Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ nghĩa xã hội khoa học)

Tài liệu Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ nghĩa xã hội khoa học): ... Ebook Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ nghĩa xã hội khoa học)

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ nghĩa xã hội khoa học), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời , còn non trẻ nhưng đã sớm trở thành lực lượng chính trị -xã hội độc lập, thống nhất về tư tưởng và tổ chức ,do đó sớm dành được vị trí lãnh đạo trong phong trào đấu tranh cách mạng của toàn dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam có được vai trò như vậy là do họ đã có những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, ngoài ra, họ còn mang những đặc điểm riêng như giai cấp công nhân Việt Nam kế thừa được truyền thống yêu nước,sớm tổ chức ra chính đảng của mình,gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức , hình thành khối liên minh vững chắc giữa giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức: giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế và đã nhận được sự giúp đỡ mọi mặt của giai cấp công nhân quốc tế. Qua khảo nghiệm tất cả các phong trào yêu nước đã diễn ra vào cuối thế kỷ 19và đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam ,chúng ta có thể rút ra kết luận ;chỉ có đường lối cứu nước theo lập trường của giai cấp công nhân dướ sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam mới đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đến thành công. Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra đời ,nhất là tư khi có chính đảng của mình đã trở thành lực lượng chính trị tiên phong đi đầu trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc va xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong giai đoạn cách mạng hiện nay ,giai cấp công nhân đã và đang vươn lên để đáp ứng nhưng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới theo con đuờng xã hội chủ nghĩa, trước hết ,phải từng bước phát triển cả số lượng và chất lượng, khắc phục những hạn chế do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử để lại như kém phát triển về kinh tế, trình độ chưa cao về văn hoá, khoa học kỹ thuật, tác phong tập quán thói quen, tâm lý còn chịu ảnh hưởng khả nặng của người sản xuất nhỏ. Vì vậy mà nghiên cứu giai cấp công nhân là vấn đề cấp bách ,tìm hiểu đề tài này làm em phần nào hiểu rõ về giai cấp công nhân cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Ngày nay trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ giai cấp công nhân và nông dân không thể thực hiện được mục tiêu cách mạng của mình nếu không có đội ngũ trí thức và bản thân giai cấp công nhân và nông dân , không dần dần được trí thức hoá . Mặt khác , tầng lớp trí thức chỉ có thể có điều kiện phát huy khả năng của mình khi họ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nông dân đặc biệt là sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, đồng thời có đủ điều kiện vật chất để thực hiện ước mơ của mình. §Ó hoµn thµnh tèt ®Ò tµi nµy, em ®· nhËn ®­îc sù gióp ®ì tËn t×nh cña gi¸o viªn trùc tiÕp gi¶ng d¹y bé m«n chñ nghÜa x· héi khoa häc. Ngoµi ra, chóng em cßn sö dông mét sè tµi liÖu cã liªn quan ®Õn ®Ò tµi nµy ®­îc lÊy tõ s¸ch tham kh¶o vµ intenet. Chóng em xin ch©n thµnh c¶m ¬n. PhÇn I: Giai cÊp c«ng nh©n & giai cÊp c«ng nh©n ViÖt Nam Ch­¬ng I: Kh¸i niÖm vÒ giai cÊp c«ng nh©n 1.1.Sù ra ®êi, ph¸t triÓn vµ sø mÖnh lÞch sö cña giai cÊp c«ng nh©n nãi chung Quan điểm của Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân được phát triển qua những tác phẩm viết chung với C.Mác như: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”... cũng như trong nhiều tác phẩm viết riêng của mình như: “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”, “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, “Vấn đề nhà ở”, “Chống Đuyrinh”, “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, “ Góp phần phê phán Dự thảo Cương lĩnh năm 189l của Đảng Dân chủ xã hội”... Đặc biệt sau khi C.Mác qua đời, Ph.