LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới tận dụng những lợi thế so sánh của mình cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời, quá trình toàn cầu hóa kinh tế cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách thức gay gắt, nhất là các nước đang phát triển. Các quốc gia, dân tộc nào ch
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếm vị trí có lợi trong cạnh tranh thị trường thì quốc gia, dân tộc đó sẽ chiếm được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế.
Nước ta chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 1/1/2007, nền kinh tế nước ta trở thành một bộ phận và chịu ảnh hưởng trực tiếp của những động thái nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đang đứng trước những bước phát triển mới đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tạo thêm việc làm và thu nhập, trình độ khoa học công nghệ được nâng cao, đời sống người dân được cải thiện. Ngược lại, chậm hay không nâng cao được năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ dẫn đến ít thu hút được đầu tư trong nước và nước ngoài, các doanh nghiệp mất thị phần trên thị trường trong nước và thế giới, có thể dẫn đến giải thể, phá sản, lao động mất việc làm, gây khó khăn về kinh tế - xã hội.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng, sôi động được giới học thuật, các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý doanh nghiệp và chính phủ quan tâm nghiên cứu.Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia". Mục đích nghiên cứu tập trung vào hệ thống hóa để làm rõ thực tiễn về nâng cao năng lực canh tranh của Việt Nam trong điều kiện gia nhập vào WTO.
Kết cấu chuyên đề thực tập gồm 2 phần:
Chương 1: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
Chương 2: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
NỘI DUNG
Chương 1: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
1.Thể chế Nhà nước và vai trò điều hành của Chính phủ
1.1. Thể chế Nhà nước
Từ năm 2005 đến nay, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, với sự nỗ lực và cố gắng trên mọi phương diện, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Việc ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (2005) đánh dấu bước cải cách mạnh mẽ về đầu tư, tạo điều kiện và môi trường bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế. Nhiều hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài được dỡ bỏ, các thủ tục đối với đầu tư nước ngoài được cải thiện, cùng với các cam kết trong WTO, lĩnh vực đầu tư được cải cách mạnh:
- Khái niệm đầu tư được mở rộng, bao gồm mọi loại hình đầu tư.
- Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập công ty cổ phần và phát hành chứng khoán.
- Nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong các lĩnh vực không bị hạn chế.
- Sử dụng trọng tài quốc tế, tòa án nước ngoài hoặc luật nước ngoài trong trường hợp có tranh chấp và pháp luật Việt Nam không quy định về các tranh chấp đó.
- Bãi bỏ chế độ hai giá và các thông lệ khác mang tính phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải thiện các quy định về quản trị doanh nghiệp.
- Bãi bỏ hạn chế về vốn góp và các yêu cầu về thuê, tuyển các vị trí quản lý cấp cao là người Việt Nam trong công ty liên doanh.
- Xác lập quyền đầu tư và quyền sở hữu vốn đầu tư và các tài sản khác liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Các công ty nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Cam kết các quy định chung liên quan đến đầu tư phù hợp với các yêu cầu của các hiệp ước quốc tế. Tăng khả năng tiếp cận thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là đối với lĩnh vực dịch vụ.
Bên cạnh việc ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, rất nhiều các cải cách pháp lý và các quy định liên quan đã được sửa đổi nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam:
- Luật Sở hữu trí tuệ nhằm bảo hộ quyền của chủ thể đối với nhãn hiệu hàng hóa, quyền tác giả, bằng sáng chế độc quyền…
- Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực của tòa án.
- Các quy định mới nhằm tăng quyền của doanh nghiệp trong mối quan hệ với chính quyền trung ương và địa phương.
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hơn, minh bạch hơn các hoạt động lập pháp.
- Quy định về ngân hàng, tự do hóa ngân hàng, dịch vụ pháp lý, dịch vụ tư vấn.
- Luật Cạnh tranh nhằm điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tình trạng độc quyền. Luật Phá sản tạo căn cứ cho việc phá sản và tái cơ cấu doanh nghiệp.
- Luật Thương mại mới và Bộ luật Dân sự mới bổ sung những điều kiện đầy đủ hơn về hợp đồng.
