cung cấp ODA thường được thực hiện dưới hai hình thức: có điều kiện ràng buộc (do các công ty nước ngoài thực hiện thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu); không có điều kiện ràng buộc (đấu thầu quốc tế rộng rãi hoặc hạn chế). Bảng 2: Tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết phân theo ngành giai đoạn 1993-1999 Ngành Tỷ lệ (%) Tổng số Trong đó: Năng lượng điện Giao thông vận tải Tín dụng và điều chỉnh cơ cấu Nông, lâm, thủy sản bao gồm cả thủy lợi Y tế, xã hội, giáo dục- đào tạo cấp thoát nước Các ngành khác 100 25 19 16 13 11 7 9 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 1.3 Khái quát về tình hình giải ngân Trong thời kỳ từ năm 1993 đến hết năm 1999, tổng số vốn ODA đã được giải ngân là 6,367 tỷ USD bằng 58 % tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết và chiếm 41,6% tổng số vốn ODA được cam kết. Con số này cho thấy, hiện nay vẫn còn một khối lượng lớn vốn ODA chưa được đưa vào thực hiện, đây là sự lãng phí lớn trong khi nền kinh tế Việt Nam đang rất cần vốn cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Một tỷ lệ giải ngân thấp sẽ làm cho tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn này bị hạn chế và làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ đối với nước ta. Bảng 3: Giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-1999 Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Mức cam kết (tỷ USD) 1,81 1,94 2,26 2,43 2,40 2,20 2,1 Mức giải ngân (tỷ USD) 0,413 0,725 0,737 0,726 0,791 1,04 1,866 Tỷ trọng giải ngân so với cam kết (%) 22,8 37,3 32,5 29,9 32,5 47,3 87 Tốc độ tăng mức giải ngân (%) __ 75,5 1,65 -1,49 8,95 31,4 79,4 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Nhìn chung, về lượng tuyệt đối thì giá trị giải ngân tăng đều qua các năm. Năm đầu tiên chúng ta tiếp nhận ODA, lượng giải ngân mới chỉ là 0,413 tỷ USD, nhưng đến năm 1999, giải ngân đã đạt mức 1,866 tỷ USD. Điều đó chứng tỏ cố gắng của Việt Nam về mọi mặt, từ tiếp cận, phối hợp với các nhà tài trợ đến khắc phục, giải quyết những tồn tại để tranh thủ tối đa nguồn ngoại lực quan trọng này. Năm 2000, thực hiện thêm khoảng 1,69 tỷ USD và như vậy, thời kỳ 1996-2000, tổng vốn ODA thực hiện được là 6,2 tỷ USD, tương đương với 78% chỉ tiêu kế hoạch. Tuy nhiên, nếu xét về tỷ trọng giải ngân so với ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam còn thấp, tính chung cho cả thời kỳ 1993-1999 thì con số này chỉ là 41%, thấp hơn so với mức bình quân trong khu vực. Sự chênh lệch lớn về giải ngân ODA so với cam kết cho thấy tình trạng chúng ta đã chú trọng nhiều đến vận động ODA mà không quan tâm thích đáng đến quá trình thực hiện, sử dụng nguồn vốn này. Tình hình giải ngân không đồng đều giữa các nhà tài trợ và tuỳ thuộc vào loại hình dự án là đặc điểm nổi bật nhất của tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời gian qua. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường đạt hoặc vượt mức kế hoạch giải ngân hàng năm, thí dụ các dự án hỗ trợ kỹ thuật do úc, Đan Mạch, Na Uy,... tài trợ. Tuy nhiên, các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có chi phí chuyên gia rất cao (tới 60-70% giá trị dự án), hơn nữa chi phí này thường ở ngoài Việt Nam. Các dự án xây dựng cơ bản tập trung và giải ngân nhanh của WB và ADB có mức giải ngân tương đối khá. Thí dụ, tính đến năm tài chính 1999, mức giải ngân đối với các dự án của WB đạt 24,7% trên tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết (mức trung bình của khu vực là 21%). Tuy nhiên, nếu chỉ tính riêng các dự án xây dựng cơ bản tập trung của WB thì chỉ đạt mức 19%. Đối với các dự án của ADB, mức giải ngân cho cả giai đoạn 1993- 1999 đạt 15,3%, được đánh giá gần sát với mức bình quân của ADB nhưng thấp hơn một số nước khác trong khu vực. Các dự án sử dụng nguồn vốn JBIC (Nhật Bản) đạt mức giải ngân thấp, khoảng 10,7 % trên tổng giá trị các Hiệp định đã ký cho cả giai đoạn 1993-1999 (mức trung bình là 11,9%). Tuy nhiên, nếu so sánh mức giải ngân qua các năm thì thấy đã có những tiến bộ trong việc giải ngân nguồn vốn này, ví dụ năm 1996 chỉ đạt 2% , năm 1997 đã đạt 6,4%. Mặt khác, xét theo ngành đối với riêng các dự án của ba nhà tài trợ lớn (WB, ADB và Nhật Bản) thì các dự án thuộc ngành công nghiệp và năng lượng có mức giải ngân khá hơn cả, đạt 17% tổng giá trị ký kết và các dự án cấp nước đô thị kém hơn cả, chỉ đạt 5,8% giá trị ký kết. Các dự án giao thông, bưu điện đạt 13,6% giá trị ký kết. Đây là những con số cho thấy mức giải ngân của các ngành còn rất thấp cần sớm được khắc phục. So với các dự án của ba nhà tài trợ lớn (WB, ADB, Nhật Bản) thì quy mô dự án của các nhà tài trợ song phương thường nhỏ hơn và đa phần là các dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA), không có xây dựng cơ bản tập trung có tốc độ giải ngân nhanh hơn (ví dụ các dự án của các nhà tài trợ song phương như Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển,...). Trong tình hình thế giới gặp nhiều khó khăn, một số nhà tài trợ tập trung nguồn lực để đối phó với những khó khăn trong nước nên đã cắt giảm nguồn ODA cho những nước đang phát triển. Cuộc khủng hoảng tiền tệ tại các nước Đông Nam á lan sang một số nước châu á khác vốn là các nền kinh tế mạnh của châu lục cũng đã có tác động nhất định đến tình hình cung cấp viện trợ cho Việt Nam. Khối lượng vốn ODA giải ngân đều được quy ra đồng đô la Mĩ nên trong bối cảnh các đồng ngoại tệ mạnh giảm giá so với đồng đô la Mĩ thì mức giải ngân trong những năm gần đây là có tích cực. Mặc dù vậy cũng không thể phủ nhận được tốc độ giải ngân trong những năm qua còn nhiều hạn chế, không có sự chuyển biến đáng kể, đây chính là những yếu kém mang tính hệ thống trong quá trình thực hiện vốn ODA của Việt Nam. 1.4-Tình hình giải ngân nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993-1999 theo các tiêu thức khác nhau 1.4.1-Giải ngân ODA theo ngành Từ năm 1993, cơ sở hạ tầng ngày càng trở thành lĩnh vực nhận được nhiều ODA nhất. Chiều hướng này diễn ra đồng thời với sự gia tăng danh mục đầu tư của ba nhà tài trợ lớn nhất, đó là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới và ADB cũng như sự gia tăng các dự án sử dụng vốn vay ODA. Trong những năm qua , nguồn vốn ODA dành cho phát triển con người tăng dần về giá trị tuyệt đối, nhưng hiện nay tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực này trong tổng vốn ODA bị giảm dần. Để phục vụ cho những ưu tiên của Việt Nam, các nhà tài trợ cũng đã cam kết đầu tư cho phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Từ năm 1997, các khoản vay giải ngân nhanh chủ yếu chỉ để cho vay lại phục vụ các quỹ tín dụng nông thôn, trong khi mức giải ngân nhanh hỗ trợ cán cân thanh toán và điều chỉnh cơ cấu là không đáng kể do không có các chương trình tín dụng điều chỉnh cơ cấu của Ngân hàng thế giới và Qũy tiền tệ quốc tế. *)Giải ngân ODA cho cơ sở hạ tầng: Trong những năm qua, ngành năng lượng đã có mức giải ngân lớn nhất, do xuất phát từ tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nó. Các dự án ODA tập trung chủ yếu vào xây dựng nhà máy phát điện. Hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường năng lực quản lý hệ thống cấp điện cũng đi kèm với các dự án đầu tư này. Hầu như toàn bộ mức tăng giải ngân trong năm 1997 và 1998 xuất phát từ việc thực hiện ba dự án lớn do JBIC hỗ trợ nhằm xây dựng và mở rộng ba nhà máy phát điện. Tuy nhiên, vẫn còn 40% dân số chưa có điện. Có thể nhanh chóng giải quyết nhu cầu điện ở nông thôn thông qua các phương án mở rộng mạng lưới điện, ví dụ như áp dụng các hệ thống phân cấp quản lý các hệ thống cấp điện hay sử dụng các nguồn năng lượng tái sinh. Biểu 1: Giải ngân ODA cho cơ sở hạ tầng Triệu USD 700 600 500 400 300 200 100 0 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Năng lượng Đường giao thông Nước sạch, vệ sinh Phát triển đô thị (Nguồn: Điều tra của UNDP) Trong hai năm qua mức giải ngân cho ngành giao thông vận tải đã tăng lên gấp đôi từ 110 triệu USD trong năm 1996 lên 212 triệu USD trong năm 1998. Các chương trình tập trung vào một số ít các nhà tài trợ (JBIC Ngân hàng thế giới và ADB). Đáng chú ý là 10 dự án đường giao thông lớn nhất chiếm khoảng 90% tổng vốn viện trợ dành cho mục đích này từ năm 1993, trong khi đó hệ thống đường giao thông nông thôn rất kém phát triển, làm khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm và giảm khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Các chương trình khôi phục hệ thống cấp nước và phát triển đô thị: Năm 1998, mức giải ngân cho các chương trình này đạt 45 triệu USD. Con số này đã được duy trì khá ổn định từ năm 1994 đến nay. Hệ thống nước sạch và vệ sinh môi trường có ý nghĩa hết sức quan trọng việc nâng cao sức khỏe cho người dân, đặc biệt ở các vùng nông thôn. Trong những thập kỷ qua, chính phủ đã phát động các chương trình hằm cải thiện hệ thống nước sạch và vệ sinh môi trường. Tuy nhiên số liệu điều tra chính thức cho thấy chưa đến một nửa số dân được cung cấp nược sạch và có điệu kiện vệ sinh thực sự. *)Giải ngân ODA cho phát triển nông thôn: Các chương trình ODA ngày càng tập trung nhiều hơn cho công tác phát triển nông thôn, phù hợp với việc Chính phủ khẳng định dành ưu tiên cho lĩnh vực này từ năm 1997. Biểu đồ 2: Giải ngân ODA cho phát triển nông thôn Triệu USD 250 200 150 100 50 0 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Chương trình thông thường Chương trình giải ngân nhanh (Nguồn: Điều tra của UNDP) Năm 1993, mức giải ngân ODA mới chỉ là 73 triệu USD, chiếm tỷ lệ 17,6% trong tổng số ODA đã giải ngân của năm. Năm 1999, giải ngân ODA cho phát triển nông thôn đã là 240 triệu USD, chiếm 17,7%. Như vậy, lượng tuyệt đối có tăng lên, nhưng về tỷ trọng giải ngân ODA cho phát triển nông thôn trên tổng số thì vẫn không có thay đổi nhiều. Vài năm gần đây, các chương trình giải ngân nhanh ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số ODA giải ngân cho phát triển nông thôn. Các chương trình này đã góp phần làm cho mức giải ngân ODA cho lĩnh vực này tăng nhanh. Các khoản ODA dùng để cho vay lại phục vụ tín dụng nông thôn cũng như đầu tư vào các công trình hạ tầng cơ sở nông thôn đều tăng. Dự kiến mức đầu tư ODA cho phát triển nông thôn sẽ tiếp tục tăng thông qua một số chương trình hỗ trợ (Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình hỗ trợ 1.715 xã nghèo và Chương trình 5 triệu ha rừng). *)Giải ngân ODA cho phát triển con người: Trong khuôn khổ "sáng kiến 20/20" được công bố năm1995 tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển xã hội ở Copenhagen, cả Chính phủ và cộng đồng tài trợ đều cam kết dành 20% ngân sách của mỗi bên cho các dịch vụ xã hội cơ bản (DVXHCB). Theo định nghĩa của Hội nghị Copenhagen, DVXHCB bao gồm giáo dục tiểu học và mẫu giáo, xoá mù chữ cho người lớn, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, các chương trình tiêm chủng, kế hoạch hoá gia đình, bệnh viện cấp huyện và xã, cứu trợ thiên tai, nước sạch và vệ sinh nông thôn. Biểu đồ 3: Giải ngân ODA cho phát triển con người Triệu USD 250 200 150 100 50 0 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Giáo dục Ytế Phát triển xã hội (Nguồn: Điều tra của UNDP) Qua biểu đồ cho thấy, nguồn vốn ODA đã giải ngân dành cho phát triển con người có sự tăng dần kể từ năm 1993 đến 1999. Năm 1993 mới chỉ là 68 triệu USD, nhưng đến năm 1999 đã giải ngân được 210 triệu USD. -Giải ngân ODA cho giáo dục có bước tăng trưởng khá. Thông qua các chương trình hợp tác giữa các trường đại học và cơ sở giáo dục trong và ngoài nước cũng như các chương trình đào tạo và học bổng. Một khoản 30 triệu USD được chi cho các chương trình giáo dục tiểu học. Tỷ lệ nhập học ở các cấp tiểu học trên toàn quốc rất cao. Tuy nhiên, việc đảm bảo khả năng tiếp cận bình đẳng (về giới, dân tộc và vùng lãnh thổ) cũng như chất lượng giáo dục là những