A. lời mở đầu
Sau hơn 13 năm tiến hành công cuộc đổi mới, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, bằng nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn với những bước đi khá vững vàng, bộ mặt của đất nước từng bước thay đổi, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần... Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nền kinh tế nước ta có dấu hiệu tăng
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1657 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu FDI với phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng chậm lại, sức mua xã hội giảm sút, thị trường trong nước thu hẹp, tổng cầu nền kinh tế giảm sút mạnh.v.v. và đáng nói hơn cả đó là những khó khăn và yếu kém trong ngành công nghiệp - ngành có phần đóng góp vài tổng sản phẩm quốc dân chiếm tỉ trọng lớn nhất.
Có thể nói, công nghiệp là một ngành có qui mô, cơ cấu hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức khá lớn và hết sức đa dạng, phức tạp, bao gồm rất nhiều lĩnh vực, phạm vi khác nhau. Do đó trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin đề cập đến ngành công nghiệp điện tử - ngành công nghiệp vừa cũ lại vừa mới đối với Việt Nam. Cũ là bởi vì trên thế giới, các nước đã tiếp cận và khai thác ngành này với một mức độ ngày càng cao, với sự ra đời của các sản phẩm ngày một phong phú, ngày một hiện đại và đáp ứng nhu cầu ngày một tăng lên của con người. Việt Nam là một trong rất nhiều quốc gia cũng đã nhận thức được vấn đề này hết sức sâu sắc, thấy được tầm quan trọng của ngành công nghiệp điện tử đối với sự phát triển của đất nước thậm chí cũng đã sử dụng các sản phẩm của ngành công nghiệp điện tử song rất đáng tiếc Việt Nam lại chưa thể đạt được trình độ và tốc độ phát triển như vậy.
Chúng ta chưa có những sản phẩm điện tử thật sự là của chúng ta, có chăng đó cũng chỉ là những sản phẩm điện tử dân dụng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và trên thực tế chỉ là một ngành công nghiệp tương đối nhỏ với sự tăng trưởng đáng kể chỉ diễn ra trong một số ít lĩnh vực sản phẩm trong khi ngành công nghiệp điện tử được coi là một ngành chủ đạo trong nền kinh tế và phát triển ngành này sẽ đồng thời tạo điều kiện cho phát triển các ngành khác có liên quan. Đó là lí do tại sao tôi nói ngành này còn mới đối với Việt Nam và đó cũng chính là lí do mà tôi chọn đề tài '' Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ năm 1988 đến nay - Thực trạng và giải pháp'' để nghiên cứu. Nội dung bài viết này gồm
Phần I : Lý luận chung
Phần II : Tình hình FDI vào lĩnh vực CNĐT từ năm 1988 đến nay.
Phần III : Một số giải pháp thu hút và sử dụng FDI cho phát triển CNĐT Việt Nam hiện nay.
B. Nội dung.
Phần I : Lý luận chung
I - Lý luận chung về điện tử:
1. Khái niêm, đặc điểm và vai trò đầu tư phát triển.
1.1 Khái niệm:
Thuật ngữ “ Đầu tư “ ( Investment ) có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn, đứng trên góc độ tài chính, đầu tư là chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư thu về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. Đứng trên góc độ tiêu dùng, đầu tư được hiểu là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.v.v.Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu “ Đầu tư “ theo nghĩa chung nhất như sau:
Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền,tài nguyên thiên nhiên,sức lao động và trí tuệ để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Có thể coi tất cả các hoạt động trên đều là đầu tư nếu chỉ đứng trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động này song nếu xét trên toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đây đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Vì vậy đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất - kĩ thuật thông qua các hoạt động xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí phục vụ cho sự phát huy tác dụng trong một chu kì hoạt động của các cơ sở vật chất kĩ thuật này.
1.2 Những đặc điểm của đầu tư phát triển.
Xuất phát từ khái niệm và bản chất của đầu tư phát triển, chúng ta có thể thấy hoạt động này có những đặc điểm rất khác biệt với các loại hình đầu tư khác.
