Lời nói đầu
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đạ
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu FDI với sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hoá, phát triển đất nước.
Trong hơn mười năm qua kể từ khi ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của ta trên trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm qua cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém, hạn chế. Nhận thức, quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa thực sự thống nhất và chưa được quán triệt đầy đủ ở các cấp, các ngành; cơ cấu đầu tư có mặt còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa cao; môi trường đầu tư còn chưa hấp dẫn; môi trường đầu tư và pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ; công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài còn những mặt yếu kém; thủ tục hành chính còn phiền hà; công tác cán bộ còn bất cập. Nhịp độ tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 1997 liên tục giảm sút, tuy từ năm 2000 có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc, nếu không kịp thời có biện pháp khắc phục sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư phát triển trong những năm tới. Trong khi đó, cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là sau khủng hoảng kinh tế khu vực; nhịp tăng trưởng kinh tế thế giới đang chậm lại; các nền kinh tế khu vực, những đối tác đầu tư chính vào Việt Nam đang gặp khó khăn.
Nhằm đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời gian qua và tìm ra các biện pháp để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường thu hút hơn nữa dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển thuận lợi, đóng góp nhiều hơn vào phát triển kinh tế, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của nước ta trong thời gian tới, em chọn đề tài "Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta" làm nội dung chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Chuyên đề được chia ra làm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và CNH - HĐH
Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và tác động của nó đối với sự nghiệp CHN -HĐH ở nước ta
Chương III: Phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian tới.
Trong suốt thời gian thực hiện chuyên đề này, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận đề tài cũng như phương pháp nghiên cứu, nhưng được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo - TS Nguyễn Bạch Nguyệt và các cán bộ Vụ Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp đúng tiến độ đã đề ra.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - TS Nguyễn Bạch Nguyệt, người đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo và các cán bộ Vụ Đầu tư Nước ngoài, đặc biệt là chuyên viên Nguyễn Bá Cường, chuyên viên Lê Minh Hiền, những người đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp các tài liệu cần thiết cho chuyên đề nghiên cứu trong suốt thời gian thực tập vừa qua.
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài Và CNH – HĐH
Để phân tích và đánh giá một cách rõ ràng và đầy đủ về tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoaì vào Việt Nam nhằm thực hiện CNH- HĐH hiện nay, trước hết chúng ta cần nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về đầu tư nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài, CNH - HĐH và vai trò của FDI cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và công cuộc CNH - HĐH. Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ xem xét xu hướng vận động của các dòng vốn đầu tư nước ngoài cùng với sự phát triển của các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay để chuẩn bị cơ sở cho việc phân tích tình hình được đề cập ở chương sau.
I. Khái niệm và đặc điểm của FDI:
1, Khái niệm
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của tất cả các nước trên thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài trong từng giai đoạn lịch sử mang những đặc điểm riêng phụ thuộc vào trình độ phát triển sản xuất thực tiễn ở mỗi quốc gia. Do vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài cũng được nhìn nhận khác nhau trong luật pháp của mỗi nước.
Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam năm 2000 quy định: Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này.
Tuy vậy, để có thể dễ dàng tham gia vào hoạt động đầu tư nước ngoài, người ta thường sử dụng khái niệm chung nhất sau: Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư cá nhân hay pháp nhân đưa vốn vay hay bất kỳ hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hay đạt được các hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn khác nhau. Nhìn chung, vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước bằng hai con đường: đường công cộng (official) và đường tư nhân hoặc thương mại (commercial). Hình thức chủ yếu trong đường công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc Chính phủ các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại là không trở thành nợ nước ngoài, nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục và cứu trợ.
Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực tiếp, đầu tư qua thị trường chứng khoán (Porfolio), cho vay của các định chế kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại) và nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Do vay thương mại có lãi suất cao nên dễ trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài trong tương lai. Đầu tư chứng khoán không trở thành nợ nhưng sự thay đổi đột ngột trong hành động (bán chứng khoán, rút tiền về nước) của nhà đầu tư nước ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường vốn, gây biến động tỷ giá và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô.
Trong khi đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát các doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh dịch vụ thương mại. Do vậy, FDI cũng là hình thức đầu tư không trở thành nợ, đây là vốn có tính chất "bén rễ" ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn.
Vốn góp ở đây có thể là bằng tiền (ngoại tệ mạnh, tiền nội địa, các vật khác được coi như tiền), cũng có thể bằng các tài sản hữu hình khác (sức lao động, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ,...) hay bằng tài sản vô hình (bí quyết kỹ thuật, uy tín hàng hoá, quyền sử dụng đất,...).
Hiện nay, ở Việt Nam có 3 hình thức FDI chủ yếu là:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh.
Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Và các hình thức đầu tư hay được sử dụng là:
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT).
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO).
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào Khu công nghiệp, Khu chế xuất dưới các hình thức trên theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam năm 2000 quy định.
2, Đặc điểm của FDI
FDI theo nghĩa rộng có thể được hiểu là việc thiết lập, giành quyền sở hữu hay là sự gia tăng khối lượng của một khoản đầu tư hiện có trong một công ty, doanh nghiệp ở nước ngoài. Do đó, FDI mang những đặc trưng cơ bản sau:
Các chủ đầu tư thực hiện đầu tư trên nước sở tại nên phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật nước đó đề ra đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
FDI là một hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân, do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi nên hình thức này thường mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao.
Tỷ lệ góp vốn sẽ quyết định việc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ đầu tư. Tuỳ theo luật của từng nước mà quyền và nghĩa vụ giữa hai bên trong nước và nước ngoài được quy định khác nhau.
Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh chứ không phải là một khoản thu nhập ổn định và lợi nhuận thường được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong tổng số vốn pháp định sau khi đã nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần.
Hoạt động FDI phần lớn vì mục đích tìm kiếm lợi nên chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,...đem lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư.
Về hình thức, nhà đầu tư có thể lựa chọn một trong các cách sau: bỏ vốn thành lập một doanh nghiệp mới ở nước ngoài, mua lại toàn bộ hay một phần các xí nghiệp sẵn có ở nước tiếp nhận đầu tư, mua cổ phiếu để thôn tính, sát nhập.
Hiện tượng đa cực và đa biên trong FDI là hiện tượng đặc thù, không chỉ gồm nhiều bên với tỷ lệ góp vốn khác nhau mà còn là các hình thức khác nhau của tư bản như tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước cùng tham gia.
Tồn tại hiện tượng hai chiều trong FDI, đó là hiện tượng một nước vừa nhận sự đầu tư của nước khác lại vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng lợi thế so sánh giữa các nước với nhau.
Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn liền với lợi ích do đầu tư đem lại nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản lý, tay nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia và sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
3, Các nhân tố ảnh hưởng tới FDI
Thông qua một số khái niệm và đặc điểm của FDI đã được đề cập ở trên, ta có thể thấy dòng FDI vào các nước sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Dưới góc độ là một nước tiếp nhận đầu tư, ta chia ra làm các yếu tố khách quan và chủ quan như sau:
Mô hình các yếu tố ảnh hưởng tới dòng vốn FDI vào một số nước
+ Xu hướng của dòng FDI trên thế giới.
+ Động cơ, chính sách của các nhà đầu tư.
+ Các nhân tố khác.
+ Môi trường chính trị.
+ Các chính sách kinh tế.
+ Hệ thống pháp luật.
+ Cơ sở hạ tầng.
+ Thủ tục hành chính.
Dòng vốn FDI vào một số nước
Các yếu tố khách quan Các yếu tố chủ quan
3.1: Các yếu tố khách quan
3.1.1: Xu hướng của dòng FDI trên thế giới
Nếu xu hướng này có chiều hướng tích cực, ngày càng gia tăng thì thường nước tiếp nhận đầu tư có thêm khả năng về cơ hội để thu hút nhiều vốn đầu tư hơn, và ngược lại thì nó sẽ gây bất lợi, hạn chế đối với hoạt động FDI của nước này.
3.1.2: Động cơ, chính sách của các nhà đầu tư
Những nhân tố này tác động trực tiếp tới khả năng ký kết, thực hiện và triển khai các dự án FDI, qua đó ảnh hưởng tới tiến độ thu hút FDI của nước tiếp nhận.
Ngoài sự cần thiết về chính trị, động cơ chung nhất của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận cao và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, động cơ cụ thể của chủ đầu tư trong từng dự án lại rất khác nhau tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị trường nước ngoài, tuỳ thuộc mối quan hệ sẵn có của nó với nước chủ nhà. Tóm lại, có 3 động cơ cụ thể tạo nên 3 định hướng khác nhau trong FDI là:
Đầu tư định hướng thị trường (Market seeking investment): hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang nước sở tại. Hình thức này giúp cho các nước đầu tư giải quyết được vấn đề bành trướng thị trường, khó khăn trong xâm nhập thị trường nước ngoài do hệ thống bảo hộ của nước đó, kéo dài vòng đời sản phẩm...
Đầu tư định hướng chi phí (Efficiency seeking investment): hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên rẻ của nước sở tại nhằm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Hình thức này còn giúp cho chủ đầu tư giải quyết được một số vấn đề kinh tế - xã hội khác như tránh được những quy định chặt chẽ của các nước phát triển về môi trường, sự dư thừa vốn trong nền kinh tế thị trường, sự lên giá của đồng tiền...
Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu (Resource seeking investment): hình thức đầu tư theo chiều dọc, trong đó các cơ sở đầu tư ở nước ngoài là một bộ phận cấu thành trong dây chuyền kinh doanh của công ty mẹ, có trách nhiệm khai thác nguyền nguyên liệu tại chỗ của nước sở tại, cung cấp cho công ty mẹ để tiếp tục hoàn thiện sản phẩm. Hình thức này giúp chủ đầu tư tháo gỡ được khó khăn khi thiếu nguồn nguyên liệu phù hợp với các dự án khai thác dầu khí, tài nguyên thiên nhiên, khai thác và sơ chế các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp...