Môi trường đầu tư của Việt Nam được cải thiện rõ rệt thông qua cải thiện hàng loạt những lĩnh vực liên quan trước sức ép trực tiếp và gián tiếp của việc gia nhập WTO.
Một trong những kết quả quan trọng của hệ thống pháp luật hiện nay là khung pháp luật đã bao quát hầu hết các vấn đề cơ bản cho sự hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chế độ sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương nhân, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và đảm bảo đầu tư, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội, hình thành môi trường cạnh tranh… Các quan hệ dân sự và kinh tế đang dần được điều chỉnh bằng các nguyên tắc của luật pháp và tập quán thương mại quốc tế thay cho các biện pháp hành chính đơn thuần.
Pháp luật về kinh tế ngày càng phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của các cơ quan quản lý Nhà nước và hoạt động kinhh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động kinh doanh, khẳng định nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Tuy nhiên, pháp luật kinh tế đang còn có những hạn chế, bất cập như sau:
Hệ thống pháp luật nước ta còn thiếu nhiều quy định quan trọng, chưa ban hành luật về cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền, chậm cải tiến so với các nước trong khu vực.
Hệ thống pháp luật thiếu nhất quán, Luật, Pháp lệnh có thể thông thoáng nhưng những văn bản hướng dẫn cụ thể như Nghị định của Chính phủ, nhất là Thông tư của các Bộ thường có nội dung gò bó hơn, không ít trường hợp hạn chế nội dung của Luật hay Pháp lệnh.
Môi trường kinh doanh chưa bình đẳng, còn quá nhiều doanh nghiệp Nhà nước độc quyền trên các lĩnh vực khác nhau, áp đặt mức giá cao với chất lượng dịch vụ thấp và không ổn định đối với khách hàng. Luật pháp có thể được vận dụng khác nhau do một luật được thiết kế để phục vụ quá nhiều mục tiêu khác nhau, có nhiều dòng thuế, nhiều quy định ưu tiên, miễn giảm, nhiều mức giá có thể áp dụng để tính thuế… làm cho việc áp dụng pháp luật trở nên phức tạp, không thống nhất.
Tính minh bạch, công khai của nền kinh tế bao gồm cả doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước còn quá thấp. Đặc biệt sự thay đổi đột ngột trong Thông tư hướng dẫn của các Bộ (như Quyết định về thuế nhập khẩu đối với phụ tùng xe máy, phụ tùng xe ô tô) không được dự báo trước, không được thảo luận trước với các doanh nghiệp đã ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đối với môi trường đầu tư. Những quyết định như vậy tạo ra ấn tượng với nhà đầu tư là chính sách, quy định của nước ta “tiền, hậu bất nhất”, khó dự đoán được, thiếu tính ổn định, gây tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước.
Việc thực thi pháp luật không nghiêm được coi là trở ngại quan trọng. Việc thực hiện pháp luật còn thiếu nhất quán, chưa thống nhất trong cả nước. Chính quyền địa phương ở một số nơi còn can thiệp vào nội bộ của doanh nghiệp không phù hợp với pháp luật, không phù hợp với cơ chế thị trường. Hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự, cơ quan bảo vệ pháp luật hành động quá quy định của pháp luật, có lợi cho một bên tranh chấp còn tiếp tục ở một số nơi. Cơ quan xét xử, hòa giải, trọng tài còn có những quyết định thiếu khách quan, tỷ lệ quyết định oan sai còn lớn.
Nạn quan liêu, tham nhũng tuy đã được đấu tranh từ một số năm, song vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng, nhất là những khâu liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh về tiền bạc và thời gian ở Việt Nam còn cao hơn một số nước khác trong khu vực.
1.2. Vai trò của Chính phủ
Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã từng bước đổi mới chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế theo hướng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Nội dung đổi mới chủ yếu của quản lý Nhà nước về kinh tế là: tách bạch chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế của các cơ quan Nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp; chuyển từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp nền kinh tế trực tiếp sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô.