Thứ nhất, do đây là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế nên bao giờ cũng đòi hỏi một số vốn rất lớn, lao động vật lực lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đúng như vậy, trên phạm vi nền kinh tế, vốn đầu tư cho bất kì một công trình nào cũng đòi hỏi một khoản chi phí rất lớn ngay từ giai đoạn xuất hiện ý đồ về một dự án đầu tư cho đến khi dự án đi vào hoạt động. Song song với chi phí về vốn lại là một khoản chi phí về lao động. Phải nói rằng đầu tư cho phát triển cần một lượng lao động lớn và có nhiều kinh nghiệm cũng như trình độ chuyên môn và tất nhiên đáp ứng được yêu cầu đó phải có chi phí. Đặc biệt là tất cả khoản chi phí và vốn này không vận động và nằm khê đọng trong suốt thời gian đầu tư. Do đó hậu quả sẽ là không thể tránh khỏi nếu đầu tư không hiêụ quả, kế hoạch đầu tư không rõ ràng. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
Thứ hai, thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng có thể là 5 năm, 10 năm thậm chí vĩnh viễn và trong khoảng thời gian này việc thực hiện đầu tư sẽ chịu ảnh hưởng của rất nhiều biến động. Một công trình được đầu tư cho nền kinh tế thường có qui mô rất lớn và như đã nói ở trên là đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Vậy thì việc thực hiện đầu tư cần một khối lượng thời gian lớn để nghiên cứu, tìm hiểu, khai thác, tìm ra những yếu điểm của dự án để có thể khắc phục, tối thiểu hoá chi phi, tránh thất thoát, lãng phí về mọi mặt và hơn cả là bảo đảm chất lượng. Do đó, bất cứ một công trình nào được xây dựng cho xã hội đều cần có thời gian ngay từ những khâu đơn giản đầu tiên.
Thứ ba, chúng ta vẫn biết sản phẩm của công cuộc đầu tư phát triển thường là sản phẩm công cộng, phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội và ngay cả từ mục đích xuất phát để có được sản phẩm đó không phải là mục đích lợi nhuận. Vì thế, đầu tư phát triển có thời gian hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở nghiên cứu kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường kéo dài nhiều năm tháng và do đó không thể tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.v.v. và cũng do thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường dài nên yếu tố phát sinh ảnh hưởng đến kết quả của đầu tư là không lường trước được, và sau đó, chính ảnh hưởng này lại kéo dài thêm thời gian thu hồi vốn của sản phẩm đầu tư thậm chí làm giảm khả năng thu hồi so với ban đầu khi mà thời gian làm mất đi giá trị sử dụng của công trình. Điều này một phần đã lí giải tại sao có những công trình công cộng vĩnh viễn không có khả năng thu hồi vốn hoặc thanh lý.
Thứ tư, sản phẩm đầu tư phát triển thường là những công trình hoặc hạng mục công trình phục vụ lợi ích cho toàn xã hội, là kết quả của cả một thời gian dài nghiên cứu tìm hiểu, lập kế hoạch, lập bản thống kê, thi công.v.v. với một lượng vốn là rất lớn nên đó phải là sản phẩm có chất lượng tốt nhất, phục vụ được lâu nhất. Điều này đã tạo cho đầu tư phát triển có thêm một đặc điểm nữa đó là các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có gía trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm, có khi tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới.
Thứ năm, các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện địa lý địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của các kết quả của đầu tư. Công trình, sản phẩm của đầu tư phát triển bao giờ cũng đặt ở vị trí mà nó có thể phát huy tác động của mình là phục vụ tối đa nhu cầu của toàn xã hội và tất nhiên sẽ phải chịu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố bất định cả về thời gian, khí hậu, địa hình, môi trường tập quán của người dân, các điều kiện kinh tế xã hội.v.v,nó không chỉ ảnh hưởng trong thời gian thực hiện đầu tư mà ngay cả sau này khi các thành quả của đầu tư phát triển phát huy tác dụng cũng vẫn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như vậy.