Ngoài ra, hiện nay còn tồn tại một loại hình đầu tư nữa rất phổ biến là đầu tư định hướng liên minh: Hình thức đầu tư có mục đích là tạo thế độc quyền, thường là do các nhà đầu tư tiến hành sát nhập với nhau. Hình thức này đem lại mối lợi lớn cho nhà đầu tư nhưng không có lợi cho thị trường.
3.2: Môi trường đầu tư của nước tiếp nhận (các yếu tố chủ quan)
Môi trường đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan, tác động đến hoạt động đầu tư và bảo đảm khả năng sinh lợi của vốn nước ngoài. Đây cũng chính là tổng hợp các nhân tố chủ quan đối với một nước khi tiếp nhận dòng vốn FDI. Khái quát lại, những yếu tố này có thể chia thành những nhóm sau:
3.2.1: Môi trường chính trị
Môi trường chính trị phải ổn định vì đây là tiền đề quan trọng quyết định đến việc đầu tư hay không của các nhà đầu tư. Một môi trường đầu tư ổn định sẽ góp phần củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, làm cho họ yên tâm hơn khi quyết định bỏ vốn. Nhà đầu tư nước ngoài có mục tiêu là lợi nhuận nên họ không dại gì mà đầu tư vào một nước đang trong thời kỳ chiến tranh hay bạo loạn, khủng bố vì như vậy ngay cả tính mạng của họ còn không được bảo toàn, chưa nói gì đến đồng vốn của họ có giữ được hay không và cũng khó có khả năng sinh lời do thị trường lúc đó không ổn định.
3.2.2: Các chính sách kinh tế
Để tạo sự hấp dẫn hơn nữa cho thị trường đầu tư của nước mình, tạo lợi thế cạnh tranh so với nước khác, các nước có rất nhiều những chính sách khuyến khích, ưu đãi cho những nhà đầu tư nước ngoài thông qua các công cụ, biện pháp như: các ưu đãi về miễn giảm thuế, các ưu đãi về tín dụng, các ưu đãi về quyền bảo hộ trí tuệ... Đồng thời, Chính phủ cũng có thể nâng tính ràng buộc đối với các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các quy định chặt chẽ như: các quy định về lĩnh vực và ngành nghề cấm, hạn chế đầu tư... và đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định đó để tránh những điều bất lợi mà đầu tư nước ngoài có thể gây ra.
3.2.3: Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật của một nước cần phải đủ thông thoáng để có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cũng cần phải có những ràng buộc để tránh những tác động xấu. Nhưng điều cần nhất là hệ thống các văn bản pháp luật phải rõ ràng, thống nhất, tạo nên cơ sở vững chắc cho nhà đầu tư tham khảo để đi tới quyết định của mình.
3.2.4: Các thủ tục hành chính
Hiện nay, so với một số nước, thủ tục hành chính cho việc xin cấp phép, gia hạn, thêm vốn... đầu tư nước ngoài ở nước ta vẫn bị đánh giá là quá phiền hà. Tất cả những điều này sẽ gây cho nhà đầu tư nước ngoài cảm giác chán nản, không muốn đầu tư vì lãng phí thời gian. Đối với nhà đầu tư nước ngoài thì một cơ chế, các thủ tục hành chính nhanh gọn, chính xác và kịp thời sẽ là sự cổ vũ rất lớn cho họ khi quyết định đầu tư và triển khai dự án ở một số nước.
II. Khái niệm về CNH- HĐH và các vấn đề cần nghiên cứu khi thực hiện CNH - HĐH
1. Khái niệm về CNH - HĐH
Trải qua lịch sử CNH thế giới, đã có nhiều ý kiến về CNH - HĐH. Theo một tác giả, B. Mazlish, thì CNH - HĐH đã có được "hình thù" của nó ở nước Anh vào đầu thế kỷ XIX (giai đoạn thứ nhất của lịch sử CNH thế giới), cái hình thù đó nói 1 cách vắn tắt là một quá trình "được đánh dấu bằng 1 sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp".
Một tác giả khác, J.Ladriere, cũng có một định nghĩa tương tự: "CNH là một quá trình mà các xã hội ngày nay chuyển từ một kiểu kinh tế về chủ yếu dựa trên nông nghiệp với các đặc điểm năng suất thấp và tăng trưởng cực kỳ thấp hay bằng không sang một kiểu kinh tế về cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao".
"Encyclopedie francaise" có định nghĩa vắn tắt sau đây:
"CNH - HĐH hoạt động mở rộng tiến bộ kỹ thuật với sự lùi dần của tính chất thủ công trong sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ".
Định nghĩa này vừa nêu lên sự thay đổi của "kiểu kinh tế" (đẩy lùi "thủ công") giống như hai tác giả trước đã nói, vừa nhấn mạnh tầm quan trọng của "công nghệ" (tiến bộ kỹ thuật) - nguồn góc của "năng suất cao và tăng trưởng tương đối nhanh". Theo cách diễn đạt của Ladriere.
Định nghĩa của UNIDO đi sâu hơn vào khái niệm "Công nghiệp hóa".
"CNH là 1 quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cái quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hôi." Định nghĩa này đặt công nghiệp hóa trong bối cảnh chung của phát triển kinh tế với nội dung cơ bản là phát triển cơ cấu kinh tế (trong đó công nghiệp chế tạo đóng vai trò quan trọng) trên cơ sở công nghiệp hiện đại, nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Khi bàn về CNH - HĐH, chúng ta thường gặp những cách tiếp cần khác nhau như:
- CNH - HĐH là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày một lớn. Riêng trong công nghiệp lại diễn ra quá trình chuyển dịch từ công nghiệp khai thác sang chế biến… Cách tiếp cận này lẫn lộn giữa kết quả và nội dung của CNH - HĐH.
- CNH - HĐH là một chiến lược phát triển kinh tế xã hội, khoa học - công nghệ trong một thời gian dài. ở đây, CNH - HĐH được hiểu như một chiến lược phát triển trong đó phương hướng, mục tiêu của nền kinh tế không nêu được bản chất của CNH - HĐH.
- CNH - HĐH là quá trình chuyển biến thủ công lao động lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất xã hội cao.
Hiểu CNH - HĐH như quan điểm thứ 3 vừa nêu là cách tiếp cận đúng vì nó nói rõ mục tiêu CNH - HĐH là tăng năng suâtài sản lao động xã hội - cái quyết định cho sự tồn tại cho một chế độ xã hội.
Cách tiếp cận này cũng phù hợp với định nghĩa về CNH - HĐH của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất xã hội cao".
Cũng có thể nói, thực chất của công nghiệp hóa là phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại. Lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề và học vấn.
2. Bước đi của CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân:
2.1. Lựa chọn mục tiêu của giai đoạn CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân
Quá trình CNH - HĐH ở nước ta có thể chia ra làm các giai đoạn sau:
a. Giai đoạn đẩy tới một bước CNH - HĐH nền kinh tế từ năm 1995 đến năm 2000.
Giai đoạn này được thực hiện trên cơ sở những thành tựu bước đầu rất quan trọng của 10 năm đổi mới kinh tế là về cơ bản đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đẩy lùi được tình trạng lạm phát phi mã, ổn định được tình hình kinh tế - xã hội và của đời sống nhân dân.
b. Giai đoạn phát triển CNH - HĐH nền kinh tế từ năm 2001 - 2010
Mục tiêu cơ bản của giai đoạn phát triển CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân là đưa đất nước ta trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, đạt và vượt trình độ trung bình thế giới, có mức bình quân GDP đầu người tăng khoảng từ 2,5 đến 3 lần so với năm 2000, tức là khoảng 800 đến 1000USD. Giai đoạn này phấn đấu đạt tới sử dụng 50% sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp công nghệ tiên tiến hiện đại.
c. Giai đoạn hoàn thành cơ bản quá trình CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân từ năm 2011 - 2020.
Mục tiêu chủ yếu của giai đoạn này là đưa nước ta trở thành một nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vượt trình độ trung bình của các nước phát triển trên thế giới.
2. 2. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của CNH - HĐH
a. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế ngành.
Giảm tỷ trọng GDP của nông nghiệp trong tổng GDP xuống mức thấp nhất, tăng nhanh tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu.
Tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP đến mức chiếm vị trí quyết định.
Đến năm 2020 thì tỷ lệ nông nghiệp trong GDP là 10%, công nghiệp và xây dựng cơ bản là 40% còn dịch vụ chiếm 50% GDP.
b. Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế
Muốn phát triển kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh theo hướng tối ưu cả về kinh tế và xã hội thì phải bảo đảm cho tỷ lệ kinh tế ngoài quốc doanh trong GDP lớn hơn kinh tế quốc doanh. Theo dự tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì đến năm 2010 quốc doanh chiếm tỷ trọng 45% GDP, ngoài quốc doanh 55% GDP, còn đến năm 2020 thì tỷ lệ này là 40% và 60%.
2.3. Xây dựng đúng đắn lô trình cải cách cơ chế quản lý để thực hiện quá trình CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân.
Giai đoạn 1: Phát triển đồng bộ thị trường của CNH - HĐH hình thành môi trường pháp lý tối thiểu cho thị trường phát triển và phát triển đúng hướng.
Giai đoạn 2: Nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm phát triển môi trường pháp lý, hoàn thiện và điều chỉnh thị trường của CNH - HĐH.
Giai đoạn 3: Phát triển đồng bộ các bộ phận cấu thành cơ chế quản lý thông qua việc phát triển đồng bộ thị trường và vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.4. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc thực hiện các bước đi của quá trình CNH - HĐH nền kinh tế.
Vai trò quyết định của Nhà nước được thể hiện trên một số mặt sau:
- Quyết định mục tiêu, chiến lược và kế hoạch tiến hành CNH - HĐH nền kinh tế trong từng giai đoạn.