Nhà nước không trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh như trước đây mà tham gia vào hoạt động này thông qua chính sách đầu tư của mình vào một số lĩnh vực đặc biệt quan trọng của nền kinh tế. Đặc biệt, Nhà nước tập trung vào những lĩnh vực tư nhân chưa muốn tham gia hoặc những ngành có thời gian hoàn vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp như kết cấu hạ tầng, giáo dục, đào tạo, y tế, xóa đói giảm nghèo và việc chăm lo thực hiện chính sách xã hội, chính sách đối với người có công, người bị thiệt thòi.
Nhà nước đã thực hiện nhiều cải cách lớn trong lĩnh vực kinh tế và xã hội. Kết quả của những cải cách này có góp phần rất quan trọng của chi ngân sách Nhà nước. Trước gia nhập WTO, năm 2006 chi tiêu Chính phủ là 308.058 tỷ đồng. Sau gia nhập WTO, chi tiêu Chính phủ năm 2007 tăng mạnh, đạt 399.402 tỷ đồng nhưng năm 2008 giảm xuống còn 398.980 tỷ đồng. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước đã có nhiều chuyển biến. Chi thường xuyên năm 2006 chiếm 52,54% tổng chi, năm 2007 tăng lên chiếm 53,06% tổng chi và năm 2008 chiếm 59,46% tổng chi. Chi thường xuyên được cơ cấu lại theo hướng tăng chi thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu như chi cho giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ và môi trường.
Tuy vậy, về vai trò của Chính phủ vẫn còn những hạn chế sau:
Quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn lúng túng, chồng chéo, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương còn chưa chặt chẽ và hiệu quả, phân công trách nhiệm trên một số lĩnh vực còn chưa rõ ràng, dẫn đến sự thiếu minh bạch, thiếu đồng bộ và nhất quán trong các chính sách và quyết định của Chính phủ, các Bộ, các ngành, chính quyền địa phương.
Thủ tục hành chính vừa cồng kềnh, vừa sơ hở gây nhiều tốn kém về thời gian và tiền bạc đối với doanh nghiệp nhưng không đảm bảo hiệu lực quản lý cần thiết của Nhà nước làm cho chi phí kinh doanh ở nước ta còn cao. Tính thiếu chuyên nghiệp của bộ máy, mức độ quan liêu, tham nhũng còn nặng nề thể hiện qua chi phí “bất thành văn” có tỷ lệ cao trong giá thành sản phẩm, dịch vụ. Thông tin chưa được phổ biến rộng rãi, tính công khai, minh bạch thấp.
Tình trạng tham ô, lãng phí trong chi tiêu và đầu tư từ ngân sách Nhà nước còn nghiêm trọng và chưa giảm bớt. Tình trạng lạm thu và thất thu vẫn còn khá phổ biến, nhiều nguồn thu chưa được khai thác.
2. Tài chính - ngân hàng
2.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO
* Các tổ chức tín dụng
Theo cam kết, kể từ ngày 1/4/2007, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam với các điều kiện cụ thể đi kèm (các pháp nhân và thể nhân phải có giấy phép mới được quyền kinh doanh, công ty mẹ phải có tổng tài sản trên 20 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn). Việc thành lập công ty tài chính 100% vốn nước ngoài hoặc công ty tài chính liên doanh, tổ chức tín dụng đó phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Việc thành lập ngân hàng 100 % vốn nước ngoài sẽ được đối xử quốc gia đầy đủ như ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc thành lập hiện diện thương mại. Thời hạn hoạt động của các công ty tài chính liên doanh hoặc công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh hoặc công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài tối đa là 50 năm và có thể được gia hạn. Phần vốn góp của bên nước ngoài vào ngân hàng thương mại liên doanh không được vượt qua 50% vốn đăng ký của ngân hàng. Phần góp vốn của bên nước ngoài vào tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh cần chiếm ít nhất 30% vốn đăng ký. Tổng số cổ phần của các tổ chức tín dụng và cá nhân nước ngoài không được vượt quá 30% vốn đăng ký của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, trừ khi luật pháp Việt Nam có quy định khác hoặc được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép.
Về chứng khoán: cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Ngoài ra, các công ty chứng khoán nước ngoài muốn giao dịch chứng khoán tại Việt Nam phải chịu các hạn chế được quy định trong biểu cam kết cụ thể của Việt Nam.
* Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm
Công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được phép cung ứng dịch vụ bảo hiểm đối với thương vụ được chỉ định như trách nhiệm pháp lý bên thứ ba đối với xe gắn máy, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt… Các giới hạn này được dỡ bỏ kể từ ngày 1/1/2008. Sau 5 năm tính từ thời điểm gia nhập, các công ty bảo hiểm nước ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam.
2.2. Thực trạng tài chính – ngân hàng sau gia nhập WTO
Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hoạt động vào tháng 7 năm 2000 nhưng mãi đến năm 2006 mới thực sự phát triển. Trong 2 năm 2006, 2007 số lượng cổ phiếu và trái phiếu, số phiên giao dịch không ngừng tăng lên, thị trường chứng khoán phát triển mạnh. Nhưng 2 năm trở lại đây, do tác động của lạm phát gia tăng và khủng hoảng kinh tế nên thị trường chứng khoán có phần chững lại và giảm sút.
Số lượng ngân hàng hoạt động năm 2005 là 75 ngân hàng và tăng lên 94 ngân hàng năm 2009. Trong đó, số lượng ngân hàng thương mại quốc doanh không có gì thay đổi; ngân hàng liên doanh tăng số lượng từ 4 lên 5 năm 2006 và giữ nguyên cho đến năm 2009; ngân hàng thương mại cổ phần tăng từ 37 lên 39; chi nhánh ngân hàng nước ngoài tăng khá nhanh từ con số 29 năm 2005 lên 40 vào năm 2009. Đặc biệt, ngày 8/9/2008 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên đã được thành lập và cho đến cuối năm 2009 số lượng đã tăng lên 5.
Biểu 1: Số lượng ngân hàng giai đoạn 2005-2009
Nguồn: Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam (2009)
Nhìn chung, hệ thống tài chính – ngân hàng đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận sau:
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã được ban hành một cách đồng bộ. Cơ chế, chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế. Khuôn khổ thể chế ngày một minh bạch và thông thoáng hơn. Những phân biệt, đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ. Chức năng cho vay tín dụng chính sách và tín dụng thương mại đã được tách bạch. Các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao. Thị trường dịch vụ ngân hàng được phát triển an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách tiền tệ được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ đã được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và mọi đối tượng dân cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại Việt Nam , xử lý nợ xấu, đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ sở công nghệ hiện đại, nội mạng và thanh toán điện tử…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nêu trên, hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần được khắc phục như:
- Hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng nề dịch vụ ngân hàng truyền thống.
- Tình hình nợ xấu có xu hướng giảm chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là khối các tổ chức tín dụng Nhà nước. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây dựng cơ bản bằng Việt Nam đồng đang ở mức cao trên tổng dư nợ.
- Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên. Mặc dù lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống, nhưng việc lãi suất tiền gửi tăng lên làm lãi suất cho vay cũng tăng thêm, và điều đó tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn.
- Các công cụ điều tiết chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước còn bất cập nên tác dụng điều tiết chưa cao. Do đó, khi lãi suất thị trường lên cao trong khi vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại dư thừa, ngân hàng Nhà nước thiếu khả năng can thiệp để điều tiết mặt bằng lãi suất.
- Cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tuy nhiên, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn dài trên một năm tại các ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng thấp (khoảng 30%), còn lại là ngắn hạn dưới một năm (70%). Trong khi đó, tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn hiện đã ở mức trên 40% và đang có sức ép tăng lên với quá trình công nghiệp hóa của đất nước.
- Hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại tệ còn chưa cao như mong muốn và chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng phục vụ cho sản xuất – kinh doanh.
- Phần lớn vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam đều thấp nên khả năng thanh khoản và tính bền vững của hệ thống chưa cao. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng, sức ép cạnh tranh còn thấp. Các ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng quá nhỏ bé và yếu kém đang là điểm dễ bị tổn thương nhất của hệ thống.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở rộng thị trường tài chính, cho phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng như những ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Hệ thống ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lý tập trung đối với rủi ro thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản lý rủi ro thanh khoản hầu như chỉ thực hiện những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi xuất hiện những biến động bất thường, một số ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống.