Ăngghen đã gánh vác những nhiệm vụ phức tạp, nặng nề cả về lý luận và thực tiễn trong việc cung cấp cho giai cấp công nhân lý luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới, nhất là qua việc sắp xếp, chỉnh lý bổ sung để xuất bản bộ “Tư bản” đồ sộ của C. Mác để lại, đồng thời tiếp tục chỉ đạo hoạt động của phong trào Công nhân quốc tế, đấu tranh kiên quyết chống lại mọi khuynh hướng cơ hội, cải lương dưới mọi hình thức xuất hiện trong phong trào công nhân. Ph.Ăngghen đã đóng góp quan trọng trong việc nhận thức đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ áp bức bức lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác trở thành vũ khí sắc bén, ngọn đuốc soi đường cho phong trào đấu tranh giai cấp công nhân giành thắng lợi, đưa phong trào công nhân từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp cho mình”. Có thể khẳng định việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phát kiến vĩ đại thứ ba cùng với hai phát kiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã làm cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. Mặc dù đã trải qua hơn l50 năm, nhất là sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, lịch sử thế giới đang ở trong một giai đoạn phức tạp của sự phát triển, song chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và tư tưởng của Ph.Ăngghen nói riêng về giai cấp công nhân vẫn tỏ rõ sức sống của nó trong đời sống hiện thực, những giá trị tinh thần được thực tiễn khẳng định tính đúng đắn của nó. Lý luận Mác - Lênin ra đời trong thời đại cách mạng vô sản, gắn với sự phát triển của phong trào công nhân quốc tế, do vậy, nếu lý luận Mác - Lênin là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân thì ngược lại, chính giai cấp công nhân lại là vũ khí vật chất của lý luận cách mạng đó. Điều này đòi hỏi cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản bị bóc lột dưới chế độ tư bản với địa vị mới của giai cấp công nhân với tư cách người chủ xã hội sau khi đã giành được chính quyền. Theo Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân có 2 đặc điểm cơ bản là: - Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại trong nền sản xuất mang tính xã hội hoá cao. Giai cấp công nhân là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại. - Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: giai cấp công nhân phải bán sức lao động chơ các nhà tư bản và bị tư bản bóc lột về giá trị thặng dư vì giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất. Ph. Ăngghen khẳng định: “Người lao động hoặc công nhân (wơrking men) và người vô sản; giai cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa”. Mặc dù là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại, là “lực lượng sản xuất hàng đầu” như V.I Lênin khẳng định, giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hoá không những về đời sống vật chất (tiền công thấp, chỉ đủ tái sản xuất sức lao động, điều kiện lao động nặng nhọc độc hại, tình trạng thất nghiệp, vấn đề nhà ở khó khăn, việc sử dụng lao động nữ và trẻ em không phù hợp) mà cả về đời sống tinh thần như tình trạng thất học, không có điều kiện tham gia các hoạt động văn hoá, tinh thần. Từ thực tế này trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản, Ph.