FDI với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Lời nói đầu Nhận thức đúng vị trí và vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính phủ Việt Nam đã ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Phương châm của chúng ta là thực hiện đa phương hoá hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tôn trọng lẫn nhau. Chính Phủ Việt Nam coi vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong tổng thể c

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu FDI với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu nhất. Trong một phạm vi nhất định, có thể nói rằng việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và lâu dài mà Việt Nam đang theo đuổi, tại điểm xuất phát thấp hiện tại, phụ thuộc rất nhiều vào năng lực giải quyết nhiệm vụ nói trên. Trong phần chuyên đề này với đề tài: Đầu tư trực tiếp với tăng trưởng kinh tế Việt Nam có những nội dung chính sau đây: Chương 1: Một số lý luận về hoạt động đầu tư trựctiếp nước ngoài. I. Một số vấn đề cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Một số vấn đề cơ bản về đầu tư quốc tế. 1.1. Khái niệm về đầu tư quốc tế. 1.2. Sự phát triển của đầu tư quốc tế bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: 1.2.1. Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. 1.2.2. Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. 1.2.3. Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên “lực đẩy” đối với đầu tư quốc tế. 1.2.4.Nhu cầu vốn đầu tư phát triển để công nghiệp hoá của các nước đang phát triển rất lớn, tạo nên “sức hut”mạnh mẽ đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.3. Các hình thức của đầu tư quốc tế. 1.3.1.Đầu tư của tư nhân. 1.3.2.ODA. II/ Các vấn đề cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khái niệm và các đặc trưng của đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI). 2. Sơ lược lịch sử đầu tư trực tiếp nước ngoài. . Sự thay đổi quan điểm đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ kỳ thị đến chấp nhận có điều kiện. 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được đánh giá như là lối thoát cho các nước nghèo. 3. Các lý thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.1. Lý thuyết kinh tế vi mô về FDI. 3.2. Lý thuyết vĩ mô. 4.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. 4.1. Đối với nước đầu tư: 4.2. Đối với nước nhận đầu tư. 4.3.Đánh giá bản chất và vai trò của FDI. Kinh nghiệm huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước đang phát triển. 5.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Maliaxia. Chương 2:Tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong những năm qua và tác động của nó đến sự tăng trưởng kinh tế. I/ Quan điểm của Việt Nam về động tác của FDI đối với kinh tế xã hội của đất nước. Đánh giá đúng vị trí của FDI trong nền kinh tế quốc dân. Quan điểm “mở” và “che chắn” trong chính sách thu hút FDI. 2.1.Xét Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam. 2.2 Theo kinh nghệm một số quốc gia nhìn nhận về vấn đề này. 3.Giải quyết hợp lí các mối quan hệ về lợi ích giữa các bên trong quá trình thu hút FDI. 4.Hậu quả kinh tế - xã hội được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong hợp tác đầu tư. 5.Đa dạng hoá hình thức FDI. 6.Xử lý đúng đắn quan hệ giữa quản lý nhà nước và quyền tự chủ của các doanh nghiệp có FDI. 7.Môi trường đầu tư ở Việt nam. 7.1.ổn đinh môi trường vĩ mô. 7.2.Tạo môi trường pháp lý cho hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài. 7.3.Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. II. Thực tế huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qui mô và nhịp độ thu hút vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh. 2. Cơ cấu đầu tư. Hình thức và đối tác đầu tư. 3.1.Về hình thức đối tác đầu tư. 3.2.Về các đối tác đầu tư trong và ngoài nước. 4.Kết quả thực hiện các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4.1.Tình hình thực hiện các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian vừa qua. 4.2.Một số kết quả cụ thể. 5.ảnh hưởng của Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế Việt nam. 5.1.Những ảnh hưởng tích cực của Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nguồn vônd hỗ trợ cho phát triển kinh tế. Chuyển giao công nghệ mới. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế. 5.2.Một số ảnh hưởng tiêu cực của Đầu tư trực tiếp nước ngoài. ChươngIII:Những biện pháp tăng trưởng và thu hút nâng cao hiệu qủa kinh tế – xã hội của FDI tại Việt nam. 1.Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư. Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều kĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia liên doanh 1.3.Xem xét lại nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị của Doanh nghiệp liên doanh. 1.4.đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư. 1.5.vấn đề chuyển đổi ngoại tệ. 1.6.Vấn đề mở tài khoản của các doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài. 2.Cụ thể hoá chiến lược thu hút FDI. 2.1. Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cờ chiến lược chung của các nguồn vốn. 2.2. hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướn công nhiêpj hoá hiện đaị hoá. 3.Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư. Phối hợp tối ưu giữa đầu tư trong nước với FDI, giưã ODA và FDI. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư thông qua biện pháp thuế. Chuyên đề được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tiình của hai thầy Tiến sĩ:Nguyễn khắc Minh và thầy: Nguyễn thế Hệ cùng cơ quan thực tập Bộ tài chính. Em xi chân thành cảm ơn. Chương I Cơ sở lý luận về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Một số vấn đề cơ bản của đầu tư quốc tế. 1. Khái niệm về đầu tư quốc tế. Cho đến nay, đầu tư không phải là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là đối với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại được hiểu rất khác nhau. Có người cho rằng đầu tư là phải bỏ một cái gì đó vào một việc nhất định để thu lại một lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng có người lại quan niệm đầu tư là hoật động sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận. Thậm chí thuật ngữ này thường được sử dụng một cách rộng rãi,như câu cửa miệng nói lên sự chi phí về thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc sống. Về bản chất, đầu tư quốc tế những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp, việc buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến quyết định đầu tư. Đến lượt mình, việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại lại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, vật tư nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính hiện quy luật trong liên kết hợp kinh tế toàn cầu hiện nay. 2. Sự phát triển của đầu tư quốc tế bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: 2.1. Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Ngày nay quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng, với qui mô và tốc độ ngày càng lớn, tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu, trong đó tính phụ thuộc lẫn nhau cuả nền kinh tế dân tộc ngày càng gia tăng. Quá trình này càng diễn ra nhanh chóng sau thời kì chiến tranh lạnh đã chi phối thế giới trong nửa thế kỉ, làm cho các nền kinh tế thị trường. Bằng chứng là hiện nay phần lớn các nước đều gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO); chấp nhận xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư. Trong điều kiện trình độ phát triển sản xuất, khả năng về vốn và công nghệ, nguồn tài nguyên, mức độ chi phí ..ở các nước khác nhau, nguồn vốn đầu tư quốc tế với tư cách của loại hàng hoá đặc biệt tất yếu sẽ tuân theo những quy luật của thị trường vốn là chảy từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn theo tiếng kêu gọi của lợi nhuận cao. 2.2. Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Cách mạng khoa học – công nghệ đã tạo nên sự biến đổi nhanh chóng, cứu phát triển đến ứng dụng sản xuất rất nhanh chóng, chu kì sống của sản phẩm rút ngắn nhanh, sản phẩm hàng hoá ngày càng đa dạng và phong phú. Đối với các quốc gia làm chủ và đi đầu trong khoa học công nghệ sẽ quyết định vị trí lãnh đạo chi phối hay phụ thuộc vào các nước khác trong tương lai. Do đó, cuộc chạy đua giữa các quốc gia, nhất là các nước phát triển bên thềm thế kỉ XXI ngày càng quyết liệt. ở đây hai xu hướng: Một mặt, đối với những vấn đề khoa học công nghệ có nhu cầu vốn lớn, một số ít các tập đoàn độc quyền sẽ xuất hiện có xu hướng hợp tác đầu tư thay vì cạnh tranh để cùng các nước phât triển có hướng chuyển dịch đầu tư sang các nước khác đối với các sản phẩm đã “lão hoá”, sản phẩm cần nhiều lao động, nguyên liệu thô hoặc gây ô nhiễm môi trường. Thông thường, quá trình chuyển giao công nghệ trên thế giới diễn ra theo “mô hình đàn sếu bay”: Nghĩa là các nước phát triển chuyển giao công nghệ, thiết bị sang cho các nước công nghiệp mới chuyển giao thiết bị sang các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các nước đang chậm phát triển cũng có khả năng chọn lọc, tiếp nhận công nghệ, thiết bị từ các nước “công nghệ nguồn”. chẳng hạn ở Mỹ có đạo luật quy định thời hạn khấu hao máy móc, thiết bị trong những ngành quan trọng có tính cạnh tranh cao phải khẫu hoa hết trong 5 năm, bình quân 20% một năm để nhanh chóng thu hồi vốn, đổi mới thiết bị. Tranh thủ công nghệ hiện đại của các nước công nghiệp phát triển là bước “đón đầu đi tắt” trong chiến lược phát triển công nghệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông, phương tiện giao thông vận tải đã khắc phục sự xa cách về không gian; giúp các chủ đầu tư thu thập xử lý thông tin kịp thời; đưa ra quyết định đầu tư, điều hành sản xuất kinh doanh đúng đắn ở cách xa hàng vạn km; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quy mô để chuyển vốn trên toàn cầu đến các địa chỉ đầu tư hấp dẫn. 2.3. Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên “ lực đẩy” đối với đầu tư quốc tế. Trình độ phát triển kinh tế cao ở nước công nghiệp phát triển đã nâng cao mức sống và khả năng tích lũy vốn của các nước này. Điều đó, một mặt dẫn đến hiện tượng “thừa” tương đối vốn ở trong nước; mặt khác làm cho chi phí tiền lương cao nguồn tài nguyên thiên nhiên thu hẹp và chi phí khai thác tăng lên dẫn đến giá thành sản phẩm tăng tỉ suất lợi nhuận giảm dần, lợi thế cạnh tranh trên thị trừơng còn. Chính những nguyên nhân này tạo nên lực đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường mới ngoài để giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới nhằm thu lợi nhuận cao. Ngoài việc chuyển dịch vốn, thiết bị trong nước của doanh nghiệp ở các thị trường tiềm năng mới... 2.4.Nhu cầu vốn đầu tư phát triển để công nghiệp hoá của các nước đang phát triển rất lớn, tạo nên “sức hut”mạnh mẽ đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay, trình độ chênh lệch phát triển giữa các nước công nghiệp phát triển giữa các nước công nghiệp phát triển của một nền kinh tế toàn cầu đang đòi hỏi kết hợp chúng lại. Các nước tư bản phát triển không chỉ coi các nước đang phát triển là địa chỉ đầu tư hấp dẫn, do chi phí thấp – Lợi nhuận cao sức mua và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các nước đang phát triển cũng trông chờ và mong muốn thu hút được vốn đầu tư, công nghệ của các nước phát triển để thực hiện công nghiệp hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Đầu tư quốc tế là sự kết hợp lợi ích của cả hai phía. Tuy nhiên trong điều kiện cung cầu vốn trên trường quốc tế căng thẳng, sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển nhằm thu hút vốn nước ngoài ngày càng ác liệt thì việc tăng cường, cải thiện môi trường đầu tư, có những chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, chấp nhận phần thiệt hơn về mình về kinh tế đang phát chi phối chính sách của các nước đang phát triển hiện nay, tạo nên thời kì các chủ đầu tư lựa chọn địa chỉ đầu tư không phải ngược lại. Mặc dù vẫn có khá nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này nhưng vãn có thể đưa ra một khái niệm cơ bản về đầu tư được nhiều người thừa nhận, đó là “Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai,... vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận”. Người bỏ ra một số lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Đối tượng bỏ tài sản vào đầu tư thuộc quyền sở hữu của người đầu tư. Chủ đầu tư có thể các tổ chức, cá nhân và cũng có thể nhà nước(Đầu tư chính phủ). Có hai đặc trưng quan trọng để phân biệt một hoạt động được gọi là đầu tư hay không, đó là: Tính sinh lãi và rủi ro của các công cuộc đầu tư. Thực vậy, người ta không thể bỏ ra một lượng tài sản vào một việc mà lại không dự tính thu được giá trị cao hơn gía trị ban đầu. Tuy nhiên, nếu hoạt động đầu tư nào cũng sinh lãi thì trong xã hội ai cũng muốn trở thành nhà đầu tư. Chính thuộc tính này đã sàng lọc các nhà đầu tư và thúc đẩy sản xuất- xã hội phát triển. Qua đặc trưng trên cho thấy, rõ ràng mục đích của hoạt động đầu tư là thu lợi nhuận. Vì thế, cần hiểu rằng bất kỳ sự chi phí nào đó mà không có mục đích thu lợi nhuận thì không thuộc về khái niệm đầu tư. Khác với thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế được thực hiện khai thác trực tiếp lợi thế so sánh giữa các nước. Các yếu tố sản xuất(trừ đất đai) di chuyển ra khỏi quốc gia, từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” để tạo ra sản phẩm giá thành hạ, năng suất cao. Nhờ đó mang lại nhiều lợi nhuận cho các chủ sở hữu các yếu tố sản xuất, lợi ích cho cá nước tham gia đầu tư và sản lượng thế giới tăng lên. Sự phát triển đầu tư quốc tế đã gắn kết sản xuất giữa các nước với nhau và đẩy nhanh quá tình nhất thể hóa nền kinh tế khu vực và thế giới. ở Việt Nam, nếu không có đầu tư nước ngoài (FDI) thì các yếu tố có lợi thế so sánh như tài nguyên (dầu mỏ), lao động dồi dào, tiềm năng thị trường tiêu thụ lớn... ít được khai thác có hiệu quả, trong khi đó lại rất cần các yếu tố lợi thế so sánh như vốn, công nghệ, kiến thức quản lý tiên tiến và mạng lưới phân phối toàn cầu của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) để thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận thấy Việt Nam là nơi có thể khai thác có hiệu quả các lợi thế của họ. Chính từ nhận thức được ý nghĩa quan trọng này mà nước ta không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để thu hút FDI, đồng thời ngày càng nhiều các TNCs quan tâMarketing đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đầu tư quốc tế, đặc biệt là FDI, đã thúc đẩy nhanh quá trình hình thành thị trường toàn cầu thông qua việc tạo ra các mối liên kết trong các thị trường vốn, công nghệ, lao động, hàng hoá và dịch vụ giữa các nước. Các TNCs ngày càng theo đuổi chiến lược kinh doanh toàn cầu trên cơ sở tăng cường chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất giữa các nước. Các mối liên kết này được phản ánh rõ nhất qua việc tăng nhanh tỷ trọng trao đổi nội bộ giữa các chi nhánh của TNCs ở các nước và giữa caca chi nhánh của TNCs ở các nước đang phát triển. 3.Các hình thức của đầu tư quốc tế. Cơ cấu vốn đầu tư quốc tế. Vốn đầu tư quốc tế đầu tư của tư nhân. Trợ giúp phát triển chính thức của chính phủ và tổ chức quốc tế. Tín dụng thương mại Hỗ trợ phí dự án. Hỗ trợ dự án Đầu tư trực tiếp Đầu tư gián tiếp Tín dụng thương mại. 3.1.Đầu tư của tư nhân. Đầu tư của tư tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại bằng nguồn vốn tư nhân nước ngoài. 3.2.ODA. Cùng với đầu tư quốc tế, còn có một số dòng lưu chuyển vốn khác giưa các nước như viện trợ phát triển chính thức (offical development assisstance-ODA), tín dụng thương mại, vay nợ, dịch vụ,... các nguồn vốn này ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, của các nước và đặc biệt là đối với việc thực hiện công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển.Viện trợ phát triển chính thức là tất cả có hoàn lại với lãi suât ưu đãi thấp, thời gian trả nợ dài của chính phủ(Các nước phát triển), các tổ chức của liên hiệp quốc(UNDP, UNIDO, UNICEF...) các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chứ tài chính quốc tế (WB,IMF,ADB,...) giành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ (các nước đang phát triển). Những nước, tổ chức cấp viện trợ thường được gọi là nhà tài trợ hoặc đối tác viên trợ nước ngoài. II/ Các vấn đề cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.Khái niệm và các đặc trưng của đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nếu xét theo khía cạnh là loại đầu tư mà các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý điều hành, tổ chức sản xuất để thu hút lợi ích và hoàn toàn chịu trách nhiệm về đồng vốn cũng như kết quả sản xuất kinh doanh của mình. chính vì lẽ đó mà FDI được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận của nhà kinh tế: Trên thực tế, phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng thành lập công ty con, hoặc các công ty liên doanh trực thuộc các công ty đa quốc gia và nhà đầu tư là những tổ chức chóp bu của các công ty này. Một điều đáng lưu ý là ngày nay FDI còn được thực hiện bởi các công ty vừa và nhỏ, tuy nhiên các công ty đa quốc gia vẫn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình này. Do đó FDi có theer được định nghĩa: là sự mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia trên phạm quốc tế. Sự mở rộng đó bao gồm sự chuyển vốn, công nghệ và các kỹ năng sản xuất và bí quyết quản lý ...tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của dự án đầu tư. (E.Wayne Nafziger – Kinh tế học của các nước đang phát triển –NXB thống kê, 1998). Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF đưa ra được sử dụng rộng rãi hơn cả: FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để thu hút được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường. Theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12-11-1996: FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định cuả Luật này. Chính vì vậy ta thấy được rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện vào những thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản – thời kỳ mà các nước tư bản bắt đầu hình thành các thuộc địa ở ngoài phạm vi lãnh thổ của mình. Hình thức tồn tại của đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới dạng các nhà tư bản đầu tư vốn vào các thuộc địa, trên cơ sở sử dụng nguồn lao động tại chỗ để khai thác khoáng sản, đồn điền, nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu cung cấp cho các ngành sản xuất ở chính quốc. 2.Sơ lược lịch sử đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX các công ty châu Âu đã thiết lập ở châu á và các nước Mỹ la tinh các cơ sở khai thác tài nguyên và trồng trọt nhằm bóc lột nguồn thiên nhiên và sức lao động của nước thuộc địa. Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa đế quốc ra đời và biến nhiều vùng thuộc châu phi, Đông Nam á và các nơi khác thành vùng ảnh hưởng của mình. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có sự chuyển biến, thay đổi về phương thức, qui mô, cũng như thái độ của con người đối với nó. Thái độ đó, nhìn một cách tổng quát qua lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cò đem lại những lợi nhât định, chẳng hạn như để phục vụ có hoạt động bóc lột, nhà tư bản đã đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng như bến cảng, đường sắt và mốt số đô thị, những cơ sở này có vị trí rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư nên được chấp nhận một cách có mức độ để lợi dụng những ưu thế mà nó có được. Trải qua lịch sử phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế có hiệu qủa, nên nó không nhưng được các nước hoan nghênh, mời chào mà còn cạnh tranh quyết liệt để thu hút loại đầu tư này. sự vận động, phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động, chi phối của các quy luật kinh tế. Thoạt đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là một trong những phương thức tìm kiếm, khai thác các yếu tố cần thiết, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đến giai đoạn phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên do qúa trình tích tụ, tập trung tư bản lớn, cùng với sự phát triển của quá trình phân công lao động xã hội trên quy mô quốc tế ngày càng mở rộng, tạo ra những cơ hội đầu tư mới. Đồng thời, dưới tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là sự phát triển của khoa học – công nghệ, sự phát triển kinh tế, tốc độ mở rộng sự giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế, cùng với sự chi phối của qui luật kin tế, trong đó nổi bật nhất là những lợi ích kinh tế của các nền kinh tế biết lợi dụng lợi thế so sánh (tuyệt đối và tương đối) đã làm cho không gian hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng mở rộng hơn. Xu hướng vận động nêu trên tuy là khách quan, xuyên suốt toàn bộ lịch sử phát triển lâu dài của đầu tư trực tiếp nước ngoài, song những diễn biến cụ thể của sự vận động đó lại chịu sự chi phối trực tiếp của rất nhiều yếu tố chính trị – xã hội khác. Tương ứng với mỗi hoàn cảnh lịch sử hay mục đích nghiên cứu cụ thể khác nhau, thì thái độ, quan điểm đánh giá bản chất và các yếu tố chi phối quá trình vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có sự thay đổi và đi đến những kết luận không giống nhau: Sự thay đổi quan điểm đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ kỳ thị đến chấp nhận có điều kiện. Nếu đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để thực hiện cuộc đấu tranh giai cấp thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem là yếu tố kinh tế mà giai cấp vô sản có thể lợi dụng để làm tăng thêm sức mạnh của mình. Đây là thời kỳ mà tình hình chính trị - xã hội thế giới được đặc trưng bởi sự khác biệt của hai phương thức sản xuất (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), thời kỳ mà đấu tranh chính trị được đặt ở vị trí, kinh tế của thế giới lúc bấy giờ là cơ sở chi phối quan điểm của các nhà lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó người phân tích kỹ vấn đề này là Lê Nin. Do sự phát triển của loại hình hoạt động kinh tế, dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngay từ những thời kỳ đầu đã gắn liền với lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản nên hầu hết các trường hợp, Lê Nin xem nó như một công cụ bóc lột của tư bản. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện quan trọng cho sự lớn lên của tư bản, và sự xuất hiện tình trạng “tư bản thừa” như là một tất yếu. Lênin cho rằng: Nếu chủ nghĩa tư bản chú ý đến phát triển nông nghiệp, đến nâng cao mức sống của quần chúng nhân dân... thì không thể có hiên tượng “ tư bản thừa”. Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, thì số tư bản thừa vẫn còn chuyên dùng, không phải để nâng cao mức sống củâ quần chúng trong một nước nhất định, - vì như thế thì sẽ đi đến kết qủa làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản, - mà là để tăng thêm lợi nhuận đó bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu. Trong các nước này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản còn ít, giá đất tương đối không là bao nhiêu, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ như vậy, “tư bản thừa” là do khi chúng đã nhìn thấy được những “mảnh đất màu mỡ” mà tại đó chúng có khả năng sinh lợi cao, trong khi ở nước sở tại các điều kiện để cho đầu tư sinh lợi đã rất hạn chế. Đầu thế kỉ XX, các nhà lý luận đã bàn nhiều về vấn đề xuất khẩu tư bản, Lênin cho rằng, xuất khẩu tư bản là đặc điểm kinh tế của chủ ghĩa tư bản hiện đại (chủ ghĩa tư bản độc quyền ). Theo Lênin: “Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó chế độ cạnh tranh hoàn toàn thống trị, là việc xuất khẩu hàng hoá. Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, trong đó tổ chức độc quyền nắm quyền thống trị, là việc xuất khẩu tư bản”. Mặc dù, xuất khẩu tư bản nếu xét về mặt lượng một cách giản đơn thì nó sẽ đồng nghĩa với việc đã làm giảm đi một phần năng lực phát triển, giảm bớt điều kiện tạo việc làm, làm giảm khả năng cải thiện mức sống của nước sở hữu tư bản, nhưng đây chính lại là điều kiện, là cơ hội giúp các nhà tư bản thu được lợi nhuận từ việc đầu tư vào nước khác với mức cao hơn. Đối với nước nhập khẩu tư bản thì đây là điều kiện quan trọng để thúc đẩy kinh tế, kỹ thuật phát triển, song về hậu quả, trong không ít trường hợp, do năng lực tổng thể của các nước này kém nên nhân dân ở các nước nhập khẩu tư bản bị kỹ thuật nước ngoài và theo “phản ứng dây chuyền”sẽ rất dễ dẫn đến sự lệ thuộc về chính trị. Như vậy ta thấy rằng, “xuất khẩu tư bản” dưới dạng này (nhà sở hữu Tư bản trực tiếp tổ chức sản xuất )thực chất là một loại hiình đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số “lợi” nào đó.Chính đặc điểm này là nhận tố kích thích các nhà tư bản có tiềm lực tích cực hơn trong việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài Nói tóm lại, loại sử dụng vốn một cách áp đặt dưới dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thời kỳ này, theo quan điểm của Lênin về thực chất là khoản chi phí mà các nước tư bản bỏ ra để củng cố địa vị trong chiếm hữu thuộc địa và cuối cùng là nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn. 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được đánh giá như là lối thoát cho các nước nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các quốc gia được xem như hậu quả khó tránh trong quá trình phát triển của thế giới, nhưng nếu khi khoảng cách giữa các loại quốc gia này, kéo dài đến mức quá lớn thì sự phân hoá này không những làm cho các nước nghèo phải chịu nhiều thua thiệt, mà chính nó cũng rất có thể trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của các nước giàu. Tiết kiệm và đầu tư thấp Thu nhập bình quận thấp Tốc độ tích luỹ vốn thấp Năng suất thấp Tuy nhiên xét về mặt nào đó, thì chính sự nghịch lý trên lại là một trong những điều kiện quan trọng để các nước nghèo có thể phát triển được. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới vẫn bị phân chia(tách biệt) theo hai con đường phát triển tương ứng với hai hệ thống chính trị đối lập (Xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa), và cả hai hệ thống đều đạt tới một trình độ phát triển nhất định, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là phương tiện riêng có, nên địa bàn hoạt động của nó chịu sự giới hạn trong phạm vi nội bộ của từng hệ thống. Bản chất kỹ thuật của đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà lý luận: Trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan đến ký thuật sản xuất kinh doanh đã buộc nhiều nhà sản xuất (có thể là hãng hay công ty) phải lựa chọn phương thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như là điều kiện cho sự tồn tại và phát triênr của mình. Trong xu thế phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật không ngừng bị rút ngắn lại, do đó đối với nước sở hữu kỹ thuật đó đạt tới trình độ tiếp cận mức hoàn thiện đã phải kịp thời di chuyển sang nước ngoài hoặc khu vực đang cần tới loại này, để nó tiếp tục phát huy tác dụng nhằm kéo dài tuổi thọ sản phẩm. Di chuyển kỹ thuật dưới hình thức đầu tư trực tiếp, phía cung kỹ thuật đồng nghĩa với việc kéo dài chu kỳ kéo dài tuổi thọ kỹ thuật. Đó là một trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy nghiên cú kỹ thuật mới, tăng cường ưu thế trong cạnh tranh. Đối với phái bên tiếp nhận kỹ thuật mặc dù phải trả giá cho việc sử dụng kỹ thuật cũ, nhưng nếu so với việc tự mình nghiên cứu thì việc tiếp nhận có ưu điểm tốn ít thời gian để có được kỹ thuật, ít rủi do và rút ngắn nhanh chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật để có thể thay ký thuật mới mà ít lãng phí. Đây là điều kiện để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách nước đi trước. Di chuyển kỹ thuật là một tất yếu kinh tế, nó không thể không diễn ra trước áp lực thay thế kỹ thuật mới. Tồn tại trong môi trường phát triển mạnh mẽ cuả khoa học kỹ thuật, chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật ngắn đến mức có những kỹ thuật hoặc sản phẩm tuy chưa đến mức có những kỹ thuật hoặc sản phẩm tuy chưa đến giai đoạn suy thoái (thậm trí có loại chưa đến giai đoạn hoàn thiện) đã bị kỹ thuật mới hơn đào thải. áp lực thay thế kỹ thuật mới đã thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật thế giới diễn ra cấp bách hơn. Những năm cuối thập niên 80 đến nay, sự vận động và các điều kiện của thế giới có những chuyển biến cơ bản, sâu sắc (sự cách biệt giữa hai hệ thống đã giảm dần; nền kinh tế hầu hết các quốc gia đều theo kiểu cơ chế thị trường; xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá các cuộc hoạt độngkinh tế đang trở thành phổ biến và diễn ra với tốc độ nhanh; khoa học, kỹ thuật, công nghệ đạt tới trình độ phát triển cao...) đầu tư trực tiếp nước ngoài không những được sử dụng một như một hình thức hợp tác kinh tê, như phương tiện thực hiện phận công lao động quốc tế, mà nó còn được xem là điều kiện quyết định sự phát triển kinh tế thế giới. 3.Các lý thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.1.Lý thuyết kinh tế vi mô về FDI. Các lý thuyết tổ chức công nghiệp ra đời từ thập kỷ 60 đã giải thích đầu tư quốc tế(FDI) như là kết quả tự nhiên từ sự tăng trưởng và phát triển kinh của các công ty lớn độc quyền của các công ty mở rộng thị trường ra thị trường quốc tế để khai thác các lợi thế của mình về công ty mà các công ty cùng ngành công nghiệp ở nước nhận đầu tư không có được. Như vậy, theo các lý thuyết tổ chức công nghiệp, nguyên nhân hình thành FDI là do sự mở rộng thị trương ra nước ngoài của các công ty lớn nhằm khai thác lợi thế độc quyền. Theo cách tiếp cận từ chu kỳ sản phẩm, vernon(1966) đã lý giải hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất hàng loạt ), đạt mức bão hào và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả, giai đạon đổi mới chỉ diến ra ở những nước phát triển. Như vậy, theo cách giải thích ccủa Vernon thì FDI là kết quả tự nhiên từ quá trình phát triển của sản phẩm theo chu kỳ. Phát triển lý thuyết chu kỳ sản phẩm, Akamátu(1962) đã xây dựng lý thuyết chu kỳ sản phẩm bắt kịp để lý giải nguyên nhân FDI. Theo thuyết này, sản phẩm mới được phát minh ra đời ở nước đầu tư, sau đó được xuất khẩu ra thi trường quốc tế. Tại nước nhập khẩu. Do ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu thị trường nội địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển hướng sản xuất để thay thế sản._. phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn kỹ thuật,... của quốc tế. Đến khi nhu cầu thị trường của sản phẩm sản xuất ở trong nước đạt tới mức bão hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện và cứ như vậy mà dẫn đến hình thành FDI. Q D X P M 0 t1 t2 t3 t(thời gian) OQ là nhu cầu nội địa(D), sản xuất (P), xuất khẩu (x) nhập khẩu(M) và OT là thời gian(t1,t2,t3,...). Lúc đầu, nhập khẩu sản phẩm mới làm tăng nhu cầu nội địa và sản xuất trong nước, sau đó tất cả lại giảm xuống do nhu cầu thị trường nội địa bị bão hoà. Vì thế, nhu cầu xuất khẩu xuất hiện.Các bước tiếp theo hình chữ V úp theo lại lập trình tự như trước và phát triển theo hình chữ V úp xuống. Con đường phát triển này dẫn đến hình thành FDI. Do cách tiếp cận từ phân tích những điều kiện công ty đầu tư ra nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vi mô giải thích một cách cụ thể hơn về nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế như kết quả tự nhiên của quá trình khai thác các lợi thế độc quyền ở nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Cách luận giải này đã gắn được những đặc trưng của FDI với các đặc điểm của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Vì thế, có thể nói rằng các lý thuyết vi mô đã giải thích rõ ràng hơn về nguyên nhân hình thành FDI và tác động của nó đối với công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên lý thuyết kinh tế vi cũng chỉ giải thích nguyên nhân hình thành FDI từ nhngx khía cạnh phát triển nhất định của TNCs qua phân tích một số lợi thế độc quyềnvề công nghệ kỹ thuật Marketing hoặc một hàng hoá, trong khi thực tế còn phải tính đến các nguyên nhân quan trọng khác từ những thay đổi trong chính sách phát triển của các nước, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, thương mại, các dịch vụ toàn cầu và môi trường đầu tư chủ nhà. 3.2. Lý thuyết vĩ mô. Theo lý thuyết của Hymer (1976), Kindleberger(1969) và Hirschman(1971), FDI được coi là kênh quan trọng để chuyển giao công nghệ, vốn , mạng lưới phân phối,...cho các nước đang phát triển. Nhờ đó, tác động mạnh đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ở nước này. Các tác gỉa như Singer(1950), Lall(1973), Muller và Barnet(1974),... càng thừa nhận những tác động quan trọng của FDI nhưng lại khai thác dưới góc độ đặt ra các vấn đề kinh tế - xã hội cho các nước dang phát triển. Các tác giả MacDougall -Kemp (1960...chứng minh cũng cho rằng, FDI cũng đem đến các yếu tố cần thiết như vốn, công nghệ, mạng lưới Marketing,...để thực hiện công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Mặt khác do cách tiếp cận “vĩ mô” của các mô hình hoặc quan điểm lý thuyết nên sự khác nhau giữa đầu tư nước ngoài gián tiếp và FDI không chỉ là sự chuyển vốn giữa các nước(đầu tư gián tiệp, tín dụng thương mại,...) mà quan trọng hơn còn được đặc trưng bởi các hoạt động chuyển giao công nghệ, kiến thức quản lý và mở rộng thị trường được thực hiện trực tiếp thông qua các chủ đàu tư quốc tế(TNCs). Đây chính là những ưu thế nổi bật của FDI so với các nguồn vốn quốc tế khác. Vì thế, cá lý thuyết kinh tế vĩ mô mới chủ yếu giải thích nguyên nhận di chuyển một hình thức quốc tế (đầu tư gián tiếp ). Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, nhưng các lý thuyết trên đã đạt được tính khai quát khá cao, do đó chúng có thể được xem như là các lý thuyết cơ bản đầu tư quốc tế. 4.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. 