FDI tại Hải Dương - Thực trạng và giải pháp

Mục lục Lời mở đầu Với những điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng thuận lợi thành phố Hải Dương được coi là một vùng kinh tế phát triển của cả nước. Sự phát triển kinh tế của thành phố sẽ góp phần tạo động lực và hỗ trợ sự phát triển của các địa phương khác trong vùng và trong cả nước. Có ý kiến cho rằng "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương vẫn chưa thực sự có hiệu quả". Đề tài "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương - thực trạng và giải pháp" được thực hiện nhằm làm rõ những căn cứ

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu FDI tại Hải Dương - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho nhận định đó và đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương. Trong quá trình thực hiện luận văn, có 3 nguyên tắc được tuân thủ chặt chẽ, đó là phải đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống và tính logic giữa các nội dung đề tài. Với mục đích và nguyên tắc nêu trên, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hải Dương Chương III: Một số giải pháp đề xuất nhằm tăng cườg thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương. Luận văn sẽ không thể hoàn thành nếu thiếu sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của Thạc sĩ Từ Quang Phương. Xin chân thành cảm ơn thầy giáo. Trân trọng cảm ơn các Bác các anh các chị tại phòng Tài chính đầu tư - Sở tài chỉnh Hải Dương, sở kế hoạch và đầu tư Hải Dương đã giúp đỡ em để hoàn thành tốt đề tài này. Hải Dương ngày tháng năm 2003 Sinh viên thực hiện Nguyễn Đức Dương Chương I Một số vấn đề lý luận thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài I- Lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư là sự hy sinh những nguồn lực hiện tại để tiến hành một số hoạt động nhất định nhằm thu được lợi ích trong tương lai lớn hơn chi phí đã bỏ ra ở hiện tại. Do đặc tính tạo ra lợi ích lớn hơn chi phí, đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định sự tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia, của từng doanh nghiệp. Với vai trò đó, hoạt động đầu tư đã diễn ra rất mạnh mẽ, nó vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành một nội dung cơ bản trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư nước ngoài là hoạt động đầu tư trong đó có sự di chuyển nguồn lực (vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý...) từ nước này sang nước khác nhằm thu được những lợi ích trên phạm vi toàn cầu. Các quan hệ quốc tế về đầu tư chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ XIX cùng với quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: "điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó tự do cạnh tranh hoàn toàn thống trị là việc xuất khẩu hàng hoá. Điểm điển hình của chủ nghĩa tư bản mới, trong đó các tổ chức độc quyền thống trị là việc xuất khẩu tư bản". Theo Lênin, xuất khẩu tư bản có 2 hình thức: Xuất khẩu tư bản cho vay và xuất khẩu tư bản hoạt động. Xuất khẩu tư bản cho vay là hình thức chính phủ hoặc tư nhân một nước cho chính phủ hoặc tư nhân một nước khác vay vốn. Xuất khẩu tư bản hoạt động là hình thức đem tư bản ra nước ngoài để xây dựng các xí nghiệp, tiến hành sản xuất ra giá trị hàng hoá, trong đó có giá trị thặng dư tại nước nhập khẩu. Hiện nay, đầu tư nước ngoài bao gồm 4 hình thức: + Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance) gọi tắt là ODA. + Tín dụng thương mại. + Đầu tư vào cổ phiếu trái phiếu của nước ngoài (Foreign Portfolio Investment) gọi tắt là FPI. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foerign Direct Investment) gọi tắt là FDI. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Như vậy, khái niệm xuất khẩu tư bản hoạt động mà Lênin đưa ra trước đây và khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài thực chất là một. Theo luật đầu tư nước ngoài: "Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này." 2. Cơ sở kinh tế học của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên đây là một số khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn đề đặt ra là cần làm sáng tỏ cơ sở kinh tế học của đầu tư trực tiếp nước ngoài nghĩa là đưa ra những giải thích thuyết phục cho câu hỏi "Tại sao các nhà đầu tư lại tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài"?. Để thực hiện nhiệm vụ đó, cách tốt nhất là đứng ở trên quan điểm của nhà đầu tư để tìm hiểu nhu cầu và hành vi của họ. Trong thực tế, chủ thể của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể là 1 hoặc một nhóm các nhà đầu tư hoặc là một doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp đó sẽ trở thành một công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia là lực lượng cơ bản nhất trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới. Vì vậy, phần này sẽ phân tích hành vi đầu tư của các công ty đa quốc gia. Một phần trong các nội dung phân tích đó sẽ có thể áp dụng đối với các nhà đầu tư không phải là doanh nghiệp. Các công ty đa quốc gia tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hai hình thức: đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI) và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical FDI). Bên cạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công ty còn có 2 hoạt động khác cũng có thể mang lại những kết quả tương tự là xuất nhập khẩu và bán li xăng (Licensing). Đến đây, câu hỏi đặt ra ban đầu cho phần này sẽ được chia thành hai câu hỏi nhỏ hơn: "Tại sao doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang và tại sao doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp ngoài theo chiều dọc mà không xuất nhập khẩu hoặc bán li xăng?". Mua bán li xăng (Licensing) là việc một doanh nghiệp của một nước, người bán li xăng (lisenser), trao quyền sản xuất các sản phẩm, quyền sử dụng quy trình sản xuất, quyền sử dụng nhãn mác hàng hóa của họ cho một doanh nghiệp nước ngoài, người mua li xăng (licensee) đổi lại, người bán li xăng sẽ được nhận phí bản quyền trên mỗi đơn vị sản phẩm mà người mua lixăng bán ra. Lợi ích lớn nhất của mua bán li xăng so với đầu tư trực tiếp nước ngoài là người bán Li xăng có thể thâm nhập thị trường nước ngoài mà không phải trả một khoản chi phí nào, người mua Li xăng sẽ làm việc đó. 2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang là việc một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang thực hiện ở nước mình. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp phải chịu nhiều chi phí để xây dựng các cơ sở sản xuất ở nước ngoài hoặc mua lại một công ty nước ngoài. Họ cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, bởi những vấn đề liên quan đến kinh doanh trong một nền văn hoá khác nơi mà "luật chơi" có thể rất khác. Khi một công ty xuất khẩu họ không phải chịu các chi phí đầu tư và các rủi ro đi kèm với việc bán sản phẩm ở nước ngoài có thể giảm bớt bằng cách sử dụng đại lý. Tương tự như vậy, khi bán li xăng, các công ty cũng không phải chịu các chi phí và rủi ro của hoạt động đầu tư vì các chi phí này do các công ty mua li xăng chịu. Vậy tại sao các công ty lại quyết định tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài mà không xuất khẩu hoặc bán li xăng. Câu trả lời là có một số nhân tố có thể làm thay đổi sức hấp dẫn của đầu tư trực tiếp nước ngoài so với xuất khẩu và bán li xăng. Chúng ta sẽ xem xét 5 nhân tố: (1) chi phí vận chuyển, (2) sự không hoàn hảo của thị trường, (3) hiện tượng bắt chước các đối thủ cạnh tranh, (4) chu kỳ sống của sản phẩm, (5) những lợi thế đặc trưng của vị trí. 2.1.1. Chi phí vận chuyển (Transportation costs) Khi chi phí vận chuyển được tính vào chi phí sản xuất sẽ là không có lợi nếu vận chuyển hàng hoá qua một quãng đường dài, đặc biệt là đối với các loại hàng hoá có giá trị nhỏ so với khối lượng và các loại hàng hoá có thể sản xuất ở bất cứ đâu. Đối với các hàng hoá này, sức hấp dẫn của xuất khẩu đương nhiên sẽ nhỏ hơn so với đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc bán li xăng. Các loại hàng hoá mà giá trị của nó lớn hơn so với khối lượng (như thiết bị điện tử, máy tính, phần mềm...) chi phí vận chuyển thường rất nhỏ so với tổng chi phí. Trong trường hợp đó, chi phí vận chuyển không có ảnh hưởng tới sức hấp dẫn so sánh giữa xuất khẩu, bán li xăng và đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2.1.2. Sự không hoàn hảo của thị trường (Market imperfections) Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang, sự không hoàn hảo của thị trường xuất hiện trong 2 tình huống: Khi có những sự cản trở đối với sự lưu chuyển tự do của sản phẩm giữa các quốc gia và khi có sự cản trở đối với việc mua bán li xăng. Những cản trở của sự lưu chuyển tự do sản phẩm giữa các quốc gia làm cho lợi nhuận của xuất khẩu giảm so với đầu tư trực tiếp nước ngoài và bán li xăng. Những cản trở đối với việc bán li xăng làm cho lợi nhuận của đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng so với bán li xăng. Những cản trở đối với với xuất khẩu Các chính phủ có thể tạo ra những rào cản đối với sự lưu chuyển sản phẩm tự do giữa các quốc gia. Bằng cách áp đặt thuế quan cho hàng hoá nhập khẩu, chính phủ có thể làm tăng chi phí của xuất khẩu so với đầu tư trực tiếp nước ngoài và bán li xăng. Tương tự, bằng cách hạn chế nhập khẩu thông qua hạn ngạch, chính phủ làm tăng sức hấp dẫn của đầu tư trực tiếp nước ngoài và bán li xăng Những cản trở đối với việc bán lixăng ưu thế cạnh tranh mà nhiều công ty có được là dựa trên những bí quyết về công nghệ, marketing và quản lý của họ. Trên lý thuyết, có thể kể ra 3 nguyên nhân giải thích tại sao bán li xăng không hấp dẫn. Một là, doanh nghiệp có những bí quyết không thể tiết lộ, bán lixăng có thể dẫn tới việc công ty trao bí quyết của họ cho một đối thủ cạnh tranh nước ngoài tiềm năng. Hai là, bán li xăng không cho phép doanh nghiệp quản lý chặt chẽ quy trình sản xuất, hoạt động Marketting và chiến lược kinh doanh ở nước đang khai thác những bí quyết của họ. Trong mua bán li xăng, quyền quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh được chuyển cho người mua. Doanh nghiệp thường muốn quản lý chiến lược kinh doanh của một cơ sở nước ngoài là do họ muốn chi nhánh của họ ở nước ngoài đặt giá và bán hàng một cách linh động như là cách thức để quản lý các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Không giống như các chi nhánh của công ty, người mua li xăng không chấp nhận sự áp đặt đó vì chiến lược này làm cho người mua li xăng chỉ có thể nhận được một mức lợi nhuận thấp, thậm chí bị thua lỗ. Doanh nghiệp thường muốn quản lý hoạt động của cơ sở nước ngoài là do họ muốn khai thác lợi thế do sự khác biệt về chi phí sản xuất giữa các quốc gia để sản xuất một phần của sản phẩm cuối cùng tại một nước nhất định và nhập khẩu các phần khác từ nơi mà họ có thể sản xuất với chi phí thấp hơn. Ngược lại, người mua li xăng không chấp nhận sự sắp đặt đó vì nó làm giảm quyền tự chủ của họ. Vì những nguyên nhân này, khi doanh nghiệp muốn quản lý chặt chẽ các cơ sở nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang được ưa thích hơn là bán li xăng. Ba là, bí quyết của công ty có thể không dễ để bán bản quyền. Điều này đặc biệt