Thứ sáu, do thời gian thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài nên đầu tư phát triển bao giờ cũng chịu một mức rủi ro cao.Những rủi ro này là không thể tránh khỏi,có thể do chủ quan và khách quan.Và cũng chính vì điều này mà các thành quả, kết quả của hoạt động đầu tư do đó thường có độ trễ về mặt thời gian tức là đầu tư tại thời điểm này song phải sau một thời gian nhất định mới phát huy tác dụng, mang lại những ảnh hưởng vừa tích cực, vừa tiêu cực với dự án.
Trên đây là những đặc điểm đặc trưng của đầu tư phát triển, vừa là yếu điểm cũng lại vừa là ưu điểm đối với các đối tượng sử dụng. Do vậy, để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao cần làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, sự chuẩn bị này được thể hiện trong quá trình soạn thảo dự án đầu tư. Điều này có nghĩa là công cuộc đầu tư phải tiến hành đầu tư theo dự án mới có hiệu quả.
1.3 Vai trò của đầu tư phát triển.
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lý thuyết kinh tế, các lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
* Nếu xét trên phạm vi của toàn bộ nền kinh tế của đất nước, vai trò của đầu tư phát triển được thể hiện thông qua năm vấn đề chính:
Một là, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Có thể thấy, đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng lên làm sản lượng cân bằng và giá cả đầu vào của đầu tư tăng lên. Trong khi đó về phiá cung, khi các thành quả của đầu tư phát huy tác dụng thì kéo theo đường tổng cung dài hạn tăng lên làm cho sản lượng tiềm năng tăng nhưng giá cả sản phẩm giảm. Điều này cho phép tăng tiêu dùng và do đó lại kích thích sản xuất, tăng tích luỹ,tăng thu nhập,nâng cao mức sống cho mọi thành viên trong xã hội.
Hai là, đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định về kinh tế. Như đã nói ở trên thì đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu không đồng thời về mặt thời gian. Mỗi một sự thay đổi dù rất nhỏ của đầu tư, tăng hay giảm, đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của một quốc gia. Chẳng hạn, tăng đầu tư sẽ làm tăng cầu về các yếu tố của đầu tư, làm giá của các hàng hoá có liên quan tăng đến một mức độ nào đó dẫn đến lạm phát. Lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống lao động khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm.v.v, nhưng mặt khác, tăng đầu tư lại làm tăng nhu cầu của các yếu tố có liên quan, thúc đẩy sản xuất ngành này phát triển, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Ba là, Đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy:
vốn đầu tư vốn đầu tư
ICOR = => Mức tăng GDP =
mức tăng GDP ICOR
Nếu mức ICOR là không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào mức vốn đầu tư, theo quan hệ tỉ lệ thuận. Do đó tăng đầu tư sẽ làm tăng mức GDP và giảm vốn đầu tư cũng kéo theo sự thay đổi ngược lại với mức tăng GDP.
ở các nước phát triển, thừa vốn thiếu lao động nên ICOR thường lớn ( 5- 7 ) vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, do thừa lao động thiếu vốn nên có thể và cần sử dụng lao động để thay thế cho vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại sẽ làm cho ICOR thấp (2-3 ).
Bốn là, đầu tư có tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này là hoàn toàn đúng bởi lẽ khi tăng hay giảm đầu tư trong một ngành, một lĩnh vực nào đó tất yếu kéo theo việc tăng hay giảm tốc độ tăng trưởng tương ứng ở các ngành hoặc lĩnh vực đó. Có thể thấy xu thế ngày nay là tăng đầu tư vào các ngành công nghiệp và dịch vụ.Còn với ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế về nhiều mặt nên muốn đạt được tốc độ tăng trưởng như mong muốn ( 9- 10%) là hết sức khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Còn cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác động cân đối về phát triển giữa các vùng, phát huy tối đa có thể các lợi thế so sánh của vùng để phát triển với kết quả cao nhất.
Năm là, đầu tư có tác dụng tăng cường khoa học và công nghệ của đất nước. Khoa học và công nghệ là trung tâm của CNH và đầu tư là điều kiện kiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của mỗi quốc gia. Chúng ta vẫn biết rằng, có hai con đường cơ bản để có được công nghệ sử dụng là tự nghiên cứu phát minh tìm ra công nghệ thích hợp hoặc nhập công nghệ từ nước ngoài. Song dù bằng cách nào, bằng con đường nào cũng cần phải có chi phí và chi phí lại là hệ quả tất yếu của đầu tư. Mọi phương án đổi mới, cải tạo công nghệ không gắn với nguồn đầu tư là phương án không khả thi.