4.1. Đối với nước đầu tư: Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới một trình độ mà “mảnh đất” sản xuất kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp đến mức cản trở khả năng phát huy hiệu quả của đâu tư, nơi mà nếu họ đầu tư vào, họ thu được số lợi nhuận không được như ý muốn. Trong khi ở một số quốc gia khác xuất hiện lợi thế mà họ có thể khai thác thu lợi nhuận cao hơn nơi mà họ đang cần đầu tư. Hay nói cách khác, việc tìm kiếm, theo đuổi lợi nhuận cao hơn và bảo toàn độc quyền hay lợi thế cạnh tranh là bản chất, là động cơ, là mục tiêu cơ bản xuyên suốt của các nhà đầu tư: Thứ nhất, trong phạm vi một quốc gia, với việc sản xuất một chủng loại hàng hoá nào đó, nếu như ta giả định rằng những vấn đề liên quan đến vốn luôn đạt mức hiệu quả( không thừa không thiếu...) tức là luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển của sản xuất sản phẩm đó. Sản phẩm luác đầu xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá thuộc loại khan hiếm do đó nó tồn tại trong quan hệ cầu lớn hơn cung, điều này kích thích sản xuất phát triển, nhà sản xuất luôn là người thu được lợi nhuận cao hơn và thực tế này diễn ra cho đến thời điểm có sự cân bằng tương đối trong quan hệ cung cầu. sau kỳ này, xu hướng diễn ra ngược lại: lúc đầu cung dần dần lớn hơn cả về tuyệt đối cho tớ khi xuất hiện tình trạng nhu cầu thị trường về hàng hoá bão hoà dần đến mức hết nhu cầu, hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, hiệu ứng kinh tế làm cho tỷ suất lợi nhuận, thậm chí dẫn đến thua lỗ. Như vậy, điều mà chúng ta vừa nêu trên đây là với giả định các điều kiện cần thiết khác phục vụ cho sản xuất đều rất thuận lợi, nhưng trên thực tế lại không bao giờ được như vậy mà dường như luôn xảy ra ngược lại. Tức là khi sản xuất một hàng hoá nào đó càng phát triển thì các điều kiện phục vụ cho nó như tài nguyên thiên nhiên, nguyên vật liệu trở nên rất khan hiếm hơn, giá nhân công trở nên đắt hơn, như vậy chỉ mới riêng ở nước sở tại đã làm cho giá thành sản xuất sản phẩm tăng lên theo đà này lợi nhuận của nhà sản xuất giảm xuống. Đến lúc nào đó nếu không có sự cải tiến thay đổi thì nhà sản xuất không thẻ đủ các điều kiện để tiếp tục duy trì sản xuất được. Thực tiễn phát triển của sản xuất đã đặt ra cho nhà sản xuất nhu cầu thay thế sản phẩm mới hay cai tiến kỹ thuật để hạ giá thành sản phẩm như một điều kiện bắt buộc. Thứ hai. Trong một nền kinh tế hiện đại thì mọi nền sản xuất không thể chỉ tồn tại cô lập trong khuôn khổ chật hẹp như vậy. Khi mà tình hình sản xuất diễn ra như đã nêu trên giai đoạn bế tắc, nhà sản xuất muốn tiếp tục tồn tại và phát triển trên lãnh thổ truyền thống thì bằng mọi giá họ phải tìm cách mở rộng thị trường bằng phương thức xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Nhưng trong điều kiện mậu dịch quốc tế còn nhiều trở ngại như hàng rào thuế quan, chính sách hạn chế, thậm chí cấm nhập một số loại hàng hoá để thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước của một số quốc gia đã làm cho việc xâm nhập thị trường nước ngoài của một số loại hàng hoá gặp rất nhiều khó khăn. Thứ ba, trên đây chúng ta cũng mới dừng ở giả định rằng sản xuất diễn ra trong điều kiện không thừa không thiếu. Tuy nhiên, thực tiễn sản xuất kinh doanh bao giờ cũng diễn ra phức tạp hơn nhiều (ở đây vì đang phân tích bản chất của nhà đầu tư nên ta chưa xem xét đến khía cạnh thiếu vốn) tức là để sản xuất phát triển cũng đồng nghĩa với việc nhà sản xuất sau mỗi chu kỳ đều thực hiện được việc “Tư bản hoá” một lượng lợi nhuận nào đó ( tái sản xuất mở rộng) và theo qui luật “ tích tụ tư bản” sẽ đến lúc lượng cung về vốn vượt quá nhu cầu của qui mô sản xuất hiện có. Đến lúc đấy lại xuất hiện yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất, hoặc đầu tư xây dựng doanh nghiệp mới. Thứ tư, bất kỳ một nhà sản xuất nào, khi đã có trong tay kết quả của quá trình nghiên cứu, phát minh để sản xuất ra một loại sản phẩm mới và khi mà loại sản phẩm đó đã được xã hội chấp nhận một cách rộng rãi thì nhà sản xuất sẽ bằng mọi cách có thể để giữ độc quyền kỹ thuật. Chừng nào kỹ thuật mới chưa trở thành phổ biến trên thế giới thì các nhà sản xuất sở hữu nó vẫn muốn giữ kỹ thuật như một vữ khí có sức mạnh giành lợi thế cạnh tranh của riêng mình, hoặc cho các chi nhánh của họ mà thôi. Thứ năm, về xu thế của thế giới: sự phát riển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã làm xuất hiện nhiều sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao như viễn thông, điện tử tin học, công nghệ sinh học... đây là những lĩnh vực cho thấy có nhiều triển vọng thu hút được lợi nhuận siêu ngạch, do đó ai đó nắm được quyền chi phối nó sẽ hứa hẹn một tương lai phát triển mạnh. Triển vọng thu hút lợi nhuận cao trong tương lai, là yếu tô thúc đẩy các nhà sản xuất lao vào đầu tư nhằm giành được quyền chi phối nhất định trong các lĩnh vực sản xuất sản phẩm mới ở các nước đang phát triển chính là đã thực hiện được việc đầu tư vào mảnh đất còn rất “màu mỡ” chưa khai thác, có khả năng sinh lợi cao và thu hồi vốn nhanh. Trước nhu cầu của sự phát triển, sự hình thành các liên kết, hợp tác kinh tế quốcc tế song phương, đa phương cũng như việc xây dựng các khối hơp tác kinh tế (NAFTA, EU, AFTA...) đang là xu thế phổ biến và phát triển nhanh trên thế giới. Trong điều kiện này, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, khi đầu tư trực tiếp vào một nước thành viên của khối nào đó cũng tức là họ đã có thêm điều kiện để bắt tay mậu dịch, hay đầu tư với những nước cùng khối hay có quan hệ kinh tế với nước nhận đầu tư. Trong trường hợp như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành “đường vòng rất hiệu quả” để nhà đầu tư được hưởng quy chế tự do mậu dịch và đầu tư mà không phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp với các nước mà giữa họ rất khó khăn trong việc tạo lập các mỗi quan hệ hợp tác kinh tế. Thứ sáu, Vấn đề khác có liên quan đến vấn đề công nghệ, kỹ thuật của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự phát triển ồ ạt của công nghiệp ở nhiều nước trong những thập niên gần đây đã gây sức ép lớn đối với môi trường. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ các nước đã phải bỏ ra một khoản chi phí khá lớn cho việc di chuyển, hạn chế sản xuất, thay thế từng bộ phận thậm chí huỷ bỏ những ngành sản xuất hiện đang làm ảnh hưởng đến môi trường. Chúng ta không loại trừ một số nhà sản xuất sau khi nhận được tài trợ của chính phủ nước sở tại đã lợi dụng danh nghĩa đầu tư trực tiếp để di chuyển loại kỹ thuật này ra nước ngoài dưới dạng góp vốn bằng thiết bị. Trong trường hợp này, nhà đầu tư cùng một lúc được hưởng nhiều cái lợi từ tiền đền bù của chính phủ nước sở tại, không phải chi phí cho xử lý thiết bị, thu được tiền bán thiết bị cho dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới dạng góp vốn bằng thiết bị. Trong trường hợp này, nhà đầu tư cùng một lúc được hưởng nhiều cái lợi từ tiền đền bù của chính phủ nước sở tại, không phải chi phí cho xử lý thiết bị, thu được tiền bán thiết bị cho dự án đầu tư, tiếp tục tổ chức sản xuất và thu lợi nhuận qua việc hưởng ưu đãi của nước nhận đầu tư... Thứ bảy, có một số vấn đề, đứng trên phương diện nào đó tuy về mức độ nó ít chịu sự chi phối về kinh tế hơn, nhưng theo chúng tôi thì đây cũng là những biểu hiện bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chẳng hạn, một doanh nghiệp đang tồn tại và phát triển trong một nước(có thể quê hương của chủ doanh nghiệ, cũng có thể là nước mà doang nghiệp hoạt động với tư cách đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chẳng hạn một doanh nghiệp hoạt động với tư cách đầu tư trực tiếp) ta gọi là nước sở tại, chính phủ nước này thực thi một số chính sách gây tác động sấu đến doanh nghiệp trở nên rất bất bình, nhưng vì theo tính toán thì “chu kỳ tuổi thọ sản phẩm” còn dài trong điều kiện thuận lợi như hiện nay(nhu cầu nhận đầu tư trực tiếp cao) nên chủ doanh nghiệp đã chọn hình thức đầu tư trực tiếp để di chuyển doanh nghiệp ra nước khác. Một số cá biệt khác là có các công ty hoặc cá nhân hiện đang giữ một số vốn mà nếu theo quy định của nước sở tại “bất hợp pháp”. Trước nguy cơ đó, chủ sở hữu vốn rất có thể dùng hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nhằm thông qua đó mà “làm sạch” để đồng tiền trở thành tồn tại hợp phấp hơn. Tóm lại, trên đây chúng ta đã phân tích để làm rõ thực chất cơ bản bên trong của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các vấn đề, tựu trung có thể chia ra làm bốn loại nhóm bản chất như sau: Duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của nhà chủ đầu tư (vấn đề vốn, kĩ thuật, sản phẩm...) Khai thác các nguồn lực và xâm nhập thị trường của nước nhận đầu tư. Tranh thủ lợi dụng chính sách khuyến khích của nước nhận đầu tư. 4. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ kinh tế (hoặc phi kinh tế) mà hoạt động khác không thực hiện được 4.2. Đối với nước nhận đầu tư. + Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng. Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong nước và vốn từ nước ngoài. Đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn tích luỹ từ trong nước còn hạn hẹp thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển nền kinh tế. ở các nước này, có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói bằng cách tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này các nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư. Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay một khối lượng vốn khổn lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài vào việc phát triển kinh tế. Sự phát triển của nước chủ nhà không chỉ được quyết định bởi một số yếu tố quan trọng của tăng trưởng mà còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa yếu tố phát triển khác của nền kinh tế- xã hội. Thật vậy, xét từ khía cạnh vĩ mô, tốc độ tăng trưởng cao sẽ là cơ sở quan trọng để phát triển và ổn định tình hình chính trị, kinh tế- xã hội. Ngược lại, sự ổn định tình hình chính trị, kinh tế –xã hội là điều kiện tiên quyết để đẩy nhanh tốc đọ tăng trưởng. Bởi vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ tác động một cách trực tiế đến từng yếu tố của sự phát triển, mà còn đồng thời tác động đến tất cả các yếu tố này. Qua thực tế ở nhiều nước cho thấy, đàu tư nước ngoài đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Điều này có ngiã là nó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và ổn định tình hình chính trị, văn hoá- xã hội của nước chủ nhà. Xét từ khía cạnh vi mô, giữa các yếu tố tăng trưởng có mối quan hệ nhân quả với nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội. Chẳng hạn, không thể tăng giá trị xuất nhập khẩu, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động và phát trinể nguồn nhân lực nếu thiếu vốn và công nghệ hiện đại. Do vậy, không nên chỉ đánh giá tác động của đầu tư nước ngoài trong các yếu tố tăng trưởng một cách biệt lập, mà cần đánh giá tác động đồng thời của nó dến tất cả các yếu tố này trong quá trong mối quan hệ tương tác với nhau. Vì thế có thể khẳng định rằng mặc dù không phải yếu tố tăng trưởng nào đầu tư cũng có tác động tích cực, nhưng trong tổng thể, nó đã có vai trò to lớn đối với thúc đẩy tăng trưởng nào đầu tư cũng tác động tích cực, nhưng trong tổng thể, nó đã có vai trò to lớn đối với thúc đẩy tăng trưởng của nước chủ nhà, trong đó đặc biệt nước đang phát triển. Tỷ lệ FDI/GNP ở Việt Nam năm 1991 là 8.5% đến năm1994 tăng lên đạt khoảng 10%. Con số này chứng tỏ chúng ta đã khá thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thơì gian qua, nhưng so với nhiều nước thì tỷ lệ này còn ở mức thấp. Tham gia thị trường vốn đầu tư nói chung và dưới hình thái đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng, giờ đây không chỉ trong phạm vi của những nước theo cơ chế kinh tế thị trường chuyền thống, mà các thành viên đã mở rộng hầu như không có ngoại lệ ở phía”câu” và thêm không ít những thành viên, nhất là các nước công nghiệp mới ở phía”cung”. Điều quan trọng hơn cả của sự gia tăng về số lượng này có lẽ phải nói đến một môi trường cơ chế kinh tế nói chung cũng như không khí kinh doanh tạo dòng di chuyển vốn đầu tư trực tiếp có được những thuận lợi hơn bao giờ hết. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang ngày càng trở thành loại hình hoạt động kinh tế sôi động trên thị trường thế giới, và được biểu hiện như sau: Thứ nhất, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới có xu hướng ngày càng tăng trong các năm, trong đó có các nước phát triển luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu kể cả vốn đầu tư ra lẫn lượng vốn tiếp nhận vào. Cụ thể trong những năm gần đây như sau: Bảng 1.1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới. Đơn vị tính: % 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Mức tiếp nhận của toàn thế giới so với năm trước 100 107.6 122.4 108.7 146.5 101.8 118.7 140 125 Tỷ trọng vốn đầu tư của các nước phát triển 94.5 89.5 86.9 85.1 86.9 85 84.9 86.6 87.2 Tỷ trọng tiếp nhận vốn đầu tư của các nước phát triển 72.8 65.3 62 60 63.7 57.9 58.3 71 76.5 Nguồn: Tổng hợp từ Việt Nam Economic Time 1999, 2000. Như vậy tỷ trọng của các nước phát triển trọng tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn năm thấp nhất cũng chiếm tới 84.4% lượng vốn đầu tư ra, và 57.9% lượng vốn tiếp nhận vào. Thứ hai, trong các nước đang phát triển thì các nước châu á là khu vực thu hút lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở mức cao nhất so với các khu vực khác. Trong tổng vốn đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển ở châu á chiếm tỷ trọng như sau:51.9%(1985); 53.4%(1990) ;57.2%(1995); 58.4%(1996); 56.9%(1997); 70-75%(2000).Đông và Đông nam á là khu vực chiếm tỷ lệ lớn trong số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào châu á như sau: 59.9%(1985); 74.4%(1990); 87.3%(1995); 88.7%(1996) và 88.9%(1997). Thứ ba, các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật bản là nhóm nước chủ yếu cung cấp lượng vốn đầu tư nước ngoài cũng như là địa bàn tiếp nhận phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới thời kỳ 1981-1983 thì Anh chiếm 22.2%; Mỹ chiếm 18.3%; Nhật bản chiếm 10.6%; Đức chiếm 7.7%; Pháp chiếm7.4%(cả năm nước này chiếm 66.2%). Thời kỳ 1984- 1987: Mỹ chiếm 25.3%; Anh chiếm18.7%; Nhật bản chiếm 14.1%; Đức chiếm8.5%; Pháp chiếm5.4%(cả năm nước này chiếm72.3%).... Thứ tư: các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia ngày càng thể hiện vai trò chi phối mạnh mẽ doói với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới. Bảng 1.2. Mười nước trực tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong hai năm1998-1999. TT Nước 1998 1999 Tổng 1 Anh 117.1 246.2 363.3 2 Mỹ 132.8 145.7 278.5 3 Đức 60.4 93 153.4 4 Pháp 36.5 83 119.5 5 Hà Lan 39.1 52.1 91.2 6 Canađa 42.3 16.3 58.6 7 Nhật Bản 15.6 20.4 36 8 Italia 15.6 14.4 30 9 Thụy Điển 14 10.8 24.8 10 Bỉ 2.1 17.5 19.6 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, kinh tế 2000-2001 Việt Nam và Thế giới. Thứ năm, sự chuyển hướng căn bản của các nhà đầu tư: Trong những năm 1980, các nhà đầu tư thường tìm kiếm để đầu tư vào các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên, và các ngành sản xuất vật chất là chủ yếu. Thời gian gần đây các nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn đến việc đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất có công nghệ cao, các ngành dịch vụ và cơ sở hạ tầng, nhất là các ngành viễn thông, điện , nước, giao thông vận tải... Thứ sáu, Nhu cầu tiếp nhận đầu tư trực tiếp nứơc ngoài đang tăng lên một cách đáng kể trên phạm vi toàn thế giới. Và, cùng với việc hình thành các khu vực tự do hoá đầu tư đã tạo một cục diện cạnh tranh quyết liệt về lĩnh vực này. 4.3.Đánh giá bản chất và vai trò của FDI. Như trên đã nêu, sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài được qui định bởi qui luật kinh tế hoàn toàn khách quan với những điều kiện cần và đủ chín muồi nhất định, nó chỉ là một trong những mặt biểu hiện ra bên ngoài của quá trình phân công lao động quốc tế và xã hội hoá sức sản xuất xã hội trên qui mô quốc tế. Những nhân tố tác động khác có thể kìm hãm hay đẩy nhanh hơn việc mở rộng dòng di chuyển vốn, song nếu kìm hãm cũng không thể dập tắt được đường đi của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến những nơi có lợi thế so sánh tốt hơn, hoặc nếu có thúc đẩy không vượt qua những điều kiện thực tế hiện cho phép về những điều kiện cần và đủ cả nơi đi đầu tư lẫn nơi nhận đầu tư. Xu hướng này có ý nghĩa quyết định trong việc chi phối các biểu hiện vận động khác nhau của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Quan hệ kinh tế quốc tế đã hình thành nên các dòng lưu chuyển vốn chủ yếu: Dòng vốn từ các nước đang phát triển đổ vào các nước đang phát triển, và dòng lưu chuyển trong nội bộ các nước đang phát triển...Sự lưu chuyển của các dòng vốn diễn ra dưới nhiều hình thức như: Tài trợ phát triển chính thức (gồm viện trợ phát triển chính thức- ODA và các hình thức khác, nguồn vốn vay tư nhân (tín dụng từ các ngân hàng thương mại) và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi nguồn vốn có đặc điểm riêng của nó. Nguồn tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn do các tổ chức quốc tế, chính phủ (hoặc cơ quan đại diện chính phủ) cung cấp. Để giúp các nước đang phát triển, trong loại vốn này đã dành một lượng vốn chủ yếu viện trợ phát triển chính thức- ODA, đây là loại vốn có nhiều ưu đãi, trong ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại, phần này thường khoảng gần 25% tổng số vốn. Nguồn vay tư nhân: Đây là nguồn vốn thường không có những điều kiện ràng buộc như vốn ODA, tuy nhiên, đây là loại vốn có thủ tục vay rất khắt khe, mức lãi suất cao, thời hạn trả nợ nghiêm ngặt. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại vốn vốn có nhiều ưu điểm hơn so với các loại vốn kể trên. Về bản chất đầu tư trực tiếp nướ ngoài là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên khác là nước nhận đầu tư: Chính vì đầu tư trực tiếp nước ngoài có những lợi ích và nó có ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế đối với mỗi quốc gia. Sau đây ta sẽ xem sơ đồ về đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài Văn hoá- xã hội Tăng trưởng kinh tế Các tác động đặc biệt Chủ quyền và an ninh quốc gia Các tác động quan trọng khác Liên kết các ngành công nghiệp Thúc đẩy xuất nhập khẩu Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm Chuyển giao và phát triển công nhgệ Bổ sung vốn đầu tư và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Sơ đồ Tổng hợp tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các yếu tố phát triển của nước chủ nhà. (Nguồn:Đầu tư quốc tế.) FDI có những đặc điểm sau: Các chủ Đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước (Chẳng hạn, Mỹ qui định là 10%, Việt Nam theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 là không dưới 30%, một số nước khác là 20% hoặc 25%). Quyền lợi của các nhà đầu tư gắn chặt với dự án đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ Đầu tư nước ngoài quản lý doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi chi phí, thuế và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà Đầu tư nước ngoài nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định. FDI không chỉ đưa vốn vào nước trực tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ ký thuật, năng lực Marketing, thình độ quản lý ...Do vậy hoạt động đầu tư này mang tính hoàn chỉnh. Về chủ thể quản lý: Chủ thể của FDI chủ yếu là công ty đa quốc gia, chiếm phần lớn FDI trên toàn thế giới, phần còn lại của FDI thuộc về nhà nước và các tổ chức quốc tế khác. Về hậu quả tiếp nhận: Việc tiếp nhận FDI không làm gia tăng nợ cho nước tiếp nhận đầu tư mà toạ điều kiện để phát huy tiềm năng kinh tế- FDI là nguồn vốn có tính chất “bén rễ” ở nước nhận đầu tư nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn. Ngoài ra, FDI không chỉ đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên dễ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể Đầu tư nước ngoài trong khuôn khổ luật pháp của nước sở tại, do đó, nước trực tiếp nhận đâu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích nhất định. Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của chính phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia so với ODA. về hình thức thực hiện: So với đầu tư gián tiếp nước ngoài, FDI được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng hơn và linh hoạt hơn: + 100% vốn để xây dựng doanh nghiệp mới. + Mua lại toàn bộ hay một phần doanh nghiệp của nước chủ nhà đang hoạt động. Hình thức có thể dẫn đến thành lập công ty cổ phân trong nước có vốn Đầu tư nước ngoài. Loại hình công ty này phổ biến trên thế giới và dược áp dụng ở nhiều nước Đông Nam á. So với công ty Trách nhiệm hữu hạn công ty này có lợi thế về huy động vốn và giảm thiểu rủi ro. + Tham gia vào các hợp đồng hợp tác kinh doanh. + Góp vốn với đối tác của nước chủ nhà để thành lập công ty hoặc doanh nghiệp liên doanh. + Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) và các hình thức tương tự (BTO,BT...). Trong các loại hình đầu tư trực tiếp trên đây, hợp đồng Hợp tác kinh doanh là hình thức đa dạng, thường được áp dụng trong việc thăm dò, khai thác dầu khí; trong lĩnh vực bưu chính viễn thông; công nghiệp gia công và dịch vụ. Doanh nghiệp liên doanh là loại hình được chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để họ tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đầo tạo lao động, tiếp cận dần chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi bên nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp nước ngoài thì nước chủ nhà đật được hiệu qủa của việc đầu tư, hay mói cách khác việc sử nguồn vốn đâu tư như thế nào là một vấn đề hết sức quan trọng. 