Ăngghen chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là: “Sản xuất đã trở thành một hành vi xã hội; trao đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu, vẫn là những hành vi cá nhân, hành vi của những người riêng biệt; sản phẩm của lao động xã hội bị nhà tư bản cá thể chiếm hữu. Đó là mâu thuẫn cơ bản, từ đó nảy sinh ra tất cả những mâu thuẫn trong xã hội hiện nay đang vận động, những mâu thuẫn mà thời đại công nghiệp đang làm cho thấy đặc biệt rõ: Tách người sản xuất khỏi tư liệu sản xuất. Giam hãm người lao động làm thuê suốt đời. Sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động được hình thành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, có trình độ xã hội hóa ngày càng cao, đại biểu cho lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại hiện nay, đó là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp của xã hội. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức tiến trình cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ph.Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện khách quan quy định”. Từ quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin có thể thấy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội khách quan quy định. Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, là giai cấp lao động sản xuất vật chất chủ yếu trong nền sản xuất xã hội. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản, do vậy là giai cấp triệt để cách mạng nhất vì lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, đó là lực lượng quyết định trong việc đấu tranh thủ tiêu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng mình bằng cuộc cách mạng xã hội giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân là xoá bỏ áp bức bóc lột, bất công, giành chính quyền và tư liệu sản xuất về tay mình và nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế (xuất phát từ quá trình quốc tế hoá sản xuất, quá trình toàn cầu hóa hiện nay) và có bản sắc dân tộc, do xuất phát từ mỗi dân tộc, trở thành “giai cấp dân tộc”, chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình. Là “con đẻ” của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Trong điều kiện hiện nay với tác động của quá trình toàn cầu hoá, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, sự phát triển của kinh tế thị trường, nhiều học giả tư sản muốn phủ nhận bản chất và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cho rằng giai cấp công nhân đã bị “tri thức hoá”, “tư bản hoá”. Đúng là hiện nay trong giai cấp công nhân có xu hướng tăng tỷ trọng lao động có trình độ cao, diễn ra xu hướng tri thức hoá ngày càng tăng phù hợp với yêu cầu của tiến bộ khoa học và công nghệ. Mặt khác, với sự phát triển trình độ cao của kinh tế thị trường, các loại hình dịch vụ ngày càng phát triển, mô hình “chế độ sở hữu cổ phần”, “dân chủ hoá” có sự tham gia của người lao động được mua cổ phiếu ở các công ty, doanh nghiệp tu bản gia tăng, người lao động cũng tham gia vào quá trình quản lý và quyết định chính sách, điều này cho thấy dường như giai cấp công nhân đã bị “tư bản hoá”, dường như chủ nghĩa tư bản đang chuyển sang mô hình “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “chủ nghĩa tư bản của người lao động”, “xã hội hậu tư bản” như một số học giả phương Tây quan niệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề bằng những phương thức tinh vi hơn, sự bần cùng hoá vẫn diễn ra, khoảng cách về thu nhập, giầu nghèo trong các nước tư bản có xu hướng doãng ra ngày càng xa hơn. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về sở hữu tư liệu sản xuất ngày càng tăng, tuy thời điểm nhất định được giải quyết tạm thời, song về lâu dài không thể xoá bỏ được căn bản mâu thuẫn này, đòi hỏi phải có cuộc cách mạng xã hội triệt để. 1.2.Kh¸i niÖm giai cÊp c«ng nh©n Về lý luận cần làm rõ sự khác nhau giữa hai khái niệm “giai cấp công nhân” và “giai cấp vô sản” (GCVS) đã được Mác sử dụng khi đề cập đến sự hình thành ý thức giai cấp của công nhân. Trước hết, cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa giai cấp công nhân và giai cấp vô sản. Khi trình bày “Lịch sử phát