- Quyết định việc tổ chức đồng bộ các loại thị trường và xác định tổng cung và tổng cầu cho nền kinh tế.
- Quyết định việc tổ chức lực lượng để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH nền kinh tế.
- Quyết định việc phối hợp và điều hoà các hoạt động của quá trình thực hiện CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu và định hướng đúng đắn đã được xác định, vì quá trình thực hiện CNH - HĐH chỉ có thể thành công khi có sự phối hợp đồng bộ cả chiều ngang lẫn chiều dọc.
- Quyết định việc tổ chức kiểm tra quá trình thực hiện CNH - HĐH nền kinh tế để phát hiện kịp thời những khó khăn, trục trặc sai sót, lệch lạc mất cân đối.
3. Những vấn đề cần nghiên cứu khi tiến hành CNH - HĐH
3.1. Vốn để thực hiện CNH - HĐH
Nước ta cũng như bất cứ một quốc gia nào khác trên thế giới muốn thực hiện CNH - HĐH đều cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa là điều kiện hàng dầu để thực hiện CNH - HĐH. Vốn cho nền tk như máu của cơ thể. Thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển, song vốn được huy động từ đây và bằng cách nào là điều cần nghiên cứu do vậy luận văn này sẽ đi sâu vào nghiên cứu vấn đề huy động vốn trong nước cho sự nghiệp CNH - HĐH.
Tuy nhiên, chúng ta cũng điểm qua một số vấn đề khác khi tiến hành CNH - HĐH
3.2. Lựa chọn công nghệ thích nghi như thế nào để nước ta không bị lạc hậu về công nghệ, sản phẩm của ta cạnh tranh được với sản phẩm trên thế giới.
3.3. Cần phải lựa chọn các ngành ưu tiên, mũi nhọn dựa trên các tiêu chuẩn nhất định để có chính sách ưu tiên ưu đãi phát triển nhất là lựa chọn một số sản phẩm xuất khẩu chứ không thể chỉ dựa vào 1, 2 sản phẩm duy nhất.
3.4. Vấn đề cơ cấu sở hữu trong công nghiệp, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quốc doanh và dân doanh, giữa quốc hữu và tư hữu. Cần phải làm rõ ngành nào, lĩnh vực nào, ở đâu cần phát triển quốc doanh và ở đâu cần để cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
3.5. Vấn đề tổ chức cán bộ
a. Vấn đề tổ chức
Về tổ chức quản lý phải đồng thời giải đáp được những vấn đề sau:
- Tổ chức quản lý tài sản và vốn của Nhà nước
- Để cho các doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo pháp luật của Nhà nước cần thiết phải xóa bảo chế độ chủ quan, cấp chủ quản.
b. Vấn đề cán bộ
Cán bộ quyết định tất cả là một nguyên lý luôn đúng và đúng với mọi trường hợp. Không có đội ngũ viên chức Nhà nước giỏi thì không thể có nền hành chính quốc gia vững mạnh.
3.6. Vấn đề lao động
Số lượng lao động có xu hướng tăng chậm hơn so với tiền công. Tiền công ngày càng đắt hơn do vậy lợi thế lao động rẻ ở nước ta ngày càng giảm đi. Do vậy chúng ta cần có chính sách đúng đắn trong vấn đề này.
3.7. Vấn đề thị trường
Chiến lược "hướng mạnh vào sản xuất để xuất khẩu" nhưng xuất cái gì, xuất ra đâu, làm gì để có cái mà xuất, đó là những câu hỏi mà nhiều ngành chưa có câu trả lời.
Tóm lại, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH chúng ta cần nghiên cứu rất nhiều vấn đề, nhưng trong phạm vi luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu tác động của FDI đối với sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta và các giải pháp nhằm huy động đầu tư trực tiệp nước ngoài cho CNH - HĐH nền kinh tế nước ta trong thời gian tới
III. Sự cần thiết phải thu hút FDI để thực hiện công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở Việt Nam
1, Quan điểm của Lênin và các nhà kinh tế về FDI
Đầu thế kỷ XX, các nhà kinh tế đã bàn nhiều về xuất khẩu tư bản. V.I. Lênin cho rằng: "Xuất khẩu tư bản là một đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại (tức chủ nghĩa tư bản độc quyền)". Theo ông, trong giai đoạn cạnh tranh tự do, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản là xuất khẩu hàng hoá, còn trong giai đoạn hiện đại là xuất khẩu tư bản. Do tư bản tài chính trong quá trình phát triển đã xuất hiện hiện tượng "tư bản thừa", thừa so với tỷ suất lợi nhuận thấp nếu phải đầu tư trong nước, còn nếu đầu tư ra nước ngoài thì tỷ suất lợi nhuận cao hơn. "Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa vẫn còn được dùng không phải để nâng cao mức sống của quần chúng trong nước đó, vì nếu như thế sẽ đi đến kết quả là làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản - mà là để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài vào những nước lạc hậu. Trong các nước lạc hậu này, lợi nhuận thường cao, vì tư bản hãy còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ". Xuất khẩu tư bản có ảnh hưởng tới nguồn vốn đầu tư của các nước xuất khẩu tư bản, nhưng lại giúp các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận cao ở nước ngoài. Ngoài ra, xuất khẩu tư bản còn có vai trò bảo vệ chế độ chính trị ở các nước nhập khẩu tư bản và ít nhiều có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế, kỹ thuật. Song về hậu quả, nhân dân ở các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột nhiều hơn, sự lệ thuộc về kinh tế và kỹ thuật tăng lên, dẫn đến sự phụ thuộc về chính trị là khó tránh khỏi. Lênin cho rằng: "Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được đầu tư. Cho nên, nếu trên một mức độ nào đó việc xuất khẩu có thể gây ra một sự ngừng trệ nào đó trong sự phát triển của các nước xuất khẩu tư bản..."
Từ phân tích trên, Lênin rút ra kết luận: "Các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số khoản lợi nào đó, và tính chất của những khoản lợi này làm sáng tỏ đặc trng của thời đại tư bản tài chính và độc quyền".
Vào giữa thế kỷ XX, việc xuất khẩu tư bản, nhất là FDI, phát triển nhanh chóng. Các nhà kinh tế học, điển hình là P. Samuelson và Nurkse, cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Trong lý thuyết "cái vòng luẩn quẩn" và "cú hích" từ bên ngoài, Samuelson cho rằng: "Đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích luỹ vốn hạn chế. Những nước dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp nghèo nhất thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên. Phần còn lại hầu như rất ít cho phát triển".
Mặt khác, theo Samuelson, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng "cái vòng luẩn quẩn".
Samuelson cho rằng: "Để phát triển kinh tế phải có "cú hích" từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn". Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, "nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?...
Sơ đồ: Vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Thu nhập bình quân thấp
Tốc độ tích luỹ thấp
Năn._.g suất lao động thấp
Trong cuốn "Những vấn đề hình thành vốn ở các nước chậm phát triển", R. Nurkse đã trình bày một cách có hệ thống việc giải quyết vấn đề vốn. Ông lấy vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói làm lý luận về tạo vốn: Xét về lượng cung, người ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó là do mức độ thấp của thu nhập thực tế, mức thu nhập thực tế phản ánh năng suất lao động thấp, đến lượt mình, năng suất lao động thấp phần lớn do tình trạng thiếu tư bản gây ra. Thiếu tư bản lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đưa lại. Và thế là cái vòng được khép kín. Trong cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn. Do vậy, mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài đang phát triển. Theo ông, mở cửa cho FDI có ý nghĩa đối với nước đang phát triển có thể vươn đến những thị trường mới, cũng như khuyến khích việc mở rộng kỹ thuật hiện đại và những giải pháp quản lý có hiệu quả. FDI giúp các nước đang phát triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ, về điều kiện thanh toán nợ mà những điều này tác động đến vay nợ quốc tế. Mặc dù FDI là để phục vụ cho việc củng cố hệ thống này, các nước có thu nhập thấp được chuyên môn hoá sản xuất nguyên liệu và thực phẩm xuất khẩu, được chuyên môn hoá dựa trên nguyên tắc bất di bất dịch của lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, dù rằng FDI trước hết phục vụ cho lợi ích của các nước công nghiệp xuất khẩu vốn chứ không phải cuả nước nhận vốn, và thậm chí phần nào các nước đang phát triển phải chịu sự mất cân bằng không tránh khỏi, nhưng vẫn nên mở cửa hơn là đóng cửa. R. Nurkse cho rằng, FDI đem lại lợi ích chung cho cả hai bên, dù chẳng bao giờ cân bằng tuyệt đối nhưng không thể làm khác được vì nó là đòi hỏi tự nhiên, tất yếu trong quá trình vận động thị trường. Đầu tư trực tiếp là kết quả hoàn toàn tự nhiên bởi hoạt động tự do của các động cơ tìm kiếm lợi nhuận. Lẽ tất yếu là phương hướng của đầu tư tư nhân chịu tác động lớn của hướng vận động thị trường.
2, Vai trò của FDI đối với CNH – HĐH ở các nước đang phát triển
2.1: Tác động tích cực
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển, FDI có vai trò hết sức to lớn đối với quá trình CNH - HĐH đất nước. Vai trò đó được thể hiện qua một số tác động chính của FDI đối với các nước đang phát triển như sau:
2.1.1: FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư, góp phần tạo ra động lực cho tăng trưởng và phát triển
Tỷ lệ vốn tích luỹ từ trong nước, đặc biệt là ở các nước đang phát triể, còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Thu hút FDI là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế.
FDI vào các nước đang phát triển sẽ tạo động lực tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư trong nước,... Rồi tiếp tục từ đó, nó tạo ra một hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về nước này trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Hơn nữa, ngay trong mối quan hệ đối nội, FDI còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút vốn đầu tư trong nước.