thách thức cần giải quyết. -Mức giải ngân cho ngành y tế cũng tăng đáng kể. Chiều hướng tăng mức giải ngân cho lĩnh vực này là rất đáng hoan nghênh vì tình trạng sức khỏe sinh sản ở Việt Nam hiện nay là rất đáng lo ngại. Hiện nay, các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đang được triển khai với phạm vi và mức độ sử dụng cao, song tỷ lệ nạo phá thai và tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh chứng tỏ khả năng sử dụng các biện pháp tránh thai vẫn còn hạn chế và khả năng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ còn yếu kém. Về phía các nhà tài trợ, mức viện trợ cho các lĩnh vực xã hội nói chung vẫn tăng thường xuyên. Tuy nhiên mức chi tiêu cho các DVXHCB vẫn tăng chậm so với yêu cầu. Khoảng 50% nguồn vốn ODA dành cho các DVXHCB được chi cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bao gồm an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, sức khỏe sinh sản. Giáo dục tiểu học chiếm 30% nguồn vốn ODA dành cho các DVXHCB thông qua một số chương trình khôi phục trường học và nâng cấp trang thiết bị, cũng như nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận với giáo dục cho tất cả trẻ em. 1.4.2-Giải ngân ODA theo loại hình viện trợ Nguồn vốn ODA cung cấp cho Việt Nam trong những năm qua luôn tồn tại dưới hai hình thức là viện trợ không hoàn lại và cho vay ưu đãi. Kể từ năm 1993 đến 1999, tỷ lệ giữa hai loại hình viện trợ này đã có những thay đổi, thể hiện qua biểu đồ dưới đây. Biểu đồ 4: Giải ngân ODA theo loại hình viện trợ Triệu USD 1400 1200 1000 800 600 400 200 0 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Viện trợ không hoàn lại Cho vay (Nguồn: Điều tra của UNDP) Xu hướng giải ngân nguồn vốn ODA theo các điều kiện tài chính trong những năm qua là tăng ODA cho vay và giảm ODA viện trợ không hoàn lại. Năm 1993, các nhà tài trợ cung cấp cho Việt Nam chủ yếu dưới dạng viện trợ không hoàn lại, ODA cho vay chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhưng năm 1999, tỷ lệ giữa ODA vốn vay và ODA viện trợ không hoàn lại đã rất lớn. Vì vậy, nếu không sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này thì ODA sẽ trở thành gánh nặng nợ nần mà thế hệ sau phải gánh chịu. 1.4.3-Giải ngân ODA của một số nhà tài trợ chủ yếu Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác phát triển với hầu hết các nhà tài trợ song phương và đa phương trên thế giới. Trong số này, thời gian qua, nổi trội ba tài trợ thường chiếm trên 70% tổng số cam kết ODA là Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển Châu á và Ngân hàng thế giới. *)Nhật Bản Tỷ lệ giải ngân ODA Nhật Bản giai đoạn 1993-1999 là 23,01% không cao so với các nguồn ODA khác. Ba năm 1994-1996 tỷ lệ giải ngân thấp do nhiều đề xuất không được Chính phủ Nhật Bản chấp thuận, tốc độ giải ngân các dự án đã ký rất chậm. Nhìn tổng thể thời gian qua, hình thức viện trợ không hoàn lại chung và hỗ trợ kỹ thuật có chất lượng tương đối cao, giải ngân khá tốt. Do nguyên tắc của Chính phủ Nhật Bản là "viện trợ theo chương trình" chứ không phải theo "lượng tiền rót vào". Cũng chính do nguyên nhân này, các dự án thường có giá thành cao hơn mặt bằng chung ở Việt Nam, gây khó khăn cho khâu xét duyệt dự án. Một số dự án còn bị thay đổi nội dung sau khi đã ký Công hàm trao đổi (E/N). Điều này làm cản trở tiến độ giải ngân ODA. Vốn vay là hình thức tài trợ có tỷ lệ giải ngân thấp nhất. Thời gian đầu, tình hình giải ngân ODA vốn vay rất thấp, năm 1994 chỉ đạt xấp xỉ 2,3% lượng vốn cam kết. Có rất nhiều nguên nhân làm cho việc giải ngân vốn vay kém, nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là công tác chuẩn bị chưa tốt, không đáp ứng được yêu cầu của phía Nhật Bản. Trong những năm gần đây, công tác giải ngân vốn vay được cải thiện rất nhiều. Năm 1999, tỷ lệ giải ngân đạt cao nhất là 13,9%. Vốn vay được tập trung vào hai lĩnh vực: năng lượng và giao thông. Tuy tỷ lệ giải ngân của vốn vay rất thấp so với các hình thức tài trợ khác của Chính phủ Nhật Bản nhưng cũng có những dự án làm tốt công tác này. Điển hình là nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2 bắt đầu tổ chức đấu thầu tháng 11-1996 và hoàn thành vào đầu năm 2001. Tổng số vốn đầu tư là 653,33 triệu USD (trong đó vốn vay của Nhật Bản là 590,03 triệu USD). Tính đến hết năm 1999 đã giải ngân được 386,91 triệu USD. Riêng trong năm 1999, lượng vốn giải ngân là 253,38 triệu USD và năm 2000 giải ngân được 172,1 triệu USD. Tốc độ giải ngân một số dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải khá tốt. Như dự án xây dựng 42 cầu trên Quốc lộ 1 giai đoạn 1 có thời gian thực hiện là 5 năm thì đến hết năm 1999 đã giải ngân được trên 70% và đã đưa vào sử dụng trong năm 2000. Dự án Quốc lộ 18 đoạn Chí Linh- Bãi Cháy có thời gian thực hiện là 3 năm, trong 2 năm 1998-1999 đã giải ngân được 456,9 tỷ đồng, bằng 60% tổng giá trị dự án. Dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đúng tiến độ trong năm 2000. Vốn đối ứng trong nước chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, tuy nhiên là điều kiện bắt buộc trong đa số các dự án thuộc lĩnh vực giao thông. Bởi vì theo quan điểm của Chính phủ Nhật Bản thì việc bỏ tiền ra sẽ nâng cao chất lượng của công trình. Đây chính là thiện chí của phía Nhật Bản. Ngoài ra, còn cho phép Việt Nam chọn hình thức góp vốn thuận lợi nhấ._. công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ. Giải quyết vấn đề bức xúc về việc làm, cơ bản xoá đói và giảm mạnh số hộ nghèo, ổn định và cải thiện vững chắc đời sống của nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tạo các tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Những mục tiêu tổng quát này được cụ thể hoá trong kế hoạch 5 năm như sau: -Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm tối thiểu 7%, tích cực tạo điều kiện thực hiện mức tăng trưởng cao hơn và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo. -Phát triển mạnh kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. -Tăng nhanh vốn đầu tư phát triển kinh tế -xã hội, xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn thiện một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng. Đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm, hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn. -Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương. -Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính- tiền tệ, tăng tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hiện triệt để tiết kiệm. Tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho đầu tư phát triển, duy trì ổn định các cân đối vĩ mô. Phát triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội. -Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục- đào tạo, khoa học và công nghệ. Tập trung vào: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý, triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở, ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại, chuẩn bị các bước đi cần thiết để tiếp cận dần nền kinh tế tri thức. -Giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc: tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn; cải cách cơ bản chế độ tiền lương; xoá đói, giảm nghèo; chống tệ nạn xã hội. ổn định vững chắc và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. -Đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao nhiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng. Thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở phường, xã và các đơn vị cơ sở. -Thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế- xã hội. 2-Chủ trương của Nhà nước Việt Nam đối với việc thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA. Trong khuôn khổ đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn ODA vận động và đi vào thực hiện có vai trò quan trọng. Chủ trương của Việt Nam tiếp tục tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức song phương và đa phương. Đặc biệt phải nâng cao tốc độ giải ngân nguồn vốn này. Nguồn vốn ODA tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần tín dụng đầu tư cho các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển. Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả bằng cách tăng cường khả năng giải ngân và kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí tiêu cực. Thực hiện chủ trương thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA nói trên, những phương hướng ưu tiên sử dụng nguồn lực này là: -Phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó lấy chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo bao gồm cả công tác định canh định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc gặp khó khăn làm trọng tâm với các mục tiêu là giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống 7% năm 2005, bình quân mỗi năm giảm 3 vạn hộ nghèo. -Các dự án ODA hướng vào nội dung hỗ trợ phát triển toàn diện nông thôn, giao thông, thủy lợi, cung cấp nước sinh hoạt, trồng và bảo vệ rừng, điện khí hoá, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, xây dựng các cảng cá với hệ thống thông tin liên lạc và phương tiện đánh bắt đủ đảm bảo an toàn cho ngư dân, cải tạo và xây dựng mới trường học, bệnh viện. Phát triển tín dụng nông thôn dưới nhiều hình thức khác nhau sẽ được coi trọng nhằm tạo vốn cho người nông dân phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập. -OAD hỗ trợ các chương trình quốc gia dân sinh xã hội, trong đó: +Chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình làm giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,6%, nhịp độ tăng dân số năm 2005 dưới 1,6%. +Chương trình thanh toán bệnh xã hội với mục tiêu năm 2005 thanh toán triệt để bệnh phong trong cả nước, thanh toán các bệnh bại liệt, uốn ván sơ sinh, sởi, bạch hầu, ho gà, khống chế viêm gan B, viêm não Nhật Bản, tả, thương hàn. +Chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn với mục tiêu năm 2005 đảm bảo 95% dân số được dùng nước sạch, 85% dân số có hố xí hợp vệ sinh, giúp nông dân tái tạo phân bón hữu cơ và xử lý chất thải. +Chương trình giải quyết việc làm với mục tiêu hàng năm giải quyết việc làm cho 1,3 đến 1,35 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố xuống 3%, nâng quỹ sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005. -Cải tạo, nâng cấp và tăng cường trang thiết bị cho các bệnh viện tỉnh, thành phố. Tăng cường năng lực cho hệ thống y tế xã, huyện, xây dựng một số xí nghiệp dược, tăng cường năng lực kiểm soát sử dụng thuốc. -Phát triển giáo dục và đào tạo, vừa tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác dạy và học, vừa nâng cao trình độ giáo viên các cấp. Chú trọng và hoàn thiện, phát triển mạng lưới các trường dạy nghề. Trong khi cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học trong nước đang trong quá trình chuẩn bị, phải dành một phần ODA để gửi sinh viên ra nước ngoài học tập. -Tiếp tục phát triển hệ thống cấp nước ở một số thành phố, thi xã hiện chưa có dự án. Phát triển hệ thống thoát nước, xử lý rác thải ở một số thành phố, thị xã đông dân, môi trường đang bị ô nhiễm nặng. -sử dụng hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA, kết hợp với các nguồn vốn khác như đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn đầu tư trong nước để tiếp tục phát triển các nguồn điện, hệ thống đường dây tải điện và các trạm biến thế phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt trong tương lai. Hỗ trợ phát triển giao thông vận tải, giành nguồn ODA thích đáng phát triển các đường nhánh, đường xương cá nối với các đường quốc lộ, đảm bảo giao thông thông suốt đến các vùng dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa. -Sử dụng ODA hợp lý kết hợp với các nguồn vốn khác (đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn đầu tư trong nước) để cải tạo, nâng cấp và xây mới một số cảng biển, sân bay phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. -Đối với thông tin liên lạc, ưu tiên sử dụng ODA để phát triển viễn thông nông thôn. -Dành một phần ODA vào việc hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng (đường, hệ thống cấp, thoát nước; thông tin liên lạc; nhà ở dân cư...) xung quanh các khu công nghiệp, nhất là các tỉnh có nhiều khó khăn, thu nhập thấp. Sử dụng ODA để thực hiện nghiên cứu cơ bản (tổng quan, quy hoạch, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi), chuyển giao công nghệ, phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan nghiên cứu và quản lý. -Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho các công trình công nghiệp nhằm tạo nguồn vốn thực hiện các biện pháp cải cách doanh nghiệp, đầu tư theo chiều sâu, tăng cường và đổi mới trang thiết bị, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Việt Nam chủ trương trong quá trình phát triển, nguồn lực trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng và nguồn vốn ODA đến được tay người dân và cộng đồng mới thực sự trở thành chất xúc tác cho quá trình phát triển nhanh và bền vững. 3-Yêu cầu đặt ra đối với việc thu hút và giải ngân ODA của Việt Nam thời gian tới. Trong những năm qua, về cơ bản chúng ta đã tạo được những điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách kinh tế. 5 năm tới sẽ bắt đầu thời kỳ cải cách kinh tế chiến lược 10 năm (2000-2010) với những yêu cầu thực hiện toàn diện hơn, sâu và mạnh hơn, Đi vào những vấn đề mới khó khăn và phức tạp hơn so với giai đoạn trước. Thêm vào đó là những đòi hỏi về vốn và công nghệ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần khoảng 9 tỷ USD vốn ODA để cân đối cho đầu tư phát triển. Do đó, nhiệm vụ đặt ra là trong 5 năm 2001-2005 phải thu hút được 13 tỷ USD và đưa vào giải ngân 10 tỷ USD. Trong 5 năm tới, nhu cầu về vốn ODA là rất lớn. Tuy nhiên, lượng vốn ODA thu hút có thể sẽ tăng không đáng kể. Vì vậy, cần thực hiện triệt để các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA để tránh tình trạng lãng phí vốn trong khi nền kinh tế trong nước đang thiếu vốn cho phát triển. Khi nền kinh tế tăng trưởng, một số vấn đề xã hội như đói nghèo, bệnh tật, mù chữ... được đẩy lùi thì nguồn vốn ODA không hoàn lại chắc chắn sẽ giảm đi, lượng ODA vốn vay sẽ tăng lên. ODA vốn vay là món nợ của chính phủ. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng là yêu cầu cấp bách nhất, kết quả mới là thước đo đánh giá việc sử dụng ODA có hiệu quả hay không. Vì lý do đó, hơn bao giờ hết, việc sử dụng ODA cần có quy hoạch tổng thể, hợp lý, khảo sát nhu cầu vốn của từng ngành thật chính xác, dự án phải mang tính thiết thực, tránh để tình trạng công trình đã hoàn thành nhưng không được đưa vào sử dụng hoặc sử dụng với công suất thấp. ODA không hoàn lại cần tập trung cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Cơ hội và thách thức của nước ta trong việc thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA thời gian tới là rõ ràng. Cơ hội rất thuận lợi nhưng thách thức cũng rất lớn. Chúng ta phải tăng cường các biện pháp thúc đẩy giải ngân và sử dụng ODA để mang lại hiệu quả kinh tế chứ không phải để thế hệ con cháu còng lưng trả nợ. 4-Dự báo khả năng thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA giai đoạn 2001-2005 Tuy đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế xã hội trong những năm qua, Việt Nam hiện vẫn là một trong những nước nghèo của khu vực và thế giới. Đây là lợi thế của Việt Nam đối với việc thu hút nguồn vốn này, vì đối tượng cung cấp ODA của các nhà tài trợ là các nước nghèo, có mức thu nhập thấp. Thời gian qua, Việt Nam đã có những thành công lớn trong chính sách đối ngoại, vai trò của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Một trong những thành công đó là chúng ta đã thu hút được sự quan tâm của các nhà tài trợ quốc tế, thể hiện ở sự gia tăng về quy mô tài trợ và số lượng các nhà tài trợ đến với Việt Nam. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến khả năng thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA. Trong giai đoạn tới, chắc chắn quan hệ của Việt Nam với các nhà tài trợ song phương và đa phương sẽ tiếp tục được cải thiện. Dự báo trong 5 năm tới, Việt Nam có thể vận động các nhà tài trợ cung cấp khoảng 16 tỷ USD, khối lượng ODA cam kết sẽ tăng đều và ổn định hơn. Với bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện ODA trong những năm qua, chắc chắn chung ta sẽ cải thiện được tỷ lệ giải ngân. Nếu tỷ lệ giải ngân đạt 45% thì chúng ta sẽ có 7,5 tỷ USD vốn ODA cho giai đoạn 2001-2005, trung bình mỗi năm có 1,5 tỷ USD. Cơ cấu ODA trong thời gian tới sẽ thay đổi, viện trợ không hoàn lại sẽ giảm, tập trung chủ yếu vào hình thức ODA vốn vay. Dự kiến những năm tới, nguồn vốn này sẽ chiếm trên 85% tổng vốn ODA. Khối lượng vốn ODA này cũng ưu tiên cho lĩnh vực năng lượng và giao thông vận tải. ODA không hoàn lại sẽ tập trung vào các vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa để phát triển nông nghiệp nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Xét từ nhiều phương diện và trên cơ sở xem xét thực trạng giải ngân ODA ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể nhận xét rằng triển vọng giải ngân ODA trong thời gian tới sẽ có bước cải thiện vì nó xuất phát từ lợi ích của bản thân quốc gia và chúng ta đang có những biện pháp từng bước tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến vấn đề này. II-Những biện pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân ở Việt Nam Giai đoạn 2001-2005 Xung quanh vấn đề về tốc độ giải ngân đối với các dự án sử dụng vốn ODA có nhiều ý kiến khá trái ngược nhau. Theo đánh giá của các chuyên gia WB thì tốc độ giải ngân vốn ODA như vậy là chậm, do đó chương trình viện trợ của WB dành cho Việt Nam từ 500 triệu USD năm 1996 xuống còn 431 triệu USD năm 1999. Có thể thấy chương trình viện trợ của WB đang có xu hướng thu hẹp lại. Trong