Lời nói đầu
Cách đây 10 - 15 năm một hoạt động nào đó mang tính chất quốc tế, hay khu vực diễn ra tại nước ta đã trở thành sự kiện bất ngờ, lạ lẫm đối với người dân Việt Nam thì ngày nay, qua báo chí, truyền thanh truyền hình hàng ngày chúng ta có thể thấy các tổ chức quốc tế, khu vực, các hoạt động văn hoá thể thao, chính trị, đặc biệt là kinh tế diễn ra tại Việt Nam.
Chính trị ngoại giao có sự kiện: Tổng thống Mỹ Biclintơn và gia đình đến Việt Nam vào tháng 4 - 2001 (bây giờ là cựu tổng thố
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng).
Văn hoá thể thao có: Liên hoan quốc tế tại Việt Nam, thể thao Việt Nam quen thuộc với các huy chương vàng, bạc ngang tầm với khu vực quốc tế. năm 2002 Seagame 22 diễn ra tại nước ta...
Nổi bật nhất là kinh tế: Các Hội nghị khu vực, quốc tế tại Việt Nam, đó là hội nghị EMM - 3 và ASM - 33, Việt Nam là thành viên của ASEAN, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ ký kết...
Đồng thời nhìn ra thế giới ta cũng có thể thấy các quốc gia ngày càng gần nhau hơn: ta có ASEAN 10 thành viên đầy đủ, các quốc gia Châu Âu hình thành đồng tiền chung ERO. Trung Quốc gia nhập WTO,... toàn cầu hoá hay hội nhập quốc tế không còn xa lạ với chúng ta nữa. Và hơn bao giờ hết, bài toán hội nhập kinh tế quốc tế đã làm đau đầu không chỉ Chính phủ mà đối với mỗi một doanh nghiệp, mỗi một chủ thể tham gia vào nền kinh tế nước ta. Chúng ta không thể không hội nhập kinh tế quốc tế nhưng chung ta hội nhập như thế nào, chúng ta đang có những thuận lợi và phải khắc phục khó khăn nào để hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước đề ra phù hợp đúng đắn cho vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 1997 Luật Đầu tư nước ngoài ra đời cũng thể hiển chủ trương của Đảng được xác định qua đại hội VIII (1996) "đẩy nhanh quốc tế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Đại hội Đảng (4/2001) vừa qua cũng đã xác định bối cảnh quốc tế trong giai đoạn 2000 - 2010, đó là "Toàn cầy hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước... vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế" cũng chính vì vậy Đại hội Đảng IX cũng khẳng định quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế: "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế".
Như vậy ta có thể thấy nghiên cứu vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay đã trở thành mối quan tâm chung của tất cả mọi người, những người mà trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào nền kinh tế quốc dân.
Là một sinh viên kinh tế tôi không dám đưa ra một cách nhìn tổng quát đầy đủ, sâu sắc về vấn đề chủ nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đây mới chỉ là cách nhìn còn mang nhiều ý kiến chủ quan, một kiến thức còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Hữu Thực đã hướng dẫn, giúp tôi hoàn thành đề án này.
Nội dung
I. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Xu thế toàn cầu hoá hiện nay
1.1. Khái niệm chung về toàn cầu hoá.
Ngày nay, cụm từ "toàn cầu hoá" không còn xa lạ đối với chúng ta đặc biệt là giới tri thức trẻ và những người quan tâm đến các vấn đề của thế giới. Tuy nhiên có rất nhiều cách nhìn nhận về toàn cầu hoá. ở nét khái quát nhất, tổ chức OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) đã coi toàn cầu hoá là quá trình mở rộng tới "một hoạt vấn đề cũng mang lại sự đổi thay cho nền chính trị và kinh tế ngày nay trên quy mô toàn cầu". Đó là các vấn đề: Khả năng có thể tồn tại của hệ thống thương mại thế giới, nhu cầu ngày càng tăng của sự hội nhập có "chiều sâu" về chính sách quốc tế và sự giám sát rõ ràng tính độc lập tự chủ trong chính sách kinh tế quốc gia; sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ; tầm quan trọng của sự đổi thay trong các hệ thống quản lý các tập đoàn Công ty lớn, hay trong hệ thống tổ chức công nghệ hoá là cơ sở cho sức cạnh tranh của các nước, các Công ty; sự đa dạng hoá ngày càng tăng giữa các nước phát triển, nạn đói nghèo và nguy cơ một tỷ lệ lớn dân số trên trái đất bị loại trừ; những vấn đề nghiêm trọng về nạn thất nghiệp và những khác biệt về tiền lương về mức thu nhập đang ngày càng tăng lên ở những nước phát triển nhất, sự thay đổi của vai trò Chính phủ....