* Nếu xét trên phạm vi các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ :
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo lập cơ sở ban đầu như đất đai, máy móc, thiết bị cấu trúc hạ tầng, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kĩ thuật tạo ra.v.v. cần có đầu tư,để duy trì sự hoạt động của toàn bộ cơ sở hạ tầng sau một thời gian vận hành cũng cần có đầu tư, để cải tiến qui mô, kết cấu hoạt động của toàn bộ cơ sở cho phù hợp với xu thế hiện đại cũng cần có đầu tư. Ngay cả các cơ sở vô vị lợi để tồn tại và duy trì sự hoạt động cũng cần có các chi phí thường xuyên, đó cũng là đầu tư.
2. Khái niệm, vai trò của FDI.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể thu hút và huy động từ những nguồn: trong nước hoặc ngoài nước. Như chúng ta cũng đã biết là các công trình xây dựng công cộng thì thường đòi hỏi vốn lớn song khả năng thu hồi vốn rất chậm, thậm chí không có. Do đó rất nhiều thành phần kinh tế trong nước không có khả năng hoặc không muốn tham gia. Vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu là của Nhà nước và vốn nước ngoài. Có thể nói nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất cho đầu tư phát triển chính là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì ?
2.1 Khái niệm về FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foriegn Direct Investment – FDI ) là hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình dịch chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân hoặc thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó người chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
2.2 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vị trí vai trò hết sức to lớn, nó đã, đang và tất yếu sẽ trở thành xu hướng của thời đại. Đặc biệt với các nước đang phát triển, ở giai đoạn đầu gặp khó khăn rất lớn về vốn thì FDI có thể xem là “ cú hích “ để phát triển kinh tế, đẩy các nước ra khỏi quĩ đạo của vòng luẩn quẩn, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nguy cơ tụt hậu không cho phép các nước đang phát triển được châm trễ hay có sự lựa chọn nào khác. Thực tiễn và kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế với bên ngoài sẽ tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Vai trò của FDI được thể hiện cụ thể như sau:
* FDI với chuyển giao công nghệ (CGCN).
Một trong những vai trò quan trọng của FDI là CGCN. Chuyển giao công nghệ mang một ý riêng không chỉ là nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà còn cả phần kĩ năng vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm vững các nguyên lý, mô phỏng và phát triển nó. Thông qua các hình thức của FDI, giữa các nước đã có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Các hình thức chuyển giao công nghệ thường có lợi cho cả hai bên chuyển giao và tiếp nhận công nghệ. Qua đó các kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, các bằng sáng chế, các bí quyết về kĩ thuật, nhãn hiệu hàng hoá mới, kiểu dáng công nghiệp đã được chuyển giao giữa các bên.
* FDI tác động đến cán cân thương mại
FDI có tác động tích cực đến cán cân thương mại của các nước. Một đặc điểm của các nước Châu á là thông qua FDI để có các công nghệ mới cho sản xuất hàng hoá có giá trị cao hơn cho xuất khẩu. Điều này hoàn toàn khác với các nước phát triển, ở đó sản xuất hàng hoá có giá trị cao cho xuất khẩu thu được bằng sử dụng các yếu tố đầu tư nước ngoài. Các nước công nghiệp mới ở Châu á ngày càng gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu do lắp ráp các máy móc hoặc các thiết bị từ phụ tùng, linh kiện nhập khẩu. Với các nước phát triển thì thông qua FDI có thể tạo ra ngành công nghiệp mới. Ví dụ công ty Motorola chấp nhận chuyển giao công nghệ chất bán dẫn cho Toshiba và Toshiba giúp đỡ công ty này thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
* FDI cho phép chuyển giao kinh nghiệm và kĩ năng quản lý.
