I- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988 - 2001.
1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam bắt đầu từ năm 1988 với nhịp độ khá nhanh trong vòng 10 năm đầu. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số dự án FDI được cấp giấy phép tăng liên tiếp trong giai đoạn 1998-2001. Nếu như năm 1988 chỉ có 37 dự án với số vốn đăng ký là 371,8 triệu USD được cấp phép thì đến năm 1998 số dự án được cấp phép là 260 dự án với vốn
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1723 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu FDI vào Việt Nam bắt đầu từ năm 1988 với nhịp độ khá nhanh trong vòng 10 năm đầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đăng ký là 4.059 triệu USD. Tính luỹ kế đến cuối năm 201, tổng số dự án được cấp hpép là 3.557 dự án với vốn đăng ký đạt trên 43.064 triệu USD.
Đồ thị 1: Vốn đăng ký giai đoạn 1988-2001
Nguồn: Vụ Quản lý các dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong giai đoạn đầu, đặc biệt là giai đoạn 1991-1996 quy mô vốn FDI tăng mạnh. Vốn đăng ký tăng với tốc độ bình quân xấp xỉ 38% năm, trong đó năm 1995, vốn đăng ký đạt 6.616 triệu USD, tăng 64% so với năm 1995. Đặc biệt trong năm 1996, vốn đăng ký lên tới mức kỷ lục 8.528 triệu USD, cao nhất kể từ khi FDI vào Việt Nam tới nay. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng một phần bởi cuộc khủng hoảng khu vực 1997-1998, FDI vào Việt Nam nhìn chung có chiều hướng giảm sút. Số dự án được cấp giấy phép năm 1997 và 1998 giảm so với giai đoạn trước đó cả về số lượng dự án và số vốn đăng ký (năm 1997 giảm 48%). Trong 2 năm 1999 và 2000, số vốn đăng ký được cấp phép giảm nghiêm trọng, chỉ đạt 1.567 và 2.012 triệu USD. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, giai đoạn 1998 - 2000 là thời kỳ ảm đạm nhất về FDI của Việt Nam kể từ năm 1993 trở lại đây (TTXVN). Từ cuối năm 2000 và đặc biệt trong năm 2001, FDI bắt đầu có xu hướng phục hồi trở lại: đá có 461 dự án mới được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 2.436 triệu USD (tăng khoảng 23% so với năm 2000). Tuy nhiên, những con số này vẫn ở mức khiêm tốn so với kế hoạch 5 năm đề ra trong giai đoạn 2000-2005: vốn đăng ký đạt khoảng 12.000 triệu USD và vốn thực hiện khoảng 11.000 triệu USD.
Biểu 1: Tìnhh ình cấp giấy phép đầu tư 1988 - 2010 (triệu USD)
Chỉ tiêu
88-90
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Số dự án
219
149
197
277
367
408
367
336
247
247
255
461
Vốn đăng ký (Tr.US$)
1.582
1.294
2.036
2.652
4.071
6.616
8.528
4.453
3.897
1.568
1.973
2.463
Nguồn: Vụ Quản lý các Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Xét theo lĩnh vực đầu tư, có thể nhận thấy, các dự án tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (1978 dự án), tiếp đó là dịch vụ (679) và nông nghiệp (386). Trong giai đoạn 10 năm từ 1988-1998, vốn đăng ký trong lĩnh vực công nghiệp chiếm khoảng 50%, tiếp đó là dịch vụ 46%. Trong khi đó, FDI đăng ký trong ngành nông, lâm ngư nghiệp có xu hướng giảm dần từ 21,64% giai đoạn 1988-1990 xuống còn 4,18 và 1,97 giai đoạn 1991-1995 và 1996-1998, nếu xét cả thời kỳ 10 năm, tổng vốn đầu tư trong lĩnh vực này chỉ đạt tỷ lệ rất thấp, ở mức dưới 4%.