triển giai cấp vô sản” thì Mác và Ăngghen đã loại dần những người vô sản nói chung ra, để cuối cùng chỉ nói đến “những người vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp do công nghiệp sản sinh ra” .Vì vậy, chúng ta chỉ chú ý trước tới những công nhân công nghiệp... Như vậy, không phải Mác nói vô sản chung chung, bất kỳ, mà chỉ là “vô sản trong công nghiệp”, do nền đại công nghiệp sản sinh ra. Theo cách đặt vấn đề như trên thì giai cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công nghiệp. Các ông rất thận trọng khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh, các loại tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực lượng khác nhau về chất lượng. Các ông đã viết: "còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho phe phản động hơn” Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động trí óc và những người lao động chân tay hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù còn có những hạn chế nhưng họ vẫn đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.3.Giai cÊp c«ng nh©n lµ nßng cèt chñ ®¹o l·nh ®¹o liªn minh c«ng-n«ng- trÝ thøc ë c¸c thêi kú Giai cấp công nhân là hạt nhân vững chắc trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, cũng là nền tảng các khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giai cấp công nhân hiện nay đã là người làm chủ xã hội. Với tư cách là sản phẩm của nền đại công nghiệp, ta thấy rằng, công nghiệp càng phát triển thì sự phân công lao động càng cao, dẫn đến sự phụ thuộc càng lớn, tính xã hội của sản phẩm càng cao, thành quả lao động là của chung, nó đòi hỏi phải sở hữu chung để giải phóng lực lượng sản xuất”. Với tư cách là lực lượng sản xuất có khả năng tạo lập phương thức sản xuất mới, việc lãnh đạo thực hiện theo xu hướng phát triển ấy của GCCN. Tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân là do địa vị kinh tế này quy định chứ không ph¶i vì không có tư liệu sản xuất, vì bị áp bức, vì nghèo khổ mà triệt để cách mạng. MÆc dï các yếu tố này góp phần quan trọng, song không phải là yếu tố quyết định, và theo đó, GCCN là giai cấp trung tâm của thời đại, sự phát triển của nó sẽ kéo theo và quy định toàn bộ xu hướng phát triển chung của quốc gia dân tộc và của nhân loại. Tuy nhiên để lãnh đạo, trong thực tế cần 3 điều kiện: -Một là, phải có lý luận cách mạng, hệ tư tưởng như là vũ khí tinh thần hướng dẫn hoạt động của toàn bộ giai cấp. GCCN đại biểu cho PTSX tiến bộ nhất, có đủ năng lực tuyệt vời, trí tuệ minh mẫn...để xây dựng nên cho nhân loại một nền văn minh muôn phần tươi đẹp”. -Hai là, GCCN phải tự mình tổ chức ra chính đảng, thực hành mọi hoạt động của giai cấp. Có chính đảng của mình, giai cấp công nhân hoạt động với tư cách là giai cấp và toàn xã hội. Bất kỳ hoạt động xã hội nào cũng cần có tổ chức và thông qua đó tạo ra sức mạnh. Đảng cộng sản của GCCN là sản phẩm tất yếu của phong trào công nhân. -Ba là, phải giành lấy chính quyền nhà nước biến nó thành công cụ thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp trong thực tế. Không có công cụ thực hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp của mình, GCCN mãi mãi đóng vai trò “bị lĩnh xướng”, không thể vươn lên địa vị làm chủ. Xã hội cần có các qui phạm pháp luật để buéc mọi người tuân thủ trật tự của lợi ích chung. Khi xã hội đã duy trì được trật tự bền vững đương nhiên các qui phạm pháp luật sẽ không có giá trị thực, vì xã hội không cần nó nữa. Tương tự như vậy, nhà nước cũng sẽ tự tiêu vong khi mà xã hội không cần đến nó nữa, điều đó sẽ xảy ra trong tương lai lâu dài của nhân loại mà không phụ thuộc vào bất kỳ ý chí của giai cấp hay tầng lớp xã hội nào. GCCN để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình tất yếu phải có đầy đủ các yếu tố nêu trên Ch­¬ng II S¬ l­îc qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa vµ hiÖn ®¹i hãa ë ViÖt Nam 2.1 C«ng nghiÖp hãa hiÖn ®¹i hãa lµ qu¸ tr×nh tÊt yÕu Sau 10 năm đầu đổi mới đầy gian khổ nhưng đạt thành tựu vẻ vang, Ðại hội VIII của Ðảng (1996) đã chỉ ra rằng đất nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời chỉ ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 (nghĩa là khoảng 1/4 thể kỷ) nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nói công nghiệp hóa không phải là nói một vấn đề cũ kỹ, trái lại, đối với nước ta, trong vòng nửa thế kỷ qua và cả hiện nay vẫn là vấn đề luôn luôn mới, luôn luôn đòi hỏi có nhận thức đúng, có nội dung và cách làm đúng đắn. Trong lịch sử, các nước phương Tây đã tiến hành công nghiệp hóa cách đây hai trăm năm. Ðó là các cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, có mục đích, bước đi, cách làm phù hợp với chủ nghĩa tư bản, diễn ra một cách tự phát, nhằm thu lợi nhuận nhanh, nhiều, khẳng định vai trò của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa gắn liền với giai cấp tư sản - giai cấp chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, tạo nên chiến thắng hoàn toàn và triệt để của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với mọi phương thức sản xuất trước kia. Tác dụng khách quan mà công nghiệp hóa đem lại là thay lao động thủ công năng suất thấp từng tồn tại hàng nghìn vạn năm bởi lao động bằng máy. Nhờ máy móc mà khắc phục được những hạn chế của các giác quan và sức lực cơ bắp con người nhằm thích ứng và cải tạo thiên nhiên phục vụ cho đời sống con người. Công nghiệp hóa là một bước ngoặt vĩ đại phát triển lực lượng sản xuất của loài người, tạo điều kiện cải thiện căn bản đời sống chung của xã hội con người. Nước ta, trong điều kiện làm cách mạng lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội, thì công nghiệp hóa là một tất yếu, là một sự nghiệp cách mạng vẻ vang, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, quyết định thắng lợi của thời kỳ quá độ lịch sử. Vì vậy Ðảng ta đã đề ra đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, là một đường lối, quan điểm cơ bản hết sức đúng đắn, làm cho chủ nghĩa xã hội không chỉ là ước vọng của nhân dân ta mà là một hiện thực đẹp đẽ, có cơ sở bảo đảm về phương diện kinh tế. V.I. Lê-nin đã từng nói, năng suất lao động là cái căn bản tạo nên chiến thắng của một trật tự xã hội mới. Công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa cũng đã tạo cho chủ nghĩa tư bản một chiến thắng như thế - chiến thắng chế độ phong kiến và mọi nền sản xuất nhỏ. Bây giờ đến lượt chúng ta, cũng chỉ có thể bằng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa để tạo nên chiến thắng sản xuất nhỏ và con đường tư bản chủ nghĩa, mới chứng tỏ được rằng trong điều kiện xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển, nhưng dưới sự lãnh đạo của Ðảng, biết phát huy cao độ nội lực đồng thời hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và khéo léo, tranh thủ sức sản xuất hiện đại của thế giới, thì vẫn có thể phấn đấu đi lên chủ nghĩa xã hội. t Trước nay, Ðảng ta vẫn luôn luôn chỉ ra rằng, chúng ta tiến hành công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tuy rằng có kế thừa kinh nghiệm của quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, nhưng căn bản phải có mục đích, bước đi và cách làm phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục đích của công nghiệp hóa ở nước ta phải là phát triển sản xuất gắn liền với cải thiện điều kiện lao động và đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Lợi nhuận là cần thiết, song không chạy theo lợi nhuận đơn thuần, càng không xác định nó là mục đích chủ yếu. Chúng ta không theo "chủ nghĩa duy kinh tế", trái lại từng bước phát triển lực lượng sản xuất phải gắn liền với từng bước có tiến bộ xã hội. Chúng ta phải chú ý từng bước công nghiệp