Có thể nói, thông qua các xí nghiệp liên doanh, FDI đã tạo ra môi trường và điều kiện tốt để tiếp thu những kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp. Và khi làm việc trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, đội ngũ cán bộ quản lý đã được dào tạo bồi dưỡng các khoá học ngắn hạn do các công ty nước ngoài tổ chức, do đó, có thể tiếp cận với những phương pháp và kĩ năng quản lý mới, tiếp thu và nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu mới của nước ngoài và làm việc có hiệu quả hơn.
* FDI với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với tất cả các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển thì đầu tư được coi là chìa khoá của sự tăng trưởng và phát triển. Mà lượng vốn cần cho đầu tư luôn là một yêu cầu đặt ra cho mỗi quốc gia và trong đó FDI đóng một vai trò hết sức quan trọng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vốn đâu tư
ICOR = ------------------
Mức tăng GDP
Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vốn đầu tư từ đó càng khẳng định vai trò của FDI với tăng trưởng và phát triển.
Ngoài các vai trò đã trình bày ở trên, FDI còn đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế như thông tin liên lạc, đường xá, bến cảng.v.v, HĐH các cơ sở sản xuất trong nước. Sản phẩm của các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có chất lượng cao trên thị trường nội địa và có thể thay thế hàng nhập khẩu đáp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác, FDI còn kích thích thị trường nội địa phát triển tạo môi trường cạnh tranh trong nước của các nhà kinh doanh đồng thời đóng góp một phần ngân sách rất lớn thông qua thuế, tác động tới hai mặt cung và cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó bao gồm khung luật pháp và chính sách phát triển kinh tế xã hội của một nước.
II. Điện tử - ngành công nghiệp mũi nhọn trong phát triển kinh tế.
1.Vài nét về công nghiệp điện tử.
CNĐT là ngành đã được chú ý và phát triển từ lâu song hiện nay chỉ có một số nước là đứng đầu trong lĩnh vực này. Ngành điện tử tin học là ngành kỹ thuật công nghệ cao hàng đầu trên thế giới, đây cũng là ngành đã góp phần mang lại sự thần kỳ về phát triển kinh tế cho các nước Đông Bắc á và những con rồng Châu á trong thập kỷ 80 - 90. Ngành CNĐT trên thế giới và ngành công nghệ thông tin liên quan đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ trong 20 năm qua. Với tốc độ tăng khoảng 10% năm, năm 1998 thị trường điện tử thế giới ước tính đạt khoảng 1000 tỷ USD.
Tuy nhiên trong thập kỷ 90, ngành điện tử sản xuất các sản phẩm gia dụng như đã chuyển sang thời kỳ khác, chững lại, trong khi tin học lại đang phát triển như vũ bão và nằm trong tay các công ty đa quốc gia của Mỹ. Ngày nay, ở hầu hết các nước công nghiệp hoá, ngành CNĐT đang phát triển nhanh và nó có tác dụng không nhỏ tới các ngành công nghiệp khác và toàn bộ nền kinh tế. Điều này không chỉ đúng với các nước công nghiệp hoá mà còn đúng với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Ngành CNĐT là một trong những ngành " chủ đạo " trong nền kinh tế. Một trong các nguyên nhân để nó được xem là ngành " chủ đạo " là do việc ứng dụng công nghệ điện tử và các công nghệ liên quan vào các ngành khác sẽ giúp cho việc tạo ra các sáng chế, tăng năng suất và tạo ra nhiều thị trường mới, nhiều việc làm mới. Do đó mà Chính phủ nhiều nước đã tập trung vào ngành CNĐT và ngành thông tin viễn thông hơn là bất cứ ngành nào khác trong những năm 80 - 90.
2.Vai trò của FDI đối với ngành CNĐT.
Để tạo được tốc độ tăng trưởng, phát triển nhanh đối với tổng thể nền kinh tế của một quốc gia nói chung cũng như để có thể phát triển được ngành CNĐT - ngành giữ vai trò " chủ đạo " của mỗi nước nói riêng, từng bước đuổi kịp và hội nhập với các trong khu vực và trên thế giới, bên cạnh các nguồn vốn khác thì FDI là một nhân tố quan trọng với các nước đang phát triển và cả nước phát triển.