đúng với bí quyết quản lý và bí quyết Marketting. Việc bán bản quyền sản xuất cho một công ty nước ngoài là một chuyện, việc chuyển giao cách thức một doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh tức là cách họ quản lý quy trình sản xuất và bán sản phẩm lại là một chuyện khác. 2.1.3. Hiện tượng bắt chước các đối thủ cạnh tranh (Followng the competitors) Một lý thuyết khác được sử dụng để giải thích đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên quan niệm rằng các doanh nghiệp làm theo các đối thủ cạnh tranh. Được đề xướng đầu tiên bởi F.T.Knickerbocker, lý thuyết này được phát triển đối với các ngành độc quyền nhóm. Ngành độc quyền nhóm (oligopoly) là ngành do một số ít các doanh nghiệp lớn nắm giữ. Một đặc tính cạnh tranh của những ngành đó là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những đối thủ cạnh tranh. Mỗi động thái của một doanh nghiệp sẽ lập tức gây ra những tác động tới các đối thủ cạnh tranh, buộc họ đưa ra những phản ứng tương tự. Cách ứng xử theo kiểu bắt chước này trong một ngành độc quyền nhóm bao gồm nhiều hình thức. Một doanh nghiệp tăng giá, các doanh nghiệp khác làm theo; một doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, các đối thủ cạnh tranh bắt chước để đề phòng bất trắc. Trên nguyên tắc đó, Knickerbocker cho rằng điều tương tự cũng xảy ra với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hãy xem xét một ngành độc quyền ở nhóm Mỹ gồm 3 doanh nghiệp A, B, C chi phối thị trường. Doanh nghiệp A thiết lập 1 chi nhánh ở Pháp. Doanh nghiệp B, C nghĩ rằng nếu hoạt động đầu tư của A thành công, nó sẽ đẩy lùi hàng hoá B, C xuất khẩu sang Pháp và tạo cho A lợi thế của người tiên phong. Hơn nữa, doanh nghiệp A có thể khám phá ra một số tài sản cạnh trạnh tại Pháp và đưa trở lại nước Mỹ để gây khó khăn cho doanh nghiệp B và C trên chính mảnh đất của họ. Với những khả năng đó, doanh nghiệp B và C quyết định theo A và tổ chức sản xuất tại Pháp. Mặc dù lý thuyết của Knickerbocker giải thích cách ứng xử theo kiểu bắt chước của các doanh nghiệp trong một ngành độc quyền nhóm không giải thích tại sao các doanh nghiệp trong một ngành độc quyền nhóm tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài mà không xuất khẩu hoặc bán li xăng. Ngược lại, lý luận về sự không hoàn hảo của thị trường giải thích hiện tượng này. Hơn nữa, lý thuyết bắt chước không giải thích vấn đề liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả hơn xuất khẩu hoặc bán li xăng trong việc mở rộng ra nước ngoài hay không. Với các lý do này, phần lớn các nhà kinh tế học đánh giá cao lý luận thị trường không hoàn hảo, mặc dù hầu hết đều đồng ý rằng lý thuyết bắt chước các đối thủ cạnh tranh cũng cho thấy một phần của vấn đề. 2.1.4. Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm (The Product cycle) Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm do Raymond Vernon đưa ra. Vernon tranh luận rằmg trong nhiều trường hợp, việc xây dựng các cơ sở sản xuất ở nước ngoài để đáp ứng nhu cầu của thị trường tại đó về một sản phẩm hoặc để xuất khẩu sang thị trường khác thường được tiến hành bởi các doanh nghiệp tiên phong trong việc sản xuất và giới thiệu sản phẩm đó tại thị trường trong nước. Quan điểm của Vernon là các doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một giai đoạn đặc biệt trong chu kỳ sống của sản phẩm mà họ đã tiên phong sản xuất. Họ đầu tư sản xuất vào một nước phát triển khác khi nhu cầu ở các nước này tăng trưởng tới mức có thể ủng hộ sản xuất tại đó. Sau đó, họ di chuyển hoạt động sản xuất tới các nước đang phát triển khi tiêu chuẩn sản phẩm và sự bão hòa của thị trường làm tăng giá cạnh tranh và áp lực về chi phí. Việc đầu tư ở các nước đang phát triển, nơi mà chi phí lao động rẻ hơn được xem là các tốt nhất được giảm chi phí. Lý thuyết của Vernon có một giá trị quan trọng. Các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài khi nhu cầu ở nước đó ủng hộ sản xuất tại nước đó và họ đầu tư vào nơi có chi phí sản xuất thấp (như các nước đang phát triển) khi sức ép của chi phí tăng lên. Điều mà lý thuyết của Vernon không giải thích được là tại sao các doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận khi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các thời điểm đó hơn là tiếp tục xuất khẩu hoặc bán li xăng. Nếu chỉ vì nhu cầu ở một nước khác đủ lớn để ủng hộ sản xuất ở nước đó thì chưa chắc việc sản xuất ở nước đó có thể đem lại lợi nhuận tối đa. Có thể sẽ vẫn có lợi nếu sản xuất trong nước và sản xuất tới nước đó. Cũng có thể có nhiều lợi nhuận hơn nếu bán li xăng sản xuất cho một doanh nghiệp ở nước đó. Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm đã bỏ qua những sự lựa chọn này và chỉ đơn giản cho cho rằng khi một thị trường nước ngoài đủ lớn để ủng hộ sản xuất tại đó, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ được tiến hành. Điều đó đã hạn chế sức thuyết phục và tính hữu dụng của lý thuyết này. 2.1.5. Những lợi thế đặc trưng của vị trí (Location-specific advantages) Nhà kinh tế học người Anh, John Dunning đã cho rằng bên cạnh các nhân tố đã thảo luận trên, những lợi thế đặc trưng của vị trí cũng là nhân tố quan trọng để giải thích bản chất và phương hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Dunning, những lợi thế đặc trưng của vị trí là những lợi thế có được từ việc khai thác các nguồn lực ở một vị trí đặc biệt ở nước ngoài bằng những tài sản của doanh nghiệp. Dunning đồng ý rằng sự không hoàn hảo của thị trường gây khó khăn cho việc bán li xăng. Vì thế, để kết hợp các nguồn lực nước ngoài với các tài sản của doanh nghiệp, cần tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một ví dụ cho lý lẽ của Dunning là tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và các khoáng sản khác, những thứ được phân bố ở một số nơi nhất định. Dunning đề xuất rằng, để khai thác các nguồn lực nước ngoài như thế, một doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài. Rõ ràng, điều này giải thích việc đầu tư trực tiếp nước ngoài của rất nhiều các công ty dầu mỏ trên thế giới, những công ty phải tiến hành đầu tư ở những nơi có dầu mỏ để kết hợp trình độ kỹ thuật và quản lý của họ với nguồn lực quý giá này. Những ví dụ khác là nguồn nhân lực với giá rẻ, trình độ tay nghề cao. Chi phí và trình độ lao động khác nhau giữa các nước, vì lao động không dễ dàng di chuyển giữa các nước, nên Dunning cho rằng điều đó giải thích một doanh nghiệp bố trí cơ sở sản xuất ở các nước mà chi phí và trình độ lao động địa phương phù hợp nhất với quy trình sản xuất của họ. Tuy nhiên, lý thuyết của Dunning chứa đựng những ngụ ý đằng sau các nguồn lực cơ bản như khoáng sản và lao động. Hãy xem xét thung lũng Silicon trung tâm công nghiệp máy tính của thế giới. Rất nhiều công ty sản xuất máy tính và linh kiện bán dẫn như Apple Computer, Silicon Graphics và Intel hiện đang cùng hoạt động trong thung lũng Silicon này. Rất nhiều hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ máy tính diễn ra ở đây. Theo Dunning có những trí thức được phát hiện tại thung lũng Silicon về công nghệ máy tính không được biết ở những nơi khác trên thế giới. Vì thế, các công ty ở trong thung lũng Silicon sẽ được hưởng các lợi thế đó, đây là động lực thôi thúc các công ty máy tính hàng đầu thế giới đầu tư vào trung tâm công nghệ này. 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (Vertical FDI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc được tiến hành theo 2 dạng: Một là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía trước (backward vertical FDI) là việc một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một ngành cung cấp các yếu tố đầu vào cho quy trình sản xuất của doanh nghiệp đó. Hầu hết đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía trước là vào ngành công nghiệp khai thác (như khai thác dầu mỏ, khoáng chất). Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía sau (forward vertical FDI) là việc một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một ngành tiêu thụ sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía sau không phổ biến bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía trước, vì vậy đề tài chỉ đề cập đến những lý luận giải thích đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía trước. Đối với cả đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang và chiều dọc, câu hỏi cần được trả lại là tại sao một doanh nghiệp lại chấp nhận những khó khăn và chi phí của việc tổ chức sản xuất ở nước ngoài. Lý luận về lợi thế đặc trưng của vị trí được đề cập trong phần trước giúp chúng ta giải thích phương hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, lý luận này không làm rõ tại sao họ không nhập khẩu nguyên liệu do các nhà sản xuất địa phương khai thác? Và tại sao các công ty tin vào sự cần thiết phải có những người cung ứng của họ ở thị trường nước ngoài, trong khi về lý thuyết việc sử dụng các nhà cung ứng nước ngoài sẽ tiết kiệm chi phí hơn? Có hai câu trả lời cơ bản cho các câu hỏi này. Một là lý luận về sức mạnh thị trường, hai là lý luận về sự không hoàn hảo của thị trường. 2.2.1. Sức mạnh thị trường (Market power) Một khía cạnh của lý luận về sức mạnh thị trường là các doanh nghiệp tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc để hạn chế cạnh tranh và tăng cường sự kiểm soát của họ đối với thị trường. Lý lẽ thông thường nhất là bằng cách tích hợp theo chiều dọc phía trước (backward vertical integration) để kiểm soát nguồn cung ứng nguyên liệu đầu vào, một doanh nghiệp có thể đẩy các đối thủ cạnh tranh mới nổi ra khỏi thị trường. Chiến lược đó chỉ đòi hỏi đầu tư trực tiếp nước ngoài khi nguyên liệu đầu vào được tìm thấy ở nước ngoài. Một khía cạnh khác của lý thuyết sức mạnh thị trường trong việc giải thích đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc không phải là những nỗ lực để tạo ra rào cản đối với việc nhập ngành (entry barrier) mà là nỗ lực để phá vỡ những rào cản đã được dựng lên. 2.2.2. Sự không hoàn hảo của thị trường (Market imperfections) Lý luận về sự không hoàn hảo của thị trường đưa ra hai cách giải thích cho đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc. Cách giải thích thứ nhất xoay quanh ý kiến cho rằng có những cản trở đối với việc bán lixăng qua cơ chế thị trường. Cách giải thích thứ hai căn cứ vào ý kiến cho rằng đầu tư vào các tài sản chuyên dụng đặt doanh nghiệp đầu tư vào các rủi ro chỉ có thể hạn chế bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc. Những cản trở đối với việc bán Lixăng Xét trường hợp của các công ty chế biến dầu mỏ như British Petroleum (BP) và Royal Dutch Shell. Trong lịch sử, các công ty này đã theo đuổi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để cung ứng dầu thô cho các cơ sở lọc dầu của họ ở Anh và Hà Lan. Khi điều đó diễn ra trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ này, cả Anh và Hà Lan đều không có nguồn cung cấp dầu thô trong nước. Tại sao các công ty này lại theo đuổi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo nguyên liệu đầu vào mà không nhập khẩu dầu mỏ từ các nước nhiều dầu như Arập và Kô-oét? Câu trả lời là ngay từ đầu chưa có công ty nào của Arập và