Để có cái nhìn rõ ràng hơn ta có thể hiểu quá trình toàn cầu hoá bao gồm:
Thứ nhất: là sự gia tăng mạnh mẽ, vượt khỏi các đường biên giới quốc gia tới quy mô quốc tế, của các luồng giao lưu hàng hoá, dịch vụ thương mại, đầu tư, tài chính, công nghệ, công nghệ nhân lực.
Thứ hai là: sự hình thành và phát triển các thị trường thống nhất trên phạm vi toàn cầu và khu vực, cũng như sự hình thành và phát triển các định chế và các cơ chế điều tiết quốc tế để quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.
Thực tế không phải bây giớ toàn cầu hoá mới bắt đầu hình thành và phát triển, mà nó đã có tiền đề từ rất lâu trong lịch sử. Có người cho rằng những tiền đề này đã có từ thời kỳ mở đầu của chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở quá trình xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên qui mô thế giới. Chính vì thế phải khẳng định lại rằng toàn cầu hoá là một quá trình. Hơn nữa, đây là một xu thế khách quan là quy luật tất yếu trong sự phát triển của xã hội loài người. Khẳng định trên dựa vào những căn cứ, cơ sở thực tế sau:
1.2. Tất yếu của toàn cầu hoá:
Một là, một nền chủ nghĩa toàn cầu đang xuất hiện.
Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp : lần thứ I: từ thế kỷ XVIII, lần thứ II từ cuối thế kỷ XIX và lần thứ III từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây. Những tiến bộ về khoa học - kỹ thuật và công nghệ của ba cuộc cách mạng này đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí liên lạc viễn thông xuống vài trăm lần; đã có tác động cực kỳ quá trình đến toàn bộ quan hệ kinh tế quốc tế, đã biến các công nghiệp mang tính quốc gia thành công nghiệp toàn cầu. Lấy công nghiệp may mặc làm ví dụ. Trước đây với một máy may dù có hiện đại đến đâu thì sản phẩm cũng chỉ bán trong một địa phương, một quốc gia hay một khu vực chi phí vận chuyển liên lạc quá cao đã làm mất hết lợi thế so sánh nếu đưa sản phẩm này đến thị trường xa xôi. Nhưng ngày nay, Công ty NIKE chỉ nắm hai khâu: sáng tạo, thiết kế và phân phối toàn cầu, còn sản xuất do Công ty các nước thực hiện cũng đã làm cho công nghiệp may mặc có tính toàn cầu. Hàng loạt công nghệ sản xuất xe máy, ô tô, máy tính điện tử máy bay... ngày càng toàn cấu hoá sâu rộng. Tính toàn cầu ở đây thể hiện ngay từ khâu sản xuất, đó là phân công chuyên môn hoá cho nhiều nước, đến khâu phân phối; tiêu thụ trên toàn cầu. Từ việc giảm chi phí và cước phí giao thông liên lạc, vận chuyển nhờ vào việc tạo ra đường sắt, tàu hoả, và tàu biển chạy bằng hơi nước, ô tô, máy bay... cho đến những thập niên gần đây một cuộc giảm cước phí giao thông liên lạc và viễn thông mới lại diễn ra dựa trên cơ sở điện toán, số hoá, truyền thông vệ tinh, soi quang học mạng Internet đã khuếch đại mạnh mẽ lân sóng toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế.
Như vậy, nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các tập đoàn kinh doanh, các quốc gia có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát triển. Đây là cơ sở đầu tiên của nền kinh tế toàn cầy thống nhất.
Hai là: các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển:
Chính nền công nghệ toàn cầu phát triển mạnh mẽ đã trở thành cơ sở cho các quan hệ kinh tế toàn cầu. Trước hết là quan hệ thương mại, chi phí vận tải liên lạc giảm đi thì khả năng buôn bán trao đổi giữa địa phương quốc gia, khu vực tăng lên. Cùng với nó quá trình phân công chuyên môn hoá sản xuất diễn ra giữa các quốc gia, liên tục càng dễ dàng. Các linh kiện của máy bay Boing, ô tô, máy tính... đã không phải là sản phẩm của một bước mà của rất nhiều nơi trên thế giới.