Biểu 2: tình hình cấp giấy phép đầu tư phân theo ngành
trong 10 năm 1988-1998 (Triệu USD và %)
Ngành
1988-1990
1991-1995
1996-1998
Tổng cộng
Vốn ĐT
%
Vốn ĐT
%
Vốn ĐT
%
Vốn ĐT
%
Tổng số
1.582.645
100
16.244.382
100
17.186.435
100
35.129.462
100
Công nghiệp và xây dựng
656.318
41,7
8.566.782
52,74
8.404.191
48,90
17.627.291
50,34
Dầu khí
470.129
29,7
984.694
6,06
1.545.121
8,99
2.999.944
8,57
Công nghiệp nặng
73.055
4,62
3.024.135
18,62
2.642.967
15,38
5.740.157
16,39
Công nghiệp khác
105.797
6,68
2.993.177
18,43
2.419.067
14,08
5.518.041
15,76
CN vật liệu XD
7.337
0,46
1.564.776
9,63
1.797.036
10,46
3.369.149
9,62
Nông - Lâm - Ngư nghiệp
342.443
21,64
670.662
4,13
338.803
1,97
1.351.908
3,86
Nông - Lâm nghiệp
188.980
11,94
530.281
3,26
299.059
1,74
1.018.320
2,91
Thuỷ sản
153.463
9,70
140.381
0,86
39.744
0,23
333.588
0,95
Dịch vụ
583.884
36,89
7.066.938
43,13
8.443.441
49,13
16.034.263
45,79
Du lịch - Khách sạn
374.313
23,65
3.195.250
19,67
1.370.602
7,97
4.940.165
14,11
Văn phòng - Căn hộ cho thuê
2.170.735
13,36
829.490
4,83
3.000.225
8,57
XD hạ tầng KCN,KCX, đô thị mới
3.646.315
21,22
3.646.315
10,41
Giao thông, bưu điện
179.222
11,32
861.865
5,30
2.201.699
11,76
3.062.606
8,75
Tài chính - ngân hàng
10.400
0,66
157.670
0,97
25.252
0,15
193.322
0,55
Văn hoá - Y tế - Giáo dục
2.967
0,19
160.068
0,99
292.382
1,70
455.437
1,30
Dịch vụ khác
16.982
1,07
461.510
2,84
257.701
1,50
736.193
2,10
Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm (1987-1997) và năm 1998 Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Nếu xét theo địa phương, tính đến tháng 4/2001, các tỉnh có số tổng vốn đầu tư lớn nhất lần lượt là: TP. Hồ Chí Minh (941 dự án và 9.809 triệu USD), Hà Nội (367 dự án và 7.694 triệu USD), Đồng Nai (289 dự án và 4.629 triệu USD), Bình Dương (395 dự án và 2.327 triệu USD). Xét theo các quốc gia nước ngoài có vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, năm quốc gia đứng đầu là Xinhgapo (236 dự án còn hiệu lực và 6.612 triệu USD), Đài Loan (665 dự án và 5.003 triệu USD), Nhật Bản (308 dự án và 3.888 triệu USD), Hàn Quốc (283 dự án và 3.194 triệu USD) và Hồng Kông (210 dự án và 2.845 triệu USD).
Trong số các dự án đầu tư nước ngoài được cấp, trừ các dự án hết thời hạn hoạt động hoặc bị rút giấy phép, tính tới cuối năm 2001 còn 3.043 dự án với tổng số vốn đăng ký (cả cấp mời và bổ sung) là 37.630 triệu USD. Trong số các dự án đang còn hiệu lực, có 1.393 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh với tổng số vốn đăng ký là 20.480 triệu USD (chiếm 45,7% tổng dự án); 783 dự án đang xây dựng cơ bản với tổng số vốn đăng ký 11.170 triệu USD (chiếm 25,7%); còn lại 780 dự án (chiếm 25,6%) chưa triển khai, với tổng số vốn đăng ký khoảng trên 6.000 triệu USD.
2. Tình hình thực hiện vốn đăng ký.
ở Việt Nam, từ năm 1988 tới này tỷ lệ vốn FDI thực hiện trên vốn đăng ký thường xuyên ở mức thấp. Tính đến tháng 6/2000, số dự án được thực hiện chiếm gần 80% tổng số dự án đăng ký với tổng số vốn đầu tư đăng ký vào khoảng 35.129,5 triệu USD. Trong năm 2001, mặc dù FDI tăng lên đáng kể so với các năm trước đó nhưng tình hình thực hiện vốn đăng ký vẫn ở mức thấp, khoảng 2.300 triệu USD, chỉ tăng khoảng 3% so với cùng kỳ trước đó. Số dự án tăng vốn trong năm 2001 là 210 dự án với tổng số vốn đăng ký thêm là 588 triệu USD. Như vậy, tính đến hết năm 2001, vốn đầu tư thực hiện đạt trên 20.000 triệu USD; so với vốn đăng ký chỉ chiếm 56,3%, còn khoảng 16.700 triệu USD chưa được thực hiện. Nguồn vốn thực hiện do các bên góp vốn pháp định đạt 17.242 triệu USD, chiếm 86% vốn thực hiện; còn lại nguồn vốn vay hỗ trợ vốn lưu động cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 14% vốn thực hiện.