năm 2000, WB dự báo tình hình giải ngân sẽ không có nhiều cải thiện so với những năm qua. Trái ngược với quan điểm của WB, đại diện của Ngân hàng hợp tác và đầu tư Nhật Bản lại tỏ ra lạc quan về tốc độ giải ngân ODA và dự tính rằng trong năm 2000, mức giải ngân các khoản cam kết của Nhật Bản cho Việt Nam sẽ đạt 700 triệu USD, gấp ba lần năm 1999. Tuy nhiên xét từ khía cạnh người sử dụng vốn ODA, cụ thể là trong các chương trình, dự án ở Việt Nam thì phải thừa nhận rằng tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA trong những năm qua là rất chậm. Sự chậm trễ này không chỉ do phía Việt Nam gây ra mà còn ở cả phía các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận nguồn vốn ODA của 45 nhà tài trợ khác nhau, trong khi môi trường pháp lý của nước ta chưa đồng bộ, năng lực cán bộ còn hạn chế mà phải tiếp nhận 45 quy định khác nhau về quy trình thủ tục giải ngân, tỷ lệ vốn đối ứng... của các nhà tài trợ thì việc chậm trễ tốc độ giải ngân tại một số dự án là không thể tránh khỏi. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong những năm tới cần phải tiến hành những giải pháp mang tính toàn diện sau: 1-Đồng bộ hoá khung pháp lý của Việt Nam cho việc thực hiện ODA Sự thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ trong nội dung của một số văn bản pháp lý liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA là nguyên nhân chính gây trở ngại trong quá trình thực hiện các dự án và hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này. Những quy định trong việc đấu thầu, xét thầu đang gây ra những trở ngại không nhỏ cho qúa trình thực hiện dự án. Về vấn đề đồng bộ khung pháp lý liên quan đến nguồn vốn ODA còn phải kể đến Nghị định 22/CP về đền bù, giải phóng mặt bằng. Đây là văn bản có 7 nội dung cần sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng là một trong những khâu phức tạp trong quá trình triển khai các dự án ODA ở các lĩnh vực khác nhau. Trong khi đó, Nghị định 22 quy định đền bù chưa được cụ thể, chưa thống nhất với các văn bản về thu tiền sử dụng đất dẫn đến các cách hiểu khác nhau giữa các dự án. Thêm vào đó công tác quản lý đất đai giữa các địa phương chưa đồng bộ khiến chính quyền địa phương lúng túng trong việc lập đền bù, gây khó khăn cho việc triển khai giải phóng mặt bằng của các dự án. Thực tế đòi hỏi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cùng các ban ngành chức năng cần có những cuộc tiếp xúc, trao đổi với các nhà tài trợ và thông qua Hội nghị những nhà tài trợ cho Việt Nam hàng năm để xúc tiến qúa trình làm hài hoà thủ tục liên quan đến ODA ở cả hai phía. Sự hài hoà trong các thủ tục của cả hai phía có thể khắc phục sự chậm chễ trong tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA một cách tích cực. Các nhà tài trợ chỉ nên thống nhất với Chính phủ về các quy định có tính chung nhất, các chi tiết cụ thể nên giao quyền cho các địa phương thống nhất để phù hợp với các đặc thù của họ, hạn chế được những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án sau này. Việc bổ sung, sửa đổi khung pháp lý cần sự phối hợp giữa Ban quản lý dự án tại các địa phương, các tỉnh có dự án khi đưa ra những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án để các cơ quan chức năng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại phục vụ công tác giải ngân... có thể tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy một cách đồng bộ, toàn diện. 2-Về chính sách thuế Theo đánh giá của các dự án sử dụng vốn ODA, vướng mắc lớn nhất trong khâu giải ngân ODA là thủ tục của phía Việt Nam, trong đó thủ tục hải quan, đặc biệt là chính sách thuế đang được xem là khâu cần phải chấn chỉnh ngay để thúc đẩy được tốc độ giải ngân ODA trong thời gian tới. trên thực tế, chỉ trừ những dự án ODA ở dạng viện trợ không hoàn lại mới được miễn thuế hàng hóa ( bao gồm cả thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng), còn các dự án vay lại từ phía Chính phủ thì tiền thuế cho các hàng hoá thuộc dự án đều được giải ngân từ nguồn vốn đối ứng, lấy từ ngân sách Nhà nước. Do đó, việc đánh thuế hàng hoá các dự án sử dụng vốn ODA thực chất là "lấy từ túi này bỏ sang túi kia" của Nhà nước. Trong khi đó, Bộ Tài chính cho rằng việc đánh thuế là nguyên tắc của một nền kinh tế hoàn hảo, vì thế chưa thể xếp các dự án ODA là một ngoại lệ. Do đó một giải pháp cần làm trước mắt là áp dụng hình thức ghi thu- ghi chi trong việc đánh thuế hàng hoá nhập khẩu phục vụ các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, tiến tới đề nghị Bộ Tài chính miễn thuế nhập khẩu, VAT đối với các hàng hoá nhập khẩu của dự án. 3-Rút ngắn thời gian phê duyệt và thẩm định dự án -Hiện nay, quy định về trình tự và thủ tục xét duyệt dự án của phía Việt Nam và phía nước ngoài còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường kéo dài. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA trong thời gian qua chậm. Hơn nữa, thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước còn chậm đổi mới, thiếu triệt để nên còn tình trạng chậm trễ ở mỗi khâu, đặc biệt là các khâu: thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mục sử dụng vốn dư sau đấu thầu. Do vậy, đòi hỏi phải đổi mới công tác thẩm định và phê duyệt dự án sao cho rút ngắn được thời gian mà vẫn đảm bảo được chất lượng của việc thẩm định, góp phần thúc đẩy giải ngân. Cần tinh giảm thủ tục hành chính, có sự phân cấp thẩm định rõ ràng để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận này. Có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định, phê duyệt đối với từng loại dự án. Đồng thời, trong quá trình thẩm định nếu phát hiện những nội dung còn thiếu hay chưa phù hợp thì cơ quan thẩm định phải có trách nhiệm thông báo ngay cho người lập dự án để họ có biện pháp điều chỉnh kịp thời. 4-Cải tiến công tác đấu thầu, xét thầu Qua thực tế triển khai, các quan chức Chính phủ, các nhà tài trợ cũng như các ban quản lý dự án (QLDA) đều cho rằng cần phải chỉnh sửa các văn bản đó vì giữa chúng có sự thiếu đồng bộ, chưa sát thực tế và chưa hài hoà với quy trình thủ tục của bên tài trợ. Riêng với Quy chế Đấu thầu 88/CP và Quy chế quản lý Đầu tư 52/CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các ban quản lý dự án và các nhà tài trợ đều thừa nhận rằng có sự thiếu nhất quán trong hai quy định này, chẳng hạn như quy định mang tính nguyên tắc về lựa chọn nhà thầu chưa phù hợp với đặc thù của từng dự án, các nội dung về quản lý đấu thầu và chỉ định thầu còn nhiều điểm chưa đồng nhất khiến việc thực hiện dự án gặp phải những vướng mắc không đáng có, những quy định về năng lực cửa các nhà thầu chưa sát thực tế gây khó khăn cho các nhà thầu trong nước khi muốn đấu thầu. Do đó, sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Nghị định 52/CP và Nghị định 88/CP sẽ tạo điều kiện cho cả nhà đầu tư trong và ngoài. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ sửa đổi quy định đối với những dự án có giá trị dưới 1 tỷ đồng và các gói thầu tư vấn dưới 500 triệu đồng được áp dụng hình thức chỉ định thầu, sự thay đổi này cũng tạo ra sự thông thoáng hơn trong các văn bản pháp quy về quy chế đấu thầu của Việt Nam. 5-Chính sách và công tác đền bù, giải phóng mặt bằng Dưới đây là một số nội dung chủ yếu cần sớm được sửa đổi, bổ sung: (1) Cần làm rõ hơn những điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất, nhất là các trường hợp đất sử dụng ổn định trước ngày 8/1/1998. Cần có quy định rõ thời điểm sử dụng đất để đảm bảo không vi phạm quy hoạch của cấp có thẩm quyền phê duyệt và đã công bố hoặc không vi phạm hành lang bảo vệ công trình. Không lấn chiếm đất trái pháp luật. Đồng thời có quy định rõ ràng về thời điểm xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn cho người sử dụng đất có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những quy định này sẽ theo hướng thừa nhận thực tế sử dụng đất qua các giai đoạn khác nhau: cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo nông nghiệp... (2) Có quy định cụ thể về mức đất ở được đền bù thiệt hại. Đây là vấn đề hệ trọng và có nhiều ý kiến khác nhau, còn nhiều khiếu kiện từ nhân dân, còn nhiều ý kiến từ chính quyền các cấp. (3) Đối với việc tính giá đất đền bù, nên bỏ hệ số k và thực hiện việc tính giá đất đền bù phù hợp với khả năng sinh lời hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương. Giá tính đất đền bù do UBND tỉnh quyết định để đảm bảo vai trò đại diện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Tuy nhiên, cần cho phép UBND tỉnh dựa trên quy định của Chính phủ về giá đất khi quy định đó đã phù hợp với khả năng sinh lợi hoặc giá chuyển nhượng thực tế của đất đai để làm giá đất tính đền bù thiệt hại ở địa phương để giảm công việc cho địa phương. (4) Đối với việc đền bù thiệt hại về tài sản, cần có quy định thống nhất với Nghị định 22/1998/NĐ-CP. Đó là đền bù 100% giá xây dựng đối với nhà cấp bốn vì loại nhà này chủ yếu là của các đối tượng nghèo nên cần được ưu tiên để họ có thể tái tạo lại ngôi nhà mới với tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương. Đồng thời, phải có quy định rõ về việc đền bù theo mức thiệt hại thực tế cho nhà từ cấp ba trở lên để đảm bảo cho mức đền bù phù hợp với những thiệt hại mà người có đất bị thu hồi. (5) Cần đưa một số nội dung cơ bản của chính sách tái định cư vào Nghị định bao gồm các quy định đã có của Nghị định 22/1998/NĐ-CP và bổ sung thêm những quy định về: Quyền và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải di chuyển đến nơi ở mới; Điều kiện bắt buộc về cơ sơ hạ tầng, nhất là trường học và cơ sở khám chữa bệnh tại khu tái định cư và các công trình phúc lợi khác phục vụ đời sống nhân dân; Công khai phương án bố trí đất ở, nhà ở tại nơi tái định cư nhằm phát huy tinh thần dân chủ tại cơ sở và tránh sự áp đặt từ phía Nhà nước; Đề ra nguyên tắc bố trí nhà ở tại nơi tái định cư đối với nhà nhiều tầng, nhiều căn hộ để làm căn cứ thực hiện. (6)Cần bổ sung một số nội dung cụ thể về hội đồng đền bù và hội đồng thẩm định nhằm xử lý những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể như sau: -Nâng cao vai trò của chủ dự án trong việc lập, trình duyệt và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. Đối với dự án phải thành lập hội đồng đền bù thiệt hại, giải phóng mặt bằng cấp tỉnh thì lãnh đạo sở chủ quản của dự án phải là phó chủ tịch thường trực để trực tiếp chỉ đạo chủ dự án trong việc lập và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng. -Bổ sung những quy định cụ thể về nguyên tắc làm việc của hội đồng cũng như trách nhiệm của một số thành viên trong hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng như chủ tịch hội đồng, chủ dự án, đại diện của những người bị thu hồi đất. -Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng. -Có quy định cụ thể về nội dung thẩm định cũng như trách nhiệm của hội đồng thẩm định cấp tỉnh trong việc đảm bảo thời gian thẩm định nhằm đẩy nhanh tiến độ trình duyệt và thực hiện phương án đền bù cũng như trách nhiệm cụ thể của từng thành viên hội đồng. 6-Chuẩn bị tốt vốn đối ứng Vốn đối ứng là một phần tài chính quan trọng và nhiều khi là điều kiện cung cấp vốn ODA của các nhà tài trợ. Vốn đối ứng có thể hiểu là phần đóng góp tài chính của phía Việt Nam trong các dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Nhìn chung, các nhà tài trợ không bao giờ cung cấp toàn bộ số vốn cho các chương trình, dự án. Tuy nhiên, việc quy định lượng vốn đối ứng và tiến trình giải ngân không cố định một cách cứng nhắc mà tuỳ thuộc vào công tác đàm phán giữa hai bên. Chuẩn bị tốt vốn đối ứng là một khâu quan trọng trong tiến trình thúc đẩy tốc độ giải ngân. Các nhà tài trợ bao giờ cũng đòi hỏi một khoản vốn đối ứng của phía Việt Nam nhằm bảo đảm tính hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA mà họ cung cấp. Điều này gây khó khăn cho việc giải ngân, nhưng