FDI ở VN: Thực trạng và giải pháp

Tài liệu FDI ở VN: Thực trạng và giải pháp: ... Ebook FDI ở VN: Thực trạng và giải pháp

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1733 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu FDI ở VN: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu. Trong xu hướng hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng hiện nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư của bất kỳ một quốc gia hoặc một địa phương nào. Đối với Việt Nam, một nước đang trong quá trình CNH- HĐH, chuyển đổi và hội nhập kinh tế, với mục tiêu phát triển kinh tế rất cao, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn thì việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong 20 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, trình độ kĩ thuật và công nghệ;đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu, phát triển kinh tế thị trường đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, giải quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao mức sống người lao động… Tuy nhiên hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI còn tồn tại nhiều mặt tiêu cực đến nền kinh tế như: Vấn đề chuyển giá gây thiệt hại cho nền kinh tế, khả năng chuyển giao công nghệ hạn chế và nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ, khả năng tạo việc làm chưa ổn định, làm tăng các vấn đề xã hội mới như phân hoá xã hội, giàu nghèo, nạn "chảy máu chất xám" trong nội bộ nền kinh tế,vấn đề ô nhiễm môi trường…. Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp” đi sâu vào phân tích thực trạng FDI, các kết quả , hiệu quả đạt đực đồng thời nêu ra những mặt hạn chế còn tồn tại, đưa ra một số nguyên nhân chính và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn FDI cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI vào Việt nam trong thời gian tới để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Chương một: Một số lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1.1. Khái niệm đầu tư (Investment). Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Các nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động trí tuệ. Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính(tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy,đường sá, bệnh viện, trường học…) tài sản trí tuệ( trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lí, khoa học kĩ thuật..)và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Người bỏ vốn đầu tư được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, chủ đầu tư có thể là cá nhân, tổ chức hay nhà nước. Nếu phân loại đầu tư theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, thì có thể chia làm hai loại đầu tư: “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư). “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (điều 3, Luật Đầu tư). Đứng trên góc độ của toàn nền kinh tế, vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. * Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam. (điều 3, Luật Đầu tư). * Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. (điều 3, Luật Đầu tư). 1.1.2. Đầu tư nước ngoài 1.1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Đầu tư nước ngoài có một số đặc điểm khác với đầu tư nội địa đó là: Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài, điều này sẽ có liên quan đến các quy định về xuất nhập cảnh, về phong tục tập quán, ngôn ngữ...; Các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới, đặc điểm này liên quan đến các chính sách, pháp luật về hải quan và cước phí vận chuyển; Vốn đầu tư có thể là tiền tệ, vật tư hàng hóa, tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nhưng được tính bằng ngoại tệ, đặc điểm này liên quan đến chính sách tài chính và tỷ giá hối đoái của các nước tham gia đầu tư. Hình thức biểu hiện của đầu tư nước ngoài - Tài trợ phát triển chính thức (ODF- Official Development Finance). Nguồn vốn này bao gồm Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức viện trợ khác .Trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu. Vốn ODA là nguồn vốn phát triển dưới dạng viện trợ không hoàn lại hay lãi suất ưu đãi và thường đi kèm theo điều kiện về chính trị. - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment). là nguồn vốn đầu tư khá phổ biến hiện nay của nước ngoài (có thể là tư nhân, tổ chức, hay nhà nước hoặc là sự phối hợp) đầu tư vào một quốc gia nào đó nhằm mục đích kiếm lợi nhuận là chủ yếu, thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ngay tại nước nhận đầu tư. - Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế 1.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). 1.1.3.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Có nhiều khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF): “FDI là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư) không phải nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp”. Theo Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD) thì: “FDI là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”. FDI là một loại hình đầu tư quốc tế, trong đó chủ đầu tư của một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát đối tượng họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế khác . FDI là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi . Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng có định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư. Như vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt động bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với điều kiện họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó. Tiêu thức phân biệt FDI với hoạt động đầu tư nội địa thường tập trung vào các đặc trưng sau: - Về vốn góp, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng một lượng vốn tối thiểu theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để có quyền trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh; - Về quyền điều hành quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thì quyền hành hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài, có thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý; - Về phần chia lợi nhuận, dựa trên kết quả sản xuất kinh doanh, lãi lỗ, đều được phân chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định sau khi đã trừ các khoản đóng góp. Từ những quan niệm trên có thể hiểu FDI là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau: Gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư. Được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp. Nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. + Là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao. + Nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng vốn đầu tư. + FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó. + FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư. 1.2. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều tiêu thức để xác định hình thức FDI, về cơ bản là: Thứ nhất, xét theo mục đích đầu tư FDI được phân làm hai hoặc đầu tư theo chiều ngang và đầu tư theo chiều dọc. ▪ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang: là việc một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển. ▪ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc: Với mục đích khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động, đất đai của các nước nhận đầu tư. Các nhà đầu tư thường khai thác các lợi thế cạnh tranh đó để hoàn thiện qua lắp ráp ở nước chủ nhà. Sau đó các sản phẩm được bán trên thị trường quốc tế. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển. Thứ hai, xét về hình thức sở hữu đầu tư trực tiếp nước ngoài thường có các hình thức sau: Luật Đầu tư 2005 đã quy định 5 hình thức FDI cơ bản ở Việt Nam , các hình thức này cũng đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Sau đây sẽ trình bày 5 hình thức này. a. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền thống và phổ biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình thức này phổ biến ở quy mô đầu tư nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa thích đối với các dự án quy mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập một công ty con của công ty mẹ xuyên quốc gia. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của nước sở tại, doanh nghiệp phải được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới hình thức này, theo Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần… Hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận. b. Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay. Hình thức này cũng rất phát triển ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút FDI. Doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức FDI, qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp mới này do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có các đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định. Như vậy, hình thức doanh nghiệp liên doanh tạo nên pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp luật, trình độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình thức doanh nghiệp liên doanh có những ưu điểm là góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn vốn lớn để phát triển kinh tế nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức này là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị trường mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn thấp, năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong doanh nghiệp liên doanh yếu. c. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân [luật đầu tư]. Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu khí. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân riêng và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở tại. Do đó, về phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC. Tuy nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ tục pháp lý rườm rà nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang phát triển bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn hoặc liên doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh. d. Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT “ Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao ( gọi tắt là hợp đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. “Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh ( gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận” “ Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT” (luật đầu tư 2005,tr2) BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình đầu tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự. Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ bản: một bên ký kết phải là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư là các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...; bắt buộc đến thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự án kết cấu hạ tầng, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài, làm giảm áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước sở tại sau khi chuyển giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát huy các nguồn lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có nhược điểm là độ rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ nhà khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ. e. Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross - border M & As. Khi thị trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư gián tiếp (FPI) được khai thông, nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phần, mua lại các doanh nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này. Cross-border M & As là kênh đầu tư mà các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài hoặc mua cổ phần của các công ty cổ phần. Hình thức này chủ yếu là chuyển sở hữu của các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà sang sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Về lâu dài, hình thức M & As sẽ thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài do mở rộng qui mô hoạt động của doanh nghiệp. Kênh đầu tư này chủ yếu được thực hiện ở các nước phát triển, các nước mới công nghiệp hóa, đặc biệt là trong những lĩnh vực công nghệ cao và có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây. Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam cũng đã thừa nhận và pháp lý hoá kênh đầu tư này ở Việt Nam. Tuy nhiên, hình thức đầu tư này vẫn chưa phổ biến ở nước ta do đây là kênh đầu tư FDI mới, nhà đầu tư còn dè chừng; hơn nữa, Nhà nước vẫn hạn chế về tỷ lệ cổ phần của người nước ngoài trong các công ty cổ phần trong nước. Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà đầu tư nước ngoài mua - ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy nhiên, khi tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật pháp Hoa Kỳ và nhiều nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tỷ lệ này được quy định là 30%. Hình thức mua cổ phần hoặc mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm cơ bản là để thu hút vốn và có thể thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động của những doanh nghiệp bên bờ vực phá sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây tác động đến sự ổn định của thị trường tài chính. Về phía nhà đầu tư, đây là hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà. 1.3. Các nhân tố tác động tới dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước tiếp nhận. Theo báo cáo của UNCTAD đưa ra chỉ số tiềm năng thu hút FDI(inward FDI potential index) để đánh giá khả năng thu hút FDI.Chỉ số này dựa trên 8 yếu tố là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, GDP/ đầu người, xuất khẩu/ GDP, số điện thoại / 1000 dân, năng lượng mang tính thương mại được sử dụng/ đầu người, chi tiêu cho nghiên cứu và triển khai/ thu nhập quốc dân ròng, số sinh viên theo học trong ngành dịch vụ trong dân số và mức độ rủi ro chính trị của quốc gia. 1.3.1. Khuôn khổ chính sách đối với FDI. 1. Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội. 2. Các nguyên tắc có liên quan đến việc lĩnh vực được đầu tư và hoạt động của FDI. 3. Các chuẩn mực đối xử đối với các chi nhánh nước ngoài. 4. Chính sách đối với hoạt động và cấu trúc của thị trường (đặc biệt là chính sách về cạnh tranh& thôn tính sát nhập). 5. Các hiệp định quốc tế về FDI . 6. Chính sách tư nhân hóa . 7. Chính sách thương mại(thuế quan &phi thuế quan) và sự gắn kết giữa FDI và chính sách thương mại. 8. Chính sách thuế. 1.3.2. Những yếu tố tạo thuận lợi cho kinh doanh. 1. Xúc tiến đầu tư (bao gồm các hoạt động như tạo dựng hình ảnh & thúc đẩy đầu tư.) 2. Khuyến khích đầu tư. 3. Những chi phí nhũng nhiễu( có liên quan đên tham nhũng,hiệu quả quản lí hành chính…) và tiện nghi xã hội( chất lượng cuộc sống,trường học song ngữ…). 1.3.3. Những yếu tố kinh tế. 1. FDI mở rộng thị trường . + Độ lớn của thị trường & thu nhập bình quân đầu người. + Sự tăng trưởng của thị trường. + Khả năng tiếp cận thị trường khu vực và thế giới. + Sở thích tiêu dùng đặc định của nước tiếp nhận FDI. + Cấu trúc của các thị trường. 2. FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên. + Nguyên liệu thô. + Nhân lực kĩ năng thấp với giá rẻ. + Các tài sản mang tính công nghệ, sáng tạo (như thương hiệu công ti chẳng hạn) được biểu hiện ở các cá nhân,các công ti hay nhóm công ti.. + Cơ sở hạ tầng cứng (hải cảng, đường sá, điện năng, phương tiện truyền thông). 3. FDI tìm kiếm hiệu quả sản xuất. + Chí phí đầu vào như là chi phí giao thông và liên lạc đến hoặc từ và trong phạm vi tiếp nhận FDI, chi phí của các sản phẩm trung gian. + Thành viên của hiệp định liên kết khu vực, dẫn tới việc thành lập mạng lưới hợp tác khu vực. (Nguồn: UNCTAD “World Investment Report 2002” United nations, New York and Geneva,2002,p.24). Tóm lại, mặc dù có nhiều nhân tố khác nhau quyết định dòng vốn FDI vào các nước tuy nhiên có thể khái quát lại thành 3 nhóm nhân tố cơ bản : lợi nhuận dự tính có được từ những dự án cụ thể, sự dễ dàng đối với các chi nhánh nước ngoài trong việc thực hiện mục tiêu toàn cầu của nhà đầu tư& chất lượng môi trường đầu tư ở các nước tiếp nhận. Để đánh giá hiệu quả của FDI, UNCTAD đưa ra chỉ số hoạt động của FDI. Chỉ số hoạt động FDI (FDI của quốc gia/FDI thế giới) của một nước = ---------------------------------------- (GDP của quốc gia/ GDP thế giới) Nếu chỉ số hoạt động FDI bằng 1, nước đó thu hút được lượng FDI tương đối phù hợp với qui mô của nền kinh tế, nếu chỉ số này nhỏ hơn 1 lượng FDI còn chưa tương xúng với qui mô của nền kinh tế. 1.4. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.4.1. Xu hướng dòng FDI hiện nay trên thế giới. Cùng với quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, vốn đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh và trở thành một hình thức quan trọng trong hoạt động đầu tư của các quốc gia trên thế giới. UNCTAD vừa cho biết, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu đã tăng lên mức cao kỷ lục 1.538 tỷ USD trong năm 2007 bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính và tín dụng diễn ra vào nửa cuối năm. Sự phân bổ dòng vốn FDI không đều, phần lớn tập trung ở các nước công nghiệp phát triển, dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển tuy có chiều hướng tăng lên nhưng tỷ trọng còn rất nhỏ bé. Năm 2006, luồng vốn FDI vào khu vực Nam, Đông và Đông Nam Á đạt 186,7 tỷ USD, chiếm 22% tổng FDI toàn cầu, tăng 13,1% so với năm 2005. 2/3 FDI vào khu vực này là vào Trung Quốc (36 tỷ USD) và Đông Nam Á (37 tỷ USD) bao gồm Singapore (20 tỷ USD). Malaysia và Thái Lan (mỗi nước 4 tỷ USD). Dòng vốn vào khu vực Nam Á thấp hơn nhiều (10 tỷ USD) chủ yếu là đầu tư vào Ấn Độ (7 tỷ USD). Trong năm 2007, Mỹ vẫn là địa chỉ thu hút FDI nhiều nhất với 193 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2006, tuy tốc độ tăng này chậm hơn so với nhiều nước khác. Trung Quốc là nước nhận được nhiều FDI nhất trong số các nước đang phát triển với 67,3 tỷ USD, tuy giảm 3,1% so với năm 2006. Nguồn FDI vẫn tăng ở cả ba nhóm kinh tế gồm các nền kinh tế phát triển, các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế trong thời kỳ quá độ như Đông Nam Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Nguồn FDI đổ vào nhóm thứ nhất tăng trong bốn năm liên tiếp, lên tới gần một nghìn tỷ USD. Khoảng 224 tỷ USD của nguồn FDI đổ vào nhóm thứ hai được dành cho các khu vực như Nam Á, Đông Á, Đông Nam Á và châu