Như vậy nguồn vốn FDI thực tế được đưa vào nền kinh tế nhỏ hơn nhiều so với vốn đăng ký. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này. Trước hết, đặc thù của các dự án FDI thường có thời gian thực hiện kéo dài và vốn đăng ký thường được thực hiện hết sau khoảng 4-5 năm hoạt động, hơn nữa thường có tình trạng năm thực hiện dự án trễ so với năm được cấp giấy phép. Bên cạnh đó, tình hình triển khai hoạt động của các dự án còn chậm vì số doanh nghiệp bắt đầu xây dựng cơ bản chiếm tỷ lệ lớn, do thủ tục cấp đất, đền bù, giải phóng mặt bằng đòi hỏi nhiều thời gian, chi phí đền bù cao. Đặc biệt, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực cho nên từ năm 1997 đến nay, số doanh nghiệp xin dừng hoặc hoãn tiến độ triển khai tăng lên.
2.1. FDI theo lĩnh vực đầu tư.
Công nghiệp - ngành kinh tế quan trọng và trực tiếp liên quan đến kỹ thuật công nghệ của toàn bộ nền kinh tế, dã và đang thu hút được nhiều và ngày càng tăng về số dự án và vốn FDI. Tính đến năm 2001 vốn FDI thực hiện trong công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng tới 60-65% tổng số vốn FDI thực hiện của cả nước (Biểu 3). Điều này đã và đang mang đến sự đóng góp và ảnh hưởng rất quan trọng của FDI đến lĩnh vực công nghệ ở nước ta và do đó tác động đến khả năng tại việc làm không những của bản thân khu vực công nghiệp mà còn cả của các lĩnh vực khác (lao động của khu vực công nghiệp mà còn cả của các lĩnh vực khác (lao động của khu vực công nghiệp tính riêng trong năm 2001 là 380.000 nghìn người). Nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, có thể thấy các dự án đầu tư nước ngoài trực tiép còn quá ít so với khả năng và nhu cầu thực tế. Mặc dù Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này nhưng tỷ trọng FDI đầu tư vào nông, lâm nghiệp và thuỷ sản còn ở mức thấp. Tính đến cuối năm 2001 số dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực này chiếm 12,7% tổng số dự án đầu tư, chiếm 5,7% tổng vốn FDU đầu tư và chiếm 7,1% vốn FDI thực hiện (Đồ thị 2b). Nhìn chung, cơ cấu này vẫn chưa có biến chuyển tích cực qua các thời kỳ kể từ năm 1988.
Đồ thị 2a. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành
(tính đến tháng 4/2001)
Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư
Phải khẳng định rằng việc tập trung đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ là động lực để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và là một điều kiện thuận lợi để thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tuy nhiên, đối với những nước dựa trên nền tảng nông nghiệp như Việt Nam, nếu chỉ tập trung đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ sẽ không phát huy hết các nguồn lực sẵn có và về lâu dài không tạo được cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững. Về ngắn hạn, sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu đầu tư trong thời gian qua đã và đang có ảnh hưởng lớn tới vấn đề việc làm và thất nghiệp của khu vực nông thôn và thành thị.
Biểu 3: Cơ cấu vốn FDI thực hiện phân theo ngành kinh tế
(Triệu USD).
1988-1995
1996-1998
1998-2001
Tổng
%
Tổng
%
Tổng
%
1. Công nghiệp và xây dựng
4103,076
60,5
5023,794
62,1
1902
65,0
2. Nông Lâm Ngư nghiệp
370,870
5,5
558,144
6,9
221
7,6
3. Dịch vụ
2311,865
34,1
2511,66
31,0
801
27,4
Tổng cộng
6785,812
100
8093,598
100
2924
100
Nguồn: Vụ Quản lý các Dự án, Bộ Kế hoạch Đầu tư.
Đồ thị 2b. Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành
(tính đến 4/2001)
Nguồn: Vụ Quản lý các Dự án, Bộ Kế hoạch Đầu tư.
Trong lĩnh vực dịch vụ, các dự án FDI hiện nay cũng đang gặp một số khó khăn nhất định. Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn pháp định của các dự án trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản như văn phòng, các căn hộ cho thuê, xây dựng khu đô thị, xây dựng hạ tầng khu công nghiệp... thấp hơn nhiều so với bình quân chung. Đến cuối năm 2000, các dự án khác sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê chiếm 24,3% tổng số vốn đăng ký, nhưng chỉ chiếm 19% tổng vốn thực hiện. Trong năm 2001, các dự án khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê chiếm 19,4% tổng số vốn đăng ký (3.342 triệu USD), và chiếm 24% tổng vốn thực hiện (4.293 triệu USD). Như vậy, mức vốn thực hiện trong khu vực này còn khá thấp, chỉ chiếm khoảng 20% vốn đăng ký. Nguyên nhân của tình trạng trên là phần lớn các dự án mới được cấp giấy phép từ 1995 trở lại đây trong khi đó các chính sách về kinh doanh bất động sản của Việt Nam chưa rõ ràng, ngoài ra ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trong khu vực cũng đã làm cho các nhà đầu tư không thể triển khai nhanh các dự án được cấp giấy phép.