lợi ích mà nó mang lại là rất lớn và về lâu dài, thể hiện thiên chí của các nhà tài trợ dành cho Việt Nam. Hiện nay, ngoài các dự án nhóm A được Chính phủ quan tâm giải quyết, địa phương phải tự cân đối nguồn vốn đối ứng hàng năm. Điều này làm cho một số tỉnh, thành phố lúng túng bởi phần vốn được giao phải cân đối nằm ngoài khả năng của họ. Vì vậy, Chính phủ cần có sự chỉ đạo về hướng giải quyết cho các tỉnh, thành phố gặp khó khăn. Về phía địa phương, cần thành lập Quỹ phát triển và có kế hoạch chi tiết hàng năm về cấp và quản lý tốt nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA đã được phân cấp quản lý trực tiếp. 7-Thủ tục giải ngân cho các dự án Tiếp tục cải thiện thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA đã quy định trong Nghị định 87/CP sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay trình tự và thủ tục thanh toán còn rườm rà, tốn nhiều thời gian. Đã có một số nhà thầu yêu cầu chủ dự án thanh toán trả chậm, điều này sẽ gây khó khăn lớn cho chủ dự án và thiệt hại cho Nhà nước. Đối với một số dự án do phải chờ phê duyệt bổ sung giá trị hợp đồng nên một số khối lượng đã hoàn thành không được giải ngân gây khó khăn cho nhà thầu. Ban hành chế độ, chính sách đặc thù riêng về thủ tục và trình tự giải ngân để đặc biệt đối xử với một số dự án gặp nhiều khó khăn song vẫn phải đảm bảo tính công bằng và minh bạch. Hiện nay, các quy định về thủ tục và trình tự giải ngân vẫn mang tính chung chung, chưa lường trước được những khó khăn của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án. Rà soát lại các thủ tục tài chính trong nước, đặc biệt là thủ tục rút vốn nhằm cải tiến thủ tục rút vốn theo hướng giảm phiền hà trong quá trình này. Quy định về việc mở một tài khoản riêng phục vụ công tác lập đề cương và xây dựng báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi cho dự án, vì hiện nay nguồn kinh phí này hầu như không được cấp, ảnh hưởng rất nhiều đến tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. 8-Phát triển nguồn nhân lực cho các dự án ODA, xây dựng quy chuẩn, tiến tới chuyên nghiệp hoá các Ban QLDA Trong những năm tới đây, việc nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ dự án là một trong những việc cần làm ngay. Chúng ta có thể mời các chuyên gia trong và ngoài nước tới đào tạo, tập huấn công việc của dự án cho cán bộ dưới hình thức đào tạo ngắn ngày theo kiểu tập trung hoặc đào tạo ngay tại cơ sở làm việc đối với một số nghiệp vụ đặc thù của dự án. Về lâu dài, cần chuẩn hoá trình độ cán bộ thực hiện dự án phải có trình độ đại học trở lên và thông thạo ngoại ngữ để có thể hoàn thành nhanh chóng, chính xác các công việc của dự án. Song song với quá trình sửa đổi, bổ sung các quy định mang tính pháp quy trong lĩnh vực quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, việc xây dựng, chuẩn hoá các Ban QLDA sử dụng vốn ODA cũng cần phải được coi trọng. Để hoạt động hiệu quả, các Ban QLDA cần phải được trang bị những trang thiết bị văn phòng, phương tiện thông tin liên lạc cần thiết. Đối với những dự án có quy mô lớn, số lượng các dự án đơn vị nhiều thì cần duy trì một Ban QLDA trung ương có nhiệm vụ quản lý, giám sát hoạt động của các dự án thành viên. Ngoài ra Ban QLDA trung ương phải chịu trách nhiệm trước các cơ quan quản lý vốn ODA của Chính phủ về tiến độ triển khai thực hiện dự án cũng như những trách nhiệm liên đới khác. kết luận Qua hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ vô cùng to lớn của bạn bè trên thế giới, một trong những thiện chí đó là nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ đã dành cho Việt Nam. Vốn ODA thực hiện đã góp phần quan trọng vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trong đó một số dự án đã hoàn thành và phát huy tác dụng tích cực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các vấn đề xã hội được quan tâm hơn. Các ngành, địa phương được đáp ứng một phần nhu cầu vốn phục vụ đầu tư phát triển. Qua việc thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam được nâng cao trình độ và trưởng thành trông thấy. Bên cạnh những thành công, mức giải ngân thấp trong những năm qua luôn là một thách thức lớn và chưa được giải quyết tốt. Muốn sử dụng nguồn vốn này hiệu quả hơn, chúng ta cần tập trung giải quyết tồn tại này. Được sự tận tình giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Vũ Cương, cán bộ hướng dẫn Nguyễn Thanh Hương và các cô, các chú ở Văn phòng Thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi đã hoàn thành " luận văn tốt nghiệp " của mình với mong muốn sẽ góp phần vào việc đề ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do sự hiểu biết và năng lực còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của những ai quan tâm đến vấn đề giải ngân nguồn vốn ODA. danh mục tài liệu tham khảo Tình hình tổng quan về viện trợ phát triển chính thức tại Việt Nam, báo cáo của Chương trình Phát triển LHQ tại Việt Nam (UNDP) xuất bản năm 1999. Đánh giá viện trợ, Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới xuất bản năm 1999. Nguồn vốn ODA và các vùng kinh tế, Vụ Kinh tế đối ngoại- Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 2000. Các văn bản pháp luật : Nghị định 87/CP ban hành ngày 5-8-1997. Nghị định 22/1998/ NĐ-CP ban hành ngày 24-4-1998. Nghị định 88/1999/ NĐ-CP ban hành ngày 1-9-1999. Thông tư số 15-1997/ TT-BKH ban hành ngày 24-10-1997 Thông tư liên tịch số 81/1998/TTLT-BTC-NHNN ban hành ngày 17-6-1998. Tạp chí Tin kinh tế - xã hội các số 47,48/1999; 17,18,30,39/2000. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 2,10+11/2000. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 1/2000. Thời báo Tài chính Việt Nam số 33,134/2000. Tạp chí Kinh tế phát triển số 37,42/2000. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 9/2000. Tạp chí Con số và sự kiện số 1+2/2001. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6928.doc
Tài liệu liên quan