FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao VN trong tiến trình toàn cầu hoá

Lời mở đầu Thế kỷ 21 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn cầu, một thế giới đầy sôi động của quá trình toàn cầu hoá. Điều đó đã thúc đẩy các nước tích cực gia nhập vào các tổ chức quốc tế như: WTO (tổ chức thương mại quốc tế), OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế), APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dương)…một loạt các hợp tác, đối tác được ký kết giữa các quốc gia tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế-xã hội, giao lưu buôn bán giữa các nước trong thời kỳ mở cửa

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao VN trong tiến trình toàn cầu hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Đây là yếu tố hình thành vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), một nguồn vốn có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CNH-HĐH của các nước đang phát triển, giải quyết một phần công ăn việt làm cho người lao động. Đối với Việt Nam, một nước đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, cơ sở vật chất- kỹ thuật còn thiếu thốn, vậy mà mới chỉ đổi mới thật sự sau năm 1986. Do đó, vấn đề đặt ra là: bằng mọi cách phải đưa nước ta theo kịp với trình độ phát triển của thế giới, biến nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp vững vàng về mọi mặt nhưng cũng chỉ duy trì một tỷ lệ thất nghiệp cho phép. Bởi vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở nước ta trong tiến trình toàn cầu hoá đặt ra nhiều khó khăn và thách thức lớn. Để giải quyết vấn đề này không chỉ là yêu cầu trước mắt mà đó là cả vấn đề lâu dài cần phải có nhiều giải pháp. Một trong các cách để giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp đó là: Xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để từ đó có thể thu hút được các nguốn vốn đầu tư của nước ngoài đặt biệt là FDI. Bởi vậy trong khuôn khổ của đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa”. Nội dung của đề tài gồm 3 phần: Phần I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá Phần II: Phân tích trực trạng về hiệu qủa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. Phần III: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu qủa của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. Để hoàn thành được đề tài này em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Kinh tế Lao động và dân số trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, và đặt biệt là với sự giúp đỡ tận tình của Ts.Trần Thị Thu đã giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Em xin chân thành cảm ơn Nội dung Phần I Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề taọ việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. I.Khái niệm đầu tư và đầu tư trực tiếp 1. Khái niệm đầu tư: Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Nguồn vốn đầu tư này có thể là những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, nhà máy, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại…Các doanh nghiệp còn có thể đầu tư bằng cổ phần, trái phiếu, các quyền về sở hữu tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt kinh tế như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên… Đối với một doanh nghiệp, hoạt động đầu tư là công việc khởi đầu quan trọng nhất và khó khăn nhất của quá trình sản xuất, kinh doanh. Những quyết định của ngày hôm nay về lĩnh vực, quy mô hình thức, thời điểm đầu tư sẽ chi phối quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, chất lượng của các quyết định đầu tư sẽ quyết định sự thịnh vượng hay xuống dốc của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện đời sống trong tương lai. 2.Đầu tư nước ngoài trực tiếp. Trong các nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng 30% số vốn đã thực hiện), hiện nay tỷ trọng này đang có xu hướng ngày một tăng lên. Sự gia tăng này đang có xu hướng ngày một tăng lên. Sự gia tăng này không chỉ bắt nguồn từ sự hùng mạnh của các công ty đa quốc gia và chiến lược phát triển mở rộng đầu tư của các công ty này mà còn ở chỗ nó là hình thức đầu tư được thực tế xác nhận là có hiệu quả cao và phù hợp với nhu cầu tăng trưởng nhanh của các nước nghèo, trong đó có Việt Nam. Theo quan niệm quả OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) thì các nguồn tài trợ cho nước ngoài bao gồm: - Tài trợ phát triển chính thức: ODF (Official Development Finance) bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA (Offical Development Assistance) và các hình thức ODF khác, song phương cũng như đa phương. - Tín dụng xuất khẩu - Tài trợ tư nhân bao gồm vay từ ngân hàng quốc tế, vay tín phiếu, đầu tư trực tiếp, các nguồn tài trợ tư nhân khác, viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ. Như vậy, theo quan niệm của tổ chức này đầu tư trực tiếp là một trong những nguồn tài trợ tư nhân. Nhưng trong thực tế đầu tư thời gian qua chúng ta thấy rằng, chủ thể của FDI không chỉ có duy nhất tư nhân mà còn có nhà nước và các tổ chức phi chính phủ khá. Bởi vậy quan niệm như trên chưa thật đầy đủ. Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam chủ trương khuyến khích mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhằm góp phần phát huy mọi tiềm năng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. để thể chế hoá chủ trương đó và cũng là để tạo ra hệ thống khung pháp lí cho việc quản lí, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam qui định “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền mặt hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này”. với những qui định đã nêu trong luật thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc tư nhân) đưa vốn (bằng tiền hay bất cứ tài sản nào ) vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận và đạt được những hiệu quả xã hội. Do đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chính là loại hình duy chuyển vốn quốc tế mà trong đó mỗi ngời chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Đối với hình thức này, người bỏ vốn sẽ trực tiếp tham gia điều hành quy trình thực hiện và có thể quyết định mọi hoạt động nếu hình thức đầu tư là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia quyết định nếu là doanh nghiệp liên doanh. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần của cơ sở đó, là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Nếu nguồn tài trợ là ODF (chủ yếu là ODA) là nguồn tài trợ chính thức cho không hoặc vay ưu đãi do các quốc gia các tổ chức quốc tế cung cấp, thì FDI là nguồn đầu tư chủ yếu do các công ty đa quốc gia, việc tiếp nhận nguồn đầu tư này không gây nên tình trạng nợ cho các chủ nhà mà trái lại còn tạo điều kiền cho các nước chủ nhà phát triển tiêm năng trong nước. Bên cạnh đó, FDI không chỉ đưa vốn vào nước hưởng đầu tư mà đi cùng với nó là kỹ thuật, là công nghệ và bí quyết nâng cao năng lực của nền kinh tế trong nước, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Xét về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá và đây là hai hình thức xuất khẩu bổ xung và hỗ trợ cho nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn kinh tế nước ngoài. Nhiều trường hợp, hoạt động buôn bán hàng hoá tại nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, tìm hiểu luật lệ để đi đến quyết định đầu tư trực tiếp là điều kiện để xuất khẩu máy móc, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên, tạo việc làm cho các lao động của nước chủ nhà. II.Tạo việc làm Khái niệm chung. Việc làm: là mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm. Người có việc làm: Là người làm việc trong mọi lĩnh vực ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị phát luật ngăn cấm, mang lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. Người lao động có việc làm: Là người trong độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người lao động có việc làm trong tuần lễ điều tra. Tuỳ theo tình hình kinh tế- xã hội và đặc điểm của từng nhóm ngành nghề, Nhà nước quy định mức thời gian làm việc chuẩn để được coi là có việc làm. Tạo việc làm: Là một hình thức đào tạo cho người lao động một ngành nghề nhất định để sau khoá học với những kiến thức mà họ đã học được có thể làm được một công việc tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Hoặc có thể hiểu Tạo việc làm là tạo ra môi trường làm việc cho người lao động mà công việc đó phải đảm bảo được nhu cầu tối thiểu cho người lao động và không bị pháp luật cấm. Vai trò quan trọng của tạo việc làm ở nước ta hiện nay. Việt Nam là một trong những nước có dân số đông nhất trong khu vực và trên thế giới (khoảng 80 triệu người năm 2002), với một nguồn lao động dồi dào Việt Nam được xếp vào những nước có dân số trẻ. Hàng năm được bổ xung khoảng trên 1 triệu lao động, đây không những là động lực mà là cơ sở để phát triển những ngành nghề đòi hỏi nhiều lao động rất phù hợp với vị trí địa lý kinh tế của nước ta. Xong mặt khác, nó tạo ra sức ép cho các nhà quản lý trong việc ra các quyết định, các chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay. Thực tế, tính đến 1/7/2002 cả nước có 40.694.360 người đủ từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế trong 12 tháng, tăng 2,99% so với năm 2001 và có 20.061.462 nữ đủ từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế ( chiếm 49,30% ), tăng 2,49% so với năm 2001 (TC Giáo dục lý luận, số 2/02 ) Mỗi năm tồn đọng trong giải quyết việc làm là rất lớn cùng với 1,2 triệu lao động mới nên mỗi năm phảm đảm bảo việc làm cho khoảng 1,5-1,6 triệu lao động. Trong khi đó chất lượng lao động không cao: năm 2002, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm khoảng 94%, tỷ lệ lao động biết chữ khoảng 97%, số năm đi học trung bình là 7,3 năm và trình độ chuyên môn của LLLĐ còn thấp (19,62% ), mặc dù so với năm 2001, tỷ lệ này có tăng lên 2,57%. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để cho người lao động Việt Nam có thể theo kịp với trình độ phát triển của thế giới, một yết tố quan trọng trong tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay trước những yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. 3. Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề việc làm và nhân tố góp phần điều chỉnh làm giảm sức ép việc làm Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề giải quyết việc làm Cung lao động tăng nhanh do: + Hậu quả của bùng nổ dân số trong những năm trước đây đã dẫn đến tỷ lệ tăng nguồn lao động khá cao, bình quân hàng năm từ 3,2% đến 3,5% và mỗi năm có hơn 1triệu thanh niên mới bước vào tuổi lao động. Đến năm 2000 tỷ lệ tăng nguồn lao động ở nước ta vẫn trên 2,8%. + Việc sắp xếp lại sản xuất và lao động trong khu vực Nhà nước dẫn đến dư thừa rất lớn lao động. + Lao động tự do di chuyển từ nông thôn ra tìm việc làm ở thành thị và các vùng khác. - Cầu lao động tăng chậm do: + Thiếu vốn đầu tư. + Chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định thật rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trinh chuyển dịch nhưng diễn ra rất châm. + Một số ngành ( vùng ) có tiềm năng lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động nhưng thiếu điều kiện để biến khả năng thành hiện thực như vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật công nghệ, hoặc thị trường tiêu thụ Những nhân tố góp phần điểu chỉnh làm giảm sức ép việc làm Quan hệ cung cầu về lao động ở nước ta hiện nay rât căng thẳng do cung cầu lớn song có thể điều chỉnh để thích nghi và giảm việc làm. Sự điều chỉnh này được thực hiện thông qua sự di chuyển của các dòng lao động. Có thể khái quát các dòng di chuyển lao động ở nước ta như sau: - Dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố, thị xã, thị trấn để làm thuê hoặc hành nghề tự do, buôn bán nông sản phẩm. Mặc dù ở thành thị, tỷ lệ thanh niên chưa có việc làm hoặc thất nghiệp cao, nhưng có mà thanh niên thành thị cho là thu nhập thấp, nặng nhọc nên họ không làm. Nhưng đối với thanh niên nông thôn thì họ sãn sàng làm những công việc làm đó. Dòng di chuyển này ngày càng tăng khi diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu người ngày càng giảm, việc làm phi nông nghiệp trong khu vực nông thôn chưa phát triển. - Dòng di chuyển lao động từ vùng đồng bằng đông dân đi hành nghề tự do hoặc làm thuê ở các vùng trung du, miền núi. - Dòng di chuyển lao động từ miền Bắc vào miền Nam để tìm việc làm ở nơi có điều kiện thuận lợi hơn. - Dòng di chuyển lao động nhất là lao động chất xám từ khu vực Nhà nước ra khu vực ngoài quốc doanh, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc văn phòng đại diện nước ngoài - Dòng di chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam dưới dạng xuất khẩu lao động và xuất cảnh đồng thời là dòng di chuyển từ nước ngoài trở về Việt Nam Các dòng di chuyển lao động trên về cơ bản đã góp phần điều chỉnh và làm giảm sức ép về việc làm do thị trường lao động hoạt động sôi nổi, đa dạng và phong phú. III. Mối quan hệ giữa FDI đối với vấn đề tạo việc làm cho người lao động của Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. 1. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm cho người lao động của Việt Nam hiện nay. 1.1. Tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá đã và đang là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của thế giới. Với quá trình phân công lao động quốc tế càng ngày đi vào chiều sâu và sự phát triển nhanh chóng của khoa học- công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Quá trình này được thể hiện rất rõ trong sự gia tăng rất nhanh của trao đổi quốc tế về thương mại, dịch vụ tài chính…Cùng với sự hình thành các khu thương mại tự do và các khối liên kết trên thế giới như các tổ chức WTO, OECD, APEC, WB (ngân hàng thế giới), IMF (quỹ tiền tệ quốc tế)…Thế giới đang sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ kinh tế gắn bó, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, nớ giúp các quốc gia trên thế giới hiểu biết nhau, bổ xung và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, toàn cầu hoá có tính chất hai mặt, nó vừa mang tính hợp tác, vừa mang tính cạnh tranh giữa các quốc gia không chỉ giữa các nước phát triển với nhau mà cả giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Vì thế, toàn cầu hóa tạo ra cho các quỗc gia những cơ hội và thách thức trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp đang ngày một tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển Đối với Việt Nam, nhận thức được xu hướng tất yếu của toàn cầu hoá nên đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để có thể tạo ra nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trực tiếp. Khi đó cầu về lao động sẽ tăng lên, đây chính là yếu tố có thể tạo ra nhiều việc làm cho người lao động kể cả những lao động không có chuyên môn. Trong thời gian qua, chúng ta đã tiến hành hội nhập ở nhiều mức độ và nhiều lộ trình khác nhau. ở mức độ đơn phương, năm 1998 Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và thương mại một cách động lập không phụ thuộc vào các cam kết quốc tế như cải cách tỷ giá hối đoái, cắt giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của nhà Nước, trao quyền tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cho các địa phương và các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể: Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN). Ngày 15/6/1996 ta gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/ 1998 đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Tháng 3/1996, ta đã gia với tư cách thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM). Năm 1995, Việt Nam chính thức đề nghị gia nhập WTO, và hiện nay đang thực hiện nhiều biện pháp để mau chóng trở thành thành viên của WTO. Ngày 15/12/1995,Việt Nam chính thức tham gia tổ chức AFTA (khu mậu dịch tự do ASEAN) bằng việc ký Nghị định thư tham gia hiệp định về Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (CEPT). Hiệp định CEPT quy định các nước thành viên ASEAN sẽ thực hiện lịch trình cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá có xuất xứ ASEAN theo lộ trình trong vòng 15 năm với mức thuế xuất cuối cùng là 0-5%. Việt Nam bắt đầu thực hiện CEPT từ ngày 1/11996 và hoàn thành 1/12006. 1.2. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm ở Việt Nam. Việt Nam tham gia vào hội nhập với những thuận lợi nhất định song bên cạnh đó cũng gặp không ít những khó khăn, thử thách. Cụ thể đó là: 1.2.1. Những thuận lợi. Thứ nhất: Toàn cầu hoá tạo cơ hội cho nhà kinh tế các nhà kinh tế, nhà khoa học của Việt Nam tiếp thu tiến bộ khoa học của thế giới, tiếp cận tác phong lao động công nghiệp. Đồng thời chúng ta cũng có thể nhập khẩu chuyên gia, công nhân có trình độ cao của một số nghành mới mà nền kinh tế nước ta đang cần. Để từ đó, ta có thể học hỏi được trình độ chuyên môn cũng như trình độ quản lý của họ truyền dạy cho nước mình. Thực tế hiện nay nguồn nhân lực nước ta đang được nâng cao chất lượng để tham gia có hiệu vào phân công lao động quốc tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ chuyên môn kỹ thuật cũng như trình độ quản lý. Thứ hai: Hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì thị trường lao động sẽ đượng mở rộng thông qua xuất khẩu lao động. Trong những năm qua, với sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan liên quan và với sự năng động nhạy bén, bằng nhiều biện pháp chúng ta đã nâng cao chất lượng lao động, tạo việc làm cho nguồn lao động là yếu tố quyết định cho việc ổn định và phát triển thị trường. Từ đó mà người lao động được đưa sang dưới hình thức xuất khẩu lao động ở các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malayxia…làm cho thị trường lao động của nước ta sôi động hẳn lên. Xuất khẩu lao động vừa tạo ra công ăn việc làm cho người lao động vừa góp phần cải thiện và nâng cao mức sống cuả xã hội. Tính đến năm 2001 đã có 310.000 lao động và chuyên gia Việt Nam sang làm việc tại 40 và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghề khác nhau. Năm 2002đã đưa 46.120 người đi làm việc tại nước ngoài, tăng 24,46% so với năm trước và tăng 21,37% so với kế hoạch, trong đó có 13.200 lao động sang Đài Loan, 20.000 lao động sang Hàn Quốc. Xuất khẩu lao động ra thị trường lao động quốc Tế với sự chấp nhận các quy luật kinh tế thị trường đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển hệ thống đào tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thứ ba: Hội nhập kinh tế giúp các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận với thị trường rộng lớn trong khu vực và trên thế giới. Những mặt hàng Việt Nam chiếm ưu thế sẽ có nhiều cơ hội nhập thâm nhập thị trường một số nước ở trong khu vực cũng như trên thế giới, nhờ đó mà một số nghành nghề sẽ phát triển, thu hút được lao động. Trên thực tế, thị trường xuất nhập khẩu ngày càng được củng cố và mở rộng thêm. Thị trường Châu á chiếm gần 58% tổng kim nghạch xuất nhập khẩu và trên 80% tổng kim nghạch nhập khẩu của Việt Nam, riêng thị trường các nước ASEAN tương ứng chiếm trên 18% và 29%. Trên một số thị trường lao động khác như EU, châu Mỹ, trung Đông hàng xuất khẩu đã và đang có xu hướng tăng lên. Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim nghạch xuất nhập đã từ 49,6% năm 1995 giảm còn 6,3% vào năm 2000, điều đó cho thẫy xuất xuất khẩu của Việt Nam đang tăng lên đồng thời cũng phát triển sản xuất một số ngành trong nước nên giảm nhập khẩu. Ví dụ kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ: Bảng: 1 (Đơn vị: triệu USD) Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch 50,4 169,7 204,2 286,7 468,6 504 732,4 966,03 (Nguồn: Thời báo kính tế Việt Nam số 62/2002) Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là thủy sản, cà fê, dệt may, giầy dép,…với xu hướng ngày càng tăng về giá trị xuất khẩu trong tương lai. Đặc biệt khi hiệp định Việt- Mỹ có hiệu lực thì ta xâm nhập vào thị trường Mỹ cũng có nhiều thuận lợi , với thị trường tiêu thụ lớn của 270 triệu người, GDP của Mỹ chiếm trên 20% GDP toàn cầu, thương mại chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch thương mại quốc tế; chỉ cần 1% kim ngạch kim ngạch nhập khẩu của Mỹ cũng mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam nhanh chóng tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Nước ta có một số nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao vì lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu nhiệt ẩm gió mùa…thuận lợi cho sản xuất những mặt hàng đòi hỏi nhiều lao động như: Hàng nông thuỷ sản, may mặc giầy da, thủ công mỹ nghệ, chất tẩy rửa, dầu thô, khoáng sản…Toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng xuất khẩu, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Dự báo số việc làm do xuất khẩu tạo ra hàng năm trong các năm 2001-2005 trong các nghành hàng như sau: Bảng 2: Dự báo số việc làm do xuất khẩu tạo ra hàng năm. Ngành Giá trị xuất khẩu 2005 (triệu USD) Giá trị Xã hội tăng BQ/năm (triệu USD) Tổng số LĐ năm 2005 của ngành (1000) Số việc làm do xuất khẩu tạo thêm/năm (1000) Dệt may 4000 437 2500 64,4 Giày dép 2400 199,6 400 48,9 Mây tre đan 60 4 - 11,6 Thảm các loại 20 2 - 5,7 Thêu len thổ cẩm 25 5 - 8,7 Tổng 6505 647,6 2900 139,3 (Nguồn: Theo kết quả nghiên cứu xuất khẩu và việc làm trong các nghành CN xuất khẩu của Wood và Mayer, 1998, 1999 và tổng kết xuất khẩu của Bộ Thương Mại, số liệu chiến lược xuất nhập khẩu của Bộ Thương Mại, niên giám thống kê 2000-TCTK) Số việc làm tạo thêm hàng năm trong các nghành công nghiệp xuất khẩu và các nghành hàng thủ công mỹ nghệ khá cao. Tổng số việc làm do xuất khẩu tạo thêm hàng năm của 5 nghành này lên tới 139,3 nghìn việc làm một năm trong giai đoạn 2001-2005. Trong các nghành này, số việc làm do xuất khẩu tạo ra trong tổng số việc làm của các nghành chiểm tỷ trọng lớn. Chẳng hạn, dự báo trong các năm 2001-2005 việc làm do xuất khẩu tạo ra của nghành dệt may tạo ra chiếm khoảng 34% tổng số việc làm của các nghành. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế số việc làm do xuất khẩu tạo ra hàng năm gồm hàng triệu việc làm. Do đó, xuất khẩu có vai trò quan trọng giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo thu nhập và nâng cao mức sống cho người lao động. Tỷ trọng kim nghạch xuất khẩu của nhóm nghành nông lâm thủy sản tuy vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần, từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000; tỷ trọng các nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% lên 34,3%; nhóm nghành công nghiệp công nghiệp nặng và khoáng sản từ 28,7% lên 35,7%. Bên cạnh đó đường lối đổi mới và mở cửa của Đảng và nhà nước đã mở ra khả năng phát triển nền kinh tế đa thành phần, đa dạng hóa việc, sử dụng tốt hơn năng lực nguồn nhân lực, đặc biệt là sử dụng lao động trình độ cao ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đường lối đổi mới đã giải quyết việc làm cho người lao động xã hội thông qua phát triển kinh tế hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ, khôi phục và phát triển làng nghề, phố nghề…Thông qua đó, có thể giải quyết được việc làm cho người lao động nhàn dỗi trong nông thôn, giảm sức ép về việc làm. 1.2.2. Những thách thức: Bên cạnh những mặt thuận lợi, toàn cầu hoá đặt ra nhiều thách thức cho nước ta. Đặc biệt là trong tình hình nền kinh tế còn non yếu, lạc hậu, những doanh nghiệp còn non yếu chưa đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Thứ nhất Với việc hội nhập, kỹ thuật công nghệ hiện đại được du nhập vào trong nước tạo ra khả năng nâng cao năng xuất, đồng thời sản phẩm sản phẩm hàng hoá- dịch vụ của các nước tràn vào sẽ lấn át sản phẩm trong nước. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nhìn chung còn non kém, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hệ thống thiết bị kỹ thuật lạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ, thậm chí có khu vực còn lạc hậu 4-5 thế hệ. Công nghệ kỹ thuật lạc hậu không cho phép nâng cao năng xuất lao động xã hội, sản phẩm làm ra giá thành cao, không cạnh tranh với các mặt hàng của các nước. Theo tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh Việt Nam đứng thứ 62/75 nước. Ví dụ đường RS của Việt Nam giá xuất xưởng năm 1999 là 340- 400 USD/tấn nhưng giá trị nhập khẩu lại rẻ 20- 30%, tức ở mức 260- 300 USD/tấn, giá sắt thép sản xuất bình quân 300 USD/ tấn, nhưng giá trị nhập khẩu chỉ 630 ngàn đồng/ tấn. Sự yếu kém của ta không chỉ ở chất lượng và giá cả, mà còn ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu không có sức cạnh tranh cao. Hiện nay, chúng ta chủ yếu xuất khẩu nguyên nhiên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè, cafe…Các sản phẩm công nghiệp, nhất là những sản phẩm có hàm lượng vốn và công nghệ cao còn ít, sức cạnh tranh còn yếu. Chúng ta biết rằng chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp. Trong khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ và yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh lẫn khả năng, năng lực sản xuất đặc biệt là những nghành được nhà nước bảo hộ có khả năng cạnh tranh rất thấp. Bên cạnh đó chưa có những luật quy định về bản quyền nhãn mác, còn gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ, hạn chế về vốn. Chính vì những lý do đó, một số doanh nghiệp đã phải thu hẹp sản xuất đặc biệt, có một số doanh nghiệp phải đóng cửa, phá sản đẫn đến tình trạng hàng loạt công nhân bị sa thải, mất việc làm. Thứ hai: Toàn cầu hoá mở ra cơ hội tranh thủ nguồn lực bên ngoài, song chính điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nếu như không xác định được một chiến lược phát triển phù hợp dựa trên cơ sở phát huy nội lực là chính. Trong điều kiện toàn cầu hoáđang chịu sự chi phối của các nước tư bản phát triển thì sự phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế quốc tế, tất sẽ chịu sự khống chế của các thế lực tư bản tài chính quốc tế. Điều này cũng có nghĩa dẫn đến thu hẹp phạm vi và quyền lực của các chính quyền quốc gia với chính quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước mình. Khi đã tham gia vào hệ thống phân công lao thì đương nhiên các quốc gia sẽ phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau. Có thể thấy điều này từ kinh nhiệm của các cuộc khủng hoảng Mehico và Đông Nam á vừa qua đặt ra vấn đề cần xác định một mức độ vừa phải của sự phụ thuộc. Một quốc Gia có ngoại thương cao trong tổng giá trị thu nhập quốc dân thì cũng có nghĩa bao hàm một khả năng bất ổn cao từ bên ngoài đưa lại. Việc thu hút được nhiều vốn là điều kiện rất quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhưng nếu phụ thuộc quá nhiều vào vốn nước ngoài thì khả năng bất ổn kinh tế cũng gia tăng, bởi lẽ trong điều kiện toàn cầu hoá tính lưu động của vốn, đặc biệt là vốn ngắn hạn gia tăng mạnh mẽ. Đồng thời với lượng vốn lớn nhưng kinh doanh không có hiệu quả sẽ trở thành gánh nặng nợ cho quốc gia. Thực trạng ở Đông á những năm khủng hoảng tài chính vừa qua thể hiện rất rõ. Trong 6 tháng của năm 1997 đã có 120 tỷ USD vốn bị rút ra khỏi khu vực, chỉ trong vòng một năm từ tháng 7/1997 đến tháng 7/1998 thị trường Châu á phải chịu tổn thất 2000 tỷ USD. Điều đó có nghĩa là khi tham gia vào toàn cầu hóa ta có nguy cơ phải chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế. Đây là một bất lợi trong giải quyết việc làm. Vì vậy, để giảm thiểu sự bất ổn trong thương mại quốc tế thì chúng ta nên đa dạng hoá thị trường và mặt hàng, thực hiện trao đổi thương mại theo các cam kết hội nhập vào các tổ chức khu vực, đồng thời cần có chính sách phát triển dựa vào nội lực là chính, hạn chế phụ thuộc lớn vào nguồn vốn bên ngoài. Thứ ba: Trong các năm hội nhập, xu hướng chạy theo thị yếu của người lao động thiếu định hướng, phân luồng dẫn đến hậu quả là đào tạo chưa gắn với cầu của thị trường lao động, của các khu vực kinh tế và ngành, mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Như hiện nay số lượng sinh viên ngành nghề văn hóa nghệ thuật là 1,3% , nông lâm ngư nghiệp là 3,13%, khoa học cơ bản là 15,5%, khoa học công nghệ và kỹ thuật là 15,2%, khoa học xã hội là 42,78%. Do đó tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp sau 6 tháng không có việc làm chiếm 27,53%, số làm đúng nghề chiếm 30%. Tình trạng thiếu công nhân lành nghề khá nghiêm trọng, cả nước chỉ có khoảng 8000 công nhân bậc cao. Xu hướng thương mại hoá giáo dục và đào tạo ngày càng phát triển. Điều đó xuất hiện hiện tượng chạy theo quy mô, chú trọng ít đến chất lượng và do đó ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Một bộ phận lớn nguồn lao động sau đào tạo không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo vẫn chưa thật sự tạo ra cho người lao động cơ hội tìm việc làm. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp vẫn chưa đủ trình độ hội nhập khu vực vì còn thiếu kiến thức và kinh nhiệm thực tế. Họ cần được đào tạo thêm về tin học,ngoại ngữ, chuyên môn và kỷ luật công nghiệp. Thứ tư: Khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá công nhân lao động cần phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động khu vực và quốc tế, xuất khẩu lao động của ta sẽ gặp khó khăn hơn, phải chấp nhận đi làm việc làm có thời hạn ở nước ngoài với mức lương thấp, làm những công việc nặng nhọc mà người lao động bản xứ hoặc người khác không muốn làm. Tiền lương, nguồn thu nhập của người lao động sẽ bị ảnh hưởng do các doanh nghiệp phải cạnh tranh hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí đầu vào. Người lao động phải chịu áp lực lớn về cường độ lao động phải làm nhiều hơn, căng thẳng hơn, thời gian kéo dài hơn, định mức lao động cao hơn để hoàn thành các đơn vị đặt hàng trong thời gian ngắn. Những điều đó gây khó khăn trong việc người lao động Việt Nam tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Chúng ta còn rất nhiều thách thức khi tham gia vào quá trình hội nhập như: lĩnh vực dịch vụ của ta còn non kém; luật pháp, chính sách, cơ chế quản lý kinh tế còn chưa hoàn chỉnh đồng bộ, bộ máy quản lý và thủ tục hành chính chưa được điều chỉnh cải cách cho phù hợp với tình hình. 2. FDI đối với vấn đề tạo việc làm cho lao động ._.Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay. 2.1. Vai trò của FDI. Hơn 10 năm kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một hoạt động kinh tế không thể thiếu được, có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là một nhân tố góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm bớt gánh nặng cho xã hội. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lợi ích cho cả hai bên là bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển khi tiếp nhận đầu tư sẽ giải quyết được các vấn đề: -FDI tăng cường vốn đầu tư bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ góp phần tăng khả năng cạnh tranh và tăng xuất khẩu, bù đắp cán cân thanh toán -FDI góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tạo điều kiện tích luỹ trong nước. -FDI sẽ chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến cho nước tiếp nhận đầu tư. Xét về lâu dài điều này sẽ góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các ngành nghề mới đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao như điện tử tin học... Chính vì vậy nó có tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng trưởng nhanh của nước nhận đầu tư. -Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế háo nên sản xuất lưu thông. Các quốc gia trên thế giới dù có thể chế chính trị khác nhau đều cần đến vốn đầu tư nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác. Bên cạnh đó đối với chính sách nước đang phát triển là chủ nhà còn có những hạn chế như: vấn đề quản lý vốn, do chủ đầu tư có nhiều kinh nghiệm nểntánh được sự quản lý của nước sở tại, tình trạng gian lận thuế, buôn lậu thuế, ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên với vai trò to lớn của FDI để phát huy những tích cực và khắc phục hạn chế các nước đang phát triển cần đưa ra chính sách phù hợp đồng thời thu hút nhiều FDI vào hơn. 2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay có ba hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu sau đây: -Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; -Doanh nghiệp liên doanh; -Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo qui định điều 7 nghị định 12/CP 'Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết quả hai bên hay nhiều bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không cần thành lập pháp nhân. Hình thức này có đặc điểm: -Không ra đời một pháp nhân mới -Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong hợp đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm quyền lợi giữa các bên với nhau (không cần đề cập đến việc góp vốn). -Thời hạn của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất mục tiêu kinh doanh và được các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn y. -Hợp đồng phải do đại diện có thẩm quyền của các bên kí. Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình. *Doanh nghiệp liên doanh: Theo khoản 2 diều 2 luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam qui định "Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập tại VN trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và Chính phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có đặc điểm: -Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. -Phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối thiểu không được dưới 30% vốn pháp định thông thường bên nước ngoài là 70% và bên Việt Nam là 30% vốn pháp định. -Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị mà thành viên của Hội đồng quản trị do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn của các bên nhưng ít nhất phải là 2 người, Hội đồng quản trị có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc nhất trí. -Các bên tham gia liên doanh phân chia kết quả kinh doanh theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt được kéo dài không quá 20 năm. *Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Theo điều 26 nghị định 12/CP qui định:"Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đàu tư nước ngoài thành lập tại Việt nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh "Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Thời hạn hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép. *Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao (BOT): Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam:"Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài đề xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt nam" *Hợp đồng xây dựng -chuyển giao -kinh doanh là văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam dành cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý *Hợp đồng xây dựng -chuyển giao(BT): Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam "Hợp đồng xây dựng chuyển giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý". 2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước ngoài Hợp tác đầu tư nước ngoài chỉ có thể thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của cả hai bên. Sử dụng sản phẩm cận biên của vốn đầu tư nước ngoài làm công cụ chính, ngay từ năm 1960 Mác Dougall đã chỉ ra rằng sự tăng vốn đầu tư FDI vừa làm tăng sản phẩm đầu ra vừa phân phối lại thu nhập giữa nhà đầu tư trong nước và người lao động. y G F E D H I J K A B C L x Hình 1: Mô hình Mác Dougall về FDI. Trong hình 3 vốn cổ phần đầu tư là AC, trong đó AB là vốn cổ phần của nhà đầu tư trong nước và BC là của nhà đầu tư nước ngoài. Gía trị đầu ra là GDCA; thu nhập của chủ đầu tư trong nước là FEBA, của chủ đầu tư nước ngoài là EDCB, của người lao động là GDF. Khi vốn FDI tăng từ BC đến BL sẽ có những tác dụng sau đây: Thu nhập của nhà đầu tư nước ngoài bây giờ là IKLB (phần đầu tư mới nhận JKLC và đầu tư cũ giảm đi EDJI do tỷ xuất lợi nhuận giảm dần được biểu hiện qua sản phẩm cận biên của vốn Ay). Nhà đầu tư trong nước giảm thu nhập FEHI và người lao động hưởng phần FDKH. Như vậy, tổng cộng nước chủ nhà thu nhập EDKI. Phần thu nhập của người lao động tăng thêm nhiều hơn ngoài DKJ là do phân phối lại từ nguồn vốn đầu tư cũ. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vừa tạo ra thu nhập cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, vừa tạo ra công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động. 2.3.2.Tác động của FDI với nước tiếp nhận vốn FDI + Đối với nước công nghiệp phát triển. Đây là những nước xuất khẩu vốn FDI nhiều nhất, nhưng cũng là nước tiếp nhận vốn FDI nhiều nhất hiện nay, tạo nên luồng đầu tư hai chiều giữa các quốc gia, trong đó các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò chủ chốt. Nguồn vốn FDI có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia này và chiến lược phát triển của các TNCs, đặc biệt là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế, mở rộng nguồn thu cho chính phủ, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và kiềm chế lạm phát…Tính đến năm 1994 nguồn vốn FDI đã tạo nên tài sản cố định ở nước ngoài là 5681 tỷ USD; tổng sản phẩm của các chi nhánh nước ngoài là 1410 tỷ USD ; tiêu thụ của các chi nhánh nước ngoài là6100 tỷ USD, tạo nên nguồn thu từ chi phí, đất, quyền có giá trị khác cho các nước sở tại là 41 tỷ USD…Chỉ tính riêng 100TNCs nhưng có khối lượng tài sản đầu tư nước ngoài khoảng 1400 tỷ USD; tiêu thụ khoảng 1500 tỷ USD ; sử dụng 12 triệu lao động trong đó 5 triệu lao động tại các chi nhánh các nước ngoài tương đương 16% toàn bộ các TNCs. + Đối với các nước đang phát triển. - Nguồn thu FDI là nguồn bổ xung quan trọng để các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với toàn bộ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn đầu tư của Trung Quốc hiện chiếm khoảng 25% và Việt Nam 29%. Do đó vốn đầu tư FDI có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Các nhà nhà nghiên cứu đang chứng minh rằng vốn FDI đang chiếm tỷ trọng càng lớn trong GDP (tổng thu nhập quốc dân) thì tốc độ tăng trưởng GDP thực tế càng cao. Theo tính toán của các chuyên gia ngân hàng thế giới, các dự án FDI ở Việt Nam đã đóng góp tới 7% GDP trong năm 1996; nếu tính cả phần xây dựng đạt 10% GDP. - Đầu tư nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới cho các nước nhận đầu tư. Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động do đó sự phát triển của FDI ở các nước sở tại đã đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao chất lượng về ngoại ngữ, trình độ chuyên môn của người lao động. Mặt khác, chính các chủ đầu tư nước ngoài cũng đã góp phần tích cực bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ lao động ở các nước sở tại. Đó chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, năng lực quản lý điều hành tiên tiến của nước ngoài. Các dự án FDI cũng đã góp phần thu hút một lượng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Chẳng hạn , tính đến năm 1996 lượng lao động làm việc trực tiếp trong các dự án FDI ở Trung Quốc là 16 triệu người và ở Việt Nam là khoảng 22 vạn người. Tuy vậy, trong nghiên cứu cũng cần xem xét tới việc vốn FDI có thể tạo nên sự cạnh tranh làm cho một số doanh nghiệp trong nước phải giảm việc làm hoặc khi các doanh nghiệp trong nước liên doanh với nước ngoài cũng phải giảm bớt lao động không đủ trình độ tuyển dụng vào làm liên doanh. -Hoạt động của các dự án FDI có tác động quan trọng tới xuất nhập khẩu của các nước chủ nhà. Tỷ lệ xuất nhập khẩu của các dự án FDI so với tổng xuất nhập khẩu ở Singapore là 72%, Trung Quốc 31%, Đài Loan 25,6%, Hàn Quốc 25,6%, Thái Lan 22,7% ở Việt Nam tỷ lệ này là 18,5% và năm 1996 tính đến cả dầu khí đạt trên 30%. Các dự án FDI cũng tác động quan trọng nếu nhập khẩu của các nước và trong nhiều trường hợp do quy mô nhập khẩu để xây dựng cơ bản, trang bị máy móc rất lớn dẫn đến tiêu cực trong các cân thương mại, gây ra sự thâm hụt thương mại thường xuyên. Do đó, cần khuyến khích các dự án FDI mua nguyên liệu, phụ tùng trong nước và tăng cường mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ để cải thiện cán câu thanh toán. - Với chính sách thu hút vốn đầu tư FDI theo các ngành nghề định hướng hợp lý, nguồn vốn FDI sẽ góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chẳng hạn, vốn đầu tư FDI đầu tư vào Thái Lan có trên 80% tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ này là 66%. - Các dự án FDI góp phần bổ xung quan trọng cho ngân sách của các quốc gia. Các nguồn thu này từ các khoản cho thuê đất, mặt nước, mặt biển; từ các loại thuế doanh thu lợi tức, thuế xuất nhập khẩu. Các dự án FDI tại Trung Quốc đã đóng góp 11,2% tổng thu từ thu từ thuế năm 1995 và tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng. ở Việt Nam, tỷ lệ này năm 1996 là 6,1% nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí Việt- Xô tỷ lệ này là 20,5%; riêng tiền thuê đất từ các dự án đầu tư nước ngoài ước tính khoảng 1,85 tỷ USD ( trên 24 ngàn ha). Có thể thấy tác động to lớn của FDI đối với các nước đang phát triển qua tình hình của Trung Quốc, nước thu hút lượng vốn FDI lớn nhất trong các nước đang phát triển. 2.3.3. FDI đối với các nước xuất khẩu vốn FDI. - FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài ở các nước về thực chất hoạt động như là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hành rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia…có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI. - FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao. Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất và mức sống, thu nhập… giữa các nước nên đã tạo ra các chênh lệch về điều kiện và giá cả của các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng sự chênh lệch này để giẩm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận…Trước hết đó là chi phí lao động, tiền lương của người lao động Nhật gấp 10 lần tiền lương bình quân lao động trong khối ASEAN ; lương bình quân trong các nước NICs Đông Nam á cũng gấp 12 lần lương của lao động Việt Nam. Do đó, trong thời gian qua, c7ác nước tư bản phát triển và những nước công nghiệp mới đã chuyển những nghành sử dụng nhiều lao động sang các nước đàng phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển hàng hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị. Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước đang phát triển để đầu tư ở các nước có chi phí rẻ, lợi nhuận cao và như việc tạo công ăn việc làm cho các nước nhận đầu tư. - FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu ổn định. Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài tìm kiếm nguồn nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của các chủ đầu tư, chẳng hạn thăm dò khai thác dầu khí, khoáng sản, tài nguyên biển, rừng, sản phẩm cây công nghiệp…Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện khai thác, chế biến do thiếu vốn và công nghệ, ở nước ta điều này được phản ánh qua việc chúng ta vẫn phải thường xuyên xuất khẩu các mặt hàng thô như: dầu thô, cafe, gạo…Do đó các nước xuất khẩu FDI khi đầu tư vào lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao. - FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đổi mới thường xuyên công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh ; do đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc, công nghệ đã lạc hậu so với trình độ chung của thế giới để đầu tư sang các nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới được thiết bị công nghệ, kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm của hãng ở các thị trường mới ; di chuyển máy móc gây ra ô nhiễm môi trường ra nước ngoài và trong nhiều trường hợp còn thu được đặc lợi do chuyển giao công nghệ đã lạc hậu đối với các chủ đầu tư nước ngoài. Phần II Phân tích thực trạng về hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. I.Chính sách đầu tư nước ngoài và chiến lược thu hút FDI của Việt Nam hiện nay. 1. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Các chính sách chung Về hình thức đầu tư: Thành lập doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ngoài ra còn có các hình thức đầu tư khác như: Các BOT ( Hợp đồng xây dựng kinh doanh và chuyển giao ), BT (Hợp đồng xây dựng và chuyển giao ), BTO ( Hợp đồng xây dựng chuyển giao và kinh doanh ), hợp đồng chia sản phẩm ( PSC ). Về hành lang pháp lý: Luật đầu tư nước ngoài năm 1990, luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992, luật đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định 18/CP ngày 16/4/1993 quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992, Nghị định 12/CP ngày 18/02/1997 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Nghị định 10/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1999 của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Những quyết định quan trọng của Chính phủ từ đầu năm 1998 nhằm cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động cơ sở đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nhằm khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho người lao động nước ta trong tiến trình toàn cầu hoá. Chính sách giảm giá thuê đất, mở rộng diện ưu đãi về thuế lợi tức (gồm cả ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn giảm thuế ), linh hoạt hơn trong việc chuyển nhượng vốn, điều chỉnh bổ sung mục tiêu của các dự án; cải tiến thủ tục đầu tư, mở rộng phân cấp, uỷ quyền về thẩm định cấp giấy phép, quản lý các doanh nghiệp FDI, giải quyết kịp thời hơn các vướng mắc của doanh nghiệp đã hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua nhiều khó khăn, đạt được nhiều chỉ tiêu kế hoạch về vốn FDI thực hiện trong hoàn cảnh vốn FDI đăng ký ngày càng giảm sút. Tuy nhiên, môi trường kinh doanh của chúng ta chậm được đổi mới hơn so với môi trường pháp lý và dư luận chung đánh giá là có nhiều khó khăn thêm vào đó từ giữa năm 1997 còn bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính khu vực. Các nhà đầu tư nước ngoài thường rất nhạy cảm một khi chính sách thay đổi làm ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của họ. Việc áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng từ ngày 1/1/1999 với 4 mức thuế thay cho Luật thuế doanh thu với 13 thuế suất đang ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp và xây dựng. Hiện nay, trong hệ thống hàng hóa và dịch vụ do nhà nước quản lý và ngành/UBND tỉnh, thành phố Trung ương ban hành hoặc áp dụng trong thực tiễn còn tồn tại 2 loại giá đối với một số loại dịch vụ và hàng hoá trong đó giá áp dụng cho doanh nghiệp FDI và người nước ngoài cao hơn doanh nghiệp trong nước và công dân Việt Nam đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI và sinh hoạt của người nước ngoài tại Việt Nam, trong đó có giá điện cho sản xuất, giá lắp đặt và giá thuê bao điện thoại. Các vấn đề về tuyển dụng lao động, công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam…còn nhiều bất cập mà các doanh nghiệp FDI và các nhà đầu tư nước ngoài nhiều lần kiến nghị Nhà nước (Quốc hội, UBTV Quốc hội ) và chính Phủ bổ sung, sửa đổi theo hướng thông thoáng hơn. Để củng cố lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư nước ngoài Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 “Về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài” có hiệu lực từ ngày 1/7/1999 nhằm trước mắt tập trung vào xử lý những vấn đề bức xúc nhất, có thể giải quyết ngay thuộc thẩm quyền của Thủ tướng và Chính phủ nhằm giảm chi phí đầu tư và hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, khuyến khích hơn nữa các dự án đầu tư vào xuất khẩu nông nghiệp, thực hiện nội địa hoá, sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra, Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg nhằm mục tiêu xoá bỏ dần dần sự cách biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước FDI bằng cách xích gần các chính sách và giá cả… Mục tiêu của Việt Nam là tạo một môi trường đầu tư thông thoáng và môi trường kinh doanh ổn định thuận lợi có tính cạnh tranh. Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg với tư cách là một trong những giải pháp cụ thể để thực hiện các biện pháp nhằm mục tiêu này. Các chính sách và giải pháp tài chính 1.2.1 Về thuế giá trị gia tăng Sau gần một năm thi hành Luật thuế giá trị gia tăng, căn cứ vào kiến nghị của các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những vướng mắc bất hợp lý phát sinh trong quá trình thực hiện, Bộ tài chính đã trình Chính phủ để báo cáo UBTV Quốc hội đề án sửa đổi thuế suất thuế giá trị gia tăng theo hướng giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với khách sạn và nhà hàng, một số hàng hoá, dịch vụ khác nhau từ 20% xuống còn 10% ( Nghị định số 102/1999/NĐ-CP ngày 21/12/1998 đã giảm xuống còn 10% nhưng chỉ được trong một thời gian nhất định theo quy định của luật này); những hàng hoá dịch vụ của ngành xây dựng, công nghiệp theo luật thuế giá trị gia tăng phải chịu thuế suất 10% gây lỗ nay đề nghị giảm xống 5%… 1.2.2 Về giá hàng hóa và dịch vụ: được điều chỉnh giảm kể từ ngày 1/7/1999 cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể: a) Giá bán điện: Giá bán điện cho sản xuất là 7,5 cént/kwh thay cho mức 9 cént/kwh. b) Gía cước phí viễn thông: - Giá lắp đặt điện thoại: được áp dụng như đối với các doanh nghiệp trong nước. - Cước thuê bao điện thoại: 10 USD/máy/ tháng, cước điện thoại nội hạt áp dụng như đối với các doanh nghiệp Việt Nam và người Việt Nam. Giảm bình quân 10% cước viễn thông quốc tế, mức phụ thu cước viễn thông từ khách sạn không quá 15%. - Giá nước sạch: áp dụng như đối với các doanh nghiệp Việt Nam theo mức quy định tại Thông tư liên bộ số 02/TTLB ngày 28/4/1997 của Bộ xây dựng và Ban vật giá Chính phủ. Về phí và lệ phí: Kể từ ngày 1/7/1999 phí và lệ phí được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng. b) Về tuyển dụng lao động: Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của doanh nghiệp các tổ chức cung ứng lao động Việt Nam không đáp ứng được, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam Quan điểm của Việt Nam về tác động của FDI đối với kinh tế xã hội của đất nước Nhận thức được xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng mở rộng, đó là quá trình mà các nền kinh tế dân tộc tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau, Đảng và nhà nước Việt Nam đã chủ trương lợi dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nhiệm quản lý để bổ sung và phát huy có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước”. Để thực hiện chủ trương trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ động “ đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại”. Trong đó FDI là hình thức quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ gần như con số 0, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả, cơ chế quản lý kém, sản xuất đình trệ, bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, quản lý tiền tệ kém đẫn đến lạm phát liên tục trong nhiều năm. Cuộc cải tổ giá- lương- tiền năm 1981 và năm 1985 kết thúc thất bại thảm hại. Đến những năm 80 hình ảnh nền kinh tế Việt Nam thật ảm đạm. Với tình trạng trên để giải quyết những khó khăn kinh tế, buộc chúng ta phải đổi mới. Tháng 12/1986 Đại hội Đảng toàn quốc đã đánh dấu một bước ngoặt trong công cuộc đổi mới xây dựng kinh tế ở Việt Nam. Từ việc nhận thức được đầy đủ đặc trưng quan trọng của thời đại hiện nay là xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhà nước Việt Nam đã chủ trương mở cửa nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế trong nước và giữa trong nước với nước ngoài thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới để cùng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hợp tác đầu tư- buôn bán trên thị trường. Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII với quan điểm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” đã tạo điều kiện thật sự cho phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Chính vì lẽ đó mà Nhà nước ta đã đưa ra những quan điểm cơ bản về tác động của FDI đối với kinh tế- xã hội a) Quan điểm thứ nhất: Đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân. FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định. FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác, nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn vốn ODA chưa đáng kể thì nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. Ta cũng biết FDI là nguồn vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào của các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đưa vào đầu tư tại Việt Nam và được Chính phủ Việt Nam chấp nhận trên cơ sở hợp đồng, hợp tác hoặc thành lập các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài. Rõ ràng FDI khác với ODA không gây tình trạng nợ nần cho thế hệ mai sau. Khi bỏ vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền đẻ ra nhiều tiền càng tốt trong quan hệ làm ăn với các đối tác Việt Nam theo nguyên tắc cùng được ăn thua cùng chịu theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên. Trong quá trình thu hút FDI phải tránh những quan điểm sai lầm: Thư nhất: Coi nhẹ, thậm chí lên án FDI như một nhân tố có hại tới nền kinh tế độc lập, tự chủ. Những người đi theo quan điểm nay hiện nay ở Việt Nam không nhiều nhưng họ cũng đã cản trở quá trình phát triển của một nền kinh tế đang khởi sắc, họ không ý thức được mục tiêu của FDI thực ra là yếu điểm của nước chủ nhà và đồng thời là thế mạnh của nước đầu tư nước ngoài. Nhưng FDI vào Việt Nam là một nước có chủ quyền, có pháp luật phải chịu sự điều hành của Luật pháp Việt Nam, nhưng quy định kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Bởi vì, tất cả các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (xi nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài), là pháp nhân Việt Nam. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một trong 5 thành phần kinh tế được thừa nhận. Đó là hình thức CNTB nhà nước. Hơn nữa, FDI theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ được tồn tại và hoạt động trong một thời gian (không quá 50- 70 năm ). Hết thời hạn quy định trong giấy phép đầu tư việc gia hạn hay không đó là chủ quyền của Nhà nước Việt Nam. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thuê đất của nhà nước hoặc là bên Việt Nam góp vốn pháp định của liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nhà nước ta không bán đất, ở đây CNTB nhà nước không chỉ bao gồm đầu tư nước ngoài theo hình thức liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, vì về bản chất, đó là việc thực hiện chế độ tô nhượng đối với các nhà TB nước ngoài ( cho thuê đất đai, nhà xưởng, thuê quyền khai thác mỏ…) V.Lênin đã từng nêu rõ: “ xét về mặt quan hệ kinh tế thì tô nhượng là gì? Đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước…Chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình : hầm mỏ, công xưởng, vật liệu ; nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất Xã hội chủ nghĩa, thu được lợi nhuận do tư bản mà mình bỏ ra và nộp cho nhà nước Xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm”. Thứ hai, ảo tưởng về “màu nhiệm” của FDI, gắn cho nó một vai trò tích cực tự nhiên, bất chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù, nhiều nước trên thế giới đã coi FDI như một chìa khóa vàng của sự tăng trưởng kinh tế. Thông qua FDI mà nước ta có thể nhận công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tiếp thu được kinh nhiệm quản lý tốt, tìm kiếm được thị trường bên ngoài, thu hút được nhiều lao động có trình độ cao và những lao động vẫn chưa qua chuyên môn đào tạo. Ngay cả những nước phát triển như Mỹ, EU thì cũng cần có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng không vì thế mà ỷ nại vào FDI mà không khai thác tối đa lợi thế bên trong. FDI tự nó chưa thể quyết định sự thành công của mục tiêu phát triển kinh tế, mà nó phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn vốn khác như ODA, nguồn vốn huy động rộng rãi trong nước. b)Quan điểm thứ hai :Quan điểm “mở” và “che chắn” trong chính sách thu hút FDI Theo kinh nhiệm của các nước trên thế giới, các mục tiêu của FDI có đạt được hay không còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề đảm bảo an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trong quá trình thực hiện FDI. Trong một số trường hợp, vì lợi ích tối đa của đầu tư là lợi nhuận, người ta bất chấp đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hóa, xã hội dân tộc. Thông thường, phía nước nhận FDI mong muốn nguồn vốn FDI hỗ trợ tối đa cho việc thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cho việc phát triển đồng đều ở các cơ sở công nghệ tiên tiến, cho việc khai thác tài nguyên hợp lý và bảo vệ môi trường sinh thái… Nhưng phía nước chủ đầu tư nước ngoài vì lợi ích tối thượng của họ là lợi nhuận nên lợi dụng khai thác nhiều mặt sự yếu kém của Chính phủ nước tiếp nhận vốn đầu tư và các doanh nghiệp của nước sở tại. Trong đó, họ (các chủ đầu tư nước ngoài) thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục và cán bộ. Những sự khác biệt đó về mục tiêu khi vượt qua mức độ nào đó sẽ xuất hiện tình trạng thiếu đảm bảo cầu thiết về an ninh chính trị, kinh tế xã hội cho quá trình FDI và tất yếu sẽ có hại cho cả hai bên. Trong thời đại hiện nay, khi chấp nhận nguyên tắc “bình đẳng, hai bên cùng có lợi” thì vấn đề an ninh trong quá trình FDI cần thiết cho cả hai bên. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài cần có sự an ninh cho đồng vốn, cho quá trình thực hiện dự án, an ninh cho người hoạt động đầu tư và chuyển lợi nhuận về nước. Đối với các nước tiếp nhận vốn FDI , cần có sự an ninh chínn trị, kinh tế xã hội chẳng những cho sự phát triển, mở rộng FDI có hiệu quả mà còn giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng chính trị- xã hội. Do đó mở cửa cho bên ngoài vào không quyên những biện pháp che chắn cần thiết cho an ninh chính trị, kinh tế, xã hội. T._. đó mới nhìn đến thuế. Nhưng trong thời gian hiện nay vẫn đề an toàn vốn không cón là sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn vào Việt Nam. Do đó, thuế có tác động lớn tới FDI. Thứ nhất, thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó, họ sẽ quan tâm đến trước tiên là lợi nhuận. - Thuế sẽ tác động đến lợi nhuận và do đó có ảnh hưởng đến quuyết định đầu tư. - Thuế đóng vai trò bảo vệ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nền kinh tế nội địa. Thông thường khi một mặt hàng nào đó đánh thuế nhập khẩu cao(như ô tô du lịch, xe máy,điện tử…)thì các nhà đầu sẽ nghĩ ngay đến việc đầu tư sản xuất tại Việt Nam để tránh hàng rào thuế quan. - Thuế tạo ra thị trường đủ lớn cho các nhà đầu tư sản xuất vào một nghành nào đó. Trong kinh tế có khái niệm”hiệu quả các quy mô sản xuất” (econmics of scale), theo khái niệm này thì quy mô sản xuất phải đủ lớn tới một mức độ nhất định thì mới đạt được hiệu quả kính tế tối đa. Vì vậy, các chủ đầu tư chỉ đầu tư vào sản xuất ở một nước nào đó có dụng lượng trường đủ lớn. - Thông qua việc tác động đến giá cả hàng hoá và sức mua của người tiêu dùng, thuế sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu có hiệu lực, tức là ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. Như vậy suy cho cùng, thuế sẽ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư Thứ hai, thuế ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư và điều này được thể hiện : - Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế có ảnh hưởng quyết định đến việc chi tiêu ngân sách. Ngân sách càng có nguồn thu lớn thì càng tạo ra được môi trường tốt để khuyến khích đầu tư. Thuế thu đủ cho chi tiêu của ngân sách(cân bằng thu- chi) góp phần hạn chế lạm phát điều đó sẽ tạo ra môi trường tái chính thuận lợi cho việc đầu tư. - Nguồn vốn ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho nhà nước vào lĩnh vực sản xuất lợi nhuận thấp thời gian thu hồi vốn dài như: cơ sở hạ tầng, y tế giáo dục… và do đó tạo môi trường cần thiết để hấp dẫn FDI Thứ ba, thuế là biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Các ưu đãi về thuế là sự khuyến khích quan trọng về mặt tài chính để thu hút các nhà đầu tư vào một quốc gia hay một lĩnh vực kinh tế nhất định. Cho đến nay, Việt Nam đã áp dụng thuế ưu đãi và miễn giảm thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (10%, 15%, 20%, và 25% ) và thuế chuyển lợi nhuận về nước ( 5%, 7%, và 10%). Thực tế tình hình cho thấy số lượng các dự án FDI ngày càng tăng về số lượng cũng như chất lượng, cho nên việc hoàn thiện chính sách đầu tư bằng biện pháp thuế là cần thiết. Việc hoàn thành này phải nhằm đạt được các mục tiêu về kinh tế- xã hội của đất nước và phải coi thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu mà còn là đòn bẩy thu hút FDI vào những lĩnh vực, những vùng trọng điểm của đất nước. Việc cải tiến hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng: Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế ; Đảm bảo lợi ích quốc gia ; Có tác dụng khuyến khích đầu tư ; Phù hợp với hệ thống quốc tế. 3.2. FDI trong quy hoạch đầu tư phối hợp tối ưu với các nguồn vốn khác Xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tê- xã hội đến năm 2000 và những năm đầu của thế kỷ 21, với trọng tâm thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế thời kỳ 1996- 2000 dự kiến khoảng 50 tỷ USD. Trong quy hoạch tổng thể đầu tư nói chung, nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chiếm khoảng 50%, tức là có thể đạt mức khoảng 25 tỷ USD. Tuy nhiên, cần quan niệm rõ khái niệm vốn đầu tư nước ngoài vì nếu chỉ hiểu vốn đầu tư chỉ là vốn tài chính thì Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác thiếu vốn trâm trọng. Trong điều kiện mở của nền kinh tế, ngoài vốn tài chính còn nguồn vốn “phi” tài chính nhưng lại có vị trí rất quan trọng (tài nguyên thiên nhiên, con người, vị trí địa lý…). Nguồn vốn trong nước có vị trí và vai trò quan trọng, một mặt, để phát huy mọi khả năng tiềm tàng đang có khắp các địa bàn tạo ra sự phát triển chung. Mặt khác, theo kinh nhiệm thực tế để nguồn vốn bên ngoài phát huy hiệu quả thì cần nguồn vốn trong nước đối ứng chuẩn bị mặt bằng, làm các công trình kế cận…Đồng thời xung quanh khu vực có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam có thể được phát triển theo hướng liên kết hình thành mạng lưới kinh tế đa dạng, bổ sung cho nhau phát huy được lợi thế so sánh về nguồn nhân lực cung cấp nguyên liệu tại chỗ, mở mang thị trường nội địa Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như chiến lược tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hoá không thể thiếu nguồn vốn lớn bên ngoài. Nguồn vốn bên ngoài chủ yếu hai nguồn vốn FDI và ODA sẽ có tác dụng tạo ra những sản phẩm mới và công nghệ cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới. Nguồn vốn bên ngoài trong bàn cờ cơ cấu vốn thời kỳ 1996- 2000 đạt khoảng 20% -25% tỷ USD để đáp ứng nhu cầu còn lại. Bao gồm: OAD khoảng 8-10 tỷ USD. FDI khoảng 10- 12 tỷ USD. Phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế khoảng 2- 4 tỷ USD. Ngoài ra, tín dụng thương mại là một nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu và xét theo một nghĩa nào đó cũng là hỗ trợ cho đầu tư. Các nguồn vốn này phải có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và theo một tỷ lệ vốn hợp lý, tối ưu. Nếu chúng ta không vay được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng –xã hội thì khó có thể thu hút và “hấp thụ” một các có hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngược lại, nếu chỉ tập trung vào nguồn vốn OAD, mà không thu hút nguồn vốn FDI thì sẽ không đủ thu nhập để Chính phủ trả nợ ODA. Quan hệ giữa vốn nước ngoài và vốn trong nước cần có tỷ lệ thích hợp. Nguồn vốn ngân sách phải có đủ đến mức nhất định để có thể đảm bảo sử dụng ODA một các có hiệu quả. Đồng thời nguồn vốn trong dân (vốn tích luỹ từ các doanh nghiệp và vốn tích luỹ từ các hộ gia đình) phải được huy động và sử dụng có hiệu quả đến một mức nhất định đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vao Việt Nam. Hiện nay khó có thể đưa ra một tỷ lệ hợp lý, chính sách giữa các nguồn vốn nhưng một dấu hiệu cho thấy tỷ lệ hợp lý đó là nhịp độ tăng vốn FDI vào nước ta. Sự mất cân đối giữa các nguồn vốn là nguyên nhân quan trọng làm giảm dòng chảy FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, đến một giao đoạn nhất định nguồn vốn FDI và ODA sẽ giảm, nhường vị trí cho nguồn vốn trong nước. Biện pháp tích cực nhằm đảm bảo hợp lý giữa các nguốn vốn cho phát triển kinh tế hiện nay là: - Đa dạng hoá phương thức thu hút vốn nước ngoài từ các vốn nước ngoài từ các nguồn vốn khác nhau. - Tạo niềm tin cho nhà đầu tư (chính sách đổi mới của Việt nam tiếp tục và sẽ phát triển cao: hệ thống pháp luật sẽ tạo một hành lang pháp lý an toàn cho vốn đầu tư của họ và tạo một “sân chơi bằng phẳng” cho mọi nhà đầu tư; một hệ thống cơ sở hạ tầng về tài chính tạô thuận lợi cho họ sẵn sàng vốn đầu tư ). Giá cả của quyền vốn phải do các lực lượng cung – cầu vốn quyết định. Giá cả của quyền vốn chính là lãi xuất. Đã đến lúc phải tính đến việc thả nổi lãi suất theo tình cung – cầu vốn từng thời điểm. - Phát triển thị trường vốn đi vào đời sống xã hội. Chỉ có như vậy quá trình huy động vốn đầu tư không chỉ có lợi sự tăng trưởng cho nền kinh tế mà còn mang lại sự phát triển đời sống của người dân với ý nghĩa thật sự của thuật ngữ “phát triển”. - Hấp thụ và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Mục tiêu chiến lược của nhà nước ta không phải là thu hút bao nhiêu dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư là bao nhiêu, mà là làm thế nào để hấp thụ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó. Các định chế tài chính Việt Nam (cấp trung gian) phải vươn lên đóng vai trò là người mở đường, thâm nhập và khảo sát cơ hội đầu tư và sẽ là người thiết lập các dự án đầu tư, người tư vấn đầu tư, người vận động, thu hút các nguồn vốn và sau cùng là người tài trợ, cấp vốn hoặc tham gia hùn vốn trở thành những cổ đông chủ chốt của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tham gia vào hoạt động hiện nay ở Việt Nam đã có 3 ngân hàng liên doanh, 11 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 55 văn phòng đại diện ngân hàng nhà nước của hơn 40 quốc gia. Rõ ràng, việc vốn đầu tư lần đầu đi vào hoạt động và hầu như tự chu chuyển, không chuyển dịch được là một của tất cả các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn FDI ở nước ta. Nguyên nhân chủ yếu là một thị trường vốn phát triển đến mức cần thiết như hiện nay. Việc thành lập thị trường chứng khoán sẽ tác động tích cực trước hết làm cho FDI có thêm hình thức mới, có thêm “kênh” mới thu hút nguồn vốn này. Mặt khác thị trường chứng khoán sẽ có tác động làm chuyển dịch tích cực nguồn vốn đã đầu tư tích cực ở các Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc Doanh nghiệp liên doanh có điều kiện đổi mới cơ cấu vốn của mình, phân tán rủ ro và tranh thủ hình thành cơ cấu vốn theo mục tiêu tối ưu hoá hiệu quả đồng vốn của mình. 4. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài. Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai đoạn đầu các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như chiếc cầu nối lôi cuốn các Công ty nước ngoài đến Việt nam, như “bà nối” giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian “tìm hiểu”, tạo điều kiện cho họ nhanh tróng đi đến làm ăn với nhau. Khi mà hoạt đầu tư đạt tới đỉnh cao và bão hoà thì khi đó vai trò của xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi, bởi vì, khi đó môi trường đầu tư quá quen biết. Hoạt động xúc tiến đầu tư chuyển sang một trạng thái khác. Đỉnh cao của FDI và Việt nam sẽ đạt được vào những năm 2005 – 2010. Như vậy tốc độ thu hút FDI đến năm 2000 còn rất cao (khoảng 30% so với năm trước). Từ năm 2000 trở đi tốc độ sẽ giảm dần còn khoảng 15% và đến năm 2010 tốc độ ít thay đổi. Hệ thống xúc tiến manh mún, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất và đã đến lúc phải tổ chức lại theo hướng: - Hoạt định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được của mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. - Củng cố xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình độ, năng lực theo hướng tập trung hoá cao chứ không phân tán manh mún như hiện nay. - Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các công trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và sử lý các quan hệ với bên ngoài. - Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Đẩy mạnh các quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật, vận động đầu tư. - Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước khu vực trọng yếu. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như UNDP, UNIDO… và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu môi trường đầu tư ở Việt Nam. - Sắp xếp lại các công ty, các trung tâm dịch vụ, tư vấn đầu tư, kiên quyết bãi bỏ và nghiêm khắc với các tổ chức yếu kém đang làm xấu môi trường đầu tư ở Việt Nam. Xem lại các công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn làm chức năng tư vấn trong lĩnh vực đầu tư. Mặc dù hiện nay Bộ Kế hoạch và đầu tư đã cấp 38 giấp phép dịch vụ tư vấn đầu tư cho một số công ty tư nhân, nhưng cần thiết phải thu hồi giấp phép nến các công ty này hoạt động không có hiệu quả. - Hoạt động tư vấn đầu tư phải giúp các chủ đầu tư có cơ hội chọn đúng đối tác. Đặc biệt là công tác lựa trọn thẩm tra chính xác đối tác đầu tư nước ngoài. Đã đến lúc không phải bất cứ loại đối tác nào chúng ta cũng hoan nghiêng như nếu mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau: + Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam ; kiên quyết phát hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn trộm dật, mánh mung và thậm chí lừa đảo. Có những đối tác đến Việt nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu xảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lời hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi thăm nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ. + Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư. + Có khả năng, kinh nhiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt nam + Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu với một số nước đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự tham gia của cơ quan chức năng của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện chiến lược thu hút FDI chúng ta phải tự đặt mục tiêu “Hiệu quả kinh tế- xã hội” lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam rất mong muốn được “là bạn với tất cả các nước” không phân biệt chế độ chính trị, xã hội. 5. Tăng cường quản lý các dự án FDI trong quá trình thẩm định và triển khai dự án. Nhà nước bằng chính sách, chế độ và những biệt pháp điều hành vĩ mô để quản lý xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ khâu cho phép đầu tư đến qúa trình hoạt động của xí nghiệp đó. 5.1. Định rõ mục tiêu của công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Dành được càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu và rất cần : vốn, công nghệ, kinh nhiệm quản lý có chọn lọc của bên ngoài, vị trí trong phân công lao động quốc tế. - Góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước như: lao động, tài nguyên, vị trí địa lý kinh tế…Thực hiện việc kết hợp tối ưu các lợi thế bên ngoài và bên trong. - Góp phần tăng tích luỹ và cải thiện đời sống của nhân dân, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. - Điều tiết lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ sở hữu, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của người chủ đầu tư. - Đảm bảo hoạt động FDI theo hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế- xã hội nước ta (cơ cấu ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế, kinh tế nước ngoài, kinh tế đối ngoại) 5.2. Làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. a) Trên cơ sở chiến lược, định hướng phát triển kinh tế- xã hội của toàn bộ nên kinh tế, xác định cơ cầu FDI theo ngành, theo lãnh thổ, theo thành phần kinh tế và theo thị trường (thay thế nhập khẩu hay hướng vào xuất khẩu). Đã đến lúc, không phải ngành nào cũng thu hút FDI nhà nước cũng áp dụng các biện pháp ưu đãi để khuyến khích đầu tư nước ngoài (như khách sạn). Chúng ta chỉ nên khuyết khích FDI vào các ngành đòi hỏi vốn lớn, kỹ thuật cao, quản lý phức tạp và sản phẩm dành cho xuất khẩu. Còn loại FDI chủ yếu cung cấp cho thi trường nội địa ( thay thế nhập khẩu, cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước) thì thống nhất giữa đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước. Nhà nước phải có quan điểm nhất quán trong việ khuyến khích cả khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài với FDI. b) Quản lý chặt chẽ việc nhập thiết bị , chuyển giao công nghệ, tránh để nhập thiết bị, công nghệ đã và sẽ nhanh lạc hậu. Vấn đề này hiện nay đang gây tranh luận trong các ngành hữu quan cũng như các nhà quản lý ở Việt Nam. Nhìn chung có hai ý kiến trái ngược nhau: Loại ý kiến thứ nhất (trường phái cứng rắn) cho rằng: “Các nhà đầu tư nước ngoài một khi đã có tiềm lực vốn, thì không có lý do gì lại cho phép họ góp vốn vào liên doanh bằng thiết bị cũ”. Còn loại ý kiến thứ hai quan niệm “Việc không cho phép các loại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập thiết bị đã qua sử dụng là không hợp lý, không phù hợp với điều kiện trước mắt của Việt Nam”. Một trong những đặc thù của đất nước ta hiện nay là, nếu sử dụng các dây truyền thiết bị hiện đại tự động hoá ở mức độ cao, sẽ đẩy người lao động vào cảnh thất nghiệp. Cho nên, ở đây đòi hỏi một sự lựa chọn, tức là phải biết hi sinh mục tiêu khác. Có ý nghĩa là “muốn tạo ra nhiều việc làm thì phải hy sinh mục tiêu công nghệ, ngược lại muốn có công nghệ cao thì phải hy sinh mục tiêu tạo ra nhiều việc làm”. Trước tình hình như vậy, Nhà nước cần có những quy định rất cụ thể những lĩnh vực nào nhất thiết phải nhập thiết bị công nghệ mới và lĩnh vực nào cho phép nhập thiết bị công nghệ đã qua sử dụng, nhưng phải quy định rõ năm sản xuất, chất lượng còn lại…để tránh nhập tràn lan hoặc thiết bị đã quá lạc hậu c) Quản lý về tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia liên doanh và chủ đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. + Đối với liên doanh, nói chung là tỷ lệ góp vốn phía Việt Nam càng cao càng tốt, nhất là các dự án quan trọng, tỷ suất lợi nhuận cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. Hiện nay do hạn chế của ta về vốn nên tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam trong vốn pháp định khoảng 25- 30%. ở đây chúng ta cần chú ý một số vần đề liên quan: Thứ nhất, Nhà nước cần quy định tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam tối thiểu là 50% vốn Pháp định. Nếu các dự án quy mô quá lớn (như là dự án xây dựng khu phức tạp, da dạng, đa năng…có tổng số vốn 468.427.000 USD) có thể cho phép tỷ lệ vốn pháp định bằng 25% tổng số vốn đầu tư. Thư hai, khuyến khích các công ty Việt Nam cùng góp vốn chung để có được cổ phần lớn hơn trong các liên doanh. Thứ ba, nhà nước cần có chính sách cụ thể trong việc huy động vốn trong nước cho những lĩnh vực thu lợi nhuận nhanh và lôi kéo các ngân hàng của Việt Nam vào cuộc (thực sự góp vốn cùng đầu tư). Thư tư, cần có biện pháp tính toán, kiểm soát chặt chẽ về giá cả máy móc, thiết bị công nghệ phía nước ngoài góp để tránh trường hợp họ nâng giá một cách vô lối gây thiệt thòi không chỉ bên Việt Nam mà cho cả lợi ích Nhà nước Việt Nam. - Việc nâng giá thiết bị nhập khẩu thuộc phần góp vốn của Bên nước ngoài gây thiệt hạn trước hết cho Nhà nước Việt Nam, vì khi chi phí sản xuất đuợc nâng lên thì lợi nhuận của bên liên doanh giảm xuống và kéo theo sự giảm sút khoản thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước. Xét về lợi ích đối tác tham gia liên doanh, việc nâng giá gây thiệt hại cho Bên Việt Nam vì thông thường bên nước ngoài góp vốn bằng thiết bị hoặc được liên doanh uỷ quyền nhập khẩu máy móc thiết bị. Giá máy thiết bị bên nước ngoài khai vống lên kéo theo sự gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam và đương nhiên lợi nhuận chia cũng giảm đi. + Đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là toàn bộ sở hữu của người (hoặc tổ chức) nước ngoài. Nhưng hoàn toàn chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước chịu ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế – xã hội của nước ta, đồng thời cũng có tác động trở lại nhất định đối với nước ta. Quản lý việc nhập khẩu máy móc – thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không đòi hỏi phải chặt chẽ như đối với doanh nghiệp liên doanh. Nhưng cần có quy định các chỉ tiêu tối thiểu mà các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải thảo mãn (chất lượng thhiết bị, giá cả…). d) Quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay mới có khoảng 12 vạn lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo dự báo đến năm 2000 sẽ có hàng chục vạn người trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cho nên vấn đề quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp FDI có ý nghĩa quan trọng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì Việt Nam có 4 lợi điểm đối với tư bản nước ngoài. Một trong 4 điểm đó là “thị trường lao động nước ta tương đối hoà đồng. Việt Nam không có những tranh chấp lao động như ở nhiều quốc gia khác”. Nếu xét ở thời điểm hiện đại có thể đúng, như nếu đặt vấn đề này trong khoảng 10 năm nữa thì còn nhiều vấn đề phải xem xét lại. Thứ nhất, thị trường sức lao động của Việt Nam chưa hoàn chỉnh, chưa thực sự là lĩnh vực để tiến hành mua, bán như hàng hoá đặc biệt - đó là sức lao động. Người lao động Việt Nam vẫn chưa có thói quen bán sức lao động của mình theo đúng giá trị thực của nó. Hơn nữa nhiều không biết được giá trị thực của sức lao động của mình là gì?. Thứ hai, Các công cụ pháp luật chưa đủ để cho phép nhà nước điều tiết được thị trường sức lao động. Để quản lý có hiệu quả sức lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có những biện pháp tình thế và biện pháp lâu dài. Biện pháp tình thế gồm: - Nghiên cứu và đưa ra những phương pháp hoạt động hữu hiệu của các tổ chức Đảng, công đoàn… cho phù hợp với điều kiện hoạt động và đặc thù hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Bồi dưỡng nâng cao năng lực và bố trí hợp lý các cán bộ Việt Nam tham gia HĐQT và các chức vụ chủ chốt trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Ban hành các quy định chức năng cung ứng lao động đối với các đơn vị cung ứng lao động và chủ những đơn vị nào có đủ điều kiện và được Bộ Lao động – thương binh và xã hội cấp chứng chỉ hành nghề mới được hoạt động cung ứng lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Biện pháp dài hạn (chiến lược) gồm: - Nhà nước ban hành quy chế đảm bảo cho thị trường lao động Việt Nam tồn tại và phát triển một cách đầy đủ và đúng quy luật. Có như vậy mới đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghệp trên thị trường lao động và quyền lợi của người lao động; - Nhà nước cần quy định và bắt buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chấp hành nghiêm chỉnh những chính sách chế độ và tuyển dụng lao động như chế độ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động, tiền công tiền thưởng, Bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng nâng cao ta nghề và các quyền lợi chính đáng khác của người lao động. 5.3- Cải cách công tác thẩm định dự án FDI. Việc cải cách công tác thẩm định dự án FDI theo hướng các cơ quan Nhà nước khi thẩm định không thể và không nên can thiệp quá sâu vào những tính toán kinh doanh của các chủ đầu tư mà cần trở lại đúng chức năng của mình là đảm bảo lợi ích Nhà nước tron khuân khổ pháp luật. 5.4- Quản lý Nhà nước dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy định của giấy phép đầu tư hay không là vấn đề cấp bách vào phức tạp nhất hiện nay. Công tác quản lý Nhà nước dự án sau khi được cấp giấy phép đầu tư và trong toàn bộ quá trình triển khai có tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh tế – xã hội của hoạt động hợp tác đầu tư. Đó là sự tham gia của dự án FDI vào việc tạo ra lực lượng sản xuất mới ngành mới và sản phẩm mới, áp dụng công nghệ tiên tiến và kiến thức quản lý kinh doanh hiện đại, mở rộng thị trường nội địa và thị trường thế giới, tạo thêm việc làm và đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách. Quản lý hàng chục tỷ USD với hàng ngàn doanh nghiệp trải rộng trên phạm vi cả nước với nhiều vụ việc thường xuyên phát sinh, đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy Nhà nước thật sự vững mạnh, ổn định lâu dài vừa đủ sức quản lý FDI, vừa tạo niềm tin đối với các chủ đầu tư nước ngoài. Do đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp không có bộ chủ quản, hoạt động theo pháp luật và tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp về vốn đầu tư, hiệu qủa “lời ăn, lỗ chịu” nên Nhà nước phải có biện pháp quản lý làm sao vừa không buông lỏng vừa không can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó sẽ tạo thêm sự vững tin cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước ta, nhất là đang trong quá trình hội nhập hiện nay. Kết luận Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò to lớn của FDI trong quá trình đổi mới và mở nền kinh tế nền kinh tế, đặc biệt là việc thu hút FDI để tạo việc làm cho người lao trong tiến trình toàn cầu hoá. Hiện nay, ở nước ta nguồn vốn FDI đang phát triển một cách mạnh mẽ điều đó sẽ là đòn bẩy để phát triển nền kinh tế cũng như vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có biện pháp để khắc phục những mặt yếu kém của FDI và đưa ra những giải pháp hữu hiệu phát huy hết vai trò của FDI. Vì vậy Nhà nước ta cũng cần phải có các giải pháp, các chính sách ưu đãi để thu hút được nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn FDI trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay. Cuối cùng, em xin cảm ơn Khoa Kinh tế Lao Động và Dân Số Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân HN và cô Thu đã tạo điều kiện, cung cấp số liệu, tài liệu, hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Do thời gian, kinh nhiệm có hạn và các yếu tố khách quan về tài liệu nên đề tài còn có những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và góp ý của các cô, các thầy và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo 1 GS. TS. Mai Quốc Chánh: Giáo trình Kinh tế Lao động, Nhà xuất bản giáo dục, 1998 2 TS. Nguyễn Tiến Dũng: Nâng cao năng lực canh tranh trong quá trình hội nhập, LĐ &XH, Số 209/03 3 Đầu tư quốc tế trên toàn cầu giảm, Báo Nhân Dân, số 17515, ngày 10/7/2003 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí kinh tế và phát triển số 1 năm 1999 Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 6 Giáo trình kinh tế Quốc tế. Nhà xuất bản thống kê trường ĐH- Kinh tế Quốc dân HN, 1998 7 Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế. Nhà xuất bản thống kê trường ĐH - Kinh tế Quốc dân HN, 1994 8 Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại. Nhà xuất bản thống kê trường ĐH Kinh tế Quốc dân HN, 1998 Nguyễn Thị Hằng: Lao động và việc làm, LĐ& XH, số198/2002 10 Nguyễn Đức Mạnh, một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ chân á. Tạp chí Nghiên cứu đông nam á tháng 5/1999 11 Vũ Chí Lộc, Đầu tư nước ngoài, nhà xuất bản Giáo dục. Nguyễn Thái, Hà Nội Điểm Đến của các nhà đầu tư nước ngoài, Báo: Người đại biểu của Nhân Dân, Số 61(140) ngày 21/7/2003 Nguyễn Văn Thành: ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoàI đối với các nước đang phát triển, Tạp chí Kinh tế thế giới số 239 tháng 4/1998 14 Thuật ngữ Lao động- thương binh và Xã hội, tập I, Nhà xuất bản LĐ- XH, 1999 Mục lục Lời nói đầu…………………………………………………... 1 Nội dung……………………………………………………………... 3 Phần I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá………………... 3 I. Khái niệm đầu tư và đầu tư trực tiếp…………………………………… 3 1. Khái niệm đầu tư………………………………………………………. 3 2. Đầu tư trực tiếp………………………………………………………... 3 II. Tạo việc làm…………………………………………………………... 5 1. Khái niệm chung………………………………………………………. 5 2. Vai trò quan trọng của tạo việc làm ở nước ta hiện nay………………. 6 3. Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề việc làm và nhân tố góp phần điều chỉnh làm giảm sức ép việc làm……………………………………... 7 a) Nhân tố ảnh hưởng đến sức ép trong vấn đề giải quyết việc làm……… 7 b) Nhân tố góp phần điều chỉnh làm giảm sức ép việc làm……………… 7 III. FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá……………………………………………………………….. 8 1. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam hiện nay…………………………………………………………………………. 8 . Tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá……………………………... 8 1.2. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm ở Việt Nam………………… 10 1.2.1. Những thuận lợi………………………………………………….. 10 1.2.2. Những thách thức………………………………………………… 13 2. FDI với vấn đề tạo việc làm cho lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay…………………………………………………... 16 2.1. Vai trò của FDI…………………………………………………….. 16 2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài…………………………. 18 2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài………………………….. 20 2.3.1. Lý thuyết về lợi ích của đầu tư…………………………………… 20 2.3.2. Tác động của FDI với nước tiếp nhận vốn……………………….. 20 2.3.3. Tác động của FDI với nước xuất khẩu vốn………………………. 20 Phần II: Phân tích thực trạng về hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá………………………………………………………………….. 25 I. Chính sách đầu tư nước ngoài và chiến lược thu hút FDI của Việt Nam hiện nay………………………………………………………………………... 25 1. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam…………………... 25 1.1. Các chính sách chung……………………………………………… 25 1.2. Các chính sách và giải pháp tài chính……………………………… 27 1.2.1. Về thuế giá trị gia tăng…………………………………………... 27 1.2.2. Về giá hàng hoá và dịch vụ……………………………………… 27 2. Chiến lược thu hút FDI của Việt Nam………………………………. .28 II. Thực trạng về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay…………………………………………………………………… 36 1. Về giấy phép đầu tư………………………………………………….. 36 1.1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư……………………………………. .36 1.2. Tình hình thực hiện giấy phép đầu tư……………………………… .37 2. Quá trình thực hiện vốn đầu tư FDI trong vấn đề tạo việc làm……… .38 3. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội hiện nay………. .41 III. Xu hướng đầu tư quốc tế trên toàn cầu……………………………... 43 Phần III. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá 45 Cải thiện môi trường phát lý đầu tư…………………………………. 45 Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vưc…… 46 Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia.. 46 Xem xét lại nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị…………… 47 Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư………………………… 47 Vấn đề chuyển đổi ngoại tệ………………………………………... 48 Vấn đề mở tài khoản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .. 48 Cụ thể hoá chiến lược thu hút FDI………………………………….. 48 Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cờ chiến lược chung……. 48 Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch….. 50 Thực hiện đồng bộ chính sánh khuyến khích đầu tư ……………….. 54 Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư …………………... 52 FDI trong quy hoạc đầu phối hợp tối ưu với các nguồn vối khác….. 53 Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư……………………. 56 Tăng cường quản lý các dự án FDI………………………………….. 58 Định rõ mục tiêu công tác quản lý nhà nước………………………. 58 Làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp……... 59 5.3 Cải cách công tác thẩm định dự án FDI…………………………….. 63 5.4 Quản lý nhà nước dự án FDI sau khi được cung cấp giấy phép ……. 63 kết luận……………………………………………………………. 64 Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35468.doc
Tài liệu liên quan