Thương mại toàn cầu, sản xuất chuyên môn hoá toàn cầu đã kéo theo đồng vốn, tiền tệ, dịch vụ... vận động trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, lượng buôn bán tiền tệ toàn cầu đã vượt xa con số 1500 tỷ USD. Trong đó, ta thấy rằng, thương mại điện tử xuất hiện và phát triển với tốc độ chóng mặt.
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầy đã ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, rào cản quốc gia. Các quốc gia các khu vực, xích lại gần nhau hơn qua các tổ chức liên kết kinh tế. mang bản chất chính trị nhiều hơn, những thập niên 40, xuất hiện khối liên kết kinh tế giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật và Hội đồng tương trợ kinh tế SEV giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay lại hình thành nên các tổ chức như APEC, AFTA, NAFTA,... Đặc biệt quá trình quốc tế hoá về tài chính đẩy mạnh nhanh chóng: hình thành nên Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên nước kinh tế và tiền tệ Châu Âu gần 11 nước thành viên với đồng tiền chung là đồng EURO. Cùng với các tổ chức liên kết kinh tế là sự ra đời các cam kết này đã, đang và sẽ công kích mạnh mẽ vào các bức tường thành quốc gia, rào cản quốc gia. Các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng đã cam kết một lộ trịnh giảm bỏ hàng rào. Ngay cả đối với Mỹ, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay gây sức ép thương mại đối với các nước có vẻ như đã mất hiệu lực, với dấu hiệu là Mỹ đã ký tối huệ quốc (MFN) đối với Trung Quốc.
Ba là: những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều trở nên bức xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu. Không có khó khăn gì để có thể nhận ra các vấn đề nổi cộm hiện nay của kinh tế toàn cầu. Môi trường ngày càng bị phá hoại, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; dân số thế giới tăng nhanh đến mức nảy sinh nguy cơ bùng nổ dân số; đồng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự điều tiết là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc khủng hoàng liên tiếp Châu Âu, Châu Mỹ, Châu á trong thời gian vừa qua; chiến tranh lạnh chấm dứt, đồng nghĩa với nó là kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, mở ra thời kỳ hợp tác, hoà bình, phát triển mới...
Những vấn đề này đã trở thành tất yếu khách quan đẩy đến toàn cầu hoá kinh tế với những đặc trưng chủ yếu: Thứ nhất là, các hàng rào quan thuế và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ theo các cam kết quốc tế đa phương và toàn cầu, tức là các biên giới quốc gia về thương mại đầu tư đang tiên vong. Thứ hai là, các Công ty của các quốc gia có quyền kinh doanh tự do ở mọi quốc gia, trên các lĩnh vực cam kết, không phân biệt đối xử; thực chất là sự xoá bỏ các biên giới về đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế khác.
Tuy nhiên, đến đây chúng ta lại phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi: làm thế nào để giải quyết sự trói buộc của hệ thống tiền tệ quốc gia với hàng trăng đồng tiền khác nhau, trao đổi theo các tỷ giá thả nổi bấp bênh? Làm thế nào để dung hợp được với hệ thống luật pháp các quốc gia thủ cựu? Có cấn đến "một bàn tay hữu hình toàn cầu" không? Và như vậy toàn cầu hoá kinh tế không thể tránh khỏi toàn cầu hoá về chính trị, an ninh, văn hoá, xã hội....?
1.3. Hai mặt của toàn cầu hoá.
Có người đã cho rằng: toàn cầu hoá là con dao hai lưỡi. Thực tế cũng đã cho thấy khi diễn ra hội nghị, diễn đàn bàn về vấn đề đẩy mạnh toàn cầu hoá thì bên cạnh sự ủng hộ của một bộ phận quần chung là thái độ kịch liệt phản đối, biểu tình gay gắt của không ít người lao động khác. Tại sao vậy? Quả thực, toàn cầu hoá không mang lại cơ hội phát triển cho tất cả quốc gia, tất cả người lao động trên thế giới. Toàn cầu hoá không hẳn là một tương lai rực sáng không phải là một thiên đường cho các nền kinh tế mà toàn cầu hoá là lò lửa, là một quá trình thử thách, đấu tranh sinh tồn. Mỗi mặt tích cực mà nó mang lại luôn đi với mặt hạn chế nảy sinh từ đó.