Trong 13 năm qua, nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Nhờ có nguồn vốn FDI, nguồn vốn Ngân sách có thể được dành nhiều hơn cho phát triển cơ sở hạ tầng, khuyến khích đầu tư trong nước vào các vùng kinh tế khó khăn, do đó tạo ra tốc độ tăng trưởng đồng đều giữa các vùng. Như vậy, thông qua hình thức FDI, nguồn vốn cần thiết đã phần nào được đáp ứng kịp thời, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam trong suốt thời kỳ mở cửa cho đến nay.
2.1.2: FDI mang lại kỹ thuật công nghệ cho nước tiếp nhận đầu tư
Bên cạnh vai trò cung cấp nguồn vốn, FDI còn mang lại cho các nước tiếp nhận đầu tư những quy trình sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, bản quyền phát minh, kinh nghiệm quản lý cho nước chủ nhà, góp phần nâng cao và phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Thông thường, qua việc thực hiện FDI, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận lợi cho cả hai bên (trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương).
Nhìn chung, kỹ thuật và quy trình công nghệ mới, hiện đại thường được chuyển giao từ các nước chính quốc sang các nước đang phát triển với 100% cổ phần của họ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các công ty đó tại thị trường nước chủ nhà. Còn kỹ thuật hay các quy trình sản xuất "hạng hai" được chuyển giao cho đối tác nước chủ nhà thông qua kênh liên doanh hoặc bán bản quyền. Đi kèm với việc chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao kỹ thuật và kỹ năng quản lý.
Đối với nước ta, việc hợp tác với nước ngoài trong thời gian qua đã đem lại một khối lượng lớn máy móc thiết bị và cách thức sản xuất được chuyển giao, góp phần nâng cao trình độ sản xuất. Chúng ta đã tiếp nhận được một số công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, thăm dò dầu khí, điện tử, sản xuất và lắp ráp ô tô,... Mặc dù chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI chưa đạt như mong muốn, song nhìn chung đều là những công nghệ hơn hẳn công nghệ trong nước hoặc trong nước chưa có. Trong đó, hơn 60% là đầu tư vào chiều sâu, đã giúp cho việc nâng cao năng lực sản xuất trong nước để sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng cao, giá cả phù hợp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phần lớn xuất khẩu ngoại tệ. Đồng thời, FDI cũng kích thích các doanh nghiệp trong nươc nhanh chóng đổi mới hoặc cải tiến công nghệ hiện có để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
2.1.3: FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong điều kiện kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các nước. Trong đó, FDI lf một động lực mạnh mẽ, tác động to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hai hình thức: chuyển dịch cơ cấu ngành (tức phân công lao động xã hội "theo chiều ngang") và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành (tức là phân công lao động xã hội "theo chiều dọc").
Sự tập trung đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề và địa phương có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ góp phần làm phát huy nội lực của các ngành và lĩnh vực đó, đồng thời kéo theo sự phát triển của một số ngành nghề có liên quan như các ngành bổ trợ đầu vào, các ngành liên quan đến tiêu thụ đầu ra... và một số vùng lân cận. Khi đầu tư vào các lĩnh vực và ngành này đã trở nên bão hoà, các nhà đầu tư sẽ chuyển sang các ngành nghề và địa phương khác theo sự định hướng của Chính phủ thông qua một số ưu đãi đầu tư, như vậy đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu vùng lãnh thổ theo hướng tích cực.
Những năm qua, nhờ có nguồn vốn FDI, đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam đã làm chuyển dịch từ một nền kinh tế mà nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế. Đặc biệt, đối với một số ngành như công nghiệp, xây dựng cơ bản, dầu khí và bưu chính viễn thông là những ngành then chốt lại có tỷ lệ vốn FDI rất cao. "Đầu tư nước ngoài đã phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH - HĐH, tập trung vào sản xuất, xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó đầu tư nước ngoài vào xây dựng chiếm 73% vốn thực hiện. FDI đã nâng cao mức độ sử dụng công nghệ mới trong các ngành công nghiệp dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ô tô,... Tỷ trọng một số sản phẩm chủ yếu do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất ra chiếm khá cao trong toàn ngành công nghiệp, ví dụ như: dầu thô, ô tô chiếm 100%; tivi 80,8%; chất tẩy rửa 62,2%; sút 76,4%; máy công cụ 56,4% ... Đáng chú ý là trong 9 tháng đầu năm 2001, số dự án đầu tư vào công nghiệp nặng đã tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái, có những dự án quy mô lớn như điện Phú Mỹ 3 (412,8 triệu USD), Phú Mỹ 2 (400 triệu USD), máy in phun (76,7 triệu USD)...
2.1.4: FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới
Cùng với các dự án FDI là các xí nghiệp liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài được thành lập, thu hút rất nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cho nước nhận đầu tư. Tính đến cuối năm 2000, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được khoảng 35 vạn lao động cho Việt Nam, ngoài ra FDI còn tạo ra hàng chục vạn lao động gián tiếp trong lĩnh vực xây dựng và các lĩnh vực khác.
Bên cạnh đó, những công nhân và cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có một trình độ tương đối cao so với mặt bằng chung, lại được tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, được làm việc với các nhà quản lý nước ngoài, các cán bộ và công nhân của nước của nhà cũng học được cách làm việc vận dụng hết năng lưc, có tính sáng tạo và lấy hiệu quả công việc làm đầu.
Bên cạnh đó, FDI vào các nước đang phát triển dưới bất kỳ hình thức nào đều thường kèm theo là các nhà quản lý nước ngoài để hướng dẫn, từ đó bên Việt Nam sẽ học hỏi được các kinh nghiệm và cách thức quản lý như tổ chức sản xuất có hiệu quả hơn, kinh nghiệm quản lý các xí nghiệm sản xuất lớn, giúp các nhà quản lý Việt Nam tiếp cận với kho thông tin khổng lồ và những kiến thức về phương pháp quản lý hiện đại, được phổ biến thông qua đào tạo nhân sự người bản địa trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài.
2.1.5: FDI làm tăng thu ngoại tệ, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước
FDI đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc thu thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính khác của các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, khu vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã tạo ra trên 13% GDP, trên 34% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 7% nguồn thu ngân sách của Nhà nước (không kể dầu khí). Thành tựu này thực sự có ý nghĩa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của cả nước, thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Như một giải pháp để cải thiện cán cân thanh toán quốc tế luôn có tình trạng mất cân đối chủ yếu là nhập khẩu, hầu hết các dự án FDI có chủ trương tăng cường xuất khẩu, từ đó thu lượng ngoại tệ lớn cho nước chủ nhà. Trong 5 năm 1991 - 1995, tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI đạt 1250 triệu USD (chưa kể dầu khí), chiếm 7,35% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Những năm về sau, tỷ trọng này vẫn tiếp tục tăng lên và đến năm 1998 đạt 1532 triệu USD. Tuy chưa phải là nhiều song trong bối cảnh kinh tế của nước ta cũng như thế giới hiện nay, kết quả này thật đáng khích lệ, đã góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
2.1.6: Hoạt động của các dự án FDI có tác động quan trọng tới xuất, nhập khẩu của nước chủ nhà.
Trong nhiều trường hợp, các dự án FDI đòi hỏi phải nhập một lượng lớn máy móc, thiết bị để xây dựng cơ bản, nhất là trong giai đoạn đầu triển khai, dẫn đến sự thâm hụt thương mại thường xuyên. Do đó, cần phải khuyến khích các dự án mua nguyên liệu, phụ tùng trong nước và tăng cường mở rộng các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ để cải thiện cán cân thanh toán.
Ngoài những tác động kể trên, FDI còn giúp mở rộng thị trường trong và ngoài nước thông qua các phương án bao tiêu sản phẩm, các chiến lược mở rộng và chiếm lĩnh thị trường của các công ty mẹ, tạo sự cạnh tranh kích thích phát triển sản xuất...
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, FDI cũng có tính hai mặt, mang đến những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư.
2.2: Những tác động tiêu cực
Khi xem xét ảnh hưởng của FDI, có nhiều ý kiến nói về những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư. Các ý kiến đánh giá thường rơi vào hai mặt: những ảnh hưởng tiêu cực đến chính trị - xã hội và các ảnh hưởng đến kinh tế. Nói chung, cách phân chia các ảnh hưởng này chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước trong từng giai đoạn khác nhau.
2.2.1: Các ảnh hưởng tới nền kinh tế
FDI làm tăng sự phụ thuộc nền kinh tế các nước đang phát triển vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của các nước công nghiệp phát triển. FDI đáp ứng nhu cầu khan hiếm vốn đầu tư, góp phần giải quyết nguồn vốn cần có của các nước đang phát triển để tiến hành CNH - HĐH nên nếu các nước này càng dựa vào FDI thì lại càng phụ thuộc về kinh tế đối với các nước phát triển.
Thông qua FDI, một số nước chuyển những công nghệ lạc hậu, không đạt chuẩn về môi trường ở nước sở tại sang các nước đang phát triển, thậm chí còn định giá cao hơn giá trị thực của nó. Như vậy là vì khi thực hiện các dự án liên doanh hay 100% vốn đầu tư nước ngoài tại các nước đang phát triển, các nhà đầu tư nước ngoài thường được khuyến khích góp vốn bằng các thiết bị vật tư, máy móc, công nghệ mà những nước đang phát triển thường là không làm được và không có; mặt khác, họ lại cũng muốn tận dụng công nghệ của mình ngay cả khi nó đã không còn tính cạnh tranh và bị cấm sử dụng ở nước mình.
FDI còn gây ra tình trạng phân phối thu nhập không đều cho nước tiếp nhận đầu tư. Trên thực tế, khi các nhà đầu tư thực hiện FDI tại các nước đang phát triển, họ tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc cho mình với mức lương cao hơn mức trung bình tại nước đó vì đối với họ, thế vẫn là rẻ mà chất lượng lại cao hơn. Vì vậy, tại các nước chủ nhà xảy ra tình trạng có chênh lệch về thu nhập giữa người làm cho cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời còn gây ra tình trạng chảy máu chất xám mà bấy lâu nay ta vẫn đề cập.