2.2. FDI theo địa phương.
Như đã đề cập trong phần trước, FDI vào Việt Nam chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm, tập trung quanh hai thành phố lớn là Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tuy nhiên, cơ cấu FDI giữa miền Nam và miền Bắc có chênh lệch đáng kể và ngày càng có xu hướng nghiêng vèe phía miền Nam. Tính đến tháng 5/2001, hai thành phố lớn nhất miền Bắc là Hà Nội và Hải Phòng chỉ chiếm 16% số dự án FDI (so với 25% năm 1998). Trong khi đó, 34% các dự án FDI được đầu tư tại TP. Hồ Chí Minh. Tính chung vùng Đông Nam Bộ (chủ yếu gồm TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước) hiện đang thu hút khoảng 20.271 triệu USD, chiếm 53,1% số vốn đăng ký còn hiệu lực của cả nước. Khu vực Bắc Bộ (chủ yếu gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên) có khoảng 11.045 triệu USD (chiếm 28,8%). Trong đó, sáu địa phương là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hải Phòng, Bình Dương chiếm tới 78% tổng số dự án và 73% tổng số vốn đầu tư.
Vốn FDI thực hiện ở các tỉnh miền Nam cũng cao hơn so với các tỉnh miền Bắc, tính đến tháng 4/2001, năm tỉnh có vốn FDI thực hiện lớn nhất lần lượt là: TP. Hồ Chí Minh (4.648 triệu USD), Hà Nội (2.800 triệu USD), Đồng Nai (2128 triệu USD), khu vực dầu khí (1955 triệu USD) và Bình Dương lên tới 12.588 triệu USD chiếm 71% tổng số vốn thực hiện trên toàn quốc.
Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch trong cơ cấu đầu tư theo địa phương ở đây theo quan điểm các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu là do ở yếu tố môi trường, trong đó các tỉnh miền Nam thường được nhìn nhận là có môi trường đầu tư thông thoáng và cởi mở hơn. Tuy nhiên, một nguyên nhân khác cũng không thể phủ nhận là các điều kiện và nguồn lực của miền Nam cũng phong phú và dồi dảo hơn miền Bắc. Có thể nói, một mặt sự mất cân đối về cơ cấu đầu tư tại các địa phương là một yếu tố tất yếu xuất phát từ tính hấp dẫn về môi trường đầu tư tại từng địa phương. Tuy nhiên, mặt khác xét về tổng thể thì tình trạng này vô hình chung lại tiếp tục làm gia tăng khoảng cách về phát triển giữa các khu vực kinh tế. Đây cũng là một vấn đề đáng lưu ý trong việc hoạch định các chính sách liên quan đến FDI.
Biểu 4: 20 địa phương có FDI lớn nhất cả nước (triệu USD)
TT
Địa phương
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
Vốn đầu tư thực hiện
1
TP. Hồ Chí Minh
941
9.809.322.230
4.657.036.522
4.648.596.633
2
Hà Nội
367
7.694.484.903
3.367.554.730
2.800.723.221
3
Đồng Nai
289
4.629.645.211
1.780.576.090
2.128.108.111
4
Bình Dương
395
2.327.112.779
1.083.499.033
1.057.290.248
5
Dầu
24
1.788.000.000
1.263.000.000
1.955.487.712
6
Quảng Ngãi
5
1.327.723.689
813.000.000
555.458.274
7
Hải Phòng
86
1.283.294.772
570.218.167
915.173.084
8
Bà Rịa - Vũng Tàu
68
1.203.597.047
503.096.555
397.702.143
9
Lâm Đồng
47
842.217.643
101.755.222
86.155.052
10
Quảng Ninh
37
616.021.618
218.216.841
173.983.646
11
Hà Tây
27
577.980.002
210.766.745
258.266.549
12
Hải Dương
23
481.722.331
206.976.977
128.816.341
13
Thanh Hoá
10
455.600.339
140.690.339
394.665.754
14
Kiên Giang
6
394.068.000
125.718.000
395.017.872
15
Đà Nẵng
40
363.905.405
161.509.580
195.386.469
16
Khánh Hoà
35
341.528.901
129.980.916
258.835.583
17
Vĩnh Phúc
24
323.499.160
121.062.894
222.742.353
18
Long an
42
320.931.009
131.255.085
174.201.259
19
Nghệ An
9
247.031.580
100.950.551
44.711.506
20
Tây Ninh
33
202.727.217
166.701.591
96.755.952
21
Các địa phương khác
228
1.365.732.556
623.733.877
915.568.540
Tổng số
2.736
36.596.146.392
16.477.299.715
17.803.646.302
Đồ thị 2b. Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành
(tính đến 4/2001)
Nguồn: Vụ Quản lý các Dự án, Bộ Kế hoạch Đầu tư (tính đến 4/2001).