Toàn cầu hoá đưa ra một thị trường tiêu thụ mở rộng cho hàng hoá dịch vụ. Thị trường không hạn chế một nước, một khu vực, hay một châu lục nữa mà đã là thị trường toàn cầu. Lúc này không ai khác chính bản thân sản phẩm quyết định sự tồn tại của nó. Mỗi hàng hoá và dịch vụ phải đứng trước một môi trường cạnh tranh gay gắt. Nền kinh tế của các quốc gia riêng lẻ chịu sức ép vô cùng lớn từ bên ngoài. Không nhìn đâu xa, Việt Nam là một ví dụ phù hợp cho vấn đề này. Quả thực, hàng hoá Việt Nam ngày nay đã có mặt nhiều nơi trên thế giới và ban đầu đã gây uy tín không nhỏ thị trường nước ngoài ở Việt Nam không chỉ là gạo, cà phê, thuỷ hải sản... mà còn là sản phẩm may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ... không ít các Công ty TNHH tư nhân Việt Nam có nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Đây là dấu hiệu của khả năng cạnh tranh lành mạnh của hàng hoá, dịch vụ nước ta. Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam đã đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hàng hoá mang nhãn hiệu của các nước khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam đang phải cạnh tranh với những ưu thế của người bạn láng giềng "khổng lồ", đó là: giá rẻ, mẫu mã đẹp, phong phú đa dạng và với cả tâm lý "thích dùng đồ ngoại" của người dân nước ta. Với những khó khăn đang phải đối mặt liệu các doanh nghiệp Việt Nam có đứng bên bờ "phá sản" hay không?
Một tác động tích cực của toàn cầu hoá mà không thể không nhắc đến. Có thể nói đây là lợi ích hiện diện rõ ràng nhất đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Đó là dòng chuyển vốn, công nghệ, kỹ thuật, phương pháp quản lý tiên tiến từ các nước phát triển. Cơ hội này mở ra khả năng cho các nước nhận rút ngắn khoảng cách về thời gian và tiết kiệm tiền bạc cho giai đoạn từ nghiên cứu cho đến khi triển khai, ứng dụng. Đây cũng là lợi thế cho các nước đang phát triển có điều kiện đi tắt, đơn đầu mọi phương tiện. Nhưng cũng chính dòng chảy vốn, công nghệ, kinh tế, phương pháp quản lý tiên tiến này tạo ra một thế lực cạnh tranh đối với các nền kinh tế quốc gia trì trệ, kém hiệu quả. Trong một giới hạn nào đó, dòng di chuyển này là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp Nhà nước vào tình trạng phá sản, đi kèm là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nảy sinh hàng loạt vấn đề cho xã hội Chính phủ cần giải quyết.
Một biểu hiện của toàn cầu hoá hiện nay là hình thành các khối liên kết kinh tế cùng với cam kết, thoả thuận nhằm dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan. Đây là điều kiện quá trình thực hiện nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong kinh tế trong các quan hệ mua bán và giao lưu quốc tế. Không những thế các nước chậm phát triển được hưởng ưu đãi đặc biệt, chế độ tối huệ quốc, được cung cấp thông tin tự do mậu dịch, liên minh thuế quan, được bảo đảm các quyền thông qua các tổ chức quám sát, giám định quốc tế. Chính vì vậy, các nước chậm phát triển có điều kiện cải thiện quốc tế hoá không, liệu các chính sách tài chính có bắt kịp yêu cầu của xu thế thời đại? Các cuộc khủng hoảng Đông Nam á, Brazin, Nga, trong những năm 1997 - 1998 vẫn còn là những bài học sâu sắc cảnh báo cho các nước có tình hình tương tự.
Điểm cuối cùng như phần tất yếu của xu thế toàn cầu hoá đã trình bày, đó là các vấn đề mang tính toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết đơn lẻ. Xu thế toàn cầu hoá tạo nền sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia để cùng có lợi, tạo ra sức mạnh tổng hợp chống lại sự phân biệt đối xử sự đan xen phụ thộc lẫn nhau có còn có tác động hai mặt, các nền kinh tế sẽ nhạy cảm hơn với các biến động quốc tế, nhưng đồng thời những rủi ro có tính chất cá biệt cũng được phân tán. Do đó các nước đang phát triển có thể đạt được sự ổn định tương đối vốn hết sức cần thiết.