- Phần lớn các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được quy trình tập trung tại hội sở chính đối với rủi ro về tỷ giá và kinh doanh ngoại hối; quy trình quản lý trạng thái ngoại hối chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả để hạn chế tác động của những rủi ro này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất và tỷ giá. Bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối không chấp nhận các giới hạn về trạng thái ngoại tệ, báo cáo thiếu trung thực, đầu cơ trong kinh doanh nhưng không kiểm soát được rủi ro tỷ giá. Vì vậy, khi phải đối mặt với biến động của thị trường đã gây tổn thất cho chính tổ chức tín dụng.
3. Chính sách mở cửa và hội nhập
3.1. Chính sách thuế quan theo cam kết khi gia nhập WTO
Với việc thực hiện cam kết về thuế quan theo các văn bản đàm phán khi Việt Nam gia nhập WTO, sau 5 đến 7 năm thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm từ 17,4% xuống 13,4% với 10.600 dòng thuế.
Bảng 1: Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm mặt hàng
Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết cắt giảm cuối cùng (%)
1.Nông sản
25,2
21,0
2.Cá, sản phẩm cá
29,1
18,0
3.Dầu khí
36,8
36,6
4.Gỗ, giấy
14,6
10,5
5.Dệt may
13,7
13,7
6.Da, cao su
19,1
14,6
7.Kim loại
14,8
11,4
8.Hóa chất
11,1
6,9
9.Thiết bị vận tải
46,9
37,4
10.Máy móc thiết bị cơ khí
9,2
7,3
11.Máy móc thiết bị điện
13,9
9,5
12.Khoáng sản
16,1
14,1
13.Hàng chế tạo khác
12,9
10,2
Cả biểu thuế
17,2
13,4
Nguồn: Tổng cục thuế Việt Nam
Trong toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của biểu thuế), giữ nguyên mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng thuế (chiếm 34,5% số dòng của biểu thuế), tăng cao hơn so với mức thuế hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của biểu thuế).
Trong lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và 21,0% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng gồm: trứng, đường, thuốc lá, muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch tương đương mức thuế hiện hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá 30%, muối ăn 30%) thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1% và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. Việc tham gia hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các hiệp định dệt may với liên minh châu Âu và Hoa Kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
Bảng 2: Các cam kết thực hiện hiệp định tự do hoá theo ngành
Hiệp định tự do hoá theo ngành
Số dòng thuế
Thuế suất cam kết cuối cùng (%)
1.Hiệp định công nghệ thông tin ITA (tham gia 100%)
330
0%
2.Hiệp định hài hoà hoá chất CH (tham gia 81,25%)
1.300/1.600
4,4%
3.Hiệp định thiết bị máy bay dân dụng CA (tham gia hầu hết)
89
2,6%
4.Hiệp định dệt may TXT (tham gia 100%)
1.170
13,2%
5.Hiệp định thiết bị y tế ME (tham gia 100%)
81
0%
Ngoài ra, tham gia không đầy đủ một số hiệp định khác như thiết bị khoa học, thiết bị xây dựng…
Nguồn: Tổng cục thuế Việt Nam
3.2. Thâm nhập thị trường nước ngoài
Khi chưa gia nhập WTO, với nền kinh tế mở cửa, khuyến khích đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước khu vực ASEAN và trên thế giới. Trong mối quan hệ thương mại này, nước ta với lợi thế là nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ tay nghề cao, chiếm ưu thế trong gia công sản phẩm xuất khẩu. Nhưng trong những mối quan hệ thương mại quốc tế thì vẫn là nước chịu nhiều thiệt thòi do chưa thiết lập được hiệp định thương mại song phương và đa phương với những đối tác của mình, đặc biệt là những thị trường lớn như thị trường mậu dịch tự do Bắc Mỹ, thị trường mậu dịch tự do EU. Một minh chứng điển hình là việc xuất khẩu cá da trơn (cá tra, cá ba sa), tôm vào thị trường Mỹ; giày, dép vào thị trường EU. Với giá xuất khẩu rẻ, các doanh nghiệp Việt Nam bị các nước này áp đặt là bán phá giá. Các quốc gia này đã “bảo vệ sản xuất trong nước” bằng cách áp dụng chính sách bảo hộ thông qua đánh thuế nhập khẩu rất cao, gây rất nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Khi vào WTO,Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với hơn 150 nước thành viên và đã khắc phục được phần nào tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, gần đây chúng ta vẫn còn bị áp thuế chống bán phá giá đối với một số mặt hàng như: giầy da xuất khẩu, giày mũi vải, túi nhựa PE…