hóa gắn liền với từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất mới này có nhiều mặt. Quá trình công nghiệp hóa bao giờ cũng gắn liền với xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản thường bắt đầu chủ yếu từ công nghiệp nhẹ, sản xuất các hàng hóa tiêu dùng. Ðiều đó rất phù hợp với lợi ích thiết thực của các nhà tư bản, nhất là lúc chủ nghĩa tư bản còn đang non yếu, vì vốn ít, nhưng lại chu chuyển nhanh, tiền công rẻ, lợi nhuận nhiều, do đó thuận lợi cho tích lũy và tích tụ tư bản, giúp các tư bản cá biệt lớn lên nhanh chóng. Chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ 20 đã khác, lúc này chủ nghĩa tư bản thế giới đã là một hệ thống lớn mạnh, tín dụng thế giới rất phát triển, thì một nước tư bản chủ nghĩa như Hàn Quốc lại có thể có bước đi cả công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng ngay từ đầu, chỉ trong vòng thập niên 60 và thập niên 70 của thế kỷ trước mà đã hoàn thành công nghiệp hóa, trở thành một quốc gia có nền công nghiệp hiện đại, đủ sức sản xuất hàng chục triệu tấn thép, sản xuất nhiều máy móc tiên tiến từ máy cái đến các máy phụ trợ, từ máy công cụ cho đến các máy sản xuất hàng tiêu dùng, theo đó tất yếu đã sản xuất được nhiều hàng tiêu dùng phù hợp thời đại. Không đầy 20 năm mà Hàn Quốc tự trang bị được kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế Hàn Quốc không những tự khẳng định mình mà còn có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, ngay cả với hàng hóa Mỹ (như mặt hàng ô-tô...). Các nước xã hội chủ nghĩa thì lại càng khác hẳn, xét về mục đích và điều kiện, thì bước đi, cách làm của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa không giống công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Ngay từ đầu, các nước xã hội chủ nghĩa đã có thể huy động sức mạnh của toàn xã hội, của Nhà nước, để tính toán phát triển công nghiệp nặng chứ không chỉ chờ từng tư bản cá biệt tự lớn lên hoặc chờ quá trình tập trung tư bản như trong xã hội tư bản. Các nước xã hội chủ nghĩa luôn có yêu cầu bức xúc về độc lập tự chủ, có sức mạnh về kinh tế và quốc phòng để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, trong khi các lực lượng đế quốc luôn luôn muốn bóp chết các nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ. Chính trong điều kiện như vậy của Liên Xô trước đây, Lê-nin đã nhấn mạnh rằng công nghiệp hóa nước nhà là ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định trong cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lê-nin viết: "Thế mà chính ngành công nghiệp này, gọi là "công nghiệp nặng", lại là cơ sở chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Ðồng thời công nghiệp nặng cũng là cơ sở của khả năng quốc phòng của nước nhà - Không có công nghiệp nặng thì chúng tôi sẽ không thể xây dựng được công nghiệp nào cả, và nếu không có công nghiệp, thì nói chung chúng tôi sẽ diệt vong, không còn là một nước độc lập nữa" Lê-nin đã đề ra một kế hoạch điện khí hóa Liên Xô, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng kỹ thuật, công nghiệp hóa mạnh mẽ đất nước. Thực hiện tư tưởng vĩ đại của Lê-nin, Ðảng cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô Viết, đứng đầu là Sta-lin, đã tiến hành 2 kế hoạch 5 năm, dốc sức công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (gắn liền với hợp tác hóa nông nghiệp). Chỉ sau 10 năm, Liên Xô đã trở thành một cường quốc công nghiệp, ngành điện, thép, chế tạo máy phát triển chưa từng thấy, tự trang bị kỹ thuật khắp các ngành kinh tế quốc dân, sản xuất hàng loạt máy cày, máy bừa, máy gặt đập. Về sau, nền công nghiệp to lớn ấy của Liên Xô đã sản xuất hàng vạn xe tăng, đại bác, hàng ngàn máy bay chiến đấu, hàng trăm chiến hạm, góp phần to lớn tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít thế giới, giải phóng loài