Trong thương mại và giải quyết tranh chấp dựa trên những định chế kinh tế tài chính bình đẳng. Đây là điều kiện để các nước chậm phát triển phát huy tối đa lợi thế của mình. Tuy nhiên nền kinh tế toàn cầu hoá sẽ phụ thuộc ngày càng nhiều vào các tổ chức quốc tế và khu vực: các hiệp định đa phương, Công ty xuyên quốc gia, liên minh kinh tế, tài chính... mà trong một chừng mực nhất định nằm ngoài tầm kiểm soát của các Chính phủ. Như vậy, mặt khác, một mặt trái của nền kinh tế tài chính là sự suy giảm bản sắc dân tộc, chủ quyền kinh tế song lại gia tăng sức ép kinh tế, chính trị. Sự hạn chế về khả năng kiểm soát của các cổ phần còn biểu hiện ở tình trạng tội phạm xuyên quốc gia, việc truyền bá nền văn hoá phi nhân bản...
Toàn cầu hoá là con dao hai lưỡi, nhưng là xu thế tất yếu khách quan mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vì vậy việc sử dụng nó như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất là cả một nghệ thuật tinh xảo.
2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
2.1. Việt Nam tất yếu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá ngày một phát triển mạnh mẽ, các quốc gia nhập kinh tế quốc tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau ở mức độ này hay mức độ khác, thì việc đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế thời đại và khó tránh khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có thể phải trả giá nhất định (như chúng ta đã xem xét mặt trái của toàn cầu hoá) song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy hoạch chung này.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung căn bản của toàn cầu hoá, nội dung thứ hai là tự do hoá kinh tế. Như vậy, nên hiểu toàn cầu hoá là một quá trình quốc tế kinh tế bao gồm hai quá trình phát triển song song (đã nêu trên tự do hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế) thì toàn cầu hoá có nghĩa là các quan hệ kinh tế không những được tự do phát triển trên phạm vi toàn cầu mà còn phải tuân theo những cam kết toàn cầu đa dạng. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định tư tưởng đúng đắn cho nền kinh tế nước ta. Chủ động hội nhập, chỉ có chủ động hội nhập thì nước ta mới giữ gìn được bản sắc dân tộc trong tốc độ toàn cầu hoá hiện nay. Chỉ có chủ động hội nhập mới đón bắt được những nguy cơ tiềm ẩn và giành lấy những cơ hội quý báo để phát triển kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu đa dạng, phong phú. Chỉ có chủ động hội nhập, Đảng và Nhà nước mới có được những quyết định sáng suốt trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế gắn liền với toàn cầu hoá về chính trị, văn hoá, xã hội.
Khi nghiên cứu cuộc khủng hoàn kinh tế Thái Lan năm 1997, các nhà kinh tế học cho rằng: toàn cầu hoá tự bản thân nó không là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng mà chính là cái cách thức người ta điều hành quá trình của cuộc khủng hoảng toàn cầu hoá. Tham gia vào một nền kinh tế thế giới rộng lớn hơn có thể là một sự trợ giúp cho nền kinh tế trong nước phát triển song chắc chắn rằng: thành công hay thất bại của các nước chủ yếu dựa vào công nhân của nước đó dựa bào các chính sách và đầu tư của Chính phủ. Các nhà kinh tế học cũng đã khẳng định: các nước mà hiện nay đang vấp phải vô vàn khó khăn trong quá trình hội nhập thì không phải là họ không biết lợi dụng hiện tượng toàn cầu hoá mà bởi vì họ đã không thể trang bị cho mình một cách kịp thời những thể chế và những cán bộ điều hành cần thiết để làm chủ quá trình hội nhập toàn cầu. Lấy Thái Lan làm ví dụ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nền kinh tế năm 1997 là do Thái Lan đã không làm chủ được dòng vốn từ nước ngoài. Từ những năm 1990 Thái Lan đã dỡ bỏ hết mọi hàng rào kiểm soát ngặt nghèo sự dịch chuyển tư bản qua biên giới, do đó dòng chảy tư bản đã ào ạt vào Thái Lan dưới hình thức đầu tư ngắn hạn, và sau đó lại rút ra hết sức nhanh chóng gây nên sự rối loạn thị trường tài chính. Do đó các nhà kinh tế đã đưa ra các biện pháp chủ yếu để cần thiết, tiếp tục một chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh, cải cách thể chế và làm chủ dòng chảy tư bản quốc tế. Như vậy có nghĩa là Thái Lan phải tham giatt quốc tế một cách ổn định tốc độ vừa phải và thực sự chủ động trong quá trình hội nhập đó bằng những hành lang thể chế. Bởi vì nếu không chủ động thì sự tự do hoá sẽ dẫn đến tình trạng vô Chính phủ, nền kinh tế không tồn tại và phát triển lâu dài được.