Trên một khía cạnh khác, bằng hình thức FDI, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ chiếm lĩnh thị trường, đẩy các doanh nghiệp trong nước vào một môi trường không cân sức giữa một bên là các công ty xuyên quốc gia luôn có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật, công nghệ với một bên là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực thấp. Nếu các doanh nghiệp này không chuẩn bị kịp và vươn lên đứng vững, họ sẽ bị đào thải khỏi cuộc đua.
Như đã biết, hoạt động FDI còn nhằm để khai thác các nguồn tài nguyên mà nước đầu tư không có hay khan hiếm, cộng với sự quản lý lỏng lẻo về khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường của nước chủ nhà sẽ dẫn đến việc khai thác một cách bừa bãi, làm cho nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và gây ra hậu quả ô nhiễm môi trường.
2.2.2: Những ảnh hưởng về mặt chính trị - xã hội
Hiện nay, một trong những điều làm Chính phủ các nước đang phát triển lo ngại khi mở cửa đón nhận FDI là việc thông qua hoạt động này, các nước công nghiệp phát triển có thể can thiệp vào nội bộ chính trị đối với họ. Với những tác động tiêu cực đã nêu trên, có thể thấy rằng bằng cách tăng sự phụ thuộc kinh tế, thôn tính các doanh nghiệp,... các nước công nghiệp phát triển có thể gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế và lợi dụng điều đó để can thiệp vào các vấn đề nội bộ nước sở tại.
IV. Xu hướng vận động của dòng FDI hiện nay và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước
1, Một số xu hướng vận động của dòng FDI hiện nay
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI ) đang ngày càng đóng vai trò động lực tăng trưởng quan trọng đối với các nền kinh tế, cả với nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Cũng như sự phát triển của nền kinh tế thế giới, sự vận động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau, như kinh tế, kỹ thuật, chính trị, xã hội và các nhân tố tự nhiên. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu á cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đã khiến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều biến đổi sâu sắc. Trong những năm gần đây, FDI ngày càng được mở rộng và tăng lên cả về quy mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư, đồng thời thể hiện vị trí, vai trò ngày càng to lớn trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự vận động của FDI đang thay đổi đáng kể theo những xu hướng sau:
1.1: Quy mô FDI không ngừng tăng lên cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn thế giới.
Càng về cuối thập kỷ 90, tốc độ lưu chuyển FDI càng tăng nhanh, lên tới trên 20% mỗi năm. Phải mất 12 năm, từ 1974 đến 1986 để FDI tăng gấp đôi (năm 1986 là 78 tỷ USD so với gần 40 tỷ USD năm 1974); nhưng chỉ 6 năm sau, đến năm 1992 FDI đã tăng lên 2 lần, đạt mức 168 tỷ USD; và chỉ cần 3 năm tiếp nữa (1995), FDI lại gấp đôi (325 tỷ USD). Năm 1998, theo báo cáo của tổ chức Hội nghị về buôn bán và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD), tổng FDI của thế giới là 636 tỷ USD, tăng 40% so với năm 1997 và gấp đôi năm 1995; năm 1999 khối lượng FDI lưu chuyển trên toàn thế giới đạt 865 tỷ USD, tăng 36% so với năm 1998, gấp 10 lần so với 10 năm trước đó; năm 2000 vừa qua FDI đạt tới mức kỷ lục, khoảng 1.000 tỷ USD, tăng 16% so với năm 1999. Theo dự báo trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, dòng FDI tiếp tục tăng vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế.
Khối lượng FDI từ chỗ chỉ chiếm 5% trong tổng vốn đầu tư toàn thế giới những năm 70 đã tăng lên 10% những năm 80 và 15% hiện nay. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ và trì trệ kinh tế ở một số nước khu vực châu á, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở Liên bang Nga và tác động của những cuộc khủng hoảng này đối với một số nước Mỹ Latinh dường như chỉ làm thay đổi địa chỉ đến của FDI chứ không có ảnh hưởng nhiều đến khối lượng và tốc độ luân chuyển FDI trên toàn thế giới.
Cơ sở của sư gia tăng không ngừng quy mô FDI là quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, môi trường chính trị - xã hội thuận lợi và tốc độ tăng trưởng kinh tế khá đều đặn của nhiều quốc gia, khu vực trên toàn thế giới những năm gần đây. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhất là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông cũng tạo điều kiện thuận lợi, trợ giúp các hoạt động FDI diễn ra thuận tiện, nhanh chóng.
1.2: Dòng FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia (TNCs) của các nước phát triển.
TNCs trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới hiện nay. Chỉ 100 TNCs lớn nhất thế giới (tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm tới 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng tới 73 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm 16%. Xu hướng bành trướng của TNCs trong đầu tư quốc tế này đòi hỏi các quốc gia chú trọng việc thu hút FDI từ các TNCs.
Hiện nay, các TNCs vẫn tiếp tục vươn dài ra các khu vực khác nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, TNCs đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu á. Châu á cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật, hàng thứ hai của Mỹ (sau Châu Âu) và hàng thứ ba của của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu).
FDI ngày nay có mối liên quan chặt chẽ với chiến lược toàn cầu của công ty xuyên quốc gia. Trong những năm gần đây, các hình thức đầu tư chủ yếu của TNCs là hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài (đây cũng là chiến lược hợp tác phát triển chính của các TNCs). Những năm cuối thập kỷ 90 đã đánh dấu thời kỳ sáp nhập trên diện rộng các TNCs thành các công ty lớn hơn và các tập đoàn khổng lồ trên thế giới (làn saóng sáp nhập này năm 2000 tăng hơn 50% so với năm 1999). Quá trình sáp nhập vừa thúc đẩy mức độ quốc tế hoá hệ thống sản xuất, tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn, phản ứng lại áp lực cạnh tranh, tăng cường hợp tác, tin tưởng lẫn nhau, đồng thời cũng tạo ra tính độc quyền cao để cùng nhau thống trị, chi phối nền kinh tế thế giới và khu vực đối với các tập đoàn khổng lồ này. Đặc biệt, hình thức đầu tư mua lại các chi nhánh ở nước ngoài là cách nhanh nhất để thiết lập sự có mặt của các TNCs ở nước chủ nhà, giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có, mở rộng thị phần, tránh được hàng rào thuế quan, tăng năng lực cạnh tranh và nguồn thu lợi nhuận.
Giá trị các giao dịch hợp nhất, mua bán cổ phần hợp vốn của các công ty nước ngoài trong năm 1998 đạt 229 tỷ USD, trong đó chủ yếu là các giao dịch mua bán có giá trị trên 1 triệu USD. Nếu xét các vụ mua bán và sáp nhập cả trong phạm vi một quốc gia, thì giá trị này chỉ riêng ở châu Âu năm 1999 đã lên tới 849 tỷ USD và trong 11 tháng của năm 2000 đạt con số kỷ lục là 888,3 tỷ USD, cao hơn nhiều so với đầu tư quốc tế.
Những ngành diễn ra những hoạt động hợp nhất, mua lại nhộn nhịp nhất là viễn thông, dược phẩm, chế tạo ô tô, cung cấp năng lượng, dịch vụ tài chính - ngân hàng và chủ yếu diễn ra trong nội bộ EU và Mỹ. Trong những năm tới hoạt động hợp nhất và mua lại sẽ tiếp tục diễn ra sâu sắc hơn, quy mô hơn, dẫn tới việc sắp xếp lại trên phạm vi toàn cầu các ngành sản xuất. Quá trình sáp nhập hoặc mua lại của các hãng cũng sẽ chú trọng hơn đến việc đầu tư vào nâng cấp và tái cơ cấu công nghệ và quản lý.
1.3: Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư ngày càng cao
Sự phát triển liên tục của nền kinh tế thế giới làm cho nguồn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng, nhưng đồng thời nhu cầu về FDI để phát triển ở tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI, đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở hơn như hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt những rào cản trong các lĩnh vực như bảo hiểm, viễn thông và năng lượng... (là những tác nhân thu hút đầu tư tích cực) nhằm hấp dẫn, "co kéo" FDI.
Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh tranh giữa các nước đi đầu tư cũng không kém phần gay go quyết liệt, tạo nên lợi thế cho các nước tiếp nhận đầu tư. Các nhà cung cấp FDI đang ráo riết chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở, đặc biệt là công nghiệp chế tạo ô tô, công nghiệp điện tử, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ thông tin...
Chiến lược đầu tư của mỗi nước trong từng thời kỳ khác nhau, sự ổn định về chính trị - xã hội, kết quả của các cuộc cải cách kinh tế, hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư ở mỗi nước có sự khác nhau là nguyên nhân trực tiếp của sự cạnh tranh trong "cho và nhận" FDI, dẫn đến những thay đổi liên tục trong phân bổ FDI giữa các quốc gia và khu vực trên toàn thế giới.
1.4: Ngày càng gia tăng tính không đồng đều trong phân bố và lưu chuyển FDI
FDI tập trung với mức độ và quy mô khác nhau trong mỗi nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng dòng FDI cũng hoàn toàn khác nhau ở mỗi nước và không ổn định qua các năm. Các nước phát triển tiếp tục là các nhà đầu tư hàng đầu thế giới, đồng thời là những địa chỉ thu hút đại bộ phận đầu tư quốc tế. Trước những năm 90, FDI có nguồn gốc từ các nước phát triển chiếm trên 93% và hiện nay chiếm khoảng 88% tổng vốn FDI của thế giới. Đồng thời, các nước phát triển cũng thu hút phần lớn vốn FDI của thế giới với nhịp độ tăng FDI bình quân hàng năm vài chục phần trăm trong mấy năm gần đây, dẫn đến tỷ trọng FDI tập trung vào các nước này cũng không ngừng tăng lên. Từ 1996 đến 1999, FDI đầu tư vào các nước phát triển lần lượt là 202 tỷ USD, 276 tỷ USD, 468 tỷ USD và 673 tỷ USD, chiếm 60%, 59%, 71% và 76,5% trong tổng vốn đầu tư quốc tế; năm 2000, tỷ trọng FDI vào các nước phát triển tăng lên mức kỷ lục, chiếm gần 80% trong tổng số 1.000 tỷ USD vốn FDI thế giới, trong khi 3/4 dân số sống tại các nước đang phát triển chia nhau 20% còn lại.