người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Nói đến Trung Quốc, chính nhờ vào coi trọng xây dựng công nghiệp nặng, trước hết là thép và cơ khí chế tạo máy, mà ngày nay Trung Quốc gần như sản xuất được mọi thứ, đã trở thành một cường quốc quân sự và đang trở thành một cường quốc kinh tế. Sau gần 30 năm thực hiện cải cách, mở cửa đời sống của nhân dân Trung Quốc từ tình trạng đói kém, lạc hậu lên trình độ thu nhập bình quân đầu người gần 2.000 USD một năm. Trong hoàn cảnh, điều kiện của nước ta, Bác Hồ đã sáng suốt chỉ ra rằng, "đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa... Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội". Với kết quả tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, giải quyết không những đủ lương thực mà còn xuất khẩu nữa, bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đời sống nhân dân được ổn định và cải thiện rõ rệt, Ðại hội VIII của Ðảng (6-1996) đánh giá đất nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, kết thúc chặng đầu thời kỳ quá độ, đã tạo được những tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hóa. Ðại hội VIII chỉ rõ từ đây đất nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Nh­ng nã đòi hỏi ph¶I cã đường lối quan điểm và cả bước đi, cách làm đúng đắn. Thắng lợi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ quyết định thắng lợi của thời kỳ quá độ. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vừa mang tính nhân dân vừa mang tính Ðảng sâu sắc, là một sự nghiệp cách mạng rất vẻ vang của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta. 2.2 §Æc ®iÓm hiÖn ®¹i hãa vµ c«ng nghiÖp hãa ë n­íc ta a.Vấn đề rút ngắn thời gian công nghiệp hóa và đuổi kịp các nước Có nhiều lý do để tin tưởng rằng CNH của nước ta có nhiều khả năng để rút ngắn thời gian so với các nước CNH cổ điển châu Âu trước đây. Một mặt, việc gắn kết cả yêu cầu CNH và HĐH vào cùng trong một quá trình sẽ cho phép tránh được trùng lặp trong nhiều bước có tính chuyển tiếp và một số khâu cơ cấu lại hai ba lần. Mặt khác, tiến trình CNH của chúng ta không phải là một quá trình tự phát, tự điều chỉnh, mà là một tiến trình có điều khiển, chỉ đạo theo một đường lối và một chiến lược nhất quán với những bước đi có chọn lọc, có tính toán hợp lý. Ngoài ra, chúng ta cũng thừa hưởng được nhiều kinh nghiệm cả thành công và thất bại của các nước đi trước. Với đà phát triển khá nhanh của nước ta như hiện nay, đến năm 2020 GDP bình quân đầu người cũng mới đạt trên dưới 2.000 USD. Với mức thu nhập ấy, các chỉ tiêu phát triển khác cũng khó có khả năng đạt mức cao, chất lượng của sự phát triển khó bảo đảm vững chắc. Bởi vậy, con đường an toàn cho việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và rút ngắn thời gian có thể dựa trên hai yếu tố. Một là, nhanh chóng phát triển công nghệ mới, công nghệ cao để nâng cao và duy trì tốc độ phát triển. Hai là, chuẩn bị tốt nhất các điều kiện tiền đề cho CNH, HĐH (giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, kết cấu hạ tầng, thể chế quản lý...) để nắm bắt và lợi dụng tối đa thời cơ thuận lợi khi nó xuất hiện để tạo ra những bước phát triển có tính nhảy vọt với tốc độ đột biến cao hơn. Nội dung đó cũng đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đây đồng thời cũng là sự đúc rút từ kinh nghiệm của một số nước công nghiệp mới. Vấn đề đuổi kịp các nước đi trước có thể thực hiện được trong một khoảng thời gian hợp lý hay không cũng là một vấn đề cần được làm rõ. Nếu so sánh với một vài nước khu vực, thì thời gian đuổi kịp còn khá dài. Ví dụ, thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Thái Lan, Trung Quốc cao gấp 3- 4 lần so với Việt Nam, nhưng tốc độ tăng thu nhập cũng xấp xỉ hoặc cao hơn ta. Trong khi đó, nếu tốc độ phát triển của Việt Nam được giữ liên tục như hiện nay thì sau 30 năm nữa