Bởi vì Thái Lan cũng là một quốc gia thuộc Châu á, cùng chung những điều kiện tự nhiên và xã hội với Việt Nam, cũng vấp phải những khó khăn mà nước ta đang trải qua. Cho nên nền kinh tế Thái Lan là một bài học đắt giá đối với nước ta về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Và cũng từ đó để thấy rằng chủ động hội nhập kinh tế toàn cầy là con đường đúng đắn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của nước ta.
2.2. Nội dung và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Với kim chỉ nam như trên, việc nghiên cứu nội dung và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là nhu cầu cấp bách mà còn là nhiệm vụ quan trọng sự phát triển kinh tế đất nước.
2.2.1. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hiện nay có thể là một tổ chức kinh tế toàn cầu có sức mạnh nhất với các Hiệp nghị có nội dung có tính chất chi phối các kinh tế quốc tế thể hiện rõ nhất nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các vấn đề mang tính nguyên tắc được rút từ được cam kết ông đàm phán (diễn ra từ khi hiệp định chung về thương mại và thiếc quan GATT năm 1947 tại Genevơi cho đến nay). Đó là:
Về thương mại hàng hoá.
Thứ nhất là, giảm thuế nhập khẩu và bỏ hàng rào phi quan thuế. Thuế nhập khẩu cao và các biện pháp phi quan thuế thực tế là hàng rào ngăn cản quá trình hội nhập quốc tế của các quốc gia. Các biện pháp phi quan thuế đã phát triển hết sức tinh vi và đa dạng và không có cách nào định lượng được các hàng rào đa dạng này. ở không ít các nước, mức thuế nhập khẩu thấp nhưng hàng rào phi quan thuế tinh vi đã không cho hàng hoá nhập vào. Chính vì vậy, người ta đã kết luận là phải sớm xoá bỏ hàng rào này và quy về biện pháp bảo hộ duy nhất là thuế nhập khẩu. Với hàng rào này, người ta có thể định lượng cao thấp, cam kết hạ dần hàng rào và quan trọng là có thể kiểm soát việc thực hiện cam kết. Mức thuế suất đối với hàng nhập khẩu từ các nước công nghiệp sẽ giảm từ 6,3% xuống 3,9%. Đối với mức giảm thuế quan các thành viên WTO (tức là GATT) cam kết thực hiện tự do hoá thương mại và dịch vụ, chống bán phá giá, đảm bảo quyền sở hữu trí tựu...
Thứ hai là công nhận quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các chủ thể và cá nhân trong và ngoài nước trên lãnh thổ của mình.
Lấy Mỹ và Việt Nam làm ví dụ. Nguyên tắc này cho phép các Công ty Việt Nam sang Mỹ kinh doanh xuất nhập khẩu và ngược lại với tất cả mọi quyền như Công ty của nước sở tại, có nghĩa là sẽ thiết lập một môi trường kinh doanh bình đẳng ở mọi quốc gia, tạo ra một thế giới tương đối thống nhất với các chsủ thể kinh doanh và quyền hoạt động toàn cầu. Đây là con đường phát triển bởi áp lực cạnh tranh sẽ tăng lên, động lực phát triển sẽ tăng cường. Bởi vì sự xuất hiện của các Công ty nước ngoài hùng mạnh vào hoạt động thì buộc các Công ty trong nước phải vươn mình để tồn taị và phát triển.
Về thương mại dịch vụ:
Hiệp định dịch vụ của WTO quy định các nước mở cửa thị trường dịch vụ cho nhau theo 4 phương thức: (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới từ lãnh thổ của nước thành viên này sang lãnh thổ thành viên khác. (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ. (3) hiện diện thương mại của Công ty một nước thành viên lãnh thổ một thành viên khác với các hình thức lập liên doanh, chi nhánh, Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. (4) hiện diện chủ nhân, di chuyển tư nhân. WTO cũng đã quy định: khi đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ, các nước phát triển theo phương pháp loại trừ tức là không chấp nhận dịch vụ nào thì đưa ra đàm phán, còn các nước đang phát triển được quyền chỉ đưa ra đàm phán lĩnh vực nào được chọn mở cửa.