Mỹ, EU là "tâm điểm" của dòng lưu chuyển FDI thế giới. Trong hai năm 1998, 1999, riêng Mỹ tiếp nhận gần 1/4 FDI, còn EU tiếp nhận khoảng 1/2 FDI của toàn thế giới. Nền kinh tế Hoa Kỳ và các nước EU tăng trưởng liên tục là tác nhân thu hút mạnh FDI và làm chậm quá trình di chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.
Các nước đang phát triển vẫn là lực lượng thứ yếu đối với việc thu hút và thúc đẩy luồng vốn FDI quốc tế. Mặc dù tăng lên về quy mô, nhưng tỷ trọng FDI vào các nước đang phát triển liên tục giảm do đầutư vào các nước này có chiều hướng chậm lại, từ chỗ chiếm 70% FDI toàn thế giới những năm 60 đã chuyển dịch ngược lại vào đầu thập kỷ 90. Năm 1998 và 1999, FDI đổ vào các nước đang phát triển tương ứng là 170,9 tỷ USD và 178 tỷ USD, chiếm 22,5% tổng FDI thế giới; năm 2000, ước tính khối lượng FDI vào các nước đang phát triển được cải thiện đôi chút, đạt khoảng 200 tỷ USD, nhưng tỷ trọng trong tổng FDI toàn cầu chỉ còn 20%.
Nhưng, ngay trong các quốc gia đang phát triển, FDI cũng phân bố không đồng đều. Từ cuối thập kỷ 80 trở lại đây, 2/3 FDI được tập trung cho 10 nước có trình độ kinh tế tương đối cao của hai khu vực Châu á và Mỹ Latinh là Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, HongKong, Đài Loan, Brasil, Argentina, Mehico; 1/3 được san xẻ cho hơn 100 nước còn lại. Trong đó, Trung Quốc đang nổi lên như là thị trường đầu tư sôi động nhất. Hiện nay, Trung Quốc chiếm 1/3 FDI vào các nước đang phát triển. Đứng sau Trung Quốc là một số quốc gia Đông á và Mỹ Latinh.
Châu Phi dường như vẫn dậm chân tại chỗ về mặt kinh tế nói chung và thu hút FDI nói riêng. Năm 1997, tổng vốn FDI đầu tư vào Châu Phi đạt mức cao nhất là 9,4 tỷ USD, nhưng lại giảm xuống còn 8,3 tỷ USD vào năm 1998, chưa đầy 2% FDI toàn thế giới.
1.5: Quá trình luân chuyển và các đối tác tham gia quá trình luân chuyển FDI vừa có tính quốc tế hoá cao, vừa có tính cục bộ
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không tỏ ra thờ ơ với FDI và đều nhận thức được tầm quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và phân công lao động quốc tế trong quá trình toàn cầu hoá. Cùng với tốc độ lưu chuyển vốn quốc tế nhanh, thị trường tài chính của các quốc gia đang mở cửa rộng hơn, tạo nên xu thế ngày một hội nhập thị trường tài chính toàn thế giới.
Hiện tượng đa biên trong xu hướng vận động của FDI ngày càng đậm nét, các công trình đầu tư ngày nay không chỉ có sự tham gia của đơn nhất một chủ đầu tư mà mang tính chất của một quá trình đầu tư tập thể, có thể dưới đang góp cổ đông hoặc phân nhỏ công trình thành các hạng mục đầu tư cho nhiều chủ thể tham gia.
Tuy nhiên, FDI cũng mang tính cục bộ. Các nước EU là những nhà đầu tư hàng đầu thế giới, nhưng chiếm tỷ phần khá lớn trong khối lượng đầu tư này được thực hiện ngay trong nội bộ các nước EU. Dòng đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển là xu hướng vận động chủ đạo của các chủ đầu tư quốc tế lớn và là nhân tố chính thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.
Hiện nay trên thế giới đã hình thành các nhà đầu tư truyền thống đối với nước tiếp nhận đầu tư này, cũng như thị trường truyền thống đối với nước đầu tư kia. Khu vực Nam Mỹ có thể nói là "lãnh địa" của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, còn Nhật Bản đang nắm giữ thị phần đầu tư lớn ở Đông á, yếu tố này xuất hiện một phần do sự gần nhau của điều kiện tự nhiên và sự tương đồng trong các giá trị văn hoá.
1.6: Tất cả các nước đều tham gia vào cả hai quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư
Mỹ là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất (133 tỷ USD năm 1998 và khoảng 140 tỷ USD năm 1999), đồng thời cũng là nước tiếp nhận đầu tư lớn nhất thế giới, 132,8 tỷ USD năm 1998, 145,7 tỷ USD năm 1999 và gần 200 tỷ USD năm 2000. Năm 1998, EU đầu tư ra nước ngoài 386 tỷ USD, nhưng cũng tiếp nhận 230 tỷ USD vốn FDI, là khu vực đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn nhất thế giới. 7 nước công nghiệp phát triển (G7) chiếm 4/5 tổng FDI toàn thế giới nhưng cũng thu hút trên 2/3 vốn đầu tư.
Quá trình phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc giúp các quốc gia phát huy lợi thế so sánh của mình khi tham gia đầu tư ra nước ngoài, đồng thời cũng được bổ sung các mặt hạn chế (nhất là về công nghệ và năng lực quản lý đối với các nước đang phát triển), làm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế trong nước thông qua việc tiếp nhận FDI. Đây là cơ sở của sự gia tăng xu hướng đầutư song phương thay cho khuynh hướng đơn phương, một chiều trước đây.
Một số nước đang phát triển hiện nay ngoài việc tiếp nhận FDI từ các nước phát triển cũng đang vươn lên trở thành các chủ đầu tư quốc tế có uy tín như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, HongKong... Tuy nhiên, đầu tư FDI từ các nước này chủ yếu vào các nước cùng khu vực địa lý và mang tính chất chuyển giao các ngành, cơ sở kinh tế có năng suất lao động thấp sang các nền kinh tế kém phát triển hơn.
Mặc dù vậy, tại những khu vực và nền kinh tế yếu kém như Châu Phi, nguồn vốn FDI vẫn chủ yếu vận động theo một chiều từ các nước phát triển về châu lục này.
1.7: Tính linh hoạt trong dòng chảy FDI ngày càng cao
Chi phí vận tải và truyền thông giảm trong những năm gần đây, cũng như việc nới lỏng các hàng rào mậu dịch và đầu tư giữa các nước trên thế giới có tác động như chất "bôi trơn" đẩy nhanh sự vận động, đồng thời là "chỉ báo" cho sự vận động của dòng FDI trong hệ thống sản xuất toàn cầu.
FDI có xu hướng vận động đến những thị trường an toàn và đem lại nhiều lợi nhuận. Vào những năm 60, các nước đang phát triển ở Mỹ Latinh đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hấp dẫn dòng FDI tập trung chảy vào khu vực này. Đến cuối những năm 70, đầu những năm 80, FDI có xu hướng chuyển sang Đông Nam á, là nơi được đánh giá có sự phát triển kinh tế năng động và triển vọng, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên cơ sở đã có sự tương đối ổn định về chính trị. Các nước Nam, Đông và Đông Nam á (tập trung vào Singapore, Malaysia, HongKong, Thái Lan, ấn Độ) là nơi thu hút FDI mạnh trong thời kỳ này. Tuy nhiên, trong cơn bão tài chính - tiền tệ châu á và kéo theo đó là suy thoái kinh tế, người ta đã chứng kiến sự rút vốn ồ ạt của nhiều chủ đầu tư quốc tế. Đến nay, nền kinh tế các nước Mỹ Latinh và vùng Caribe bắt đầu khởi sắc, các quốc gia bị khủng hoảng ở châu á đang trong quá trình phục hồi với cơ sở hạ tầng đã được cải thiện tương đối tốt, cùng với việc đẩy mạnh quá trình tự do hoá nền kinh tế, dỡ bỏ nhiều rào cản, mở rộng cửa thu hút đầu tư tạo nên những điều kiện thuận lợi hấp dẫn dòng FDI chảy trở lại các quốc gia này.
Từ thập kỷ 90, sau khi hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ để chuyển sang nền kinh tế thị trường thì lập tức một khối lượng đáng kể vốn FDI được dồn đến các quốc gia này để khai thác những tiềm năng chưa được khơi dậy trước đây.._.ội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước, sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp...
Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam, tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội.
Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương.
Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương.
Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào hoạt động trang Web về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ trương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công...
3: Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1: Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Môi trường đầu tư hấp dẫn trước hết ở hệ thống pháp luật. Việt Nam cần mạnh dạn hơn nữa việc tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo xu hướng đồng bộ hoá về luật, tăng ưu đãi về tài chính cho nhà đầu tư đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ những điều kiện liên quan đến sự phát triển ổn định, bền vững cho phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Cần phải tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật. Đặc biệt, cần tién tới thống nhất chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
3.2: Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng:
- Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực và từng thời kỳ.
- Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp doanh, công ty quản lý vốn, bổ sung Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước, nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở.
- Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư ở Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng, kinh doanh nhà ở và xây dựng, kinh doanh phát triển khu đô thị mới, khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ, khoa học, công nghệ, dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, từng bước mở rộng khả năng hợp tác đt trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch.