2.3. FDI theo nước đầu tư.
Tính cho đến hết tháng 4/2000, đứng đầu danh sách các nước đầu tư vào Việt Nam là Xingapo, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông... Trong năm 2001, năm quốc gia đứng đầu là Hà Lan (574 triệu USD), Pháp (443 triệu USD), Đài Loan (407 triệu USD), Xingapo (271 triệu USD) và Nhật (160,5 triệu USD). Về tình hình thực hiện đầu tư, Nhật Bản đứng đầu với 2.627 triệu USD, tiếp đó là Đài Loan (2.404 triệu triệu USD), Xingapo (2.2002 triệu USD), Hàn Quốc (1.912 triệu USD) và Hồng Kông (1.434 triệu USD). Như vậy tổng số vốn thực hiện của năm quốc gia này đạt khoảng 10.000 triệu USD (tính đến tháng 4/2000), chiếm gần 60% tổng vốn thực hiện của 60 quốc gia có đầu tư FDI vào Việt Nam. Điều đáng lưu ý ở đây là phần lớn các quốc gia trên thế giới đều là các quốc gia Châu á, trong khi đó FDI từ khu vực Châu Âu (EU) hay từ Bắc Mỹ còn khá hạn chế. Riêng với nền kinh tế mạnh nhất thế giới là Mỹ, tính cho tới cuối năm 2001 Việt Nam mới có tổng cộng 129 dự án với tổng vốn đạt 1.014 triệu USD, vốn pháp định 577 triệu USD và vốn thực hiện mới dừng lại ở con số khiêm tốn 490 triệu USD.
Biểu 5: 20 quốc gia và vũng lãnh thổ
có FDI lớn nhất vào Việt Nam (triệu USD)
TT
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
Vốn đầu tư thực hiện
1
Xingapo
236
6.612.171.282
2.008.941.244
2.002.504.015
2
Đài Loan
665
5.003.819.378
2.127.796.367
2.404.297.623
3
Nhật Bản
308
3.888.263.626
1.929.181.723
2.627.878.616
4
Hàn Quốc
283
3.194.278.939
1.228.518.688
1.912.320.417
5
Hồng Kông
210
2.845.501.857
1.232.078.779
1.434.420.828
6
Pháp
110
1.855.920.406
1.260.035.935
585.423.267
7
British VirginIslands
110
1.788.766.407
696.498.403
865.074.117
8
Liên Bang Nga
36
1.484.222.942
918.397.457
600.255.177
9
Hà Lan
41
1.301.956.886
987.962.343
505.055.311
10
Vương Quốc Anh
35
1.163.254.683
394.840.355
670.909.853
11
Thái Lan
94
1.115.522.247
444.550.858
493.810.135
12
Malaixia
80
1.025.714.593
475.726.531
877.403.576
13
Hoa Kỳ
113
935.553.526
485.628.675
403.096.184
14
úc
72
744.232.883
528.785.623
550.572.303
15
Thuỵ Sĩ
21
527.748.600
207.530.552
495.430.727
16
Cayman Islands
9
485.687.721
138.729.296
315.811.232
17
CHLB Đức
32
361.022.909
134.433.802
128.705.148
18
Thuỵ Điển
8
354.073.005
339.023.005
101.358.316
19
Bermuda
6
290.135.552
107.013.700
149.995.867
20
Philippines
18
255.869.612
110.440.011
130.084.934
21
Các quốc gia, vùng lãnh thổn khác
249
1.362.429.338
721.186.277
549.238.656
Tổng số
2.736
36.596.146.392
16.477.299.715
17.803.646.302
Đồ thị 2b. Cơ cấu vốn thực hiện theo quốc gia đầu tư
(tính đến 4/2001)
Nguồn: Vụ Quản lý các Dự án, Bộ Kế hoạch Đầu tư (tính đến 4/2001).