4. Phát triển kết cấu hạ tầng
4.1. Những cam kết chủ yếu khi gia nhập WTO
* Dịch vụ giao thông vận tải
- Vận tải đường biển được thành lập liên doanh, trong đó phần vốn góp của nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định. Các công ty vận tải biển 100% vốn nước ngoài chỉ được thành lập sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Vận tải hàng không được phép cung ứng dịch vụ văn phòng hoặc đại lý bán vé tại Việt Nam. Sửa chữa hoặc bảo trì máy bay sẽ được thành lập công ty liên doanh với vốn góp tối đa phía nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định. Sau 5 năm, công ty liên doanh 100% vốn nước ngoài mới được phép thành lập.
- Vận tải đường sắt cho phép các công ty liên doanh với phần vốn góp nước ngoài không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
- Vận tải đường bộ: Các công ty nước ngoài được phép vận tải bằng đường bộ dưới hình thức hợp đồng, liên doanh với phần vốn góp không quá 49% vốn pháp định. Sau 3 năm, tùy thuộc nhu cầu thị trường, các công ty liên doanh có thể cho phép mức tối đa vốn góp phía nước ngoài lên đến 51% vốn pháp định nhưng lái xe phải là người Việt Nam.
* Dịch vụ viễn thông
- Các dịch vụ qua biên giới đối với điện thoại, truyền dữ liệu phụ thuộc vào đường dây truyền hoặc di động trên mặt đất thì cần đạt được thỏa thuận thương mại với đối tác phía Việt Nam, đồng thời phải được cấp phép cung ứng dịch vụ quốc tế. Đối với dịch vụ viễn thông cung ứng dựa trên vệ tinh: cần thỏa thuận với nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh quốc tế của Việt Nam được cấp phép (trừ một số dịch vụ cho các đối tượng kinh doanh ngoài khơi, trên biển, văn phòng ngoại giao…).
- Đối với dịch vụ không dựa trên tiện ích hạ tầng mạng: các nhà cung cấp dịch vụ được liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông ngay sau khi gia nhập, phần vốn góp không vượt quá 51% vốn pháp định và sau 3 năm, phần vốn pháp định không được vượt quá 65%. Đối với dịch vụ dựa trên tiện ích hạ tầng mạng:các doanh nghiệp nước ngoài được liên doanh với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông ngay sau khi gia nhập, phần vốn góp không vượt quá 49% vốn pháp định.
- Đối với dịch vụ viễn thông cơ bản: sau 3 năm, các công ty nước ngoài được phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất.
- Các dịch vụ giải trí gia tăng khác dựa trên các dịch vụ viễn thông sẽ có phần vốn góp phía nước ngoài không vượt quá 50%.
4.2. Thực trạng kết cấu hạ tầng sau gia nhập WTO
4.2.1. Cải thiện tình trạng kết cấu hạ tầng
Sau gia nhập WTO, cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt. Ngành viễn thông có tốc độ phát triển nhanh thứ 2 trên thế giới, được trang bị công nghệ hiện đại không thua kém các nước trong khu vực. Ngày càng nhiều nhà máy phát điện được xây dựng làm công suất phát điện không ngừng tăng lên. Đặc biệt là dự án nhà máy điện hạt nhân sắp được xây dựng hứa hẹn sẽ mang lại nguồn điện lớn cho nước ta. Vận chuyển hành khách trước gia nhập WTO, năm 2006 đạt 1493,8 triệu người tăng 10,7% so với năm 2005. Sau gia nhập WTO, khối lượng hành khách vận chuyển năm 2007 là 1638,0 triệu người tăng 9,7% so với năm 2006 và năm 2008 là 1784,7 triệu người tăng 9,0% so với năm 2007. Vận chuyển bằng đường bộ, đường sông, đường hàng không đều tăng nhưng bằng đường sắt lại giảm.