Trong thời gian tới cần thực hiện những công việc cấp bách sau:
- Xây dựng đề án mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên cơ sở tổng kết, đánh giá những lĩnh vực đã cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài làm thí điểm, những lĩnh vực mà trong thời gian qua đã có chủ trương không cấp giấy phép hoặc hạn chế cấp giấy phép đầu tư, điều chỉnh danh mục các sản phẩm phải đảm bảo tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 80%.
Căn cứ vào đề án trên và các quy định hiện hành, nhà đầu tư chủ động lựa chọn các dự án đầu tư theo đúng quy định tại điều 3 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Các cơ quan quản lý Nhà nước không được tự ý đặt ra bất cứ hạn chế nào khác đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Xây dựng quy chế thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được đăng ký tại thị trường chứng khoán. Nghiên cứu, sửa đổi các quy định cụ thể về thời hạn đàm phán dự án BOT và quy tắc, thẩm quyền chỉ định nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài làm dự án BOT và một số trường hợp cần thiết.
- Ban hành các quy định về việc cho phép nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ. Thu hẹp danh mục hàng hóa không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để xuất khẩu.
- Nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Nghị định số 60/CP của Chính phủ ngày 05/07/1994 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đai tại đô thị và Nghị định số 61/CP ngày 05/07/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai, ban hành Nghị định của Chính phủ quy định cụ thể người Việt Nam định cư ở nước ngoài có dự án đầu tư và thường trú tại Việt Nam được mua nhà ở.
- Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, quy định về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học theo Nghị định số 06/2000/NĐ-CP ngày 06/03/2000 của Chính phủ để tăng cường thu hút được những dự án đầu tư có chất lượng và quản lý được hoạt động của các dự án trong lĩnh vực này.
3.3: Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hoàn thành sớm việc hoàn trả các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài số vốn hợp thức, thực tế mà các doanh nghiệp này đã bỏ ra để xây dựng các công trình điện ngoài hàng rào.
3.4: Để khuyến khích hoạt động FDI cần quan tâm đến một số chính sách sau:
- Chính sách đất đai: giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm việc cho phép tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng lâu dài được cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được cấp quyền sử dụng đất.
Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu của doanh nghiệp đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn.
Trong thời gian tới cần thực hiện các vấn đề cấp bách sau:
+ Đẩy nhanh tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Uỷ ban nhân dân địa phương kiên quyết tổ chức cưỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng các trường hợp đã được đối xử theo đúng chính sách và quy định của nhnh nhưng vẫn không chấp hành.
+ Ban hành văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
+ Ban hành văn bản hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên đối với đất góp vốn vào liên doanh và trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản và giải thể trước thời hạn.
- Chính sách thuế và hỗ trợ tài chính: chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố chủ yếu cấu thành tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách thuế và những ưu đãi tài chính sẽ tiếp tục hoàn thiện theo hướng có hệ thống, ổn định và thích hợp với các nước trong khu vực. Loại bỏ những hạn chế do chính sách thuế và những ưu đãi tài chính gây ra. Phát huy tích cực tác dụng của chính sách thuế và ưu đãi tài chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Để thực hiện phương hướng trên, các giải pháp cần thực hiện là:
+ Thực hiện tốt luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập công ty. Đây là hai đạo luật thuế trong giai đoạn đầu áp dụng để đưa hoạt động thu thuế đối với các dự án đầu tư nước ngoài đi vào ổn định.
+ Tăng cường biện pháp ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư thông qua hệ thống giá cả áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp thống nhất như giá điện, nước, giá cước vận tải, bưu điện, hàng không... Cho phép bên Việt Nam trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài được nộp thuế chậm, được bảo lãnh để vay vốn góp vào dự án hoặc được liên kết để tăng khả năng tài chính.
+ Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính như giải quyết nhanh vấn đề hoàn thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, việc chuyển lợi nhuận ra về nước thuận tiện, vấn đề góp vốn được dễ dàng đặc biệt là không nên hạn chế hoặc đưa ra các quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
+ Hỗ trợ cho các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư được hưởng những ưu đãi của các quy định mới về thuế lợi tức, giá thuê đất mới, miễn giảm thuế doanh thu đối với các doanh nghiệp thực sự thua lỗ.
+ Hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang thực sự gặp khó khăn.
+ Cho phép chuyển một số có lựa chọn các liên doanh thua lỗ nặng mà phía Việt Nam không có khả năng gánh chịu cùng thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
+ Chủ động thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn nước ngoài, không nhất thiết phải ấn định tỷ lệ nguồn vốn, tranh thủ mọi nguồn vốn để phát triển.
+ Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cổ phần hóa để tăng vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
+ Ban hành các chính sách thu phí thống nhất để tránh tình trạng thu phí bất hợp lý và không quản lý được, tránh thu phí tuỳ tiện ở các địa phương. Ký hiệp định thương mại để khắc phục khó khăn về tiền tệ cho các doanh nghiệp, thu hút mạnh hơn đầu tư công nghệ của các nước, tăng sản phẩm nội trên thị trường.
- Chính sách lao động và tiền lương: tiếp tục hoàn thiện chính sách lao động và tiền lương đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giải quyết cho thoả đáng các tranh chấp về lao động và tiền lương. Hoàn thiện các loại thủ tục đối với lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như ký hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và thành lập, phát huy vai trò của các tổ chức công đoàn, tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần tập trung giải quyết các giải pháp sau:
+ Hoàn thiện các loại văn bản quy định áp dụng đối với người lao động trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Các văn bản đặc biệt chú trọng là quy định về tuyển dụng, lựa chọn lao động, chức năng của các cơ quan quản lý lao động, vấn đề đào tạo, đề bạt và sa thải lao động, các văn bản xử lý về tranh chấp lao động, tiền lương, thu nhập.
+ Hoàn thiện bộ máy hành pháp về quản lý lao động trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, thành lập phân toà lao động để xử lý các tranh chấp lao động đặc biệt là quy định về ký hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, xử lý nghiêm minh những trường hợp làm sai quy định về trả công lao động, tính thuế thu nhập cho người nước ngoài.
Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp. Công đoàn là người đại diện hợp pháp cho người lao động và bảo về quyền lợi cho người lao động. Tránh tình trạng hoạt động của công đoàn đi ngược lại với lợi ích của người lao động. Chú trọng đào tạo người lao động cả trong nước và nước ngoài để tiếp thu công nghệ.
Đẩy mạnh hoạ động của các tổ chức chính trị như tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên trong dự án để bảo vệ quyền lợi chính trị lâu dài cho người lao động, bảo đảm cho họ yên tâm làm việc lâu dài, tránh tình trạng “vội vàng” trong khi làm việc với các nhà đầu tư và sẽ gây khó khăn trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phát huy vai trò của cơ quan thanh tra lao động trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lao động và tiền lương của các dự án đầu tư nước ngoài đồng thời sửa đổi các chính sách về lao động và tiền lương cho thích hợp.
- Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Vấn đề định hướng thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho các dự án đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thị trường cho các dự án này cần được nhìn nhận cả từ thị trường “đầu vào” và thị trường “đầu ra”. Đối với thị trường “đầu vào”, cần chú trọng các loại máy móc, thiết bị, công nghệ được đưa vào các dự án đầu tư với thế hệ mới, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.
Đối với thị trường “đầu ra”, cần chú trọng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm cả ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Đẩy mạnh các hoạt động mở rộng thị trường cho các dự án đầu tư nước ngoài thông qua việc khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Khai thác các thế mạnh của bên nước ngoài trong hoạt động nghiên cứu thị trường để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các giải pháp cần thực hiện là:
+ Khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu đặc biệt là các sản phẩm đã chế biến sâu, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao, nhất là các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
+ Định hướng tiêu thụ sản phẩm theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình trạng cạnh tranh về giá cả dẫn đến việc bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường. Cần nhanh chóng xây dựng và thông qua luật cạnh tranh, luật chống đầu cơ, chống bán phá giá các loại hàng hoá.
Bảo hộ thị trường trong nước để khuyến khích các nhà đầu tư vào Việt Nam thông qua:
+ Định hướng các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt là những ngành nghề tạo ra tiềm lực công nghệ cho đất nước, hình thành đội ngũ cán bộ chất lượng cao như lĩnh vực điện tử - tin học, lĩnh vực cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, nông lâm ngư nghiệp hoặc những ngành mà Việt Nam chưa thể tự mình phát triển được. Giảm bớt nhập khẩu những mặt hàng sản xuất hoặc lắp ráp được từ trong nước, như ô tô, xe máy, đồ điện tử...
+ Sử dụng các công cụ bảo hộ thị trường trong nước như bảo hộ bằng thuế quan. áp dụng thuế nhập khẩu phân biệt đối với các hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam có giá bán quá thấp so với gía thông thường, vì bán phá giá gây khó khăn cho sự phát triển của các ngành sản xuất hàng hoá tương tự của các dự án đầu tư nước ngoài, các hàng hoá nhập khẩu với giá quá thấp do có trợ cấp của nước xuất khẩu. Chú trọng bảo hộ thị trường bằng công cụ phi thuế quan như hạn ngạch, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng các biện pháp hành chính để chống buôn lậu, hàng giả, làm ăn thiếu nghiêm minh để hỗ trợ gián tiếp cho các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Đảm bảo đối xử công bằng, thoả đáng và bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Có chính sách khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm được sản xuất trong nước.
