Giai cấp & vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Giai cấp & vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay: Mục lục Trang 1.Lời mở đầu 2 2.Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp 2 2.1.Về giai cấp 3 2.1.1.Khái niệm giai cấp 3 2.1.2.Đặc trưng của giai cấp 4 2.1.3.Nguồn gốc của giai cấp 6 2.1.4.Kết cấu của giai cấp 7 2.2.Về đấu tranh giai cấp 8 2.2.1.Khái niệm đấu tranh giai cấp 8 2.2.2.Vai trò của đấu tranh giai cấp 8 2.3.Mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc 9 2.3.1.Giai cấp tác động đến dân tộc 9 2.3.2.Dân tộc tác động đến giai cấp 10 2.4.Mối quan hệ giữa giai cấp và n... Ebook Giai cấp & vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giai cấp & vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân loại 10 3.Thực tiễn về vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay 12 3.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp, dân tộc và giải phóng dân tộc… 12 3.1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp 12 3.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc 12 3.1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc 13 3.2.Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay 14 3.2.1.Cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta hiện nay 14 3.2.2.Tình hình cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta 15 3.2.3.Nội dung cuộc đấu tranh giai cấp trong tình hình hiện nay 17 4.Đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội 19 4.1.Đấu tranh trên lĩnh vực kinh te 19 4.2.Đấu tranh trên lĩnh vực văn hoa 20 5..Kết luận 23 Lời mở đầu Lịch sử xã hội loài người đã chứng kiến sự ra đời của rất nhiều giai cấp khác nhau xuyên suốt mấy nghìn năm. Mỗi giai cấp là một sản phẩm của một chế độ kinh tế xã hội nhất định mà ở Việt Nam hiện nay thì giai cấp lãnh đạo đất nước đi lên chính là giai cấp công nhân.Câu hỏi được đặt ra là:”Tại sao lại là giai cấp công nhân?”,”Giai cấp từ đâu mà có?”,”Giai cấp là gì?”,”Tại sao lại sinh ra đấu tranh giai cấp?”,”Đấu tranh giai cấp để làm gì?”. Rồi nói đến chính đất nước Việt Nam ta,”Tại sao Bác lại khẳng định rằng giai cấp công nhân sẽ lãnh đạo đất nưôc,đưa nước ta thoát khỏi ách nô lệ của thực dân?”,”Thực trạng và giải pháp cho đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay?”,… Có thể nói, giai cấp và đấu tranh giai cấp là một mảng lớn trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như của rất nhiều nhà triết học nổi tiếng trong lịch sử bởi vì chúng luôn là những vấn đề nóng bỏng của mọi thời đại, luôn tồn tại song hành cùng sự phát triển của xã hội loài người.Hàng loạt câu hỏi sẽ được đặt ra khi chúng ta nghiên cứu về triết học, cụ thể là giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đề tài này sẽ giúp chúng ta hiểu được thêm bản chất của xã hội, những giai cấp đã và đang tồn tại trong xã hội, mở rộng thế giới quan, điều đó thực sự bổ ích và sẽ luôn giúp ích chúng ta trong quá trình học tập, nghiên cứu và nâng cao kiến thức,tích luỹ của bản thân. Từ đó giúp chúng ta hình thành tư duy phân tích lôgíc về tình hình xã hội xảy ra hiện nay và trong tương lai. Đó chính là lý do mà em chọn đề tài này, đề tài:”Giai cấp và vấn đề giai cấp ở Việt Nam hiện nay” Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp Quan điểm lý luận trước Mác về giai cấp Nhiều nhà triết học và xã hội học của giai cấp bóc lột đã không đưa ra được chuẩn mực khoa học để phân biệt sự khác nhau về giai cấp. Mà họ lại cho rằng sự khác nhau về giai cấp là do sự khác nhau về chủng tộc, màu da, về tài năng cá nhân,… Tất cả những cái đó đều là ngụy biện, giả tạo, che giấu bộ mặt của giai cấp thống trị bóc lột. Rồi thì cũng có nhiều nhà kinh tế học tư sản như: Chie, Ghiđô, Minhê,… của xã hội học tư sản hiện đại cũng đã phát kiến và luận giải về giai cấp nhưng xét đến cùng cũng chỉ là sự giải thích mơ hồ về giai cấp và lãng tránh các vấn đề cơ bản về giai cấp và quan hệ giai cấp. Công lao lớn nhất trong việc phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp lại thuộc về những nhà sử học tiến bộ người Pháp thời kỳ Phục Hưng:lịch sử xã hội phong kiến về sự hình thành xã hội tư bản là lịch sử cuộc đấu tranh thứ 3 chống quý tộc và tăng lữ,đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ quan hệ sở hữu tư bản. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp a) Về giai cấp: _ Khái niệm: Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” của Lênin đã định nghĩa giai cấp như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. Từ định nghĩa trên cho thấy, khi nói đến giai cấp là nói đến hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định do chế độ đó sản sinh ra, giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử. Để hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể, phải đặt nó trong hệ thống, trong mối quan hệ với giai cấp đối lập. Bản chất của giai cấp thể hiện ở sự khác nhau về địa vị giữa các tập đoàn người trong hệ thống kinh tế – xã hội nhất định. Sự tồn tại của giai cấp gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất vật chất xã hội, gắn liền với những phương thức sản xuất nhất định. Trong một hệ thống kinh tế – xã hội có giai cấp, nếu tập đoàn người này nắm địa vị thống trị thì tập đoàn người khác ở địa vị bị thống trị. Sự khác nhau về địa vị trong hệ thống kinh tế – xã hội là đặc trưng chung nhất của giai cấp. Làm thế nào để nhận biết một xã hội nào đó có sự phân hóa dân cư thành giai cấp hay không? Và một nhóm người nào đó thuộc giai cấp này hay giai cấp khác? Cần phải căn cứ vào các đặc trưng của hiện tượng dân cư bị phân hóa thành giai cấp. Căn cứ vào cấu trúc của quyền lực kinh tế và mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị ta có thể khái quát sự khác nhau giữa các giai cấp thành 4 đặc trưng cơ bản sau: _Các đặc trưng của giai cấp: * Giai cấp là tập đoàn người khác nhau trong quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất. Đây là sự khác nhau cơ bản nhất, sự chiếm hữu tư liệu sản xuất của giai cấp thống trị được pháp luật và nhà nước bảo vệ. Trong một xã hội mà có sự phân chia giai cấp thì tất cả các tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên thiên nhiên đều thuộc về quyền sở hữu của người này hay người khác. Chẳng hạn như chủ nô, địa chủ phong kiến (trong chế độ phong kiến), tư bản (trong chế độ tư bản chủ nghĩa) là những tập đoàn người giữ vị trí thống trị trong hệ thống kinh tế – xã hội mà họ làm đại biểu bởi vì họ nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội (phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng) để chi phối lao động của tập đoàn người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Còn những tập đoàn người này (nô lệ, nông nô, vô sản,…) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị. * Tập đoàn người khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất và quản lý lao động xã hội. Trong xã hội có phân chia giai cấp thì tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất của xã hội thì đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy, điều khiển quá trình sản xuất, lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế, trong đó có quyền sai khiến, tuyển dụng, sa thải lao động làm thuê bất cứ lúc nào. Ví dụ: Trong xã hội TBCN, nhà tư bản giữ toàn bộ chức năng quản lý công nghiệp và các ngành kinh tế khác, còn những người công nhân là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất thì luôn luôn phải chịu sự giám sát, điều khiển và chỉ huy tổ chức của giai cấp tư sản (hay các nhà tư bản). * Giai cấp là các tập đoàn người khác nhau trong quan hệ của họ đối với của cải được sản xuất ra. Trong xã hội mà có giai cấp thì giai cấp nào chiếm giữ toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội thì có quyền định đoạt tỷ lệ phân phối thu nhập. Chế độ phân phối sản phẩm trong các xã hội có giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất công vì nó đảm bảo cho giai cấp thống trị bóc lột sức lao động của người công nhân hay chiếm toàn bộ giá trị thặng dư do người công nhân tạo ra. Giai cấp này không trực tiếp lao động sản xuất ra của cải vật chất nhưng lại thâu tóm phần lớn của cải vật chất của xã hội, còn giai cấp lao động cực khổ chỉ nhận một phần ít của cải vật chất dưới hình thức này hay hình thức khác nhưng chỉ đủ để họ tái sản xuất ra sức lao động. Quay trở về với thời phong kiến, cuộc sống của người dân cũng chẳng có gì tốt đẹp hơn (mặc dù trình độ khai thác và bóc lột sức lao động của người lao động chưa cao và tinh vi bằng chế độ TBCN), phần lớn nông nô và nông dân làm ra sản phẩm đều phải nộp tô cho địa chủ, vua quan, thậm chí có trường hợp chiếm đến 80 – 90% sản phẩm mà họ làm ra. Bước sang chế độ TBCN với trình độ bóc lột tinh vi hơn, đại tư sản đã dùng nhiều biện pháp như sản xuất giá trị thặng dư tương đối, tuyệt đối với siêu ngạch để vắt kiệt sức của người công nhân. Khác với xã hội phong kiến, chiếm hữu nô lệ, trong xã hội TBCN, người lao động có quyền bán hay không bán sức lao động cho nhà tư bản, nhưng các nhà tư bản lại độc chiếm hết tư liệu sản xuất của xã hội nên không bán thì họ không thể sống. Nguyên nhân là sức lao động của con người tạo ra giá trị vô cùng lớn đối với nhà tư bản. Nếu sản xuất càng hiện đại, lao động làm thuê có trình độ khoa học ngày càng cao, tức càng tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Nhưng dù