2.4. FDI theo hình thức đầu tư.
Về hình thức đầu tư, tính đến thán 4/2001, phần lớn các dự án được thực hiện theo hình thức thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (1.560 dự án, chiếm gần 60%). Đứng thứ hai là hình thức dự án liên doanh với 1.042 dự án. Tuy nhiên, xét về vốn đầu tư thực hiện, các liên doanh đứng đầu với gần 10.000 triệu USD (chiếm khoảng 60%). Khu vực có 100% vốn nước ngoài có số vốn thực hiện là 5.176 triệu USD (chiếm 30%). Mặc dù vốn liên doanh thực hiện chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn thực hiện nhưng nhìn chung, phần vốn thực hiện đó chủ yếu do bên nước ngoài góp. Giai đoạn 1991-1996, số vốn góp của phía Việt Nam chiếm tỷ trọng ở mức 14% (thậm chí năm 1993 lên tới 16,7%). Tuy nhiên, trong giai đoạn sau 1997-2000, vốn góp của phía Việt Nam chỉ đạt ở mức bình quân 8,4%. Tính bình quân trong giai đoạn 1991-2000, vốn pháp định do bên Việt Nam góp đạt mức trung bình 12% với tổng số vốn góp là khoảng 2.330 triệu USD. Trong phần đóng góp này, phía đối tác Việt Nam cũng chỉ đóng góp chủ yếu bằng giá trị quyền sử dụng đất (chiếm khoảng 90%), còn lại vốn bằng tài sản ngoài đất đai, thiết bị (8%) và góp bằng tiền mặt và các phương tiện thanh toán khác (khoảng 2%).
Biểu 6: Cơ cấu vốn FDI đăng ký phân theo
hình thức đầu tư (triệu USD)
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Vốn pháp định
Đầu tư thực hiện
BOT
4
415.125.000
140.030.000
37.112.500
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
130
37.964.440.619
2.171.898.293
2.647.718.419
100% vốn nước ngoài
1560
11.192.257.873
4.939.507.526
5.176.386.696
Liên doanh
1042
21.192.322.900
8.225.863.896
994.242.868
Tổng số
2736
36.596.146.392
16.477.299.715
17.803.646.302
Đồ thị 6: Cơ cấu vốn thực hiện giai đoạn 1991-2000
Nguồn: Vụ Quản lý các dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Tình hình rút giấy phép đầu tư và hết hạn hoạt động của các dự án.
Số dự án đầu tư bị thu hồi giấy phép trước thời hạn tính đến tháng 6/2000 là 604 (chiếm 19,5% số dự án) với số vốn đăng ký là hơn 5.299 triệu USD (chiếm 15,1% vốn đăng ký). Trên 75% số dự án giải thể này được cấp giấy phép trong thời kỳ đầu thực hiện Luật đầu tư nước ngoài (1988-1992) và phần lớn có quy mô vốn đầu tư nhỏ; trong đó trên 805 dự án có vốn dưới 10 triệu USD. Những nước và vùng lãnh thổ có số dự án bị rút giấy phép nhiều nhất là Hồng Kông 84 dự án (27% dự án và 12% vốn đăng ký), Đài Loan 46 dự án (25,5% số dự án Đài Loan đầu tư vào Việt Nam), Pháp (13% dự án và 30% vốn đăng ký)... Tính trong cả giai đoạn 1988-2000, số vốn bị giải thể là 7.052 triệu USD, chiếm trên 20% tổng số vốn đăng ký. Đây thực sự là một con số đáng báo động bởi tình trạng số dự án giải thể có thể có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 1996-2000, trong đó năm 1998 số vốn bị giải thế là 2.428 triệu USD. Trong năm 2001, mặc dù FDI có dấu hiệu phục hồi nhưng cũng đã có 67 dự án bị giải thể với tổng số vốn đăng ký là 1.357 triệu USD và 514 triệu USD vốn pháp định.
Đồ thị 7: Số vốn giải thể trong giai đoạn 1988-2000
Nguyên nhân của các dự án bị rút giấy phép là do bên nước ngoài không thực hiện đúng cam kết đóng góp vốn; do biến động của thị trường giá cả làm đảo lộn tính toán của nhà đầu tư; do phá sản của bên nước ngoài ở thị trường khác làm họ không có khả năng thực hiện dự án ở Việt Nam; do biến động về thị trường và khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nên các nhà đầu tư không thực hiện được kế hoạch của dự án.