Có thể thấy trong lĩnh vực CNĐT thì FĐI đóng một vai trò nhất định đem lại những tác động tích cực cho cả nước đầu tư và nước nhận đầu tư.
Một trong những vai trò hết sức quan trọng của FDI với CNĐT là vấn đề về CGCN. Ngành CNĐT là ngành đòi hỏi công nghệ cao, kỹ thuật cao, lao động cần chuyên môn, cần độ chính xác và chất lượng cao.v.v.Để phát triển lĩnh vực này một cách hiệu quả thì cần phải có những công nghệ hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày một cao của xã hội loài người. Có hai con đường để có được công nghệ cao đó là : Tự nghiên cứu sáng tạo ra những công nghệ phù hợp hoặc là nhập khẩu những công nghệ của nước ngoài đáp ứng được nhu cầu và điều kiện sản xuất trong nước. Song dù là bằng con đường nào cũng cần có vốn và thông qua FDI là lớn nhất.
Có thể nói rằng, FDI thông qua CGCN đem lại lợi ích cho cả hai bên. Với nước đầu tư (chủ yếu là các nước phát triển) thì FDI thường giúp họ bổ sung, hoàn thiện công nghệ, họ có điều kiện để xuất khẩu những công nghệ trung gian và viễn thông hoặc chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu trong nước.Với nước nhận đầu tư (chủ yếu là các nước đang phát triển)trình độ công nghệ lạc hậu thì FDI lại được coi là phương tiện để nhập công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài, những công nghệ đã qua thử nghiệm, tránh rủi ro và tiết kiệm được thời gian,chi phí nghiên cứu thị trường, nhu cầu sản phẩm.
Thứ hai, đó là vai trò của FDI trong lĩnh vực xuất và nhập khẩu của ngành CNĐT đặc biệt đối với nước nhận đầu tư.
FDI cho phép các nước nhận đầu tư tạo ra được những sản phẩm điện tử đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu của người sử dụng với chất lượng cao hơn, đa dạng hơn về mẫu mã, chủng loại và còn hướng ra thị trường nước ngoài, tạo cho sản phẩm có chỗ đứng mới trên thị trường quốc tế. Không những thế FDI còn tạo điều kiện cho các nước nhận đầu tư có thể nhập phụ tùng, linh kiện, dây chuyền sản xuất của nước ngoài mà không gặp trở ngại nào. Với điều kiện sản xuất mới thì những sản phẩm điện tử có thể thay thế được hàng hoá nhập khẩu và trên hết là tạo ra những khâu sản xuất mới và những lĩnh vực mới trong ngành CNĐT.
Thứ ba,CNĐT cũng như sản phẩm điện tử luôn đòi hỏi một lượng chất xám cao. Vì vậy cũng cần nhắc đến ở đây vai trò của FDI với việc phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới cho nước nhận đầu tư.
Do yêu cầu khách quan của công việc mà người lao động luôn được đào tạo một cách có hệ thống và đồng thời bản thân họ cũng phải nâng cao trình độ nghề nghiệp và các lĩnh vực khác có liên quan của mình. FDI cũng tạo ra điều kiện và môi trường tốt để người lao động có thể tiếp thu được những kiến thức cần thiết như bồi dưỡng cho họ những kỹ năng quản lý tiên tiến, kinh nghiệm xây dựng đánh gía dự án.v.v.Về phần các nhà đầu tư, thông qua FDI họ có thể tiết kiệm được chi phí thuê cán bộ quản lý và nhân viên nước ngoài sang các nước sở tại mà vẫn đảm bảo hiệu quả.
Ngoài ra FDI còn có một số vai trò khác như tạo thêm nguồn vốn hoạt động cho ngành điện tử, cho phép khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng ở các nước khác v.v. Ngày nay, khi sự phát triển của thế giơí không ngừng tăng lên thì phát huy lượng vốn đầu tư FDI đối với CNĐT đã và đang trở thành xu thế của thời đại hiện nay.
Phần II
Tình Hình FDI Vào Lĩnh Vực Công Nghiệp Điện tử từ Năm 1988 Đến Nay.