Vận chuyển hàng hóa trước gia nhập WTO, năm 2006 đạt 513575,1 nghìn tấn tăng 11,6% so với năm 2005. Sau gia nhập WTO, vận chuyển hàng hóa năm 2007 là 596800,9 nghìn tấn tăng 16,2 % so với năm 2006 và năm 2008 là 648681,5 nghìn tấn tăng 8,7% so với năm 2007. Chỉ duy vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt giảm, còn vận chuyển bằng các phương tiện khác đều tăng.
Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng chỉ mới phát triển mạnh ở các thành phố lớn và trung tâm của cả nước; các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa còn rất thiếu. Nhìn chung mức độ phát triển hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển hiện tại và trong tương lai của sản xuất kinh doanh trong nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, cơ sở hạ tầng của Việt Nam không chỉ giới hạn ở nhu cầu trong nước. Với ưu thế về vị trí địa lý, nằm trong một vùng phát triển năng động với tuyến vận tải lưu lượng cao, Việt Nam có thể phát triển cơ sở hạ tầng như một trạm trung chuyển quốc tế để cung cấp dịch vụ cho khu vực. Cơ sở hạ tầng có thể trở thành nguồn thu ngoại tệ quan trọng của nền kinh tế.
Về viễn thông, trong những năm gần đây, các nhà mạng mới liên tục xuất hiện. Kèm theo đó, số lượng người dân sử dụng điện thoại và thời gian sử dụng cũng tăng lên đáng kể, nhất là với điện thoại di động. Tuy nhiên, con số này còn khá nhỏ so với các nước trong khu vực và toàn thế giới.
Về giao thông, Việt Nam chỉ có 30% mạng lưới đường bộ được rải nhựa, 12% trong số đó còn tốt. Hệ thống giao thông nông thôn rất kém phát triển. Đường sắt chỉ có một chiều dẫn đến tình trạng phải dừng lại để chờ tàu, tránh tàu mất thời gian và không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân vào các dịp cao điểm. Ngành hàng không mặc dù hiện đại nhưng số lượng ít và mạng đường bay tương đối hẹp; hành khách và hàng hóa đến Việt Nam phải trung chuyển qua các sân bay đầu mối ở nước khác, làm tăng chi phí về thời gian và tiền bạc. Độ an toàn của lịch bay thấp, tỷ lệ tạm hoãn chuyến bay cao. Đội tàu thủy, kể cả tàu viễn dương chủ yếu là tàu cũ, trọng tải thấp. Các cảng biển nhỏ và không đủ sâu cho các tàu đúng tiêu chuẩn quốc tế, khả năng giải phóng hàng thấp do thiết bị bốc dỡ lạc hậu, kho hàng không đủ diện tích và điều kiện bảo quản.
Hệ thống cung cấp nước sạch và thoát nước còn rất thiếu, không đảm bảo điều kiện vệ sinh. Tại các thành phố còn xảy ra hiện tượng úng lụt khi mưa lớn. Điển hình là trận lụt tại Hà Nội xảy ra vào những ngày đầu tháng 11 năm 2008.
4.2.2. Giá cả dịch vụ
Một số giá dịch vụ cơ sở hạ tầng của Việt Nam cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực, trong khi đó một số giá khác lại quá thấp không đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Giá thuê đất khu công nghiệp và văn phòng còn cao hơn các nước khác làm giảm việc mở rộng sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Giá cước viễn thông liên tục giảm và có nhiều hình thức khuyến mại nhưng vẫn thuộc loại cao trong khu vực và so với thu nhập của người dân, nhất là cước điện thoại quốc tế.
Chế độ quản lý giá của Nhà nước
Giá cước các dịch vụ công ích cơ bản như điện, nước, bưu chính, vận tải đường sắt đều do Nhà nước quy định. Bản thân doanh nghiệp không ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31513.doc