Bên cạnh đó, tình hình triển khai hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện có xu hướng chậm lại và giảm sút về hiệu quả, nhiều dự án đã được cấp giấu phép không triển khai hoặc xin giãn tiến độ triển khai thực hiện làm cho tỷ trọng vốn thực hiện so với tổng vốn đầu tư giảm sút. Việc dừng dự án và giãn tiến độ triển khai dự án thể hiện rõ nhất trong các dự án của các nước bị khủng hoảng kinh tế 1997-1998 (Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia giảm vốn thực hiện 40-50%) và các đối tác khác trong khu vực như Nhật Bản, Hồng Kông và Đài Loan vốn thực hiện giảm 30-40%. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế bất động sản (khách sạn, văn phòng cho thuê, xây dựng khu đô thị hạ tầng khu công nghiệp, trung tâm thương mại - dịch vụ...) cả nước có khoảng 350 dự án FDI được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 13 tỷ USD nhưng tơí nay mới chỉ có khoảng 8% số dự án đang còn hiệu lực (khoảng 3,5 tỷ USD vốn đăng ký). Trong lĩnh vực chế biến nông sản, may mặc, giầy dép, sắt thép xây dựng, điện tử, nhiều dự án cũng dừng triển khai với số vốn ước tính tới gần 2 tỷ USD; trong đó riêng các dự án trong các khu công nghiệp đã lên tới gần 1 tỷ USD. Tỏng cộng vốn đăng ký của các dự án dừng hay giãn tiến độ triển khai tính đến cuối năm 2000 khoảng 8 tỷ USD, chiếm từ 18-22% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đây là một hiện tượng không bình thường, có tác động nghiêm trọng và lâu dài, về kinh tế và tâm lý, ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm tới.
2. Giải pháp thu hút FDI tại Việt Nam.
2.1. Về cải cách thủ tục hành chính.
Để cải thiện môi trường đầu tư, Luật 1996 thể hiệ rõ thái độ của Nhà nước đối với việc cải cách thủ tục hành chính: các viên chức, cơ quan Nhà nước Việt Nam nếu vi phạm các quy định của Luật (giải quyết các thủ tục không đảm bảo thời gian gây khó khăn, phiền hà...) tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật. Nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tổ chức, cá nhân, được quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các quyết định và hành vi trái pháp luật, gây khó khăn, phiền hà của viên chức cơ quan Nhà nước. Quy định rõ trách nhiệm của những viên chức trong việc thực thi chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước, đánh dấu một bước tiến dài trong việc cải cách thủ tục hành chính, một cố gắng lớn trong việc cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam.
Các vấn đề liên quan tới cấp giấy phép đầu tư, đầu tư theo hình thức BOT, BT, doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp chế xuất được quy định đã mở ra nhiều khả năng lựa chọn hình thức đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoaì cũng như cải thiện đáng kể môi trường đầu tư của Việt Nam. Điều này cũng chứng minh chính sách nhất quán đối với FDI của Việt Nam cũng như đường lối ngày một rộng mở, thông thoáng của Nhà nước trong việc hợp tác quốc tế.
Mặc dù thủ tục hành chính ở Việt Nam đã ngày càng được cải thiện, tích cực những vẫn còn khía cạnh rườm rá, nhiều nhà đầu tư nước ngoài vẫn kêu ca, phàn nàn về thủ tục hành chính. Trong thời gian cần tiếp tục tinh giảm hơn nữa thủ tục hành chính từ quá trình thẩm định cấp giấy phép đến quá trình triển khai thưc hiện dự án nhằm rút ngắn hơn nữa thời gian thẩm định và cấp giấy phép cho nhà đầu tư nước ngoài. Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho các thành phố, tỉnh được quyền cấp giấy phép cho các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với mức vốn là 10 triệu USD (hiện nay các dự án có vốn từ 5 triệu USD trở lên do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp) để nhằm giảm bớt phiền hà cho nhà đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục cải cách các thủ tục liên quan tới xét duyệt các dự án đầu tư theo hướng đơn giản hoá để tiêns tới "đăng ký đầu tư" chứ không phải "xin phép đầu tư" trong đó nêu rõ những quy định về tiêu chuẩn mà nhà đầu tư phải tuân thủ khi đầu tư, việc đơn giản hoá các thủ tục trên sẽ góp phần rút ngắn được thời gian thẩm định dự án từ đó sẽ sớm đưa dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động.
Đối với các dự án đầu tư có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm từ 80% trở lên và một số lĩnh vực khác, nhà đầu tư đăng ký hồ sơ theo mẫu và cơ quan cấp giấy phép đầu tư quyết định cấp giấy phép đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Đối với những lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh mà theo quy định phải có giấy phép kinh tế hoặc giấy phép hành nghề, doanh nghiệp chỉ cần đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để triển khai hoạt động kinh doanh của mình đã qui định tại giâý phép đầu tư.
Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng đơn giản hoá việc cấp giấy phép đầu tư.
Các bộ, ngành, địa phương quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết.