Về đầu tư, WTO chưa có được một hiệp định chung mà mới chỉ có một số quy đọnh về đầu tư có liên quan đến thương mại.
WTO cũng đã có những quy định trong các lĩnh vực khác.
Hiệp định về bảo vệ quyền sở hữu trì trệ.
Quy định không phân biệt đối xử, nguyên tắc đối xử quốc gia áp dụng cho các đầu tư và dịch vụ tức là không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu hàng sản xuất trong nước.
Quy định về việc công bố công khai và minh hạch tất cả các chính sách kinh tế, thương mại của các nước thành viên.
Cho phép các nước có hành động tự vệ trong trường hợp cần thiết để bảo vệ cán cân thanh toán, ngành công nghiệp non trẻ bị bên ngoài tấn công.
Quy định về chế độ ưu đãi cho các nước đang phát triển, những nước có nền kinh tế chuyển đổi về lộ trình thực hiện cam kết, có thể kéo dài 5 năm.
Các quốc gia muốn tham gia nhập WTO phải đàm phán, nội dung chủ yếu của đàm phán là lộ trình dài, ngắn thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc nêu trên chung không thể đàm phán không thực hiện.
2.2.2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Với sự phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp của các quan hệ kinh tế thì cũng thể hiện ngày càng nhiều các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. ở đây chỉ nêu lên ba hình thức cơ bản, chủ yếu hiện nay.
1 - Các hiệp nghị kinh tế thương mại song phương.
Đây là hình thức hội nhập quốc tế phổ biến nhất và quan trọng nhất không chỉ đối với các nước phát triển mà đối với cả các nước đang phát triển. Mỹ là nước có nền kinh tế phát triển nhất, hội nhập kinh tế quốc tế với vai trò chi phối song chủ yếu và trước hết vẫn đưa vào các hiệp nghị kinh tế thương mại hai bên: Mỹ - Nhật, Mỹ - Châu Âu.... Nhật Bản hay các nước NIESS cũng vậy. Các quốc gia này, tay không tham gia vào các khối kinh tế song các quan hệ hai bên của họ cũng đủ sức tạo ra cạnh tranh những lợi thế so sánh có lợi cho họ trong cạnh tranh quốc tế. Ví dụ, các quốc gia ký hiệp định kinh tế, thương mại với Mỹ, dù chỉ là quan hệ giữa hai nước nhưng tổng lượng thị trường hàng hoá dịch vụ đầu tư đã không thua kém bất kỳ một khối kinh tế nào. Mặc dù vậy các hiệp định kinh tế dù có rộng lớn đến đâu vẫn có những hạn chế, đó là khi phải đối diện với các vấn đề mang tính toàn cầu, những khối kinh tế hùng mạnh.
2 - Các khối kinh tế khu vực.
Hiện nay, trên thế giới có thể kể đến hàng chục khối kinh tế khu vực khác nhau, nhưng hoạt động nổi bật hơn cả là: EU (Liên minh Châu Âu) NAFTA (Khối kinh tế Bắc Mỹ), AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), APEC (Diễn đãn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương).... Tuy nhiên mức độ hợp tác của các khối kinh tế này khác nhau. Có khi chỉ dừng lại ở mức độ thỏa thuận buôn bán, có khối đã thoả thuận xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong khối, có khối đã lập ra liên minh thuế quan, tạo lập ra cả một thị trường chung cho phép tự do thương mại hàng hoá, dịch vụ vốn, lao động. Nấc thang phát triển cao nhất hiện nay của các khối kinh tế là liên minh kinh tế. Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu hoạt động từ năm 1992 với các chính sách: tiền tệ, tài chính, thương mại công nghệ, an ninh chung, quốc hội, toà án, đồng tiền chung...
Việc ra đời các khối kinh tế có tác động quan trọng, thúc đẩy tự do hoá thương mại đầu ra, thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường các quốc gia, tạo lập ra những khu vực thị trường rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiên tiến...