giá trị thặng dư do họ tạo ra nhiều đến đâu thì tiền lương mà nhà tư bản trả cho họ chỉ đủ để chi tiêu ở mức tối thiểu để có thể tái tạo sức lao động. Ngày nay, giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống cao hơn mức sống của những người lao động trước đây. Tuy nhiên sự nâng cao mức sống của công nhân không tương xứng với sự tăng lên nhanh chóng của năng suất lao động. Tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư vẫn không ngừng tăng lên. Trong xã hội có giai cấp thì mức sống của người lao động có thể thay đổi theo điều kiện hoàn cảnh nhưng phải hợp kết quả lao động của mình do giai cấp thống trị bóc lột dưới hình thức này hay hình thức khác. * Giai cấp là tập đoàn người khác nhau về quyền lực chính trị. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm quyền lực về kinh tế thì giai cấp ấy sẽ tiến hành tổ chức nhà nước, sử dụng nhà nước như một công cụ để thực hiện quyền lực chính trị nhằm bảo vệ cho lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. Chính vì vậy mà trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có một giai cấp đóng vai trò chuyên chính thống trị các giai cấp còn lại. Ví dụ: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đóng vai trò thống trị; trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ giữ vai trò thống trị và trong xã hội TBCN, giai cấp tư sản nắm quyền thống trị các giai cấp khác trong xã hội. Như vậy, chính sự khác biệt trên mà tập đoàn này chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, đây cũng là bản chất của quan hệ giai cấp đối kháng. Nói đến giai cấp, chúng ta không thể nói đến tập đoàn người riêng lẻ mà là một hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế – xã hội nhất định, do chế độ ấy sản sinh ra. _Nguồn gốc của giai cấp: Xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại giai cấp. Và Mác là người đầu tiên chứng minh rằng “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế. Thật vậy, điều đó đã được chứng minh qua các chế độ xã hội khác nhau. Chẳng hạn, trong chế độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động thô sơ bằng đá, gậy gộc, cung tên,… do vậy con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm thừa. Hơn nữa, lúc này cũng vì lợi ích mà họ sống cùng nhau, kiếm ăn cùng nhau để chống lại thiên tai, thú dữ,… họ sống giúp đỡ, bình đẳng với nhau, tương tựa vào nhau mà sống. Không những nguyên nhân trên mà trong thời kỳ công xã nguyên thủy vẫn chưa có giai cấp. Đến cuối xã hội nguyên thủy, công cụ kim loại ra đời làm cho năng suất lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số lượng lớn sản phẩm vượt nhu cầu tối thiểu để tồn tại, dẫn đến sản phẩm dư thừa. Lúc này họ nhận ra rằng làm ăn riêng thì có lợi hơn là làm ăn chung như trước kia, sản xuất cá thể của từng gia đình có hiệu quả hơn là sản xuất tập thể. Và thế là những người có chức có quyền trong thị tộc, bộ lạc đã nảy lòng tham chiếm toàn bộ công cụ sản xuất, chế độ tư hữu ra đời. Và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp hình thành giai cấp. Thật vậy, những người nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội sẽ nắm luôn tất cả các quyền lực về kinh tế, chính trị,… trong khi những người không có tư liệu sản xuất, muốn sống phải bán sức lao động cho những người kia và chấp nhận bị bóc lột sức lao động và bị chiếm đoạt toàn bộ giá trị thăng dư do họ làm ra và lúc này giai cấp xuất hiện. Đó là giai cấp chiếm toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội trở thành giai cấp thống trị, bóc lột, trong khi những người không có tư liệu sản xuất thì trở thành giai cấp bị áp bức, bóc lột. Nếu nhìn kỹ lại thì ta thấy nguyên nhân sâu xa của sự phân chia xã hội thành giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lớn về lao động xã hội. Còn nguyên nhân kinh tế trực tiếp phân chia xã hội thành giai cấp đó chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy mà Các Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp cũng như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của hệ thống giai cấp chính là nguyên nhân kinh tế chứ không phải là nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. _Kết cấu của giai cấp Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay đều luôn tồn tại hai giai cấp cơ bản đối kháng gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội đó. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ; địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến; tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp của mỗi chế độ kinh tế – xã hội vừa là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội vừa là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Trong đó, giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế, xã hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản đó, thì mỗi kết cấu giai cấp xã hội còn có giai cấp không cơ bản (ví dụ là tập đoàn giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ hay là tập đoàn giai cấp là mầm móng của phương thức sản xuất tương lai, những tập đoàngiai cấp này chỉ là mầm móng hay là mầm móng tương lai của phương thức sản xuất đang tồn tại, chứ không phải là giai cấp cơ bản. b)Về đấu tranh giai cấp: _Khái niệm Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là quan hệ trái ngược nhau về địa vị, lợi ích cả kinh tế lẫn tinh thần. Quan hệ đó dẫn đến mâu thuẩn giữa thống trị và bị trị; giữa áp bức và bị áp bức; giữa bóc lột và bị bóc lột. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động của họ mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội, tinh thần. Vì có áp bức giai cấp nên tất yếu có đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy mà Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp là: “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản. _Vai trò *Đấu tranh giai cấp luôn dẫn đến đỉnh cao là CMXH, xóa bỏ QHSX cũ, CSKT cũ, KTTT cũ, thiết lập QHSX mới và dẫn đến sự thay đổi PTSX, thay đổi mọi mặt của xã hội. *Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời góp phần cả cải tạo bản thân giai cấp cách mạng. *Đấu tranh giai cấp vô sản nhằm thủ tiêu chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về TLSX chủ yếu. *Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Trước khi giành chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính tri. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. *Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của lịch sử tùy thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của các cuộc đấu tranh. Những cuộc đấu tranh mang tính chất quần chúng rộng lớn do lực lượng xã hội tiến bộ lãnh đạo được tổ chức khoa học có tác dụng đặc biệt to lớn trong việc đánh đổ sự thống trị của giai cấp phản động, thúc đẩy xã hội phát triển. _Mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ khăng khít hữu cơ với nhau nhưng có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế nhau. Giai cấp nào có lợi ích gắn với PTSX thống trị sẽ trở thành lực lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc. Giai cấp và dân tộc sinh ra mất đi không đồng thời, giai cấp có trước dân tộc nhưng khi giai cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại. *Giai cấp tác động đến dân tộc: _ Quan hệ giai cấp với tư cách là sản phẩm trực tiếp của PTSX trong xã hội có giai cấp, là nhân tố có vai trò quyết định sự hình thành và xu hướng phát triển của dân tộc, quy định tính chất của mối quan hệ dân tộc _ Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản sâu xa của áp bức dân tộc, do vậy nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong giải phóng dân tộc. *Dân tộc tác động đến giai cấp: _ Áp bức dân tộc tác động trở lại áp bức giai cấp, nó nuôi dưỡng và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. _ Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ko chỉ diễn ra theo một chiều mà còn có chiều ngược lại. _ Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về bản chất mang tính quốc tế, đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng người lao động. _ Trong các xã hội tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc thường không thống nhất với nhau, và được giải quyết trên lập trường giai cấp nhất định. _Quan hệ giai cấp và nhân loại Nhân loại một mặt phân chia thành các giai cấp, tầng lớp có vai trò xã hội, lợi ích khác nhau; mặt khác phân chia thành các cộng đồng xã hội, các tộc người có trình độ văn hóa khác nhau nhưng vẫn là một thể thống nhất. Tất cả các cá nhân, dân tộc, các giai cấp không tồn tại và phát triển tách rời sự tồn tại và phát triển của cả cộng đồng dân tộc. Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại, còn lợi ích của giai cấp phản động thì mâu thuẫn với lợi ích của dân tộc, nhân loại. Mục tiêu của cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo là xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, nhân dân làm chủ, bảo đảm lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và phục vụ con người…Những lợi ích ấy thống nhất với lợi ích của toàn nhân loại. -> Lợi ích của giai cấp vô sản về căn bản phù hợp với lợi ích của toàn nhân loại. THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp,dân tộc và giải phóng dân tộc: 1.1) Về giai cấp: Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,”Giai cấp vô sản”,”Đội quân vô sản”,”Giai cấp cần lao”,”Giai cấp công nhân” là những từ có cùng ý nghĩa. Vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam thuộc về giai cấp công nhân và Đảng của nó. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:”Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiền phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”. Khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam là một đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh. Quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là một. 1.2) Về dân tộc: Hồ Chí Minh luôn luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Vấn đề dân tộc-theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là vấn đề dân tộc thuộc địa.”Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài,giành độc lập dân tộc, xóa bỏ áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập”. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn cho các nước đang đấu tranh giành độc lập. Người xác định con đường cách mạng Việt là kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. 1.3) Về cách mạng giải phóng dân tộc: * Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản. Từ đầu những name 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là con đỉa 2 vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là ”một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. * Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng giai cấp công nhân lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải có đảng cách mệnh”,”Đảng có vững cách mệnh mới thành công”,”Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”-đó là chủ nghĩa Lênin. * Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông. Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung cả dân chứ không phải việc một hai người, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, trong đó “công-nông là người chủ cách mệnh”,”công-nông là gốc cách mệnh”. * Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà còn có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. * Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân. Ngay từ 1924, trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người,”Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương…phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng…”. Tháng 5-1941, Hội nghị trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định:”Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”. Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. 2. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay: 2.1) Cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta hiện nay: Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh nhân. Liên minh công nông trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị-xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội. Cơ cấu xã hội giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ, được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầng lớp xã hội. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công-nông-trí thức là lực lượng chính trị-xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội Đảng lần X đã nêu:”Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng giai cấp nông dân và giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam”. 2.2) Tình hình của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nước ta có đặc trưng là gắn liền và được tiến hành ngay sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân. Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Thật vậy, đất nước chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà thời kỳ quá độ là thời kỳ tồn tại đan xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ ở đây chính là giai cấp tư sản, mặc dù không còn giữ địa vị thống trị nhưng cơ sở kinh tế – xã hội của nó vẫn còn; cái mới chính là giai cấp công nhân dù đã giành được chính quyền nhưng khả năng, cơ sở kinh tế vẫn chưa vững chắc để đảm bảo cho chính quyền đang có, nền chuyên chính vô sản đang được thiết lập. Cho nên, vẫn còn phải đấu tranh, đấu tranh để xóa bỏ tận gốc tàn dư của cái cũ đang kìm hãm sự phát triển của cái mới. Hơn nữa, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đang phát triển thành hệ thống quốc tế, chúng liên minh tối đa để bóc lột giai cấp vô sản và do đó, giai cấp vô sản đấu tranh từng giờ từng phút từng giây. Mục tiêu của họ không chỉ là giành lại lợi ích riêng tư, giải phóng cho mình mà giành chính quyền để nhân dân lao động làm chủ, xóa bỏ tận gốc, triệt để người bóc lột người. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay mà nhất là xu hướng toàn cầu hóa ngày càng cao đã đặt nước ta trước nhiều nguy cơ và thử thách. Dĩ nhiên cũng tạo cho ta nhiều cơ hội hòa nhập dễ dàng hơn vào thị trường thế giới. Và Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1999) của Đảng xác định 4 nguy cơ đến nay vẫn tồn tại và có nhiều diễn biến hơn, đó là: tụt hậu về kinh tế, diễn biến hòa bình, nguy cơ chệch hướng XHCN và nguy cơ nạn tham nhũng. Để giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN đưa đất nước thoát ra khỏi những nguy cơ trên thì các giai cấp, tầng lớp xã hội phải hợp tác, đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng như đã từng hợp tác, đoàn kết trong thời kỳ giành độc lập dân tộc. Đấu tranh giai cấp diễn ra trong những điều kiện mới như sau: + Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH chứ chưa thật sự trên con đường xã hội chủ nghĩa. + Chủ nghĩa tư bản đang phát triển rất mạnh trên thế giới. + Xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày càng gia tăng. Mối quan hệ của các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. 2.3) Nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kì hiện nay: Thứ nhất, Nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH là cuộc đấu tranh giữa hai con đường TBCN và XHCN. Đúng vậy, chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Thực tế tiềm ẩn nhiều khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, có khuynh hướng phát triển tự phát lên CNTB và cả khuynh hướng tự giác theo định hướng XHCN. Theo đó, khuynh hướng tự phát lên CNTB được các thế lực thù địch chống đối độc lập dân tộc và CNXH lợi dụng, khuyến khích, ủng hộ tiếp tay dưới nhiều hình thức (chúng đã dùng chiến lược diễn biến hòa bình để làm điều đó). Nó biểu hiện một cách tinh vi và phức tạp với nhiều mức độ khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… Do đó, đấu tranh giai cấp hiện nay chính là cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tự phát lên CNTB. Cuộc đấu tranh này vô cùng gay go, phức tạpvà gian nan. Chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN mà cuộc đấu tranh này lại càng khó khăn hơn. Vì vừa phải ngăn chặn khuynh hướng tự phát lên CNTB nhưng phải giữ lại và phát triển các nhân tố kinh tế trung gian, quá độ thậm chí phải phát triển CNTB trong một “giới hạn” có lợi về kinh tế nhằm tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật để lên CNXH. Thà là xóa bỏ sự tồn tại của giai cấp tư sản (nhưng trong thực tế chúng ta chưa thể làm được điều này khi lực lượng sản xuất của chúng ta chưa phát triển đến mức cao), tức còn dễ hơn là việc phải tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng luôn trong trạng thái canh chừng, vẫn phát triển và duy trì nó nhưng không để cho nó giữ vai trò thống trị. Như vậy, nhìn ở góc độ khái quát, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ mới là đấu tranh giữa hai khuynh hướng vận động trái ngược nhau, đó là khuynh hướng vận động khách quan mang tính tự phát của các nhân tố tiền TBCN, TBCN và khuynh hướng khách quan mang tính tự giác của các nhân tố XHCN. Thứ hai, Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Những diễn biến hết sức phức tạp trên thế giới và trong nước thời gian qua cho thấy độc lập dân tộc chưa thực sự bền vững khi đất nước còn nghèo, chưa phát triển, định hướng XHCN không thể giữ vững khi đất nước chưa vượt khỏi tình trạng chậm phát triển. Vì vậy, chúng ta phải bằng mọi cách phát huy toàn bộ sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp xã hội hướng vào nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt khi mà sự chống đối từ bên trong của một số phần tử vẫn chưa chấm dứt và sự tiếp tay cho sự chống đối đó từ bên ngoài vẫn còn là một thực tế. Với cách hiểu vấn đề như vậy, giúp chúng ta nhận thức đúng nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rõ ràng, sự kém phát triển hay phát triển chậm là nguyên nhân đất nước bị phụ thuộc, mất độc lập, mất tự chủ và đứng bên ngoài quá trình toàn cầu hóa. Thua kém về kinh tế sẽ làm suy yếu về vị thế chính trị quốc tế và trong điều kiện như vậy sẽ khó giữ được ổn định chính trị trong nước. Do điểm xuất phát thấp lại bỏ qua chế độ TBCN nên các nhân tố tiền TBCN không hoàn toàn là những nhân tố tàn dư do xã hội cũ để lại. Vì thế cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai khuynh hướng không có nghĩa là loại bỏ tất cả các nhân tố của khuynh hướng TBCN khi bản thân nó chưa hết vai trò lịch sử nên nhà nước vô sản cần tạo điều kiện để các nhân tố ấy vận động trong khuôn khổ của pháp luật. ĐẤU TRANH TOÀN DIỆN TRÊN TẤT CẢ CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG Xà HỘI * Đấu tranh trong lĩnh vực kinh tế: Đảng ta đã khẳng định các thành phần kinh tế bình đẳng cùng phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10945.doc
Tài liệu liên quan