5.Kinh nghiệm huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước đang phát triển. Trong xu thế liên kết và hoà nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngaòi là một hoạt động có vị trí quan trọng và lâu dài. Khai thác và sử dụng có hiệu qủa Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là một mục tiêu được ưu tiên hàng đàu ở nhiều nước trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phất triển kinh tế. Để thu hút được nhiều vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nướcc đã thực hiện hàng lạot các biện pháp lớn như sau. Thứ nhât: Cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi một quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, thì quốc gia đó đã trở thành một bộ phận của cơ cấu kinh tế quốc tế. Theo sự “phân công lao động quốc tế “thì mỗi nước sẽ chuyên môn hoá sản xuất ở một hay một số ngành mà họ có lợi thế hơn và ngành đó sẽ trở thành ngành mũi nhọn của họ. Sau đó thông qua trao đổi và hợp tác với nhau, mỗi nước sẽ phát huy được thế mạnh của mình và đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Khi đã hình thành mối quan hệ liên kết, hợp tác và phụ thuộc vào nahu giữa các quốc gia trên thế giới, các nước có thể bố trí cơ cấu kinh tế” khôngcân đối “tức là chỉ tập trung vào và phát triển các ngành mũi nhọn, có nhiều tiềm năng và có thể kéo nhanh nền kinh tế vào quĩ đạo phát triển.Một cơ cấu kinh tế được coi là có hiệu quả xét trên quan điểm của nền kinh tế mở, phải có khả năng dịch chuyển nhanh và thoả mãn các đòi hỏi mô thức cạnh tranh hiện đại. Thứ hai: Ban hành các đạo luật đàu tư hấp dẫn, giành nhiều ưu đãi với đầu tư trực tiếp nước ngoài, xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Thứ ba: Phát triển nền kinh tế mở, khuyến khích phát triển mạnh các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhận cần được giúp đỡ phát triển và không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ tư: Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô, thực hiện việc điều chỉnh nền kinh tế quốc dân thông qua các chương trình, kế hoạch có tính hướng dãn và hệ thống chính sách kinh tế điều chỉnh gián tiếp theo các chương trình đó. Thứ năm: Đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, đa dạng hoá nền sản xuất xã hội. Như việc phát triển và xậy dựng mới các công trình giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và hiện đại hoá các hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động dịch vụ... Thứ sáu: ổn định chính trị và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, kiềm chế lạm phát và nâng cao tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Mặc dù Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có nhiều ảnh hưởng tích cực, nhưng cũng đã gây ra một thiệt hại không nhỏ đến sự tăng cường kiểm soát của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này đã nắm hầu hết các khâu của quá trình tái sản xuất trong các ngành công nhgiệp chế tạo có tốc đọ tăng trưởng cao của Malaixia như dệt , điện tử...Trong khi các công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Malaixia, chính phủ nước chủ nhà đã không có các biện pháp và chính sách phối hợp, nên các công ty này đã hoạt động một cách biệt lập. Vì vậy nền kinh tế của Malaixia ít có các mối quan hệ chặt chẽ như giữa các ngành công nghiệp. Đây là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ Malaixia, vì khi kết cấu bên trong của nền kinh tế mà lỏng thì hiệu quả của nề kinh tế sẽ tháp, các ngành, các bộ phận của nền kinh tế không bố xung và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Chương 2 Tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong những năm qua và tác động của nó đến sự tăng trưởng kinh tế. I/ Quan điểm của Việt Nam về động tác của FDI đối với kinh tế xã hội của đất nước. Nhận thức được xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng mở rộng- đó là quá trình mà các nền kinh tế dân tộc tác động lẫn nhau, bổ xung cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ chương lợi dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý để bổ sung và phát huy có hiệu quả các lợi thế và gnuồn lực trong nước”. Để thực hiện chủ trương trên, Đảng và nhà nước Việt Nam chủ chương “đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại”. Trong đó FDI là hình thức quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ gần như con số 0, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả, cơ chế quản lí kém, sản xuất đình trệ, bộ máy hành chính cồng kềnh, quản lý tiền tệ kém dẫn đến lạm phát liên tục trong nhiều năm liền. Cuộc cải tổ giá -lương -tiền năm 1981 và năm 1985 kết thúc thất bại. Với tình trạng trên để giải quyết những khó khăn kinh tế, buộc chúng ta phỉ đổi mới. Tháng 12/1986 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt trong công cuộc đổi mới xây dựng kinh tế ở Việt Nam. Từ việc nhận thức được đầy đủ đặc trưng quan trọng của thời đại hiện nay là xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhà nước Việt Nam đã chủ trương mở cửa nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và giữa trong nước với nước ngoài thông q._.iết bị mà để lãng phí nhiều(nhiều ý kiéen đánh giá: chúng ta còn có việc làm hoặc việc làm không đủ, thu nhập kém. Đất đai hoang hoá nhiều, nhất là đồi núi. Thông qua hợp tác đầu tư với nước ngoài, nhiều cơ sở sản xuất của Việt nam đã khai thác tận dụng được những năng lực hiện có về máy móc thiết bị, đất đai, lao động,...bằng cách tham gia đóng góp vào liên doành nước ngoài. những tiềm năng của nền kinh tế không được sử dụng hết, một phần do chúng ta thiếu vốn, công nghệ, mấy móc kỹ thuật và thị trường tiêu thụ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đã bổ xung được vốn công nghệ kỹ thuật, đồng thời cũng mở rộng thị trường cho sự phát triển kinh tế của Việt nam. Ví dụ về sự thành đật của cách làm này phải kể đến liên doanh ôtô hoà bình, Nhà máy chế tạo máy biến thế hà nội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác dụng quan trọng đến sự tăng trưởng kinh tế Việt nam như là một môi trường tốt để chúng ta học tập và thực hành những kỹ năng sanr xuất và quản lý. 5.1. Những ảnh hưởng tích cực của Đầu tư trực tiếp nước ngoài. 5.1.1 Nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ vốn tích luỹ trong nước ở mức thấp là một trở ngại lớn cho quá trình phát triển nền kinh tế, xã hội. Thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Hơn thế nữa, Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có những ưu thế hơn so với các hình thức huy động vốn khác. Như việc vay vốn nước ngoài luôn đi cùng với một mức lãi suất nhất định và đôi khi trở thành gành nặng cho nền kinh tế. Hoặc như các khoản viên trợ thường đi kèm với các điều kiện về chính trị can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước. Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính bởi vì khi liên doanh với một đối tác nước ngoài thì, thứ nhất là họ có nhiều kinh nghiệm trong Kinh doanh nên hạn chế và ngăn ngừa được rủi ro, thứ hai là trong tình hình xí nghiệp liên doanh giữa họ với chúng ta có nguy cơ đe dọa rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp cứu gipú như hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trợ giúp tài chính ...để ít nhất họ phải thu về được vốn đã bỏ ra. Trong tình huống xấu nhất là khi gặp rủi ro thì các đối tác nước ngoài cũng sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro thì các đối tác nước ngoái cũng sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với công ty của nàh nước sở tại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài các công ty nước ngoài vào Việt nam sẽ tạo ra những tác động tích cực đối việc huy động các nguồn vồn khác như ODA, NGO. Nó tạo ra một hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về Việt nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Mặt khác, ngay trong quan hệ đối nội, Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút vốn Đầu tư trong nước. Tích luỹ vốn ban đầu cho công nghiệp hoá bằng cách khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn từ bên ngoài là phù hợp với thời đại hiện nay, thời đại của sự hợp tác và liên kết quốc tế. 5.1.2. Chuyển giao công nghệ mới. khoảng cách về phát triển khao học công nghệ giữa các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói riêng với các nước công nghiệp phát triển là rất lớn. Trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát từ các nước công nghiêpj phát triển, do đó để “đuổi kịp” các nước công nghiệp phát triển, các nước đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận với các ký thuật mới này, tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước phải đối mặt và tìm ra hướng đi riêng để vượt qua những thách thức trong nước và quốc tế luôn thay đổi theo thời gian. Đối với những nước đã ở trình độ công nghệ cao hơn, thể hiện năng lực công nghệ nội sinh đã khá mạnh, và đâng chuyển từ ký thuậ cải tến sang công nghệ tiên tiến, thậm chí chuyển từ kỹ thuật cải tiến sang công nghệ tiên tiến , thậm chí chuyến từ bắt kịp công nghệ sang đột phá công nghệ trong một số lĩnh vực công nghệ có lợi. Các nước khác còn đang ở mức thang công nghệ thấp, do nang lực công nghệ trong nước còn nhỏ bé thì phaỉa dựa nhiều vào nguồn Đầu tư trực tiếp nước ngoài, coi đó là nguồn chuyển giao công nghệ chủ yếu. 5.1.3. Dịch chuyển cơ cáu kinh tế. Trong điều kiện nề kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và lf điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một động lực mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế gồm có cơ cấu ngành; cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng kinh tế. Mỗi cơ cấu kinh tế sẽ xác định vị trí và vai trò của các bọ phận khác nhau và mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận đó trong tổng thể nền kinh tế. Quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đỏi vị trí và vai trò của bộ phận khác kinh tế sẽ làm thay đổi dưới đây chỉ đề cập đến cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế. Trước hết, cơ cấu ngành kinh tế được thể hiện ở tỷ trọng của các ngành trong GDP. Tỷ trọng này cảu Việt nam trong thời gian từ 1990 đến nay đã có sự thay đổi đấng kể, nếu chia nền kinh tế quốc dân thành ba nhóm ngành lớn là nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng ) và dịch vụ ( bao gồm các ngành còn lại ) thì tỷ trọng của chúng như sau: cơ cấu ngành kinh tế (%) Ngành kinh tế 1990 1995 1995-1990 Tổng GDP 100 100 0 Nông nghiệp 38,7 29 -9.7 Công nghiệp 22,7 29.1 6.4 Dịch vụ 38,6 41.9 3.3 Tổng vốn đầu tư cảu tàon bộ nền kinh tế đã thực hiện là 15,7 tỷ USD(nếu qui theo gía năm 1995 thì tổng vốn đầu tư lên tới 18-19 tỷ USD), trong đó vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài là 4,205 tỷ USD, chiếm 27% tổng vốn đầu tư đã thực hiện trong nền kinh tế. Vậy thì từ năm 1990 –2000 thì tốc đọ tăng trưởng các ngành kinh tế đó như thế nào và ngành nào đã thu hút được số lượng vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất chùng ta có thể xem xét điều này qua bảng sau: Tốc độ tăng trởng các ngành kinh tế Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Nông lâm nhiệp và thuỷ sản 1,85 2,18 6,88 3,18 ,3,37 4,8 4,4 4,37 3,53 5,23 4,04 Công nghiệp và xây dựng 6,75 7,71 12,79 12,62 13,39 13,6 14,46 12,62 8,33 7,68 10,07 Dịch vụ 7,05 7,38 7,58 8,64 9,56 9,83 8,8 7,4 5,08 2,25 5,57 Nguồn: Kinh tế Việt nam thế giới 2000-2001- TBKT Việt nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thật sự đã có vai trò to lớn đối với sự dịch chuyển cơ cáu kinh tế, thông qua việc đầu tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp (47,2% trong tổng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài )đã tạo điều kiện để ngành công nghiệp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Vì ngành công nghiệp có năng suất lao động cao ngoài đã góp phần to lớn trong nền kinh tế, nên Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần to lớn tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế quốc dân. Để trở thành một quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020 và để nền kinh tế Việt nam có thể hội nhập được nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. một đòi hỏi bức xúc là phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dự kiến đến năm 2000, cơ cấu kinh tế của Việt nam sẽ thay đổi như sau: tỷ trọng của các nhóm ngành trong GDP là công nghiệp 35% nông nghiệp 20% và dịch vụ45% [16]. 5.2. Một số ảnh hưởng tiêu cực của Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khi xem xét ảnh hưởng của Đầu tư trực tiếp nước ngoài, có rất nhiều ý kiến nói về những ảnh hưởng tiêu cực cảu nó đến nền kinh tế, chính trị và xã hội ... nhưng các ý kiến đánh giá còn rất khác nhau thậm chí mâu thuẫn nhau. Nếu theo dõi về mặt lịch sử cảu vấn đề chúng ta thấy, các ý kiến trước đây về vấn đề này cũng khác với các ý kiến đánh giá ngày hôm nay. Thật vậy, những ảnh hưởng tỉêu cực cảu Đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh cụ thể cảu từng nước, từng giai đoạn phát triển khác nhau... Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam được thực hiện chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty xuyên quốc gia sẽ làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào vốn. Vậy nếu càng dựa nhiều vào Đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một sự phồn vinh giả tạo, sự phồn vinh có được bằng cái của người khác. Chương III Những biện pháp góp phần tăng cường và thu hút nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI tại Việt nam. Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư. môi trường Đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan, tác động đến hoạt động đầu tư và bảo đảm khả năng sinh lợi của Đầu tư nước ngoài. Chúng tôi đi vào phân tích tất cả các yếu tố của môi trường Đầu tư nước ngoài và chủ yếu nêu ra những hạn chế, yếu kém về hệ thống pháp luật và cản trở việc thu hút FDI, làm giảm hiệu quả kinh tế – xã hội của nó. Đồng thời đưa ra những phương pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đảm bảo khả năng sinh lợi cho các chủ đầu tư cũng như lợi ích của tàon bộ nền kinh tế. Hơn nữa, trong điều kiện luôn luôn có sự cạnh tranh quốc tế và khu vực về thu hút đầu tư thì việc cải thiện môi trừng đầu tư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với Việt nam. Chúng ta không phủ nhận những tiềm năng nổi bật trong công tác xây dựng và ban hành pháp luật có liên quan đến Đầu tư nước ngoài tại Việt nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, qua thử nghiệm thực tiễn đã bộc lộ không ít những sai sót và hạn chế như: Hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ và cụ thể, thực hiện pháp luật còn tuỳ tiện, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho chủ đầu tư. Nhiều văn bản pháp lý ban hành chậm, nội dung của một số điều khoản trong văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa thống nhất, thậm chí còn có chỗ mâu thuẫn. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam được đánh giá là một trong những Bộ luật “thông thoáng” và “hấp dẫn” các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng còn nhiều vấn đề quy địng trong Bộ luật chưa được thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế với những điều kiện của một nền kinh tế thị trường và “mở” ra bên ngoài, cụ thể những vấn đề sau: Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định. Cho đến nay, theo quy định của luật pháp hiện hành ở Việt nam thì hầu như không cho các doanh nghiệp đa mục đích hay đa dự án. Chính điều này, hiện đang làm cho các nhà đầu tư gặp những khó khăn. Thứ nhất, nó buộc các chủ đầu tư phải thành lập một thực thể pháp luật đối với mỗi dự án, và như vậy xin phép đầu tư và chi phí thành lập sẽ buộc phaỉa tăng lên rất nhiều. Thứ hai, nó làm chậm trễ các dư án đầu tư, vì các dự án này chỉ có thể được triển khia sau khi có giấy phép đầu tư. Thậm chí có trường hợp sau khi “chạy” được giấy phép đầu tư và các thủ tục khác thì chủ đầu tư không còn ý chí để triển khai dự án nữa. Thứ ba, nó không cho phép củng cố các kết quả đã đạt được ở các dự án khác nhau cùng thực thể, bởi vì thực thể này không thẻ lấy phần lợi nhuận ở một số hoạt động để bù đắp về mặt thuế khoá cho phần lỗ ở các hoạt động khác. Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia liên doanh. Theo quy định của pháp luật liên hành, hình thức pháp luật của công ty liên doanh là một công ty trách nhiệm hữu hạ, chứ không phải là công ty cổ phần. Do đó, thiếu ự do trong việc chuyển nhượng vốn góp trong các công ty liên daonh có thể gây ảnh hưởng xấu tới taam lý của các nhà đầu tư và kìm hãm đầu tư . Việc cần phải có sự cho phép trước của cơ quan cấp giấy phép đầu tư để bán tàon bộ hay một phần vốn góp của mình để hạn chế khả năng, và như vậy, cúng chính là tăng đầu tư. Để tránh trở ngại của pháp luật Việt nam, doanh nghiệp cng thực hiện việc đầu tư của mình thông qua một công ty trung gian do mình lập ra thươngf là tại một nước có chế độ đánh thuế thấp. điều này gây thất thu thuế đối với Nhà nước Việt nam. Để chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài sẽ không cần phải có giấy phép của cơ quan cấp giấy phép đầu tư , mà chỉ cần khai báo với cơ quan này và nếu sau một số ngày mà không có ý kiến phản đối thì mặc nhiên được coi như việc chuyển nhượng được chấp nhận. Mặt khác, cần có luật về cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài càng sớm càng tốt. Xem xét lại nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh. Theo điều 14 của luật đầu tư quy định: Hội đồng quản trị cần phải có sự nhất trí của toàn thể thành viên hội đồng mới có thể thông qua n8 vấn đề liên quan đến ngân sách, vay nợ, thay đổi điều lệ, duyệt quyết toán tài chính hàng năm và quyết toán công trình và bổ nhiệm lãnh đạo. Trong gần 10 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam cho thấy quy định nhất trí đối với vấn đề then chốt đã làm cho các nhà đầu tư rấ lo ngại. Bởi vì quyền phủ quyết danh cho mõi thành viên hội dồng quản trị có thể nhanh chóng làm cho công ty có thể gây lên sự phá sản của công ty, thất nghiệp gia tăng, bộ máy sản xuất suy yếu. Trong gần 300 dự án bị rút giấy phép thì một tỷ lệ không nhỏ là do mâu thuẫn nội bộ hội đồng quản trị mà không giải quyết được. Nên chăng nên thay thế bằng nguyên tắc đa số tuyệt đối (2/3) trong việc thông qua những vấn đề then chốt của liên doanh. Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép đầu tư. Trong bộ hồ sơ dự án FDI theo quy định của nghị định 12/CP, và thông tư 1611 của Bộ kế hoạch đầu tư vẫn có nhiều hồ sơ chồng chéo này. Chẳng hạn, giữa điều lệ và hợp đồng liên doanh có rất nhiều điều khoản giống hệt nhau. Để đơn giản hoá quy trình xin cấp giấy phép đầu tư, có thể tính đến việc xoá bỏ hợp đồng liên doanh phải cung cấp và đưa vào điều lệ công ty liên doanh các thông tin và tại liệu cần thiết ở điều 12 nghị định 12/CP. Đối với luận chứng kinh tế- kĩ thuật cần chú ý nhiều hơn đén phần giải trình các lợi ích kinh tế xã hội của dự án cho khi khai triển đem lại toàn bộ nền kinh tế. Các chỉ tiêu tài chính (NPV, IRR,...) đó là việc của các chủ đầu tư. Các cơ quan thẩm định không nên coi đó là những điều kiện tiên quyết để cho phép đầu tư hay đầu không. Vấn đề chuyển đổi ngoại tệ. Theo quy định hiện hành, các công ty có vốn Đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi VNĐ ra ngoại tệ khi được phép của ngân hàng nhà nước Việt nam (NHVN), không phỉa bất ký trường hợp nào cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ mà chỉ những dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng (Thông tư số 02/TT-NH7 ngày 28/6/1997). Tình trạng này đã gây ra khó khăn và doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài cần phải có khả nâưng đả bảo việc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước cho nhà Đầu tư nước ngoài. Quan điểm của các nhà Đầu tư nước ngoài là họ được phép bán sản phẩm, dịch vụ tại thị trường Việt nam bằng ngoại tệ, hoặc cho phép chung tất cả các doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài được mua ngoại tệ, nếu số ngoại tệ này dung đẻ nhập khẩu nguyên liệu hay để chuyển lợi nhuận về nước. Vấn đề mở tài koản của các doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài. Theo thông tư số 02/TT-NH& các doanh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài chỉ được mở một hay nhiều tài khoản tại cùng một ngân hàng mà thôi. Quy định như vậy đã tạo nên tình trạng độc quyền của ngân hàng và không phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường. Cho nên, nhà nước cho phép các daonh nghiệp có vốn Đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại nhiều ngân hàng ở Việt nam, để buộc các ngân hàng phải thực sự điều chỉnh theo quy luật cạnh tranh. Cụ thể hoá chiến lược thu hút FDI. Chiến lược thu hút FDI là một bộ phận tổng thể nền kinh tế nói chung và chiến lược kin tế đối ngoại nói riêng. Do đó, chiến lược thu hút FDI phải được thể hiện với những nội dung chủ yếu sau: Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cớ chiến lược chung của các nguồn vốn. Về mặt chiến lược, nguồn vốn trong nước là quyết định và điều kiện để tiếp thụ nguồn vốn nước ngoài, nhưng trong những năm trước mắt, nguồn vốn ngoài đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Trong nguồn vốn bên ngoài, vốn FDI có nhiều lợi thế hơn vốn vay vì đây là nguồn vốn tư nhân đầu tư phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế đồng thời chính phủ không phải quan tâm đến hiệu qủa kinh tế đồng thời chính phủ không phải lo trả nợ và ít chịu ảnh hưởng của các quan hệ chính trị. Ngoài ra về lâu dài, các công trình FDI sẽ thuộc nước chủ nhà. Bản chất của hợp tác đầu tư với nước ngoài là hành động tự nguyện dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên về dự án đầu tư. do đó, việc bố trí nguồn vốn đầu tư FDI không phải bằng mệnh lệnh áp đặt hay can thiệp trực tiếp mà phải hướng dẫn, điều tiết thông qua luật pháp, chình sách và những ưu đãi khuyến khích về kinh tế đảm bảo tính cạnh tranh so với môi trường đầu tư chung của các nước trong khu vực. Việc bố trí các nguồn vốn phải xuất phát từ tính chất của từng laọi nguồn vốn. Nguồn vốn đầu tư của chính phủ, nguồn vốn ODA có thể tập trung đầu tư cho các công trình cơ ở hạ tầng về kinh tế- xã hội, các công trình trọng điểm quốc gia, hoặc những công trình kinh tế kó thu hồi vốn nên không thu hút được FDI. Trong khi đó, các nguồn vốn tư nhân và ngoài nước (FDI) cần hướng vào ở đó khả năng thu vốn FDI vào các công trình lớn, quan trọng, 8 ngành có nhu cầu tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật mới, tạo ra nguồn thu nhanh cho ngân sách Nhà nước để góp phần trả nợ ODA. muốn tăng cường thu hút vốn FDI phải tạo ra nguồn đối ứng trong nước để cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường nội địa, phát triển nguồn nhân lực... Như vậy nguồn vốn đầu tư của chính phủ, nguồn vốn ODA là điều kiện để mở rộng nguồn vốn FDI. Mặt khác, ngay chính các công trình FDI cũng cần có nguồn vốn đóng góp từ các thành phần kinh tế trong nước. Cho nên, chính phủ đã chủ trương khuyến khích huy động mọi nguồn vốn các thành phần kinh tế nhằm tăng cường đầu tư phát triển. Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hội nghị Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa 7 khẳng định: Đất nước ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đầu tư phát triển, hơn lúc nào hết là điều kiện quan trọng hàng đầu để thực hiện bước phát triển mới đó. Muốn vậy định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sau: +xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, hoá chất,...nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở của sản xuất, thực hiện mọt phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào... +Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn trong công nghệ và kỹ thuật như điện, vi điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. +Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gắn với vùng nguyên liệu. +Chú trọng đến các dự án thuộc các ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ suất cao như du lịch, khách sạn, sửa chữa tàu biển, dịch vụ sân bay, cảng khẩu, kinh doanh bất động sản... +Quan tâm tới các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt nam. Việc thu hút vốn FDI cần hướng vào một số vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng, địa bàn trọng điểm quốc gia có điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư để tạo cơ hội phát triển kinh tế có sức tác động lan toả và lôi kéo các vùng khác cùng đi lên. Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt để thu hút vốn FDI vào những vùng nông thôn miền núi có khó khăn về hạ tầng cơ sở để khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng này(Điều 3 luật đầu tư ). Một mặt cần phân loại doanh nghiệp ở các ngành để chọn lọc các doanh nghiệp có thể và cần thiết đưa vào hợp tác, liên doanh. Mặt khác, cần quy hoạch các cụm, khu công nghiệp tập trung để thu hút vốn FDI và các nguồn vốn trong nước đầu tư phát triển, hạn chế dần việc đầu tư phân tá, gặp đau làm đó, mạnh ai người nấy làm. Các xí nghiệp trong khu công nghiệp tập trung để có thể phát triển từ đơn lẻ đến quần thể, từ đơn ngành; gắn linh hoạt giữa các xí nghiệp trong nước và xí nghiệp chế xuất, giữa sản xuất và thương mại giữa sản xuất hàng hoá và kinh doanh iền tệ; đa dạng hoá các loại khu công nghiệp như khu chế xuất khu công nghiệp tập trung, khu kho ngoại quan, khu kho mậu dịch tự do...Nhà nưcớ cần có sự đầu tư thích đáng vào hạ tầng cơ sở của các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp kỹ thuật cao, khu thương mại tự do... + để tăng cương khả năng hoà nhập của Việt nam vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới, toạ sự ổn định về kinh tế- xã hội làm cơ sở cho tăng trưởng kinh tế, cần chính sách thích hợp đối với các nước trên thế giớivà các nước inkhu vực khi lựa chọn đối tác đầu tư. Tăng cường với các nước trong khu vực, đặc biệt các nước NICS và ASEAN vì ngoài lợi ích kinh tế còn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, dễ gặp gỡ nhau trên bình diện chính trị – xã hội. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư. Phối hợp tối ưu giữa đầu tư trong nước với FDI, giữa ODA và FDI. Khả năng sinh lợi và hiệu quả kinh tế xã hội của FDI phụ thuộc rất lớn vào chính sách kinh tế của nhà nước vf đặc biệt là chính sách khuyến khích đầu tư, bởi vì, một mặt chính sách phải có đủ khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tích cực chuyển vốn vào Việt nam và mặt khác, phaỉa định hướng được nguồn FDI theo mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Cho nên, việc hoàn thiện và thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích đầu tư cùng một lúc phải nhằm đạt được mục tiêu đó. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư thông qua biện pháp thuế. Hiện nay vẫn cón một số quan điểm trái ngược nhau về tác động thuế đối với FDI. Một quan điểm cho rằng thuế ít tác động đến FDI vì nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến Việt nam họ thường quan tâm trước tiên đến mức độ “an toàn” vốn sau đó mới nhìn thuế. Nhưng trong thời gian hiện nay vấn đề an toàn vốn không còn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn vào Việt nam, do đó. thuế có tác động lớn tới FDI. Kết luận Quốc tế hoá đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phất triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào qũi đạo của nền kinh tế thế giới.Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, Nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và qui định xu hướng phất triển các quan hệ quốc tế, mặt khác nó là nhân tố thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Kể từ khi xuất hiện cách đây hàng thế kỷ, trải qua quá trình phát triển đầy biến động, mặc dù có nhiều thay đổi nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng phong phú, đa dạng và ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào hoạt động này, cả với tư cách là người đầu tư và người nhận đầu tư. Ban đầu, hạot động đầu tư nước ngoài do các nước chính quốc tiến hành ở các nước thuộc địa để vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân dân ở thuộc địa, sau đó dòng vốn quốc tế có xu hướng chảy vào các nước công nghiệp là chủ yếu. Hiện tượng đầu tư lẫn nhau giữa các công nghiệp phát triển kéo dài mãi cho đến những thập kỷ 70-80 mới có xu hướng dịch chuyển dần sang các nước phát triển và cho đến thập kỷ này xu hướng đó mơí tăng mạnh. Và xuất hiện những hiện tượng mới, như hiện tượng “hai chiều”,”đa cực và đa biên “...trong đầu tư quốc tế. Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài và bằng những kinh nghiệm rút ra từ nhiều nước trên thế giới, chúng ta có thể khẳng định được rằng, những tác động kinh tế của hoạt động đầu tư nước ngoài đối với các nước đang phát triển, nơi các những tiềm năng to lớn về lao động, tài nguyên nhưng không có điều kiện khai thác. Đối với các nước này, khó khăn lớn nhất đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân là thiếu vốn và kĩ thuật, công nghệ. Sự kết hợp hai nhu cầu ấy lại với nahu đã mang lậi sự “thoả mãn” cho cả hai phía và sự thật, hoạt động đầu tư nước ngaòi chỉ phát huy hiệu quả cao khi đó nó mang lại lợi ích “cho cả hai phía và sự thật, hoạt động đầu tư nước ngoài chỉ phát huy hiệu quả cao khi nó mang lại lợi ích cho cả hai bên, bên đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận, thị trường ....còn bên nhận đầu tư đó là vốn, công nghệ, trình độ quản lý, mở rộng thị trường, thu tài chính và tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động. Do hoàn cảnh đặc thù mà Việt Nam tham gia vào hoạt động sôi động này của thế giới có hơi muộn một chút. Sau ngày thống nhất đất nước, trong công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, chúng ta đã nhận thức được vai trò to lớn của đầu tư nước ngoài và mặc dù còn nhiều khó khăn trở ngại, lớn nhất là trở ngại về nhận thức, tháng 4 năm 1977 chúng ta đã cho ra đời một bản đieef lệ về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhưng đáng tiếc lầ chúng ta đã không có điều kiện để thực hiện và bản điều lệ năm 77 chỉ còn là một tín hiệu mơh nhạt. Phải sau đó 10 năm, tháng 12 năm 1987 bộ Luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành và mở ra một trang mới cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, một khoảng thời gian không dài so với cuộc đời của mỗi con người nhưng chúng ta đã đạt được nhưng chúng ta đã đật được những thắng lợi bước đầu khá quan trọng. Số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng liên tục qua cac năm, tốc độ tăng trung bình hàng năm là đã được thực hiện khoảng 5.5 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê như trong 8 năm đã sản xuất ra một mức sản lượng là 2902 triệu USD, trong đó gía trị xuất khẩu đạt 1029 triệu USD (không kể liên doanh dầu khí Việt Xô ).Mà điều quan trọng lầ từ một “cú hích “ ban đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn và từng bước hội nhập vào kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước khác. Khi thực hiện hợp tác đầu tư với nước ngoài, chúng ta cũng không tránh khỏi những mất mát, thiệt hại. Cái giá phải trả cho việc “mượn sức người “ có thể rất lớn nếu chúng ta non kém về trình độ hay mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và điều hành vĩ mô. Ngược lại, chúng ta biết khôn khéo xử lý tốt các tình huống và phải có khả năng để thực hiện quan hế hợp tác đầu tư với nước ngoài. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và để biến nước ta thành một nước công nghiệp hoá vào năm 2020,việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng. Chúng ta coi nhiệm vụ thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là công việc vừa có tính cấp bách vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài. Phương hướng nhiệm vụ thu hút và sử dụng đầu tư tực tiếp nước ngoài được Đại hội Đảng CSVN nêu ra trong phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000 như sau:”Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm và dịch vụ có công nghệ tiên tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đối với những ngành không đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ cao, có thể sinh lợi nhanh thì phải dùng nhiều hình thức để huy động vốn trong nước đầu tư toàn bộ hoạc chiếm tỷ lệ góp vốn cao nếu cần liên doanh. Về địa bàn đầu tư cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn khó khăn. Hình thức đầu tư cần đa phương hoá, chú ý thêm những hình thức mới, như đầu tư tài chính (bên ngoài góp vốn, mua cổ phần, nhưng không tham gia quản lý như xí nghiệp liên doanh ). Về đối tác đầu tư, cần tăng cường quan hệ hợp tác với công ty đa quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn, tiếp cận thị trường quốc tế, mở rộng được thị trường mới. Cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm tới là rất thuận lợi, về phía mình chúng ta có cả những lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối. Nhưng để thực hiện thành công ngiến lược thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài, yêu cầu chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề bức xú như việc cải thiên môi trường pháp lý, ổn định kinh tế vĩ mô cải tạo và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài ...và phải vượt qua được những thách thức đang đặt ra trước chúng ta. Bằng sự nỗ lực của chính mình đồng thời biết khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài, trong đó có phần chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài, sẽ cho phép chúng ta thực hiện thành công những mục tiêu phát triển kinh tế –xã hội đã đặt ra cho giai đoạn đến năm 2020. Tài liêu tham khảo Giáo trình kinh tế đầu tư quốc tế –nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội –2001 Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt nam –Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội-2002. Quốc hội nước Cộng Hoà XHCNVN. Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam ra ngày 23/11/1996. Quốc hội nước Cộng Hoà XHCNVN. Luật Đầu tư nước ngoài, sửa đổi, bổ sung ra ngày6/2002 Sách thanm khảo Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế của Vũ trường Sơn-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật –1997. Boá cáo tổng kết kinh tế tê đối ngoại, ngày 30/09/1999, văn phòng chính phủ. Bào cáo tổng kết tình hình thực hiện chủ trương thu hút và sử dụng vốn Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, tháng 9/1999, bộ kế hoạch đầu tư. Đổi mới kinh tế Việt nam và chính sách kinh tế đối ngoại, (1995). NXB khoa học xã hội, Hà nội, 174tr. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ỏ các nước đang phát triển, (1996). NXB chính trị quốc gia, Hà nội, 157 tr. sự thần kỳ Đông á tăng trưởng kinh tế và chính sách công cộng. NXB khoa học và xã hội, Hà nội-1997, 641tr. Tạp chí nghêm cứu kinh tế các năm 1995,1996,1998,1997...2000. Thời báo kinh tế Việt nam 1990, 1991, 1992,...2000. Tạp chí nghiên cứu kinh tế – viện nghiên cứu thế giới. các năm1990,1991,...2000. Tạp chí kinh tế và dự báo. Bộ kế hoạch và đầu tư 1990, 1991,...2000. Kinh tế thế giới những xu hướng đổi mới chiến lược” NXB KHXH- Hà nội. Học thuyết kinh tế – NXB- Bộ giáo dục vàđào tạo- KHXH-1997. Bộ kế hoạch đầu tư. Báo cáo tình hình thực hiện và giải pháp thu hút vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài.Vụ quản lý dự án Đầu tư nước ngoài, 11/1999. Bộ kế hoạch đầu tư báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm2000. Ngày 7/8/2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29701.doc