I - Tổng quan về công nghiệp điện tử ở Việt Nam.
Cho đến nay, ngành CNĐT của Việt Nam vẫn còn là một ngành công nghiệp tương đối nhỏ với sự tăng trưởng đáng kể chỉ diễn ra trong một số lĩnh vực sản phẩm. Chẳng hạn, trong năm 1996, giá trị sản xuất của các ngành thiết bị điện và điện tử, radio, ti vi và thiết bị truyền thông... vào khoảng 300 triệu USD, chiếm 3% tổng giá trị sản xuất công nghiệp Việt Nam. Nhưng giá trị sản xuất hàng năm của ngành điện tử Việt Nam từ đó đến nay vẫn đang tăng nhanh hơn các ngành công nghiệp khác. Các công ty chủ chốt trong ngành điện tử Việt Nam vẫn là loại nhỏ và vẫn chưa có khả năng cạnh tranh với các công ty điện tử ở các nước láng giềng.
1.1 Quyền sở hữu.
Có thể nói ngành CNĐT Việt Nam có hàm lượng lao động cao và hoạt động công nghệ thấp như lắp ráp điện tử và chế tác liên quan, đóng gói bán dẫn. Đại đa số trong 157 công ty được liệt kê chính thức chủ yếu tham gia vào loại hình chế tác lắp ráp tương đối đơn giản.Trong số các công ty điện tử, khoảng 1/2 là thuộc sở hữu của chính phủ TW và chính quyền cấp tỉnh trên nhiều vùng khác nhau của đất nước. Ngoài ra còn có 17 công ty là liên doanh, 14 công ty là hoàn toàn thuộc sở hữu nước ngoài, 50 doanh nghiệp ( chiếm khoảng 1/3 số công ty đầu tư ) là thuộc sở hữu tư nhân của người Việt Nam. Các công ty tư nhân này chủ yếu vận hành các trang thiết bị lắp ráp qui mô nhỏ hoặc cung cấp các dịch vụ kĩ thuật khác nhau. So với phần lớn các nước khác, thì các công ty tư nhân trong nước thuộc ngành CNĐT là rất ít.
1.2. Việc làm.
Trong ngành CNĐT có khoảng 16.000 người đang làm việc và trong số đó có khoảng 70% đang làm việc trong các công ty nhà nước, 18% làm việc trong các công ty nước ngoài và 12% làm việc trong khu vực tư nhân trong nước.
1.3 Về vốn đầu tư.
Tổng vốn đầu tư vào ngành CNĐT Việt Nam vào khoảng 700 triệu USD. Các doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu của Chính phủ TW và chính quyền tỉnh có lượng vốn ít nhất với vốn đầu tư được ước lượng vào khoảng 30 triệu USD,chỉ chiếm 4-5% tổng vốn đầu tư trong CNĐT. Lượng vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân gấp 3-4 lần so với các doanh nghiệp nhà nước. 92% vốn đầu tư vào ngành điện tử Việt Nam là do các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc các công ty có một phần vốn nước ngoài đầu tư vào.
1.4. Về sản phẩm.
Tại Việt Nam, có thể nói, hàng điện tử tiêu dùng ( đồ gia dụng ) chiếm ưu thế trong chủng loại sản phẩm của ngành điện tử với khoảng 40% tổng giá trị sản xuất của ngành điện tử. Trong đó, sản lượng thiết bị thông tin liên lạc chiếm khoảng 1/3 tổng sản lượng và máy tính ( bao gồm cả phần mềm và dịch vụ liên quan ) chiếm khoảng 15% tổng sản lượng, hàng điện tử công nghiệp ( bao gồm cả linh kiện và nguyên liệu liên quan ) chiếm khoảng 13% tổng sản lượng.