Đại Dương. FDI đổ vào nhóm thứ ba tăng 41% lên mức kỷ lục 98 tỷ USD. Ủy ban kinh tế Mỹ Latinh và Caribe của Liên hiệp quốc (CEPAL) đánh giá, mặc dù phải đối mặt với những biến động của thị trường tài chính quốc tế và cuộc khủng hoảng trên thị trường vay thế chấp ở Mỹ song các nước khu vực Mỹ Latinh đã hạn chế những tác động từ bên ngoài và tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế với mức tăng trưởng bình quân 5,6%; thu hút FDI 95 tỷ USD, cao nhất trong tám năm trở lại đây, mang lại thặng dư lớn cho khu vực này. Dòng vốn FDI trên toàn cầu trong ba năm tới được dự báo sẽ tăng lên, mặc dù có nhiều lo ngại về sự bất ổn tài chính và việc một số quốc gia áp dụng các biện pháp bảo hộ. Theo Khảo sát Triển vọng đầu tư thế giới 2007-2009 của UNCTAD, hơn 2/3 trong tổng số 192 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cho biết, họ có kế hoạch tăng vốn đầu tư ra nước ngoài trong vòng ba năm tới. Có nguy cơ bất ổn về kinh tế ở châu Á . Các chuyên gia dự đoán, trong thời gian tới, dòng vốn FDI vào ba nền kinh tế lớn của châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ sẽ có sự khác biệt rất lớn. Trung Quốc tiếp tục duy trì sức hấp dẫn đối với giới đầu tư nước ngoài. Nhật Bản do hệ thống pháp luật mang nặng tính bảo hộ sẽ khó thúc đẩy việc thu hút FDI. Trong năm năm tới, FDI vào Ấn Độ tăng mạnh, nhưng vẫn thấp hơn tiềm lực phát triển kinh tế của nước này. Ba nước này hiện chiếm 30% tổng FDI trên toàn cầu. FDI vào Trung Quốc dự kiến từ năm 2007 - 2011 sẽ đạt khoảng 87 tỷ USD/năm và chiếm khoảng 6% tổng FDI toàn cầu. Các công ty đa quốc gia, các ngành công nghiệp khai thác và phát triển chuyển dịch dòng vốn FDI vào tiểu vùng Nam và Đông Nam theo hướng sử dụng nhiều lao động trí thức và các hoạt động làm gia tăng giá trị. Cụ thể, Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) vẫn giữ vị trí lớn nhất trong vùng nhận được FDI, theo sau là Singapore và Ấn Độ. Theo UNCTAD, sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở Đông, Nam và Đông Nam Á sẽ tiếp tục châm ngòi cho chiến dịch săn tìm thị trường đầu tư FDI trong vùng. Khu vực này cũng sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với việc tìm kiếm hiệu quả đầu tư FDI, những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam đang có kế hoạch cải thiện đáng kể hạ tầng cơ sở của mình. Trong khi đó, nhiều nhà phân tích lại cho rằng lượng tiền rất lớn từ bên ngoài đổ vào châu Á hiện nay có nguy cơ gây bất ổn cho các nền kinh tế khu vực.Còn nhớ cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997 đã xảy ra sau khi các nhà đầu tư ồ ạt rút tiền khỏi khu vực, nơi trước đó họ đã đổ vào mua chứng khoán và trái phiếu ngân hàng.Vì thế, dòng vốn lớn từ bên ngoài chảy vào châu Á đang khiến giới kinh tế lo ngại một cuộc khủng hoảng tương tự có thể xảy ra. Mối lo ngại này tăng lên khi dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài đổ vào châu lục này lên tới mức kỷ lục, giữa lúc áp lực đối với các đồng tiền trong khu vực và lạm phát cùng gia tăng, trong khi các ngân hàng châu Á lại thiếucác quy định chặt chẽ về cho vay vốn. Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các TNCs của các nước phát triển. Mặc dù ngày càng có sự đa dạng hóa trong các đối tác và chủ thể tham gia vào quá trình luân chuyển FDI, nhưng thực chất dòng vốn FDI quốc tế hiện nay đang bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Các công ty xuyên quốc gia trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp với khối lượng kiểm soát trên 90% tổng FDI toàn thế giới, đồng thời là lực lượng chủ yếu vận hành những mảng lớn của nền kinh tế thế giới, nắm vững nguồn vốn tài chính, kỹ thuật, nắm giữ các ngành kinh tế then chốt và mũi nhọn, kiểm soát thương mại quốc tế theo thống kê, các công ty xuyên quốc gia nắm giữ gần 40% sản lượng công nghiệp; 60% ngoại thương, 80% kỹ thuật mới của thế giới tư bản. Chỉ tính riêng 100 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới (tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản ở nước ngoài của các công ty này đã lên tới 1.400 tỷ USD, sử dụng 73 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu, chiếm trên 16%. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tiếp tục vươn ra các khu vực khác nhau trên thế giới với quy mô FDI ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng quyết định đối với lĩnh vực này. Bên cạnh việc giữ vững các khu vực đầu tư truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các công ty xuyên quốc gia đang gia tăng hoạt động đầu tư vào những địa bàn mới đầy triển vọng. Đặc biệt, tất cả các công ty xuyên quốc gia đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực châu Á. Đây cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật Bản, hàng thứ hai của Mỹ (sau Châu Âu) và hàng thứ ba của các nước Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu). Tính cạnh tranh giữa các nước đầu tư và giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau ngày càng cao. Sự phát triển của nền k._.inh tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa làm cho nguồn vốn FDI ngày càng mở rộng và gia tăng nhưng đồng thời nhu cầu thu hút sử dụng FDI ở tất cả các nước. Đặc biệt là các nước đang phát triển cũng ngày càng lớn, dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước và khu vực nhằm thu hút nguồn vốn này. Các nước nhận FDI - đặc biệt là các nước vừa phục hồi sau khủng hoảng, các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển khác có xu hướng tập trung nỗ lực đẩy mạnh việc cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, mở cửa rộng hơn, tạo điều kiện kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi hơn, kích thích tiêu dùng nội địa, dỡ bỏ bớt những “rào cản” trong các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực nhạy cảm như bảo hiểm, viễn thông, năng lượng... nhằm thu hút, “lôi kéo” FDI. Trong tổng FDI toàn cầu, các nước đang phát triển chỉ tiếp nhận được trên 20%, nhưng 2/3 của số đó lại tập trung vào một số nước có điều kiện thuận lợi và sức hấp dẫn đầu tư cao như Trung Quốc, ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc... Hàn Quốc trước đây là nước chủ yếu sử dụng vay nợ nước ngoài để phát triển. Từ cuối những năm 1980 và nhất là sau khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực đã thay đổi chính sách, chuyển sang mở cửa thu hút mạnh FDI để cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó có việc cơ cấu lại hệ thống các tập đoàn kinh tế, do vậy đã thoát nhanh khỏi khủng hoảng, tạo ra sức sống mới cho nền kinh tế. Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư, cạnh tranh trong việc thu hút FDI như Thái Lan, Malaysia, Philippin... Hiện nay đang có sự cạnh tranh khá gay gắt về thu hút FDI trong khu vực đang xuất hiện xu hướng dịch chuyển luồng vốn FDI từ một số nước ASEAN sang Trung Quốc... Không chỉ có sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư, cuộc cạnh tranh giữa các nhà đầu tư cũng không kém phần quyết liệt, tạo cho các nước tiếp nhận đầu tư có khả năng lực chọn. Các nhà cung cấp FDI đang “ráo riết” chào mời để có thể nhảy vào những lĩnh vực và thị trường kinh doanh béo bở, những dự án lớn được chính phủ nước sở tại khuyến khích bảo lãnh, bảo hộ... 1.4.2. Xu hướng FDI vào Việt nam trong những năm tới. Báo cáo đầu tư thế giới năm 2004 do UNDP tổ chức ngày 23/9 tại Hà Nội, các chuyên gia của UNDP cho rằng Việt Nam đang tạo được một môi trường đầu tư rất tốt, đặc biệt là đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư mong muốn đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư để tránh rủi ro. Với trên 80 triệu dân, Việt Nam là một thị trường lớn hấp dẫn nhà đầu tư. Vào WTO, Việt Nam trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư hơn bao giờ hết vì nó mở ra khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu cho các nhà đầu tư. Đặc biệt việc trở thành thành viên không thường trực của hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc đã nâng cao uy tín và vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.việc tăng cường phân cấp trong khâu quản lí cũng như có nhiều cải thiện tích cực về môi trường đầu tư đã và đang là tín hiệu tốt mời giọi các nhà đầu tư. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng nhà máy ở Việt Nam để xuất khẩu đi các nước khác. Chắc chắn dòng FDI tăng mạnh vào việt Nam, thực tế quí I đầu năm 2008 đã chứng minh nhận định trên với việc thu hút được trên 5,1 tỉ USD của 147 dự án. Theo dự báo của Cục đầu tư nước ngoài, từ nay tới năm 2010 Nhật Bản vẫn giữ vai trò hàng đầu trong đầu tư tại Việt Nam. Đầu tư của các đối tác quan trọng như Mỹ, EU và các đối tác truyền thống như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore được dự báo cũng sẽ gia tăng trong giai đoạn tới, với việc chuyển hướng đầu tư sang các lĩnh vực công nghệ cao và sinh lời như tài chính, ngân hàng, dịch vụ…  Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, tuy vẫn chỉ ở dạng “phôi thai”. Theo các số liệu được công bố, đầu tư FDI của Trung Quốc từ 1988 tới nay vẫn chỉ khiêm tốn trên 1,7 tỷ USD. Tuy nhiên, thực chất, khoản đầu tư lớn của Trung Quốc đổ vào Việt Nam lại qua các đối tác ở Hồng Kông với số tiền lên tới 3 tỷ 700 triệu USD kể từ năm 1988. 1.5. Tác động của FDI đối với sự phát triển kinh tế -xã hội. 1.5.1.Tác động đối với nước đi đầu tư. - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.Thông qua đầu tư FDI các nước đi đầu tư tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của các nước nhận đầu tư (giá nhân công rẻ, chi phí khai thác nguyên nhiên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ở các nước tiếp nhận đầu tư. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép các công ti có thể kéo dài chu kì sống của sản phẩm đã được sản xuất và tiêu thụ ở thị trường trong nước.Thông qua FDI các công ti cùa các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kì sống sản phẩm sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như nững sản phẩm mới ở các nước này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư. - Giúp các công ti ở chính quốc tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên vật liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ. - Cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế tăng cường khả năng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước tiếp nhận đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các hàng hóa nhập từ các nước khác. 1.5.2. Đối với các nước tiếp nhận đầu tư. a) Những tác động tích cực. 1. FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước được hình thành thông qua tiết kiệm và đầu tư. Vốn nước ngoài được hình thành thông qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế. Những quốc gia này luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn đầu tư, hoạt động sản xuất và đầu tư ở những nước này như là một “vòng đói nghèo luẩn quẩn” (theo Paul A. Samuelson). Để phá vỡ vòng luẩn quẩn ấy, các nước nghèo và đang phát triển phải tạo ra “một cú huých lớn”, mà biện pháp hữu hiệu là tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển nền kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến thu nhập tăng. So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm cơ bản sau đây: - FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư về chính trị, kinh tế như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư. - Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nên FDI mang tính ổn định hơn so với những khoản đầu tư khác. Thực tiễn cho thấy các nước NIC strong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỉ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động, hiệu quả đã trở thành những con rồng châu Á. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. FDI được coi là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành nước ta đã thu hút được trên 9500 dự án với mức vốn đăng ký đạt hơn 98 tỷ USD và hiện còn 8590 dự án có hiệu lực với tổng vốn đăng kí 83,1 tỉ USD. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực FDI ngày càng tăng. Nếu năm 1994, ở mức 6,9%, thì năm 2004 là 15,2% và “năm 2005 các doanh nghiệp FDI đóng góp 15,9% GDP… gần 10% tổng thu ngân sách nhà nước”. Khu vực FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế quốc dân. 2. Tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phần lớn vốn FDI đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, trong đó có những ngành chủ chốt như xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác chế biến dầu khí, hóa chất và sản xuất thiết bị và hàng tiêu dùng … FDI góp phần làm tăng tỉ trọng của những ngành này trong nền kinh tế đồng thời tạo điều kiện để hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Khu vực có vốn FDI còn giúp hình thành các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại như điện tử, tin học, viễn thong, lắp ráp ô tô và xe máy, giúp chuyển giao công nghệ và kĩ năng quản lí tiên tiến nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận theo nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu theo nguồn vốn, cơ cấu vốn đầu tư… 3. Góp phần vào sự phát triển công nghệ, kĩ thuật mới, cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng. Các nước đang phát triển có đặc điểm là trình độ khoa học và công nghệ thấp, sử dụng công nghệ lạc hậu, do đó năng suất lao động thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh sản phẩm yếu.Trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển. Xét về nhu cầu, cần có quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Có hai hình thức chuyển giao công nghệ là trực tiếp và gián tiếp, trong đó FDI là hình thức chuyển giao công nghệ trực tiếp và có hiệu quả nhất. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau như nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật, mua hoặc hợp đồng sử dụng bản quyền, sáng chế; tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung cấp... Bằng hình thức này, công nghệ được các công ty nước ngoài chuyển giao trực tiếp cả phần cứng (máy móc, thiết bị) lẫn phần mềm là bí quyết công nghệ. Đây là ưu điểm của chuyển giao công nghệ bằng con đường FDI so với các hình thức chuyển giao công nghệ khác. Việc tiếp nhận công nghệ từ chủ đầu tư sẽ giúp các doanh nghiệp FDI trong nước tiếp cận với công nghệ từ công ty mẹ, đồng thời rút ngắn khoảng cách công nghệ Các doanh nghiệp FDI còn có tác dụng phổ biến những công nghệ hiện đại, công nghệ sạch, giữ gìn môi trường theo các tiêu chuẩn tiên tiến cho các doanh nghiệp trong nước, nhờ thế mà thúc đẩy khoa học – công nghệ phát triển. Ngoài ra, do áp lực cạnh tranh từ doanh nghiệp FDI, buộc các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, vươn lên, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường đào tạo cán bộ... làm cho tốc độ hiện đại hóa được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, không chỉ có các nước đang phát triển quan tâm đến yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI, mà các nước công nghiệp phát triển cũng đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng cạnh tranh cao thì mở rộng đầu tư ra nước ngoài, những ngành trong nước kém sức cạnh tranh thì có thể cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn tính hoặc xóa bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây cũng là kết quả tất yếu của quá trình phân công, hợp tác lao động quốc tế, chuyên môn hóa và hợp lý hóa sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI. 4. FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực. Các dự án FDI mới tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, và thông qua việc thực hiện các dự án đó, làm thay đổi cơ cấu lao động, nâng cao năng lực, kỹ năng lao động, năng lực quản lý doanh nghiệp, tác phong công nghiệp, phù hợp với nền sản xuất hiện đại. Như trên đã nói, FDI luôn gắn liền với chuyển giao công nghệ mới so với công nghệ trong nước, cho nên lao động của nước tiếp nhận đầu tư được đào tạo để sử dụng và quản lý công nghệ, tiếp cận với phương pháp quản lý chất lượng, tổ chức và quản lý công nghệ, biện pháp tiếp thị, tiếp cận với các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Thông qua đó, trình độ và kỹ năng của người lao động trong nước được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc tạo ra việc làm trực tiếp, FDI còn gián tiếp tạo ra nhiều việc làm thông qua những ngành công nghiệp phụ trợ như cung cấp nhiên, nguyên, vật liệu, dịch vụ phục vụ cho các doanh nghiệp FDI và các nhà đầu tư nước ngoài. Các hoạt động công nghiệp phụ trợ này cũng đòi hỏi chất lượng cao, tổ chức tốt, do đó có tác dụng nâng cao trình độ Cùng với việc phát triển của khu vực FDI, nhiều lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, cung ứng dịch vụ cho khu vực này cũng phát triển theo. Như vậy, sẽ nâng cao khả năng tạo việc làm, giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp. Hiện nay, với chính sách tăng dần tỉ lệ nội địa hóa trong sản phẩm của các doanh nghiệp FDI các ngành sản xuất ô tô, xe máy, giày da, may mặc…. đã xuất hiện thêm nhiều doanh nghiệp vệ tinh cung cấp sản phẩm dịch vụ cho doanh nghiệp FDI, tạo ra nhiều việc làm. Tùy theo lĩnh vực sản xuất, số việc làm do doanh nghiệp FDI gián tiếp tạo ra tương đối lớn. FDI tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận đầu tư liên quan đến cả số lượng và chất lượng lao động. FDI đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp FDI tạo điều kiện cho lao động nâng cao tay nghề, tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Như vậy việc cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cường cán bộ, thu hút nhân tài, nâng cao trình độ, năng lực của lao động cũng góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam. 5.Thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Cạnh tranh ngày một gay gắt của khu vực FDI buộc nền sản xuất trong nước phải kiện toàn, tăng cường hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời khu vực FDI còn tạo ra sức ép đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư. Một mặt các nhà đầu tư yêu cầu nước nhận đầu tư phải mở cửa thị trường hơn nữa và tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mặt khác, khả năng cạnh tranh và tính chất hướng ngoại cao, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI là cơ sở tốt để cho kinh tế nước nhận đầu tư tăng cường mở cửa với bên ngoài, thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường thế giới... Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế. 6. Phát triển quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa vì lợi ích chung, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Hoạt động FDI là chiếc cầu nối ràng buộc lợi ích kinh tế giữa các nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư . Hoạt động FDI góp phần quan trọng đối với đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán. Trong đó, xuất khẩu là một trong những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thêm thu nhập cho nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư về, hoạt động FDI góp phần vào việc hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán. Ngoài ra, FDI còn góp phần tích cực hòan thiện, nâng cao nghiệp vụ quản lý xuất nhập khẩu theo tiến trình hội nhập quốc tế: như hải quan, thực hiện lộ trình cát giảm thuế; nâng cao hệ thống kinh tế - kỹ thuật xuất nhập khẩu như: thương mại điện từ, ngân hàng điện tử, vận tải (cảng container, hệ thống vận tải bồn dầu theo tiêu chuẩn quốc tế, cầu cảng, hàng không....). Hoạt động của FDI nâng cao năng lưc sản xuất của doanh nghiệp trong nước, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, biến những tiềm năng về nguồn lực thành hiện thực, tạo sự hấp dẫn đầu tư, sự quan tâm của các nước trên thế giới. Thông qua việc hội nhập với các tổ chức, các diễn đàn kinh tế, các liên kết.. từ đó góp phần nâng cao vị thế trên trường quốc tế. b) Những tác động tiêu cực. Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, FDI còn có những tác động tiêu cực đến nước tiếp nhận đầu tư. Sau đây là những tác động tiêu cực mang tính phổ biến: 1. Mất cân đối trong đầu tư Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng tối đa vốn trong nước. Từ đó, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư (giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài), có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài (kể cả bí quyết kỹ thuật, công nghệ, đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, thị trường sản phẩm...). Lợi nhuận của các doanh nghiệp FDI có xu hướng chuyển ra nước ngoài, do vậy FDI tuy tác động đẩy mạnh tăng trưởng ngắn hạn và trung hạn nhưng có khả năng làm giảm tiềm lực tăng trưởng dài hạn. Nếu tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài, thiếu vững chắc.Đồng thời các hoạt động FDI chỉ tập trung tại một số địa phương có nhiều lợi thế nên đã tạo ra khoảng cách phát triển giữa các địa phương làm mất cân đối đầu tư giữa các địa phương. 2. Lợi dụng biện pháp chuyển giá để trốn thuế gây thiệt hại cho ngân sách và người tiêu dùng, gây sức ép cạnh tranh đến các doanh nghiệp trong nước Các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng lợi thế của mình đối với doanh nghiệp ở nước tiếp nhận, nhất là trong trường hợp liên doanh, để thực hiện biện pháp “chuyển giá” (transfer pricing) thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết, linh kiện, bộ phận, sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này, làm cho giá thành sản phẩm cao một cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí gây ra “lỗ giả, lãi thật”, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, trốn thuế làm giảm thu ngân sách của nước sở tại. Ngoài việc lợi dụng “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước, doanh nghiệp FDI còn gây sức ép cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước. Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, công nghệ, các doanh FDI tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt đến các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước nếu không đủ mạnh dễ bị mất thị phần, làm ăn thua lỗ, thậm chí phá sản. Đôi khi, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thực hiện chính sách cạnh tranh bằng con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh độc chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số ngành sản xuất trong nước không phát triển được. 3. Nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà, một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường FDI để tiêu thụ những máy móc, thiết bị lạc hậu, thậm chí đã thải loại sang nước tiếp nhận FDI. Thực tế ở nhiều nước cho thấy khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp vốn bằng các thiết bị và vật tư đã lạc hậu, đã qua sử dụng (được tân trang) hoặc nhiều khi đã đến thời hạn thanh lý. Nếu không có những quy định và sự kiểm soát chặt chẽ, nước nhận FDI dễ trở thành “bãi thải công nghệ” của các công ty xuyên quốc gia, gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế,đồng thời làm gia tăng vấn đề ô nhiễm môi trường, đã và đang là vấn đề nan giải của toàn cầu. Do vậy, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực thu hút và quản lý nguồn vốn FDI cần có các biện pháp hữu hiệu để có thể giảm thiểu tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu, thiết bị, máy móc cũ, năng suất thấp gây thiệt hại cho nền kinh tế. 4. Tác động tiêu cực đến vấn đề xã hội Sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh hưởng bất lợi về kinh tế-xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, gây ra hiện tượng chảy máu chất xám, làm gia tăng sự phân hóa trong các tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch phát triển trong một vùng hoặc giữa các vùng... Đặc biệt, sự gia tăng số lượng dự án FDI, bao giờ cũng kèm theo sức ép về các chính sách an sinh xã hội, trật tự an toàn cho nước chủ nhà. Việc đầu tư cho an sinh xã hội cũng đòi hỏi chi phí ngân sách không nhỏ, như: xây dựng nhà ở, trường học, y tế, công trình văn hóa – xã hội, vệ sinh môi trường, các dịch vụ công khác….. Đặc biệt, hiện tượng các chủ doanh nghiệp FDI lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các cơ quan, cán bộ quản lý và người lao động, kẽ hở của chính sách, pháp luật Việt Nam để khai thác triệt để sức lao động của công nhân; ở nhiều nơi còn có hành động đối xử bất công, xúc phạm nhân phẩm người lao động, gây mâu thuẫn, phản kháng của công nhân như xô xát, đình công, lãn công… Trên đây là một số tác động tiêu cực của FDI. Tuy nhiên, những tác động gây ảnh hưởng đến kinh tế- xã hội ra sao, mức độ thế nào, còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của nước chủ nhà. Nếu chúng ta có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đầy đủ và có các biện pháp phù hợp, thì có thể hạn chế, giảm thiểu được những tác động tiêu cực, bất lợi, phát huy mặt tích cực của FDI cho tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. 