cũng vẫn chưa thể đuổi kịp họ về thu nhập. Như vậy, bài toán đuổi kịp tính với hai nước trên hầu như không khả thi trong trung hạn. Tuy nhiên, nếu tính so sánh với bình quân của các nhóm nước, mà chúng ta cần đặt mục tiêu đuổi kịp, như nhóm các nước đang phát triển, nhóm nước châu Á, hay mức bình quân toàn cầu v.v., thì kết cục bài toán lại hoàn toàn khác. Ví dụ, so với nhóm các nước đang phát triển, thì sẽ cần 20 năm để đuổi kịp và bắt đầu vượt lên trước. So với bình quân toàn cầu sẽ cần khoảng 30 năm, và thậm chí so với mức khởi đầu của các nước đã phát triển, mà tốc độ tăng trưởng liên tục thường rất thấp, chúng ta cũng sẽ thấy rõ khả năng đuổi kịp là hiện thực. Hơn nữa, những ước tính trên đây mới chỉ xét đến một yếu tố tăng trưởng về kinh tế - thu nhập bình quân đầu người, chưa tính đến ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đang có lợi cho chỉ số tăng trưởng của những nước như Việt Nam và cũng chưa kể đến khả năng có thể có bước phát triển đột biến khi có cơ hội như dự kiến của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Các nhà nghiên cứu nước ngoài ước tính Trung Quốc đã đi được 73% trên con đường công nghiệp hóa, và cũng theo ước tính trên, Việt Nam cũng đã đạt được 61%. Như vậy, mục tiêu năm 2020 "cơ bản trở thành một nước công nghiệp" không phải là không có cơ sở để thực hiện. b.Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Theo b¸o ®iÖn tö §¶ng céng s¶n - Cần tạo trong nông nghiệp, nông thôn môi trường ban đầu thích hợp để có thể tiếp nhận những chính sách và giải pháp cụ thể của quá trình CNH, HĐH. Có ba việc cần làm trước: + Sớm hoàn thành chương trình xóa đói, giảm nghèo ở các vùng nông thôn, tạo mặt bằng kinh tế - xã hội tương đối đồng đều. Quan tâm vấn đề áp dụng những tiêu chuẩn nghèo đói sát với tiêu chuẩn quốc tế để dễ đánh giá và so sánh, đồng thời chú trọng đến yêu cầu bền vững, không để xảy ra hiện tượng đói nghèo trở lại và làm biến dạng môi trường nông thôn. + Sớm xây dựng một nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn, phá vỡ thế độc canh, tự cấp tự túc còn rớt lại. Muốn vậy, chỉ giúp nông thôn xây dựng kết cấu hạ tầng tối thiểu (điện, đường, trường, trạm, chợ) và cho vay vốn ban đầu vẫn chưa đủ. Còn cần sớm hình thành một mạng lưới công ty, xí nghiệp vừa và nhỏ (kể cả cực nhỏ) trên cơ sở huy động sự tham gia của các doanh nghiệp từ các vùng công nghiệp, các lực lượng quân đội tại chỗ làm kinh tế và nguồn vốn của Nhà nước. + Xây dựng quy hoạch về an toàn lương thực và bảo vệ môi trường sinh thái nông thôn, vừa sử dụng hợp lý đất đai, mặt nước, vừa chủ động phòng chống thiên tai. - Việc áp dụng các phương pháp công nghiệp và tổ chức tiên tiến vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tạo năng suất cao và chất lượng hàng hóa nông sản đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước, sẽ bảo đảm cho thu nhập của người nông dân được nâng lên xấp xỉ với mặt bằng thu nhập chung của xã hội. Muốn đạt được yêu cầu trên, trước hết cần đầu tư vào các biện pháp kỹ thuật: thủy lợi hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa và điện khí hóa. Bên cạnh đó, các giải pháp về tổ chức sản xuất đang đặt ra những vấn đề bức xúc. Không thể công nghiệp hóa nông nghiệp trên cơ sở những mảnh ruộng quá manh mún, những tổ chức sản xuất quá nhỏ bé, luôn bị động về tiêu thụ sản phẩm và khó khăn về áp dụng các biện pháp công nghệ mới. Các hình thức hợp tác xã sản xuất ở đồng bằng và các kiểu trang trại ở vùng trung du, miền núi và ven biển phải đóng góp vào việc mở rộng quy mô khai thác, nhờ đó các biện pháp kỹ thuật mới phát huy được hiệu quả. Mặt khác, muốn đưa nông nghiệp lên trình độ hiện đại thì đã đến lúc cần tạo điều kiện để áp dụng một cách phổ biến cá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36120.doc
Tài liệu liên quan