Kô-oét có phương tiện kỹ thuật để tìm kiếm và khai thác dầu mỏ. BP và Royal Dutch Shell buộc phải tự phát triển các công nghệ khai thác dầu mỏ. Sau khi BP và Royal Dutch Shell đã phát triển các công nghệ cần thiết, họ có thể bán bản quyền cho các công ty của Arập và Kô-oét. Tuy nhiên họ đã không làm như vậy vì nếu các doanh nghiệp chế biến dầu mỏ bán công nghệ thăm dò và khai thác dầu mỏ của họ cho các doanh nghiệp của Arập và Kô-oét, họ sẽ phải gánh chịu những nguy cơ về các đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Vì thế các công ty này phải duy trì hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tự khai thác dầu mỏ thay vì bán những công nghệ của họ cho các doanh nghiệp địa phương. Khái quát từ ví dụ này, có thể tự đoán là đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía trước sẽ xảy ra khi một công ty có tri thức và khả năng khai thác nguyên liệu thô ở một nước khác và không có một nhà sản xuất nào ở nước đó có thể cung cấp nguyên liệu thô cho doanh nghiệp. Đầu tư vào các tài sản chuyên dụng (Investment in specized assets) Một khía cạnh khác của lý luận thị trường không hoàn hảo dự đoán rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc phía trước sẽ diễn ra khi một doanh nghiệp phải đầu tư vào các tài sản chuyên dụng, những tài sản mà giá trị của nó phụ thuộc vào đầu vào cung cấp bởi một nhà cung cấp nước ngoài. Trong phạm vi này, tài sản chuyên dụng là một loại tài sản được thiết kế để thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt và giá trị của nó đã giảm đáng kể với một mục đích sử dụng khác. Những lý luận trên không chỉ giải thích sự tồn tại của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các nước phát triển mà còn cho thấy các nước đang phát triển cũng là nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Trong lịch sử, đã có rất nhiều nhà kinh tế học, với nhiều cách tiếp cận khác nhau, đưa ra các lý luận để giải thích cơ sở kinh tế học của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên đây là một số lý luận lý giải hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên nhu cầu và hành vi của các nhà đầu tư. Hiểu rõ nhu cầu và hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài là căn cứ quan trọng để một nước có thể tạo ra lực hấp dẫn đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tân dụng tối đa những tác động tích cực và ngăn ngừa, hạn chế những tác động không như mong muốn của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3. Các hình thức đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua ba hinhf thức chủ yếu sau: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài Ngoài ra luật đầu tư nước ngoài Việt Nam cũng quy định thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đực đầu tư theo các phương thức đặc biệt như doanh nghiệp chế xuất, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) 3.1 Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Đây là hình thức đầu tư trức tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở mức nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân. Hình thức này không làm hình thành một công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập của mình và mỗi bên thực hiện nghĩa vụ theo quy định trong hợp đồng. Kết quả phụ thuộc vào sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh. Luật còn quy định thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh, bên Việt Nam nộp thuế áp dụng cho doanh nghiệp trong nước, bên nước ngoài nộp thuế theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được kết thúc trước thời hạn nếu thoả mãn đủ các điều kiện quy định trong hợp đồng. Hợp đồng cũng có thể được kéo dài khi có sự đồng ý của Bộ kế hoạch và đầu tư. 3.2 Doanh nghiệp liên doanh Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc ký hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh cũng có thể được thành lập do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó phần góp vốn cuả nước ngoài không hạn chế mức tối đa, nhưng mức tối thiểu theo quy định của luật không dưới 30% vốn pháp định. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Số người tham gia hội đồng quản trị lãnh đạo doanh nghiệp của các bên phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn. Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất lãnh đạo liên doanh. Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc nhất trí đối với các vấn đề quan trọng như: duyệt quyết toán thu chi tài chính hàng năm và quyết toán công trình, sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư, bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất và kế toán trưởng...lợi nhuận và rủi ro của doanh nghiệp liên doanh này được phân chia theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên. Luật đầu tư nước ngoài VIệt Nam còn quy định thời gian hoạt động của liên doanh thông thường từ 30 năm đến 50 năm, trong trường hợp đặc biệt không quá 70 năm. Doanh nghiệp liên doanh phải giải thể khi hết thời hạn hoạt động trừ khi việc kéo dài thời gian hoạt động đã được cơ quan quản lý nhà nước về hợp tác và đầu tư chuẩn y. Đồng thời doanh nghiệp liên doanh cũng có thể kết thúc hợp đồng sớm hơn trong một số trường hợp đặc biệt như: gặp bất khả kháng, một hoặc các bên liên doanh không thực hiện nghĩa vụ quy định trong hợp đồng... 3.3 Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp. 3.4 Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao Là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu, hạ tầng trong một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao thường được thực hiện bằng vốn nước ngoài 100%, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần góp vốn của chính phủ Việt Nam hoặc các tổ chức, cá nhân Việt Nam. Tronh hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam mà không thu bất kỳ khoản tiền nào. 3.5 Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh Là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho Nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam sẽ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. 3.6 Hợp đồng xây dựng - chuyển giao Là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. 3.7 Doanh nghiệp chế xuất Là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu được thành lập và hoạt động theo quy định của chính phủ về doanh nghiệp chế xuất. 4. Các nhân tố ả._.nh hưởng tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục tiêu cơ bản nhất của các nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận do đó bất cứ nhân tố nào có tác dụng tăng khả năng thu lợi nhuận từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư. Để biểu diện sự phụ thuộc của nhu cầu đầu tư (I) vào các nhân tố đó, trong kinh tế học, người ta sử dụng mô hình đường cầu đầu tư (II). II II' r r1 r2 I1 I2 I Hình 1: Đường cầu đầu tư Đường cầu đầu tư được định nghĩa là đường biểu diễn khối lượng đầu tư mà các nhà đầu tư muốn thực hiện ở các mức lãi suất (hình 1). Trong mô hình đường cầu đầu tư, lãi suất được coi là nhân tố nội sinh, nhân tố này làm di chuyển đường cầu đầu tư, các nhân tố khác là nhân tố ngoại sinh làm dịch chuyển đường cầu đầu tư. Sở dĩ lãi suất được chọn làm nhân tố nội sinh trong mô hình đường cầu đầu tư vì lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu. Lãi suất tác động như thế nào tới lợi nhuận của hoạt động đầu tư và do đó tác động tới nhu cầu đầu tư? Chúng ta điều biết rằng đầu tư là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để thu được lợi ích trong tương lai. Như vậy, trong một dự án đầu tư, chi phí và doanh thu được thực hiện ở những thời điểm khác nhau. Để so sánh doanh thu với chi phí trong điều kiện tiền có giá trị biến đổi theo thời gian, các nhà đầu tư đã sử dụng lãi suất r làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các dòng tiền về mặt bằng thời gian hiện tại. Khi đó, lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư được tính theo công thức sau: n Bl-Ci NPV = ồ i=o (1+r)i Như vậy, nếu lãi suất r càng tăng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư càng giảm. Một trong những điều kiện để nhà đầu tư lựa chọn dự án là NPV³0 hoặc IRR³r (IRR là tỷ số hoàn vốn nội bộ, đây là mức lãi suất mà khi dùng nó để tính NPV thì NPV = 0). Lãi suất càng tăng thì số dự án đầu tư có NPV³0 hoặc IRR³r càng giảm, do đó nhu cầu đầu tư càng giảm. Hơn nữa mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích người có tiền đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hơn là tiền gửi vào ngân hàng. Do đó, đường cầu đầu tư là đường dốc xuống. Độ dốc của đường cầu đầu tư II phụ thuộc vào độ dài thời gian của các công cuộc đầu tư. Thời gian càng dài thì ảnh hưởng của lãi suất tới lợi nhuận đấu tư càng lớn, đường cầu đầu tư càng thoải hơn. Độ cao của đường cầu đầu tư phụ thuộc vào các nhân tố ngoại sinh khác như chi phí sản xuất, môi trường đầu tư. Chi phí sản xuất bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công và chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất giảm thì lợi nhuận sẽ tăng tại mọi mức lãi suất, đầu tư tăng tại mọi mức lãi suất, đường cầu đầu tư dịch chuyển sang phải. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, có một nhân tố rất quan trọng có ảnh hưởng đến chi phí sản xuất tại nước nhận đầu tư đó là tỷ giá hối đoái. Nếu đồng tiền của nước nhận đầu tư tăng giá, chi phí sản xuất ở đây sẽ tăng lên, điều này làm giảm quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài. Môi trường đầu tư bao gồm: vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của khu vực đầu tư, cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường giao thông, hệ thống cấp điện, cấp nước), cơ sở hạ tầng xã hội (các tiện nghi ăn nghỉ, giải trí) và môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu môi trường đầu tư càng thuận lợi thì đầu tư sẽ tăng tại mọi mức lãi suất, đường cầu đầu tư dịch sang phải. Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau. Trong mô hình đường cầu đầu tư, lãi suất là nhân tố nội sinh làm di chuyển đường cầu đầu tư, lãi suất càng nhỏ thì nhu cầu đầu tư càng lớn. Mức độ ảnh hưởng của lãi suất tới nhu cầu đầu tư phụ thuộc vào độ dài thời gian của công cuộc đầu tư, dự án đầu tư càng kéo dài thì nhu cầu đầu tư càng nhạy cảm với lãi suất. Các nhân tố ngoại sinh như chi phí sản xuất, các điều kiện của môi trường đầu tư làm dịch chuyển đường cầu đầu tư. 5. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động hai mặt tới nền kinh tế của cả nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư, có nghĩa là các quốc gia được hưởng lợi ích do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại, song cũng phải trả những chi phí cho hoạt động kinh tế này. Trước tiên, chúng ta sẽ chứng minh điều đó với các nước nhận đầu tư. 5.1. Lợi ích đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho nước nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem đến cho nước nhận đầu tư những nguồn lực bổ sung quan trọng, trong đó, phải kể đến ba nguồn lực cơ bản nhất là vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Về vốn, đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng, nó được coi là một "cú huých" giúp các nước này dadàn thoát ra khỏi "vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói". Các nước đang phát triển đều hiểu rằng muốn tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, muốn thoát khỏi cảnh đói nghèo, không có cách nào khác là phải đầu tư phát triển sản xuất. Tuy nhiên, các nước này trên con đường phát triển của mình vấp phải một trở ngại, đó là thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp. Nhưng đổi lại, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực giá rẻ là những thứ sẵn có ở các nước đang phát triển, cũng là những thứ mà các nhà đầu tư nước ngoài đang cần. Vì vậy, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã diễn ra, mang lại cho các nước đang phát triển nguồn vốn đầu tư bổ sung quan trọng. Đối với các nước phát triển, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một nguồn vốn quan trọng. Thực tế cho thấy, các nước phát triển là những nước đi đầu tư lớn nhất nhưng cũng là nơi nhận nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài quan trọng không phải bởi các nước này có nhu cầu về vốn đầu tư mà do đây là một trong các nhân tố giúp các nước phát triển đẩy nhanh quá trình phân công lao động quốc tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu. Về công nghệ, trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư không chỉ đầu tư vốn bằng tiền mà còn chuyển cả máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ vào nước nhận đầu tư. Nhờ vậy, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, các nước đang phát triển đứng trước nguy cơ đã nghèo ngày càng nghèo hơn, nếu quá trình công nghiệp hoá không được tiến hành một cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, thời đại khoa học công nghệ cũng đem lại cho các nước này một cơ hội tốt để rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí đổi mới công nghệ sản xuất nhờ các hoạt động chuyển giao công nghệ. Đây là một ích lợi nữa mà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mang lại cho các nước đang phát triển. Chuyển giao công nghệ cũng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa học kỹ thuật ở các nước công nghiệp phát triển. Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật công nghệ mới thì cũng phải tìm được nơi để chuyển giao những công nghệ đã cũ. Sự "lan toả" những thành tự khoa học kỹ thuật như thế đã tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng và rộng khắp của khoa học kỹ thuật. Mặt khác, việc chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển là kết quả tất yếu của quá trình chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc giữa các nước này. Các nước phát triển dù đã đạt tới trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng không thể toàn diện được. Mỗi nước đều có thế mạnh riêng về khoa học công nghệ. Do đó, việc chuyển giao công nghệ là cần thiết. Các nước này sẽ phát triển xu hướng liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là cách thức duy nhất để tiếp cận các công nghệ tiên tiến. Một sự lựa chọn khác là mua lixăng của các công ty nước ngoài. Lợi ích của việc mua li xăng là đổi lại một khoản phí bản quyền phải nộp, các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận trực tiếp các công nghệ có giá trị. Tuy nhiên, mua bán li xăng thường ít hấp dẫn hơn đối với các công ty đa quốc gia. Với hình thức bán bản quyền công nghệ của mình cho các công ty nước ngoài, một công ty có thể đứng trước nguy cơ về những đối thủ cạnh tranh trong tương lai như bài học của công ty Mỹ ở Nhật Bản. Với tình trạng đó, cách thức chuyển giao công nghệ thông qua mua bán li xăng hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể là một điểm thoả thuận chủ yếu giữa công ty đa quốc gia và Chính phủ nước nhận đầu tư. Về kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài được cung cấp thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tạo ra những lợi ích quan trọng đối với nước nhận đầu tư. Những lợi ích gián tiếp này xuất hiện khi những nhân viên địa phương, những người được đào tạo để đảm nhiệm các vị trí quản lý, tài chính và kỹ thuật trong một chi nhanh của một công ty đa quốc gia rời khỏi công ty và tham gia thành lập các công ty. Tương tự như vậy, lợi ích có thể xuất hiện khi những kỹ năng quản trị cấp cao của các công ty đa quốc gia thúc đẩy những nhà cung ứng, tiêu thụ và các đối thủ cạnh tranh ở địa phương cải tiến phương thức quản lý của chính họ. Những lợi ích này sẽ giảm nhiều nếu hầu hết các vị trí quản lý và các công việc kỹ thuật cao trong các chi nhánh của công ty nước ngoài được dành cho người nước ngoài. Trong trường hợp đó, người dân nước nhận đầu tư không được nhận những lợi ích từ việc đào tạo của công ty đa quốc gia. Do đó, tỷ lệ vị trí quản lý và công nghệ kỹ thuật cao dành cho người dân nước nhận đầu tư có thể là một điểm đàm phán quan trọng giữa một công ty đa quốc gia muốn tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài và Chính phủ nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra sự tăng trưởng kinh tế. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế là hệ quả tất yếu của sự di chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý vào nước nhận đầu tư. Những nhân tố này không chỉ bổ sung những nguồn lực cần thiết cho sự tăng trưởng mà còn làm tăng hiệu quả của sự tăng trưởng kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu là khái niệm biểu hiện kết cấu của một tổng thể bao gồm số bộ phận cấu thành và mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận đó trong tổng thể. Kinh tế: cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế không bất biến mà không luôn thay đổi. Sự thay đổi này là do số lượng các bộ phận thay đổi hoặc mối tương quan về tốc độ tăng trưởng giữa các bộ phận thay đổi. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra những ngành sản xuất mới, tạo ra sự tăng trưởng trong các ngành, các vùng, trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, đầu tư tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có ba lý do giải thích tại sao sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế lại quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Thứ nhất, cơ cấu kinh tế phản ảnh trình độ phát triển của nền kinh tế, ứng với mỗi mức độ phát triển khác nhau của nền kinh tế cần có một cơ cấu ngành phù hợp. Thứ hai, cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế có hiệu quả trên cơ sở khai thác hiệu quả những nguồn lực và lợi thế so sánh của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế. Thứ ba, cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ góp phần giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, các thành phần kinh tế, tạo nên sự ổn định chính trị xã hội trong phạm vi quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực đối với cán cán cân thanh toán. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cán cân thanh toán cũng là một vấn đề mà Chính phủ các nước nhận đầu tư quan tâm. Tại sao lại như vậy? để hiểu vấn đề này, đầu tiên chúng ta cần phải hiểu về cán cân thanh toán. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động thế nào đến cán cân thanh toán. Cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép lại một cách có hệ thống các khoản thu và chi của quốc gia đó với các quốc gia khác. Bất cứ giao dịch nào dẫn đến việc chi trả cho quốc gia khác được đưa vào cán cân thanh toán như một khoản nợ và được ghi dấu âm. Bất cứ giao dịch nào dẫn đến việc thu tiền từ các quốc gia khác được đưa vào cán cân thanh toán như một khoản có và được ghi dấu dương. Cán cân thanh toán được chia thành hai phần chính: Tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Tài khoản vãng lại ghi lại các giao dịch thuộc ba nhóm. Nhóm thứ nhất là buôn bán hàng hoá, liên quan đến xuất khẩu hoặc nhập khẩu hàng hoá "ô-tô, hoá chất, máy tính...". Nhóm thứ hai là xuất khẩu hoặc nhập khẩu dịch vụ "các sản phẩm vô hình như dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm...". Nhóm thứ ba liên quan đến hoạt động đầu tư tức là thu nhập từ hoạt động đầu tư nước ngoài của nước đó và chi phí phải trả cho người đầu tư nước ngoài đầu tư nước đó. Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản. Trong cán cân thanh toán, tổng cán cân tài khoản vãng lai và cán cân tài khoản vốn phải bằng không, mặc dù trong thực tế, điều này không phải luôn luôn xảy ra do những sai số trong quá trình thống kê. Các Chính phủ thường lo lắng khi tài khoản vãng lai thâm hụt bởi vì mỗi sự thâm hụt trong tài khoản vãng lai đều phải được tài trợ bằng cách bán tài sản "cổ phiếu, trái phiếu" cho các nước, tức là một sự thặng dư trong tài khoản vốn một đất nước mà tài khoản vãng lai bị thâm hụt sẽ trở thành một người vay nợ. Vấn đề gì xảy ra? Như một kết cục của việc tài trợ thâm hụt tài khoản vãng lai, nước vay nợ sẽ phải có trách nhiệm chi trả trái tức cho trái chủ nước ngoài, cổ tức cho cổ đông nước ngoài. Các khoản chi trả cho người nước ngoài làm cạn kiệt nguồn lực của một quốc gia và hạn chế các khoản tích luỹ cho đầu tư. Do đầu tư là một nhân tố rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai dai dẳng có thể làm biết mất những triển vọng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Những vấn đề nói trên về sự thâm hụt tài khoản vãng lai, tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cán cân thanh toán có thể là một vấn đề quan trọng cần xem xét của Chính phủ nước sở tại. Những tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư bao gồm: Một là, khi một công ty đa quốc gia được thiết lập chi nhánh của nó ở nước ngoài, tài khoản vốn của nước nhận đầu tư được lợi từ dòng vốn đầu tư ban đầu được đưa vào nước đó (một khoản nợ sẽ được ghi vào tài khoản vốn của nước đi đầu tư vì vốn được đưa ra khỏi nước đó). Tuy nhiên, đây là hiệu ứng chỉ xảy ra một lần. Đối chiếu với nói là dòng thu nhập của công ty mẹ được đưa ra khỏi nước nhận đầu tư, nó sẽ được ghi vào tài khoản vãng lại của nước nhận đầu tư như một khoản nợ. Hai là, nếu đầu tư trực tiếp nước ngoài được sử dụng thay thế cho việc nhập khẩu hàng hoá hoặc dịch vụ, nó sẽ cải thiện tài khoản vãng lại của cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư. Lợi ích tiềm năng thứ ba đối với cán cân thanh toán của một nước nhận đầu tư xuất hiện khi công ty đa quốc gia sử dụng chi nhánh của nó ở nước nhận đầu tư để xuất khẩu hàng hoá dịch vụ tới các quốc gia khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng chất lượng lực lượng lao động. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể tạo ra nhiều việc làm cho nước nhận đầu tư, bao gồm cả việc làm trực tiếp và gián tiếp. Việc làm trực tiếp được tạo ra khi các công ty nước ngoài trực tiếp tuyển dụng lao động của nước nhận đầu tư, việc làm gián tiếp được tạo ra bởi các doanh nghiệp có liên quan, bao gồm các doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có nhiều việc làm mà điều kiện tiên quyết bảo đảm thu nhập ổn định cho người lao động. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chất lượng lực lượng lao động thể hiện trên hai phương diện: Một là, đầu tư cho việc đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực là một trong những đầu tư quan trọng trong doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư này mang lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Thông qua đào tạo, doanh nghiệp có được một lực lượng lao động có chất lượng phù hợp với những hoạt động sản xuất, những đặc trưng của doanh nghiệp. Thông qua đào tạo, các sáng kiến của cá nhân sẽ được phổ biến và áp dụng trong toàn doanh nghiệp, do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được nâng cao. Hai là, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu nhập và cơ hội thăng tiến của người lao động sẽ nhiều hơn. Điều này tạo điều kiện và thúc đẩy người lao động tự học tập, tự đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề. Chất lượng nguồn nhân lực là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại của khoa học công nghệ như hiện nay. 5.2. Chi phí của nước nhận đầu tư cho đầu tư trực tiếp nước ngoài Khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước nhận đầu tư phải đối mặt với những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế như: Những tác động tiêu cực đối với cạnh tranh, tác động tiêu đối với cán cân thanh toán và vấn đề độc lập, chủ quyền của nước nhận đầu tư. Những tác động tiêu cực đối với cạnh tranh. Chính phủ nước nhận đầu tư đôi khi lo lắng rằng chi nhánh của các công ty đa quốc gia nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ của họ sẽ có thể có sức cạnh tranh lớn hơn các doanh nghiệp trong nước. Các công ty đa quốc gia nước ngoài có khả năng rút tiền ở bất cứ đâu để tài trợ cho chi phí sản xuất ở nước nhận đầu tư. Vì thế nó có thể độc chiếm thị trường nước nhận đầu tư bằng cách đặt giá thấp hơn các doanh nghiệp trong nước và đẩy các doanh nghiệp trong nước vào tình trạng phá sản. Một khi thị trường bị độc quyền hoá, công ty đa quốc gia nước ngoài sẽ tăng giá cao hơn mức tăng giá phổ biến trên thị trường cạnh tranh, độc quyền hoá sẽ gây hại đối với nền kinh tế của nước nhận đầu tư. Điều này đặc biệt đúng ở các nước có rất ít doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh một cách hiệu quả đối với các công ty nước ngoài, thường là các nước đang phát triển. Nó khó xảy ra hơn đối với các nước công nghiệp phát triển. Một điểm đáng chú ý khác trong lỹ lẽ về cạnh tranh liên quan đến các ngành công nghiệp non trẻ. Kiềm chế nhập khẩu thường được thực hiện tạo điều kiện cho ngành công nghiệp trong nước phát triển tới một mức độ mà có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Theo lôgic giống như vậy, để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần bị hạn chế. Nếu một nước có lợi thế so sánh về một ngành đặc biệt nào đó mà cho phép các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành đó, các doanh nghiệp trong nước sẽ mất cơ hội phát triển. Những tác động tiêu cực đối với cán cân thanh toán. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể xảy ra hai vấn đề chính đối với cán cân thanh toán. Một là, như đã đề cập, đối ngịch với vốn đầu tư ban đầu được đưa vào cùng với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là dòng thu nhập chuyển ra nước ngoài cho công ty mẹ. Dòng tiền chuyển ra đó là một khoản nợ trong tài khoản vãng lai. Một số Chính phủ đã phản ứng đối với dòng tiền đó bằng cách quy định mức hạn chế đối với thu nhập được đưa về nước đi đầu tư. Vấn đề thứ hai xuất hiện khi chi nhánh của công ty nước ngoài nhập khẩu một khối lượng đáng kể các yếu tố đầu vào từ nước ngoài, kết quả là một khoản nợ trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán nước nhận đầu tư. Những tác động đối với độc lập chủ quyền của quốc gia. Rất nhiều Chính phủ nước nhận đầu tư lo ngại rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đi kèm với những thiệt hại về độc lập kinh tế. Những vấn đề là những quyết định cơ bản có thể gây ảnh hưởng tới nền kinh tế nước nhận đầu tư sẽ do công ty mẹ đưa ra, các công ty này không có một cam kết thực sự nào với nước nhận đầu tư, do đó, Chính phủ nước nhận đầu tư không có khả năng kiểm soát thực sự. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế học đã bác bỏ lý lẽ vô căn cứ và không hợp lý đó. Nhà chính trị học Robert Reich gần đây đã nói rằng lý lẽ đó là một sản phẩm của cách nghĩ đã lỗi thời bởi vì họ đã thất bại trong việc giải thích sự phụ thuộc lẫn nhau về tăng trưởng trong nền kinh tế thế giới. Trong một thế (giới nơi mà các doanh nghiệp từ các quốc gia phát triển đang đầu tư ngày càng nhiều hơn vào thị trường của nhau không thể có chuyện một nước có thể nắm giữa nước khác mà không làm tổn thương chính nó. II- Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới 1. Kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc. Sự tăng trưởng liên tục và mạnh mẽ của dòng vốn FDI trên thế giới trong thập kỷ qua là một bằng chứng thuyết phục khẳng định tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với mọi nền kinh tế. Không phân biệt nước phát triển hay nước đang phát triển. Nhiều quốc gia đang phát triển đã tạo ra những bước nhảy thần kỳ trong quá trình tăng trưởng nhờ những nỗ lực huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thập kỷ 90, quốc gia thành công nhất về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong số các nước phát triển là Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay, Trung Quốc luôn là nước đứng đầu nhóm các nước đang phát triển trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1997, Trung Quốc chiếm tới 25% tổng vốn FDI vào các nước đang phát triển). Những kinh nghiệm của Trung Quốc rất hữu ích đối với Việt Nam bởi những điểm tương đồng về cơ chế kinh tế mà 2 quốc gia này đang xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn 1979 đến 1985, các nhà đầu tư nước ngoài mới chỉ đầu tư thăm dò quyết tâm và chính sách mở cửa của Trung Quốc, về phía Trung Quốc thời kỳ này cũng còn có những lo ngại cho rằng đầu tư trực tiếp của nước ngoài sẽ dẫn đến chủ nghĩa tư bản, những e ngại do chưa hiểu biết hết thông lệ quốc tế và thiếu kinh nghiệm quản lý hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, trong những năm đó, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc tăng trưởng chậm, quy mô đầu tư nhỏ bé. Tính đến cuối năm 1985, Trung Quốc chỉ thu hút được 4.72 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho 6321 hạng mục. Từ đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh chiến lược và chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài như: "dựa vào bên ngoài cả đầu vào và thị trường đầu ra", "kết hợp công thương và lấy công nghiệp làm chủ đạo"... Những thay đổi này đã cải thiện rõ rệt kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trong giai đoạn 1986-1990 là 29.67%. Bước sang thập kỷ 90, Trung Quốc quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa tốc độ cải cách kinh tế thị trường, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư. Tính đến cuối năm 1998, Trung Quốc đã phê chuẩn 324712 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đăng ký là 572.52 tỷ USD, vốn thực hiện là 286.98 tỷ USD. Theo dự đoán của một số tổ chức nghiên cứu kinh tế quốc tế, trong thập kỷ tới Trung Quốc sẽ vẫn giữ vị trí hàng đầu về thu hút vốn FDI trong nhóm các nước đang phát triển và đứng thứ 4 trên thế giới sau Mỹ, Anh và Đức. Chính sách đổi mới mở cửa, tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại những tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Trung Quốc luôn duy trì được một tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong suốt thập kỷ 90. Nhờ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ, một số lĩnh vực khoa học công nghệ của Trung Quốc đã đạt trình độ cao của thế giới, rút ngắn khoảng cách về công nghệ giữa Trung Quốc với các nước công nghiệp phát triển. Những thành quả trên có được một phần là do những lợi thế to lớn của Trung Quốc về thị trường nội địa và nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng tốt. Tuy nhiên, những lợi thế đó sẽ không thể phát huy nếu Nhà nước không có những chủ trương, chính sách và bước đi đúng đắn, thận trọng nhưng khẩn trương. Chủ trương đầu tiên phải kể đến là "tiến hành mở cửa từng khu vực", bắt đầu từ điểm (5 đặc khu kinh tế) đến"tuyến" (14 thành phố ven biển), đến diện (3 vùng ven sông, ven biển và ven biên giới), dần tiến đến mở cửa toàn diện. Chủ trương này có 2 tác dụng. Một là, định hướng cho hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện một cách có trọng điểm, từ đó tạo sự lan toả ra những khu vực xung quanh. Hai là, tạo điều kiện để các địa phương, các vùng có thể rút kinh nghiệm từ các địa phương đi trước. Hạn chế sai lầm và nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ hai, Trung Quốc đã từng bước hoàn thiện môi trường luật pháp và dành nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư. Ngày 1/7/1979, Bộ luật đầu tư hợp tác quốc tế đầu tiên của Trung Quốc ra đời. Tiếp sau đó, bộ luật này đã được sửa đổi bổ sung và nhiều văn bản phát quy liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã ra đời. Các văn bản đó nhất quán tập trung vào các mục tiêu xây dựng, cải tạo môi trường đầu tư của Trung Quốc theo hướng bình đẳng, cùng có lợi và tôn trong luật pháp quốc tế. Các chính sách ưu đãi thế được Trung Quốc thiết kế theo từng khu vực, thời hạn và tính chất vốn đầu tư. Trong đó, ưu đãi cao nhất được dành cho các doanh nghiệp đầu tư vào các đặc khu kinh tế, các khu khai thác phát triển kinh tế kỹ thuật tại 14 thành phố ven biển, các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất có kỳ hạn đầu tư dài và các hành vi tái đầu tư. Thứ ba, Trung Quốc tích cực phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Trước tình hình khủng khoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, Trung Quốc vẫn mạnh dạn quyết định một chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trị giá 1500 tỷ USD trong 3 năm 1998-2000 nhằm hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng và tạo động lực mới để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Thứ tư, Trung Quốc đã thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư và chủ đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ nhiều quốc gia và từ Hoa Kiều. Thứ năm, song song với chính sách mở cửa và thu hút đầu tư nước ngoài Trung Quốc tiến hành mạnh mẽ việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân nhằm tạo ra một cơ cấu thành phần kinh tế cân đối, hiệu quả và đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Trung Quốc cũng phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gay gắt hơn mà đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra đối với các doanh nghiệp trong nước, những nguy cơ về sự phụ thuộc công nghệ một chiều hoặc thiệt hại do nhập công nghệ lạc hậu... Với những chính sách, đường lối đúng đắn, Trung Quốc đã đạt được những thành công lớn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong những năm tới, cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng, vững chắc và với việc Trung Quốc ra nhập WTO, triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc sẽ còn rộng mở. Sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ vừa tạo ra thời cơ, vừa là thách thức đối với Việt Nam nói riêng và các nước trong khu vực nói chung. 