3 - Những tổ chức kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất là các tổ chức kinh tế có tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế toàn cầu hiện có: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), một số tổ chức kinh tế của Liên hiệp quốc: VNDP, G8 (G7 Nga), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế DECD... Hoạt động nổi bật nhất hiện nay vẫn là WTO, IMF, WB. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có những cam kết quốc tế về thương mại hàng hoá là tương đối có hiệu lực, còn các lĩnh vực chính sách tiền tệ, đầu tư chu chuyển vốn, bảo vệ, tiêu chuẩn về lao động và di chuyển lao động quốc tế, chống tham nhũng.... vẫn cần có luật lệ toàn cầu hữu hiệu hơn. Ngay cả hoạt động của IMF và WB cũng chỉ kiểm soát một phần dòng vốn, tiền tệ chính thức của Nhà nước, còn việc buôn bán tiền tệ, và dòng vốn tư nhân vẫn vận động ngoài vòng kiểm soát. Do đó việc cải tổ thích hợp những tổ chức này là điều cần thiết trong thời gian tới.
Thứ hai là các tổ chức kinh doanh toàn cầu: đó là các Công ty xuyên quốc gia với các con số đáng kể: 60.000 Công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh, nắm 25% sản xuất thế giới, 50% mậu dịch quốc tế, 90% với đầu tư trực tiếp, trên 80% bản quyền kỹ thuật và công nghệ mới. Các đặc trưng mới hiện nay của các Công ty xuyên quốc gia là: (1) làn sóng sát nhập gia tăng, chứng tỏ sức cạnh tranh toàn cầu ngày càng mạnh, đòi hỏi vốn, công nghệ mạng lưới phân phối ngày càng cao; (2) các Công ty nhỏ và vừa cũng gia tăng hoạt động xuyên quốc gia, đặc biệt trong dịch vụ; (3) ở các nước đang phát triển xuất hiện các Công ty xuyên quốc gia của mình hoạt động ở nhiều nước; (4) các Công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Nếu không có các Công ty xuyên quốc gia thì sự hội nhập chỉ dừng lại hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút nước ngoài vào nước mình. Do đó có thể dự báo: các Công ty xuyên quốc gia sẽ là hình thức doanh nghiệp cơ bản trong tương lai.
2.3. Một số lợi ích bước đầu nước ta đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù vấp phải rất nhiều khó khăn, song nhìn lại những năm qua, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn không ngừng được mở rộng và bước đầu đã đưa lại những lợi ích đáng kể, không thể phủ nhận cho đất nước.
Một là, thông qua các hiệp ước song phương và đa phương, cho đến nay, nước ta đã có quan hệ với 165 nước trên thế giới (tại thời điểm năm 2000 là 154 nước), kim ngạch xuất khẩu tăng từ 677,8 núp/USD năm 1986 lên 14,3 tỷ USD năm 2000, năm 2001 tăng 4,5%. Trong cùng thời gian kim ngạch nhập khẩu tăng tương ứng từ 1,83 tỷ núp/USD lên 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào nửa những năm 80 đến nay cán cân xuất - nhập gần đạt cân bằng, từ cuối những năm 90, nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD như: dầu thô, gạo, hàng dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản...
Cuối năm 2001, hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức hiệu lực mở ra cho hàng hoá dịch vụ Việt Nam một thị trường rộng mở và đầy thách thức cùng thời gian này việc Trung Quốc gia nhập WTO, tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường với 1,3 tỷ dân. và chắc chắn cơ hội mở rộng thị trường ra khu vực từng bước thế giới vẫn chưa dừng ở đó.
Hai là, song song với việc xâm nhập thị trường quốc tế, Việt Nam đã tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành đầu năm 1988 và từng bước được điều chỉnh đến cuối năm 2000 đã có trên 700 Công ty thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước tă với hơn 3.000 dự án, có tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ USD trong đó vốn đã thực hiện 17 tỷ USD.
Mặc dù do khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và sự chậm đổi mới trong chính sách kinh tế, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn có xu hướng gia tăng những năm gần đây, cụ thể là tỷ trọng của khu vực này trong GDP tăng lên, 6,3% năm 1995; 7,4% năm 1996; 9,1% năm 1997; 9,8% năm 1998; 10% năm 1999; trên 10% năm 2000 và đến hết ngày 30/10/2001 cả nước thêm 1,9 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài tăng 200% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Bên cạnh đó, ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra khoảng 35 việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp.
Hiện nay Việt Nam được đánh giá là đặc điểm an toàn nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Đây có phải là c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33701.doc