2.2. Tập trung thu hút FDI vào những ngành mà Việt Nam thực sự có lợi thế so sánh.
Để khai thác có hiệu quả nguồn vốn FDI, các dự án FDI khuyến khích đầu tư được quy định cụ thể hơn, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu phát triển, sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng, khuyến khích đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
Tập trung thu hút vào công nghiệp sản xuất giầy dép, dệt may: đây là lĩnh vực rất phù hợp với những lợi thế mà Việt Nam sẵn có. Bởi vì ngành công nghiệp này đòi hỏi số lượng lao động mà số lượng lao động hiện nay ở Việt Nam khá dồi dào. Chính vì vậy, khi các dự án này đi vào hoạt động sẽ giải quyết được một số lượng lao động lớn cho đất nước. Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, xây dựng và mở rộng thêm các nhà máy sản xuất gia công giầy dép, nhanh chóng chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng, sử dụng nguyên liệu trong nước và giảm bớt tỷ lệ gia công, chủ động tìm kiếm thị trường.
Phát triển đồng bộ ngành thuỷ sản. Thực trạng vừa qua cho thấy, mức độ thu hút vốn vào ngành may còn rất ít, cần tập trung thu hút vốn đầu tư vào ngành này. Coi phát triển thuỷ sản là ngành kinh tế quan trọng trong đó tập trung cao cho nuôi trồng, dịch vụ và chế biến thuỷ sản. Ben cạnh đó cần chú trọng đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ lao động trong ngành thuỷ sản, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm nuôi trồng thuỷ sản đối với từng hộ gia đình nuôi trồng để từ đó nâng cao chất lượng ngành thuỷ sản.
Thu hút các dự án trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới bởi lẽ: Công nghệ luôn luôn là quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, điều kiện công nghệ càng hiện đại càng làm cho nó trở nên quan trọng đối với sự phát triển. Cần có chương trình đổi mới công nghệ bằng việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, khuyến khích đầu tư, tranh thủ các nguồn vốn viện trợ đổi mới công nghệ, tăng cường quản lý công nghệ bằng kiểm soát và giám định để đảm bảo hiệu quả đầu tư, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Khuyến khích các dự án đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn để đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế. Cho đến nay, hầu hết các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều tập trung vào những khu vực có cơ sở hạ tầng thuận tiện. Do vậy, nó xảy ra tình trạng mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra cần tập trung thu hút vốn đầu tư vào địa bàn này để góp phần thúc đẩu quá trình công nghiệp hoá nông thôn, cải thiện bộ mặt cơ sở hạ tầng cho địa phương, nâng cao đời sống của nhân dân. Tập trung thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt...
Nhằm khai thác tối đa ưu điểm của nguồn vốn đầu tư FDI, trong bối cảnh Việt Nam đang thiếu vốn, công nghệ, thừa lao động, phát triển không đồng đều ở các địa phương.... Luật đầu tư nức ngoài năm 1987 đã đưa ra những khuyến khích các dự án có quy mô lớn, công nghệ cao, sản xuất hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm, đầu tư vào địa bàn có điều kiện khó khăn, qui định mức thuế lợi tức thấp tới 10%, miễn thuế lợi tức 2 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Có thể khẳng định đây là mức thuế ưu đãi nhất khi so sánh với mức thuế 32% đối với các doanh nghiệp trong nước.
2.3. Đảm bảo sự hài hoà giữa thị trường tiêu thụ trong nước và thị trường xuất khẩu.
Hiện nay ta đang nhất mạnh về chiến lược xuất khẩu nhưng không có nghĩa là coi nhẹ thị trường nội địa nhất là một thị trường đông dân còn chưa được khai phá như thị trường nước ta.Sản phẩm làm ra trên đất Việt Nam phải có sự cạnh tranh không chỉ trên trường quốc tế mà ngay cả ở Việt Nam. Do đó cần bảo đảm việc sử dụng nội địa hoá một cách hài hoà cho các Công ty nước ngoài, kể cả khu chế xuất tại Việt Nam sử dụng một phần thị trường trong nước đối với những sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được hoặc đã nhưng kém hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, cần khuyến khích các doanh nghiệp từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, hạn chế hình thức đơn thuần gia công. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp tập dượt để có thể nhanh chóng đảm bảo tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất tại Việt Nam, hạn chế bớt thua thiệt khi ta gia nhập các tổ chức WTO, APEC, AFTA, góp phần bảo hộ người tiêu dùng.
Khuyến khích và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho các dự án FDI với mục tiêu sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài để tác động làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ theo yêu cầu phát triển của đất nước, đồng thờ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35602.doc