- Về chính sách công nghệ: Để đạt được mục tiêu thu hút công nghệ hiện đại vào Việt Nam trong thời gian tới, điều đầu tiên cần phải được thực hiện là phải xây dựng một chiến lược thu hút công nghệ hữu hiệu. Chiến lược này phải chỉ ra được lộ trình dài hạn cho việc thu hút công nghệ nước ngoài với các biện pháp và công cụ khác nhau đặc biệt là việc xây dựng các chính sách thu hút công nghệ hợp lý với điều kiện của Việt Nam. Cần coi trọng việc hình thành các khu công nghệ cao, công nghệ sạch ở những vùng thích hợp trong nước với hệ thống quy chế rõ ràng, tạo điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các loại máy móc, thiết bị đưa vào góp vốn đầu tư hoặc nhập khẩu từ nước ngoài cần phải thực hiện việc giám định chất lượng và giá cả một cách nghiêm minh theo các quy định của pháp luật để tránh tình trạng nhập khẩu hoặc chuyển giao thiết bị, máy móc lạc hậu với giá cao.
4: Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài thì cơ sở hạ tầng kỹ thuật có vai trò quyết định quan trọng đến kết quả đầu tư, nó có ảnh hưởng tới công tác huy động và sử dụng vốn FDI. Trong thời gian qua, hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, bến cảng, sân bay, hệ thống thông tin liên lạc, cấp thoát nước, điện lực…được cải thiện một cách đáng kể. Tiếp tục nâng cao vai trò của Nhà nước và xây dựng kết cấu hạ tầng nhất là hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Khi cấp giấy phép đầu tư cần phải bố trí vốn để xây dựng mạng lưới hạ tầng, coi đây là nguồn vốn đối ứng thực hiện FDI.
Trong giai đoạn trước mắt, chúng ta cần tập trung đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế trọng điểm quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Cần phải chấp nhận phương án “phát triển mất cân đối” trong giai đoạn đầu để tạo ra sự cân đối sau này nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn. Ba vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tàu cho cả nền kinh tế nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác thông qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường các yếu tố sản xuất khác. Trong thực tế, những địa bàn này đã và đang là nơi thu hút được nhiều dự án FDI nhất trong cả nước. Do đó, việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng để tập trung thu hút FDI tại ba vùng này sẽ đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Mặt khác, chúng ta cần xây dựng những quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để hình thức này nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn đầu tư cho ngân sách. Bên cạnh đó, khuyến khích đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc biệt trong tương lai không xa, chúng ta phải nghĩ đến việc thành lập các đặc khu kinh tế để cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng.
5: Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
- Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt, tiếp tục phát triển, đồng thời cần có biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế.
Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp đi vào sản xuất kinh doanh.
Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai trong một khoảng thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án.
Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác.
- Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp và đánh giá tình hình triển khai các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập, Bộ Kế hoạch và đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phương án dừng hoặc dãn tiến độ xây dựng đối với các khu công nghiệp không đủ yếu tố khả thi.
Bổ sung, sửa đổi quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ theo hướng: thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu công nghiệp, bổ sung các mô hình về khu công nghiệp nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị, điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào, tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai quy định.
6: Cải tiến các thủ tục hành chính
Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để tạo bước chuyển căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau:
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh, thực hiện chế độ giao ban định kỳ giữa các Bộ, ngành Trung ương với địa phương có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư. Lập tổ công tác liên ngành do Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì để rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trên cơ sở đó có kiến nghị bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Các Bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền.
7: Công tác cán bộ và đào tạo
Chú trọng tăng cường công tác cán bộ và đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật làm việc trong khu kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần phải hoàn thành các vấn đề sau:
- Xây dựng quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, quy định rõ tiêu chuẩn tuyển chọn về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Xây dựng đề án tổ chức đào tạo theo nhiều hình thức đối với cán bộ làm công tác đầu tư trực tiếp nước ngoài, cán bộ làm quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tổ chức thường xuyên việc tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Xây dựng đề án tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết là phục vụ cho các khu công nghiệp lớn.
Tóm lại, có thể nói các giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới như đã nêu ở trên có thể chưa đủ, nhưng đó là các giải pháp cơ bản cần được thực hiện đồng bộ, liên tục và nhất quán nhưng linh hoạt theo không gian và thời gian cụ thể. Đồng thời cân nhắc tới tính hai mặt của một số giải pháp để có biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Trong các giải pháp trên, giải pháp “đảm bảo môi trường chính trị - xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI” là giải pháp quan trọng hàng đầu vì nó đảm bảo cho sự an toàn của các nhà đầu tư. Vấn đề con người mà cụ thể là “công tác cán bộ và đào tạo” được coi là giải pháp vừa mang tính chiến lược, vừa mang tính cấp bách. Tuy nhiên nếu chú trọng từng giải pháp thì chưa cải thiện chung môi trường đầu tư hiện tại, bởi vì đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích Nhà nước - chủ đầu tư - người lao động trở thành yêu cầu và tiêu chuẩn cao nhất để “định chuẩn” sự đúng đắn về liều lượng của các giải pháp thu hút FDI.
Kết luận
Có thể nói Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, một thời kỳ mới, một cơ hội mới để đưa nền kinh tế phát triển nhanh chóng, đưa đất nước hoà nhập với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới. Để có được điều đó phải kể đến vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tuy nhiên để đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có hiệu quả thiết thực hơn, thúc đẩy sự phát triển chung của các ngành kinh tế, tạo ra sản phẩm xã hội dồi dào, làm động lực cho sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta thì trước hết, các cơ quan quản lý nhà nước cần nghiên cứu tổng thể rút ra những cái được và chưa được trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài để từ đó có những khuynh hướng cho việc sữa đổi, bổ sung ngày càng hoàn chỉnh và trở nên hấp dẫn hơn, thiết thực hơn trong quá trình thực hiện công cuộc CNH - HĐH đất nước. Nhưng để thực hiện thành công chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH yêu cầu chuíng ta phải giải quyết những vấn đề bức xúc như việc cải thiện môi trường pháp lý, ổn định kinh tế vĩ mô, cải tạo và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài và phải vượt qua được những thử thách trước mắt.
Bằng những thuận lợi cùng với những nỗ lực khắc phục khó khăn còn tồn tại chúng ta cần đề ra những giải pháp cụ thể để thực hiện định hướng căn bản phát triển kinh tế - xã hội và những diễn biến tình hình quốc tế thuận lợi, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng tốt đẹp cho phép chúng ta đặt hy vọng lớn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những góp phần thực hiện mục tiêu đề ra : Nhanh chóng thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa đến năm 2020 mà góp phần thực hiện ý đồ chiến lược của nhà nước, biến Việt Nam trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật của các nước trong khu vực.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế đầu tư - Trường ĐH Kinh tế quốc dân
2. Thời báo kinh tế Việt Nam và thế giới 2001-2002
3. Tạp chí Thị trường giá cả - năm 2000
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV
6. Nghị quyết 09/2001/NQ-CP của Chính phủ
7. Các báo cáo tình hình đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
8. Công nghiệp hoá - một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm các nước - Trần Kiên - 1994
9. Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam - 2000
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I Cơ sở lý luận về FDI và CNH - HĐH 3
I. Khái niệm và đặc điểm của FDI 3
1. Khái niệm về FDI 3
2. Đặc điểm của FDI 5
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới FDI 6
3.1. Các yếu tố khách quan 6
3.2. Các yếu tố chủ quan 7
II. Khái niệm về CNH - HĐH và các vấn đề cần nghiên cứu khi
thực hiện CNH - HĐH 9
1. Khái niệm về CNH - HĐH 9
2. Bước đi của CNH - HĐH nền kinh tế quốc dân 10
3. Nhũng vấn đề cần nghiên cứu khi tiến hành CNH - HĐH 12
III. Sự cần thiết phải thu hút FDI để thực hiện sự nghiệp
CNH - HĐH ở Việt Nam 14
1. Quan điểm của Lê nin và các nhà kinh tế về FDI 14
2. Vai trò của FDI đối với CNH - HĐH ở các nước
đang phát triển 17
2.1. Tác động tích cực 17
2.2. Những tác động tiêu cực 20
IV. Xu hướng vận động của dòng FDI hiện nay
và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước 22
1. một số xu hướng vận động của dòng FDI hiện nay 22
2. Kinh nghiệm huy động và sử dụng FDI của một
số nước trong khu vực 30
Chương II: Thực trạng thu hút FDI và tác động của nó đối với
sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt Nam những năm gần đây 33
I. Thực trạng FDI vào Việt Nam 33
1. Về quy mô và nhịp điệu đầu tư 33
2. Về cơ cấu đầu tư theo đối tác 39
3. Về cơ cấu đầu tư theo vùng kinh tế 41
4. Về cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế 43
5. Về cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư 46
6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số ngành
công nghiệp mũi nhọn 49
II. Đánh giá tổng quát hoạt động FDI trong công cuộc
CNH - HĐH taị Việt Nam trong thời gian qua 51
1. Những thành tựu đạt được 51
2. Nhũng vấn đề tồn tại 58
3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động FDI 63
3.1. Các nguyên nhân khách quan 63
3.2. Các nguyên nhân chủ quan 64
Chương III: Phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài nhằm thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH ở nước
ta trong thời gian tới 67
I. Mục tiêu và định hướng thu hút FDI để thực hiện CNH - HĐH 67
1. Các mục tiêu chủ yếu về tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 2001-2005 67
2. Định hướng thu hút FDI trong thời gian tới 68
3. Các nhân tố tác động tới việc thu hút FDI trong tình hình mới 68
3.1. Nhân tố trong nước 68
3.2. Nhân tố bên ngoài 72
II. Các giải pháp cụ thể nhằm thu hút FDI để tiến hành
CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian tới 75
1. Đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định cho
hoạt động thu hút FDI 75
2. Xây dựng quy hoạch chiến lược thu hút FDI, đổi mới
công tác vân động xúc tiến đầu tư 76
3. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đổi mới
cơ chế chính sách về FDI 78
4. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật 84
5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước 85
6. Cải tiến các thủ tục hành chính 86
7. Công tác cấn bộ và đào tạo 87
Kết luận 89
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29071.doc