Đến năm 95, hàng điện tử gia dụng đã tăng với tốc độ nhanh, lên tới 30% mỗi năm trong vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, cũng từ năm 1995, sản lượng ti vi và đồ điện gia dụng khác “ sản xuất tại Việt Nam” có nhịp độ giảm hàng năm bằng mức tăng hàng năm trước đây. Năng lực sản xuất ti vi của Việt Nam ước tính hiện nay là trên 2 triệu cái/ năm, song thị trường trong nước chỉ tiêu thụ được 0,7 triệu cái / năm. Hiện nay có khoảng 6 triệu ti vi đang được sử dụng tại Việt Nam. Xuất khẩu đang tăng lên nhưng ở mức thấp và không đạt tới mức có thể giúp các công ty hiện có tận dụng công suất. Ngoài ti vi, các công ty điện tử Việt Nam cũng lắp ráp một khối lượng đồ gia dụng như radio cassette, stereo và VCRs. Trong lĩnh vực này, năng lực sản xuất trong nước cũng vượt quá nhu cầu hiện tại.
1.5. Về lĩnh vực sản xuất hàng điện tử.
Cho đến nay, loại hình lắp ráp đang chiếm ưu thế:
- Ti vi màu các loại : 2000000 chiếc/năm
- Ti vi đen trẵng : 1600000 chiếc/năm
- Radio, cassette các loại : 700000 chiếc/năm
- Đèn hình : 1600000 chiếc/năm
- Linh kiện điện tử các loại : 804000000 sản phẩm/ năm
Phần lớn hoạt động chế tác được thực hiện trên cơ sở hợp đồng dưới dạng mua bản quyền của đối tác nước ngoài, bao gồm thiết kế nguyên bản sản phẩm, cách trang bị và tổ chức dây chuyền sản xuất. Hiện nay, Việt nam không có phát triển thiết kế gốc và chế tác mang tính thương mại, cũng vẫn chưa hề có nhãn mang tính thương mại đáng kể cho các mặt hàng điện tử gia dụng lẫn điện tử công nghiệp. Các công ty thuộc sở hữu Nhà nước đang cố gắng chuyển sang chế tác thiết bị gốc ( OEM ) và chế tác thiết kế gốc chứ không phải là chế tác hợp đồng nữa, nhưng chưa có nỗ lực thực tế phát triển các thiết kế như thế trong giai đoạn này.Trong bốn năm qua, mô hình sản xuất này hầu như không thay đổi. Khoảng 70% tổng số radio,cassette và ti vi bán tại Việt Nam là sản xuất trong nước, chủ yếu sử dụng linh kiện và các đầu vào khác của nước ngoài. Khoảng 80% hàng điện tử gia dụng khác sản xuất trong nước được lắp ráp trên cơ sở mua bản quyền ở cấp độ CKD
( Complete knock down), các mặt hàng điện tử trong nước còn lại khác được lắp ráp ở cấp độ SKD ( Semi knock down ) hoặc IKD ( Incomplete knock down ).
Đứng đầu trong lĩnh vực lắp ráp sản phẩm là lắp ráp bảng vi mạch ( chủ yếu cho hàng điện tử gia dụng ) và loại hình này trở thành một hoạt động kinh doanh đang phát triển tại Việt Nam bao gồm hàn lên khung các linh kiện điện như điốt bán dẫn ( Transistor diodes ), biến áp, trấn lưu và có thể tạo ra những năng lực chế tác mới. Thêm vào đó, chi phí lao động ở Việt Nam tương đối thấp cũng tạo điều kiện cho các công ty chế tạo của đất nước có lợi thế hơn so với các nước trong khu vực.
Ngoài ra còn có một ngành công nghiệp hỗ trợ nhỏ nhưng mạnh mẽ là đóng gói và vận chuyển sản phẩm cuối cùng đã bắt đầu hình thành. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp hỗ trợ khác chỉ chủ yếu là chế tác những sản phẩm có giá trị thấp và dịch vụ liên quan ( ăng ten đơn giản được sản xuất ở Việt Nam và ngành công nghiệp chất dẻo được hình thành để sản xuất hộp cho ti vi và cho thiết bị viễn thông di động ).
1.6. Về vấn đề thương mại và thị trường tiêu thụ sản phẩm điện tử.
Trước năm 1993, các công ty điện tử Việt Nam đã xuất khẩu sang các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu. Tuy nhiên, trong vài năm qua, các công ty điện tử nhà nước và các công ty điện tử tư nhân thuộc sở hữu của người Việt Nam kh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35013.doc