2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN 2.1. Malaysia Malaysia duy trì cơ chế đầu tư tự do. Loại trừ một số hạn chế trong một số ngành công nghiệp nhất định, tất cả các ngầnh công nghiệp trong khu vực sản xuất được mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn hình thức sở hữu hoàn toàn hoặc liên doanh, đảm bảo không bị trưng thu sở hữu và được dền bù hoàn toàn trong trường hợp bị quốc hữu hoá. Các điều kiện pháp luật luôn được điều chỉnh để đảm bảo cho môi trường đầu tư không kém hấp dẫn hơn các nước ASEAN khác. Nhìn chung các nhà đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng như các nhà đầu tư trong nước. Malaysia quy định không cấp giấy phép đầu tư cho một số ngành công nghiệp vì các lý do năng lực sản xuất hoặc thiếu nguyên liệu thô. Sau khủng hoảng, nhằm thúc đẩy hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài, Malaysia đã tiến hành một số biện pháp đáng chú ý: - Nới lỏng giới hạn cổ phần nước ngoài. Hiện nay, giới hạn này là 30% cổ phần nước ngoài, trừ các ngành công nghiệp hướng xuất khẩu, các ngành công nghệ cao, và các công ty truyền thông là lĩnh vực đặc biệt. - Trừ các dự án thuộc Danh mục loại trừ đặc biệt (quy định trong Hiệp định khung AIA), tất cả các dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất, trong đó có cả việc mở rộng và đa dạng hoá sẽ không phải tuân theo điều kiện về cổ phần và xuất khẩu. Điều này có ý nghĩa các chủ sở hữu dự án có thể nắm giữ 100% cổ phần và sẽ không cần đáp ứng yêu cầu xuất khẩu nào. Không những sửa đổi, bổ sung để tạo nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, Malaysia còn nâng cao năng lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước, thực hiện chế độ mở cửa, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài thuận lợi trong việc thiết lập cơ sở vật chất và thực hiện quá trình kinh doanh của mình. 2.2. Indonesia Chính sách tài khoá của Indonesia bao gồm chiến lược bình ổn kinh tế vĩ mô, quản lý và điều hoà nợ nước ngoài, giữ vững niềm tin cho các nhà đầu tư đối với nền tảng kinh tế. Ngoài việc đa phương hoá quan hệ đầu tư kết hợp quan hệ trọng điểm với một số nước và khu vực chính; sử dụng FDI theo hình thức liên doanh là chủ yếu; Indonesia chú trọng khuyến khích FDI vào ngành dịch vụ du lịch. Indonesia liên tiếp đưa ra những cải cách liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài. Có thể kể đến một số cải cách quan trọng như: Tỷ lệ vốn trong nước trong các liên doanh giảm xuống; danh mục ưu tiên đầu tư được thay thế bằng danh mục hạn chế đầu tư và danh mục này ngày càng được rút ngắn; nếu 20% cổ phần của doanh nghiệp liên doanh được bán thông qua thị trường tài chính Indonesia thì bên nước ngoài được phép sở hữu 55% cổ phần vốn liên doanh: bãi bỏ đặc quyền của phía Indonesia sử dụng đất đai như phần đóng góp vốn của mình trong các liên doanh, cho phép liên doanh được phép thuê đất của Nhà nước và quyền sử dụng đất được kéo dài đến 30 năm, trường hợp cần thiết có thể kéo dài thêm 25 năm nữa; thực hiện chế độ cổ phần hoá và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài dược đầu tư 100% vốn trong nhiều dự án, dược phép vay vốn của các ngân hàng trong nước. Đầu tư nước ngoài ở Indonesia không phân tán mà tập trung ở một số khu vực địa lý, một số ngành trọng điểm, vì vậy dẫn đến hình thành ở Indonesia các trung tâm kinh tế lớn. Sự kết hợp linh hoạt, chặt chẽ giữa các chính sách đã tạo điều kiện cho Indonesia sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên do tăng trưởng kinh tế không bền vững, chính sách đối với đầu tư nước ngoài hay thay đổi nên mức độ thu hút FDI ở Indonesia không bắng Singapore và Malaysia. 2.3. Thái Lan Thái Lan duy trì chính sách thương mại tự do và phi điều tiết; ._.Bắc nói chung vẫn còn thua kém. Đó là do. Một là, về cơ chế quản lý, trong cùng một khuôn khổ pháp lý chung còn nhiều bất cập, các cơ quan quản lý Nhà nước ở Miền Nam linh hoạt hơn, áp dụng các quy chế một cách "mềm dẻo" theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Họ luôn đi tiên phong trong việc cải tạo, đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Trong khi đó, tại khu vực Phía Bắc, sự thiếu hợp tác của các cơ quan chức năng được coi như một yếu tố gây trở ngại đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tại Hải Dương, thủ tục cấp giấy phép đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài đã được đơn giản hoá rất nhiều, tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn còn gặp phiền phức trong khâu triển khai dự án như việc giải phóng mặt bằng, việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải chịu sự kiểm tra, giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng. Hai là, về sức mua của thị trường, sức nua của thị trường miền Nam lớn hơn so với niềm Bắc. Người dân miền Nam nhạy cảm với kinh doanh hơn, dễ hoà nhập hơn với hoạt động của cộng đồng, mức thu nhập chi cho tiêu dùng cũng lớn hơn. Trong khi đó, người dân miền Bắc lại tiết kiệm và lo xa hơn. Chính vì nguyên nhân này mà nhiều nhà đầu tư sau khi so sánh đã quyết định đầu tư tại các tỉnh phía Nam. Ba là, bên cạnh đó, những hạn chế về khả năng than gia hợp tác kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Hải Dương, những sai lầm trong chiến lược kinh doanh của các khu công nghiệp, cũng là những nguyên nhân làm giảm tính hấp dẫn của Hải Dương đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong những năm gần đây có tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của thành phố. Hải Dương cần có những biện pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế trong thời gian tới. Cùng với các địa phương trong cả nước, những nỗ lực của Hải Dương sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.2. Xu hướng giảm dần tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh Hình thức doanh nghiệp liên doanh vốn là hình thức đầu tư chiếm ưu thế trong giai đoạn 1991 - 2001, đặc biệt là trong những năm đầu tiên của giai đoạn này. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương cso xu hướng giảm dần. Xu hướng này cần được lý giải và tìm phương án thích hợp để hạn chế bởi lẽ trong 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh là hình thức mang lại những lợi ích lâu dài và ổn định cho những nhận đầu tư. Có hai nguyên nhân giải thích sự suy giảm này: Một là, về phía các nhà đầu tư nước ngoài, sau một thời gian kinh doanh ở Việt Nam, họ đã quen với môi trường đầu tư ở đây. Đối với họ, sự hỗ trợ và chi sẻ rủi ro của các đối tác Việt Nam không còn quan trọng như trước nữa. Môi trường pháp lý của Việt Nam cũng thông thoáng hơn, thủ tục pháp lý về đầu tư được đơn giản hoá rất nhiều, các tổ chức tư vấn đầu tư cũng xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Mặt khác, bản thân các nhà đầu tư nước ngoài thích hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hơn vì họ không muốn chia sẻ kinh nghiệm quản lý, bí quyết sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nước nhận đầu tư. Hai là, về phía các doanh nghiệp trong nước, thời gian gần đây, khả năng mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với nước của các doanh nghiệp Hải Dương có xu hướng chững lại do các nguyên nhân sau: Về các doanh nghiệp Nhà nước, hiện nay Hải Dương có khoảng 220 doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước là chủ thể cơ bản than gia hợp tác liên doanh với nước ngoài (chiếm tới 91,1% tổng số dự án và 99,5% tổng vốn đầu tư). Do những về năng lực tài chính, hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước tại Hải Dương góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trước đây, giá trị quyền sử dụng đất được tính căn cứ theo Quyết định 179/1998/QĐ - BTC của Bộ Tài chính. Năm 2000, Bộ tài chính đã ban hành quyết định 189/2000/QĐ - BTC thau cho Quyết định 179. Theo quyết định mới này, quyền sử dụng đất không được định giá cao như trước nữa. Sự thay đổi chính sách này đã làm giảm khả năng tham gia liên doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Một nguyên nhân khác lý giải việc các doanh nghiệp Nhà nước tại Hải Dương có xu hướng hạn chế các hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài cũng như nhiều hoạt động đầu tư khác trong thời gian gần đây là do rất nhiều doanh nghiệp đang trong quá trình sắp xếp lại. Theo chủ trương tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp Nhà nước ở Hải Dương sẽ chuẩn bị cổ phần hoá, chia tách, sáp nhập, giải thể.. Trong giai đoạn chuẩn bị cho những thay đổi về cơ cấu tổ chức, các doanh nghiệp này có xu hướng duy trì những hoạt động sản xuất hiện có và tạm hoãn lại tất cả những hoạt động đầu tư cho đến khi ổn định cơ cấu tổ chức mới. Có thể nói rằng, xu hướng giảm dần tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh trong những năm gần đây xuất hiện do những nguyên nhân từ cả hai phía, các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp Việt Nam. Các nguyên nhân từ phía nhà đầu tư nước ngoài là những nguyên nhân mang tính khách quan, là xu thế tất yếu không thể thay đổi. Đẩy nhanh tiến trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích sự phát triển của khu vực ngoài quốc doanh và tạo mọi điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài là những biện pháp có thể thực hiện nhằm hạn chế xu hướng biến động không như mong muốn này. 3.3. Những khó khăn của các khu công nghiệp, khu chế xuất. So với một số khu công nghiệp khác trong cả nước, đặc biệt là các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu, tỷ lệ diện tích đất sử dụng tại các khu công nghiệp ở Hải Dương quá nhỏ bé (8 - 10%), trong khi tỷ lệ diện tích đất sử dụng bình quân của các khu công nghiệp trong cả nước là 35%, của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam là 45%. Có rất nhiều nguyên nhân lý giải tình trạng này. Song ba nguyên nhân cơ bản nhất là: Một là, sự cạnh tranh thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp Việt Nam đang ngày một gay gắt hơn. Kết quả khảo sát mới đây của các cơ quan chức năng cho thấy, tình hình phát triển các khu công nghiệp trong cả nước thời gian qua đã có biểu hiện tràn lan, mất cân đối. Cho tới nay có quá nhiều khu công nghiệp được thành lập, trong khi vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong một số năm gần đây liên tục giảm mạnh, khả năng thu hút vốn đầu tư trong nước vào các khu công nghiệp còn hạn chế. Với tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước trong thời gian qua, nếu tập trung tất cả các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp thì phải mất 15 - 20 năm nữa mới có thể lấp đầy các khu công nghiệp. Trong khi đó tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào các khu công nghiệp chỉ chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư. Có thể nói rằng hiện nay "cung" về khu công nghiệp tại Việt Nam đã vượt quá xa "cầu". Hai là, chính sách "Một cửa" trong các khu công nghiệp vẫn còn khiếm khuyết, chưa hoàn thiện. Trong năm 1997, chính phủ đã quyết định áp dụng chính sách "Một cửa, tại chỗ" đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm đơn giản hoá công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo chính sách mới này, ban quản lý các khu công nghiệp Hải Dương được uỷ quyền thực hiện một số chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Phương thức quản lý này bước đầu cũng có tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều tầng nấc chồng chéo, thủ tục phiền hà. Tuy được uỷ quyền quản lý các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tại Hải Dương, nhưng có nhiều khâu ban quản lý vẫn phải xin ý kiến trung ương. Sự phối hợp giữa ban quản lý và các sở, ban ngành trực thuộc thành phố Hải Dương chưa thật thông suốt. Một số bộ phận, ngành vẫn chưa uỷ quyền cho ban quản lý khu công nghiệp ví dụ như Bộ xây dựng, Bộ khoa học công nghệ và môi trường. Chính sách "Một cửa" chưa hoàn thiện còn thể hiện rõ trong việc giám sát, kiểm tra của các cơ quan chức năng. Nhiều doanh nghiệp trong khu công nghiệp tại Hải Dương than phiền rằng họ phải chịu sự quản lý, kiểm tra giám sát của quá nhiều cơ quan chức năng. Việc này làm mất thời gian và chi phí, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác tổ chức thực hiện chính sách "Một cửa" đã gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tại Hải Dương, gây một ấn tượng không tốt đẹp trong các nhà đầu tư nước ngoài về các khu công nghiệp Hải Dương. Một trong những mục tiêu cơ bản nhất của việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là nhằm tạo những điều kiện thuận lợi, tăng tính hấp dãn của địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc đầu tư xây dựng khu công nghiệp tại Hải Dương trong thời gian qua đã không đáp ứng được yêu cầu đó, thậm chí còn làm giảm tính hấp dẫn, sức cạnh tranh của thành phố so với các địa phương khác trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương trong thời gian qua đã đạt được không ít thành công song cũng không tránh khỏi những hạn chế. Những hạn chế này một phần do các điều kiện khách quan đem lại. Tuy nhiên, những hạn chế đó cũng phản ánh một thực trạng rằng còn có những sai lầm, những việc chưa làm hoặc đã làm nhưng chưa đủ mạnh trong công tác thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phổ Hải Dương. Tất cả những thành công và những hạn chế của giai đoạn đã qua đều là những bài học kinh nghiệm quý giá cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương trong các giai đoạn sau: II. Một số giải pháp đề xuất Những phân tích trên đã làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương. Để đạt được mục tiêu đó Hải Dương có thể thực hiện rất nhiều giải pháp khác nhau. Đề tài này đề xuất một số giải pháp chủ yếu trên cơ sở phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế trong công tác thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương trong thời gian qua. 1. Những giải pháp từ phía Nhà nước Trong bối cảnh Trung Quốc vừa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, kinh tế các nước trong khu vực đã phục hồi sau khủng hoảng và đang áp dụng những chính sách hấp dẫn tối đa nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước Việt Nam cần có những biện pháp kịp thời và đủ mạnh để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các giải pháp cơ bản nhất bao gồm: Một là, tiếp tục cải cách hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, hoàn thiện và phù hợp với hệ thống quốc tế. Một hệ thống pháp lý như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn và làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam, đồng thời là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội lâu dài của các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của Việt Nam. Hai là, nâng cao chất lượng các quy hoạch ngành, vùng cả nước, đồng thời dự báo chính xác nhu cầu thị trường để làm cơ sở cho việc xây dựng và công bố danh mục các dự án cần thu hút vón đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực hiện tốt công tác quy hoạch và kế hoạch hoá đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần làm tăng tính cân đối, tính hiệu quả của hoạt động kinh tế này. Ba là, duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc của chính phủ, các bộ, ngành với các dncó vốn đầu tư nước ngoài để kịp thời nắm bắt những vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là việc làm rất cần thiết để đánh giá tác động của các chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, từ đó có những bước điều chỉnh phù hợp. Bốn là, song song với các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích, hỗ trợ phát triển của khu vực tư nhân. Bởi lẽ, chính các doanh nghiệp trong nước là những người chủ động tìm kiếm đối tác nước ngoài để hợp tác đầu tư. Họ cũng là lực lượng cơ bản nhất quảng bá về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn thế nữa, một nền kinh tế phát triển hiệu quả dựa trên các doanh nghiệp trong nước vững mạnh sẽ tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hanhhf đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu hoạt động của các khu công nghiệp tại Hải Dương, đề tài có hai ý kiến đề xuất với Nhà nước trong công tác xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất như sau: Một là, Nhà nước cần xây dựng một quy hoạch, kế hoạch hợp lý hơn về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ sở đánh giá chính xác nhu cầu đầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tránh hiện tượng phát triển tràn lan, "cung" về khu công nghiệp, khu chế xuất vượt quá xa so với "cầu". Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt chú trọng tới công tác tổ chức thực hiện các chính sách mới. Chính sách quản lý "một cửa" hiện nay được đưa ra với mục đích tốt đẹp là đơn giản hoá công tác quản lý đầu tư trong các khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi và tăng sức hấp dẫn của các khu công nghiệp đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, công tác tổ chức thực hiện chính sách này chưa hoàn thiện nên đã gây tác động ngược chiều đối với các nhà đầu tư. Ban quản lý các khu công nghiệp còn gặp nhiều vướng mắc trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng cùng quản lý các doanh nghiệp khu công nghiệp. Hậu quả là các doanh nghiệp này đáng lẽ được hưởng một cơ chế quản lý đơn giản, hiệu quả hơn thì lại bị gây phiền hà hơn bởi nhiều cơ quan chức năng cùng kiểm tra, giám sát hoạt động của họ. Thực hiện tốt những giải pháp trên sẽ làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Những giải pháp từ phía thành phố Hải Dương Những giải pháp từ phía Nhà nước sẽ góp phần làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh, thi đua thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với các địa phương khác, Hải Dương cũng cần có sư chủ động và những nỗ lực mạnh mẽ của riêng mình. 2.1. Tiếp tục cải cách cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài Thời gian vừa qua, các tỉnh phía Nam thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài một phầnlà do các cơ quan quản lý Nhà nước ở đây linh hoạt hơn, áp dụng các quy chế một cách "mềm dẻo" theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm của các tỉnh phía Nam. Thành phố Hải Dương cũng bắt đầu có những bước đi nhanh chóng trong việc cải cách cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Bước đi đầu tiên được thực hiện trong năm 2001 - "năm cơ chế" của thành phố Hải Dương. Trong năm 2001, thành phố đã ban hành 37 cơ chế liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng quy trình cấp đất, thủ tục hải quan, cơ chế ưu đãi và khuyến khích đầu tư. Với những cơ chế vừa ban hành, hiện nay Hải Dương được các nhà đầu tư đánh giálà có cơ chế quản lý và ưu đãi đầu tư thông thoáng, hấp dẫn không thua kém bất cứ địa phương nào tróng cả nước. Bước đi thứ hai là bước đi khởi động cho việc vận hành các cơ chế đã ban hành trong năm 2001. Năm 2002 được thành phố xác định là "năm doanh nghiệp" nhằm đưa các cơ chế đã ban hành vào thực tiễn, thúc đẩy việc đổi mới, phát triển các loại hình doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những bước tiến trên thể hiện thiện chí rất lớn của Hải Dương đối với các nhà đầu tư nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, hiệu quả của các cơ chế chính sách này phụ thuộc chủ yếu vào quá trình tổ chức thực hiện. Để thực hiện có hiệu quả các cơ chế vừa ban hành, cần có sự tổ chức, bố trí, phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành liên quan. Đồng thời, thành phố cũng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các cơ chế này, duy trì các cuộc gặp gỡ rhường niên với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhặp kịp thời phát hiện, giải quyết, sửa chữa những thiếu sót, những vấn đề bất cập nảy sinh. 2.2. Đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân. Như đã phân tích trong phần đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương, tình trạng hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân của Hải Dương gây rất nhiều khó khăn đối với việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc đẩy mạnh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước và khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân không chỉ làm tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hải Dương cho thấy chính các doanh nghiệp trong nước là những người chủ động tìm kiếm đối tác nước ngoài để hợp tác đầu tư. Họ cũng là lực lượng cơ bản nhất quảng bá về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam, của Hải Dương với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước sẽ đóng góp một phần to lớn vào việc tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Hải Dương. Thực tế cũng cho tình hình các doanh nghiệp trong nước cũng là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiện tượng suy giảm tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua. Muốn tăng tỷ trọng hình thức doanh nghiệp liên doanh, đảm bảo hiệu quả lâu dài của đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước chính là giải pháp quan trọng nhất. 2.3. Nâng cấp cơ sở hạ tầng - Tích cực tăng thu, tăng tỷ trọng chi cho hạ tầng cơ sở: đầu tư cho gao thông, điện, nước, thông tin liên lạc; đầu tư xây dựng khu dân cư; nâng cấp hệ thống khách sạn - du lịch. - Tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương, các Bộ, ngành để đầu tư cho cơ sở hạ tầng. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư như: BOT, BT, đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, đầu tư và chuyển giao công nghệ, ứng vốn thi công: - Trên cơ sở quy hoạch các khu, cụm công nghiệp tập trung, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: đường vào, điện, nước, thông tin liên lạc... của một số khu công nghiệp, còn đất đai chưa tiến hành san lấp ngay mà vẫn để người dẫ cày cấy, canh tác bình thường. Khi có dự án mới vào, nhờ cơ sở hạ tầng đã có, nhà đầu tư có thể triển khai nhanh và thuận lợi dự án của mình. 2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Một trong những tồn tại lớn và ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nước ngoài vào Hải Dương là vấn đề cung cấp lao động bao gồm cả bộ quản lý, nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Hải Dương cần thực hiện đồng thời hai biện pháp; đào tạo nhân lực và thu hút nhân tài. Về công tác đào tạo nhân lực, những việc cần làm bao gồm: + Lập dự báo về nhu cầu lao động của thành phố hải Dương trong thời gian tới. + Điều tra về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố. + Lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ và công nhân kỹ thuật phù hợp với tình hình dự báo. + Tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ban ngành liên quan các nguồn vốn trong và ngoài nước, sự hỗ trợ từ các chương trình của các tổ chức quốc tế để phát triển hệ thống đào tạo tại Hải Dương theo quy hoạch và kế hoạch đã đề ra. Việc thu hút nhân tài cũng rất cần được quan tâm. Hiện nay rất nhiều sinh viên Hải Dương sau khi tốt nghiệp đai học có xu hướng ở lại Hà Nội, bởi theo họ ở đây có nhiều cơ hội nâng cao trình độ, nâng cao thu nhập hơn so với Hải Dương. Để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao này, thành phố Hải Dương cần có những biện pháp hữu hiệu như: + Có những ưu đãi, hỗ trợ cụ thể đối với những sinh viên tốt nghiệp có nguyện vọng công tác tại Hải Dương, tạo điều kiện khuyến khích họ nâng cao trình độ chuyên môn để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của thành phố. + Các cơ quan chức năng cần phối hợp với các doanh nghiệp của thành phố trong việc tuyên truyền, giới thiệu với sinh viên vềcơ hội việc làm tại Hải Dương, triển vọng và những nỗ lực phát triển của thành phố. Việc đào tạo nhân lực và thu hút nhân tài là gải pháp có ý nghĩa to lớn không chỉ với việc tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn rất có ý nghĩa đối với sự phát triển của thành phố Hải Dương. 2.5. Điều chỉnh chiến lược phát triển của các khu công nghiệp 2.5.1. Về hình thức đầu tư: Xuất phát từ nhu cầu tập trung hoá sxvà sử dụng có hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở của các khu công nghiệp, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, có thể chọn một trong các dạng đầu tư hình thành và phát triển khu công nghiệp như sau: - Một là: dựa trên quy hoạch chi tiết của từng khu công nghiệp được phê duyệt, sẽ kêu gọi các chủ đầu tư vào xây dựng các cơ sở sản xuất kinh doanh theo quy hoạch. Tỉnh đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào các khu công nghiệp theo quy hoạch. Các công trình trong KCN do các doanh nghiệp tự đầu tư xây dựng. - Hai là: dựa theo quy hoạch chi tiết được duyệt, tỉnh sẽ giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng cho cả khu công nghiệp để các nhà đầu tư thuê mặt bằng, nhằm tăng tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. - Ba là: tỉnh chỉ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu công nghiệp, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có nhu cầu thuê đất sẽ giải phóng mặt bằng, san lấp, đầu tư xây dựng cơ bản hình thàn khu công nghiệp. Trong điều kiện hiện nay phải đồng thời triển khai cả 3 hình thức đầu tư, nhưng cần tập trung moi nguồn lực và kêu gọi đầu tư để thực hiện một số khu công nghiệp theo hình thức thứ 3. Trước hết là kêu gọi các nhà đầu tư bỏ vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng như cụm công nghiệp giầy. Tỉnh sẽ trực tiếp đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng một số cụm, khu công nghiệp, như: đảm bảo đường điện có điện áp thích hợp, đường giao thông hệ thống cấp nước sạch, thoát nước chung, đến ngoài hàng rào khu công nghiệp,(riêng đường giao thông sẽ quy hoạch và đầu tư từng bước một số đường nhánh đi vào các vị trí ở sau đường chính để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào sâu trong khu công nghiệp). 2.5.2. Tính toán các khối lượng đầu tư: cụ thể để xây dựng các cơ sở hạ tầng giao thông, hệ thống điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông, các cơ sở dịch vụ, khu vui chơi giải chí, trường học, khu nhà ở... cho từng khu công nghiệp để kêu gọi đầu tư và làm căn cứ bố trí vốn đầu tư trong kế hoạch hàng năm. Qua số liệu tính toán của các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng bình quân cho 1 ha khu công nghiệp là 1.210 triệu đồng/ha. Số liệu sơ bộ của một số khu công nghiệp như sau: - Khu công nghiệp Nam Sách 132 ha, tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng là 150 tỷ đồng. - Khu công nghiệp Phú Thái 40ha, tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng là 56,7 tỷ đồng. - Khu công nghiệp phía Bắc thành phố Hải Dương (đầu tư bước 1) là 50ha, tổng kinh phí là 39,6 tỷ đồng. - Cụm công nghiệp giầy của Bộ công nghiệp 41ha, tổng kinh phí 71,9 tỷ đồng. - Nếu tính riêng 3 khu công nghiệp đã quy hoạch của tỉnh Hải Dương (Nam Sách, Phú Thái, Bắc thành phố Hải Dương), tổng diện tích 222,17 ha, tổng kinh phí là 236,6 tỷ đồng, bình quân 1,1 tỷ đ/ha. (Chi tiết từng hạng mục có biểu kèm theo) Qua số liệu trên cho thấy nhu cầu vốn nhu cầu vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp là rất lớn, khả năng ngân sách của tỉnh khó có thể đáp ứng được, nên cần phải gọi vốn đầu tư từ mọi nguồn và có kế hoạch triển khai từng bước, từng khu công nghiệp cho phù hợp. 2.5.3. ban hành các cơ chế chính sách cụ thể: Về đảm bảo cơ sở hạ tầng, dịch vụ cho các khu công nghiệp. - Tăng cường quảng bá để các nhà đầu tư, các doanh nghiệp vào đầu tư cơ sở sản xuất kinh doanh hình thành khu công nghiệp. Kêu gọi các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào kinh doanh các cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển các dịch vụ bên cạnh khu công nghiệp nhất là công trình văn hoá, nhà ở... tỉnh có các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư này như: ưu đãi vay vốn, giá thuê đất, ưu đãi các loại thuế theo quy định, (miễn giảm thuế ở mức ưu tiên), hỗ trợ giải phóng mặt bằng, đảm bảo các thủ tục đầu tư vào khu công nghiệp thuận tiện, nhanh nhất. - Trong quá trình triển khai thực hiện đầu tư của tỉnh theo các chương trình, mục tiêu cần quan tâm kết hợp để đầu tư phục vụ cho các khu công nghiệp, như các chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chương trình thu hút vốn đầu tư; chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chương trình phát triển kinh tế dịch vụ... - Các chính sách cụ thể về đảm một số cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp như: tỉnh đảm bảo đường giao thông chính đến khu công nghiệp và đường vành đai ngoài khu công nghiệp, tỉnh miễn tiền thuê đất cho các nhà đầu tư, thuê đất xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp trong 10 năm đầu. Về tỉnh đảm bảo đường điện có cấp điện áp phù hợp theo yêu cầu đến chân hàng rào khu công nghiệp, xây dựng tram bưu chính viễn thông trong khu công nghiệp, hệ thống cấp, thoát nước, đến hàng rào khu công nghiệp... - Chính sách cho thuê cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp như miễn giảm thuế giá tri gia tăng trong thời hạn 3- á-5 năm đầu với hoạt động kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. 2.5.4. Về tổ chức quản lý các khu công nghiệp - Tỉnh thành lập ban quản lý các dự án công nghiệp trực thuộc UBND tỉnh để giúp UBND tỉnh giải quyết các công việc về khu công nghiệp. Ban quản lý do 1 đồng chí lãnh đạo UBND tỉnh phụ trách, các thành viên gồm: sở kế hoạch đầu tư, tài chính vật giá, công nghiệp, xây dựng, đại chính, giao thông... Biên chế của ban có từ 2 - 3 cán bộ chuyên trách. - Ban quản lý các dự án giúp UBND tỉnh chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp trong việc quy hoạch chi tiết xây dựng và quản lý hoạt động của từng khu công nghiệp. - Ban quản lý các dự án có trách nhiệm hoàn thành quy hoạch chi tiế các khu công nghiệp trong toàn tỉnh để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt làm căn cứ để triển khai, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, gọi vốn đầu tư sản xuất vào các khu công nghiệp, trước hết là khu Bắc - Tây bắc thành phố Hải Dương, sau đó là khu Phả Lại - Hoàng Thái, khu Cầu Ghẽ - Quán gỏi, cụm phía nam thành phố Hải Dương. - Ban quản lý dự án khu công nghiệp có trách nhiệm: thực hiện các thủ tục về đầu tư, các cơ chế chính sách cụ thể với các khu công nghiệp, quy định rõ ràng việc tiếp nhận và quản lý các dự án, quy trình, thủ tục, thời gian hoàn thành các bước công việc. Trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc tiếp nhận thẩm định và triển khai thực hiện. 2.6. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư. Xúc tiến đầu tư là hoạt động giới thiệu các nhà đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư Hải Dương và hỗ trợ các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư có thể được tiến hành theo nhiều cách thức khác nhau như: giới thiệu về Hải Dương trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng Internet, tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa các cơ quan chức năng của thành phố với các nhà đầu tư nước ngoài... công tác xúc tiến đầu tư chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ngành của thành phố. Đi liền với công tác xúc tiến đầu tư, Hải Dương cần phát triển hơn nữa dịch vụ tư vấn đầu tư. Dịch vụ tư vấn đầu tư không chỉ dừng ở việc cugn cấp thông tin cho các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam gặp gỡ, cùng hợp tác với nhau. Nói một cách khác, dịch vụ tư vấn đầu tư cần đạt đến trình độ môi giới đầu tư. Qua nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài, có một thực tế rằng, rất nhiều doanh nghiệp của Hải Dương nói rằng họ có đất đai, nhà xưởng, có kinh nghiệm sản xuất, có hiểu biết về thị trường và rất cần tìm đối tác nước ngoài cùng liên doanh, cùng khai thác và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường mà không tìm được. Trong khi đó, cùng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Hải Dương mà không biết nên lựa chọn lĩnh vực đầu tư nào và tìm đối tác Việt Nam nào để hợp tác đầu tư. Nếu dịch vụ tư vấn đầu tư của Hải Dương có thể làm trung gian giữa các đối tác đầu tư nước ngoài và Việt Nam thì Hải Dương không chỉ có cơ hội thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng sẽ được nâng cao. Với những lý do phân tích trên, việc xúc tiến đầu tư và phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư cũng là một vấn đề rất cần được quan tâm. Tất nhiên, để công tác xúc tiến đầu tư có hiệu quả, cũng như để phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư lên mức độ như đã đề xuất trong đề tài không phải là việc dễ dàng. Song giải pháp này sẽ có rất có ý nghĩa đối với việc tăng cường thu hút vằ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương cả trong giai đoạn trước mắt và lâu dài Kết luận Qua các nội dung phân tích trong đề tài, có thể thấy rằng hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua đã đạt được những thành công đáng kể, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của thành phố. Tình hình trong nước và thế giới đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam nói chung và Hải Dương nói riêng. Để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bên cạnh những chủ trương chung của Nhà nước, Hải Dương cần chủ động thực hiện một số giải pháp như: tiếp tục cải cách cơ chế quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân; nâng cấp cơ sở hạ tầng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; điều chỉnh chiến lược kinh doanh của các khu công nghiệp; tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, phát triển dịch vụ tư vấn đầu tư ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29713.doc
Tài liệu liên quan