1.5. Một số bài học kinh nghiệm về thu hút FDI nhằm phát triển kinh tế- xã hội. 1.5.1. Kinh nghiệm của Trung quốc. Kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách mở cửa năm 1978 đến nay, nền kinh tế Trung Quốc đã có sự biến đổi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong nhiều năm, GDP tăng bình quân 9,5%. Trong các yếu tố tác động tạo ra mức tăng trưởng cao như vậy có sự đóng góp quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với 40-45 tỷ USD/năm những năm 1990-2000 và 53 tỷ USD năm 2005 (gần 60% lĩnh vực sản xuất và 24% là lĩnh vực bất động sản), Trung Quốc đã trở thành nước tiếp nhận FDI khoảng 30% tổng các luồng FDI vào tất cả các nước đang phát triển. Tuy vẫn còn một số tác động tiêu cực, nhưng về cơ bản FDI đã có những tác động tích cực đến kinh tế – xã hội của Trung Quốc. Tận dụng được FDI, Trung Quốc có điều kiện để cải cách cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp, hiện đại hóa đất nước, rút ngắn khoảng cách với thế giới về khoa học – công nghệ, thúc đẩy cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế. Năm 2001, khu vực FDI đóng góp 1/3 tổng sản lượng công nghiệp, 1/5 giá trị gia tăng công nghệ cao, 51,5% xuất khẩu, thu hút gần 23 triệu lao động. Các khu vực kinh tế vốn lạc hậu ở phía Trung và Tây Trung Quốc, nhờ FDI đã dần dần phát triển trên cơ sở phát huy các ưu thế về lao động và tài nguyên dồi dào của Trung Quốc. Có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc phát huy tác dụng tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của FDI đối với phát triển KT-XH ở Trung Quốc như sau: - Sự thống nhất nhận thức về vai trò của FDI với phát triển kinh tế từ trung ương đến địa phương và là kết quả của những nỗ lực không ngừng đối với việc cải tiến hệ thống chính sách. - Chiến lược mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế theo vùng lãnh thổ tuân thủ qui hoạch đã được xây dựng. - Thực hiện đa dạng hóa các nguồn huy động vốn, kết hợp có hiệu quả việc sử dụng FDI với các nguồn vốn tín dụng huy động trong và ngoài nước. Tìm kiếm các nguồn tín dụng từ bên ngoài với các điều kiện vay có lợi nhất và sử dụng một phần đáng kể vốn từ nguồn vay này cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.Đồng thời từng bước hạn chế dần việc vay nợ nước ngoài , cố gắng tăng nhanh huy động vốn từ các nguồn trong nước & FDI. - Có chính sác thỏa đáng để mở rộng việc thu hút các nà đầu tư người Hoa ở nước ngoài chuyển vốn về đầu tư tại Trung quốc .Mở rộng địa bàn hoạt động, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, sử dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kì ,đa dạng hóa các hình thức và chủ đầu tư. 1.5.2. Kinh nghiệm của Singapore. - Chúng ta đã biết Singapore nổi lên là một trong 4 con rồng châu Á với nền kinh tế phát triển, GDP bình quân đầu người cao trên 24000 $ ,phát triển các ngành dịch vụ và tài chính.Có được thành công đó một phần không nhỏ là từ nguồn FDI . - Chính phủ ít khống chế số lĩnh vực đầu tư đối với các dự án có vốn FDI trong đó các ngành thu hút mạnh là thăm dò, khai thác và chế biến dầu mỏ, chế tạo máy, sửa chữa đóng mới tàu biển, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, tài chính & buôn bán quốc tế. - Hình thành một thị trường động bộ, đa dạng tự do hóa. - Thực hiện chính sách hạn chế việc vay vốn cho các dự án đầu tư - Chính phủ dự kiến trước và đưa ra bảng phân loại các xí nghiệp, các ngành sản xuất cần gọi vốn đầu tư và đi cùng với nó là các chế độ ưu đãi cụ thể về miễn thuế lợi nhận, thuế nhập khẩu, tự do chuyển lợi nhuận về nước,đào tạo lao động. 1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt nam. - Nhận thức về chiến lược cũng như về chính sách thu hút đầu tư hợp lí, có qui hoạch rõ ràng và cân đối giữa phát triển sản xuất với xây dựng cơ sở hạ tầng… nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công. - Đa dạng hóa nguồn huy động vốn, kết hợp các nguồn tín dụng trong nước ngoài nước, FDI, hạn chế vay nợ nước ngoài. Khuyến khích mạnh các nguồn vốn trong nước cùng tham gia đầu tư với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài .Có chính sách thu hút hơn nữa nguồn vốn, công nghệ, chất xám từ bộ phận Việt kiều tham gia đầu tư vào Việt nam. - Cho phép mở rộng hơn nữa các lĩnh vực đầu tư. - Quản lí đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư. Chương hai: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam thời gian qua. 2.1. Tổng quan chung về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam. 2.1.1.Tình hình thu hút vốn đầu tư và các dự án FDI . 2.1.1.1 Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Riêng năm 2007 đã có 1406 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng kí lên 17,6 tỉ USD trong tổng số 20,3 tỉ USD vào Việt nam 2007,đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), đầu tư nước ngoài chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Đó là do các chính sách FDI vừa mới thay đổi, luật đầu tư nước ngoài vẫn còn là rào cản đối với hoạt động FDI chưa khuyến khích được các nhà đầu tư như chưa cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thành lập doanh nghiệp liên doanh với thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà chỉ cho góp vốn với thành phần kinh tế nhà nước & tập thể. Các đạo luật gián tiếp có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài về thuế, tiền lương, sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ còn thiếu cũng như cơ sơ hạ tầng yếu kém. Trong thời kỳ 1991-1995: Thời kỳ này Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi hai lần vào các năm 1990 và 1992. Qua 5 năm thực hiện, số dự án được cấp phép đã tăng nhanh gấp 6,2 lần thời kỳ 1988 - 1990 với tổng vốn đầu tư đăng ký gấp 9,3 lần. Riêng năm 1995 là năm có số dự án và vốn được cấp phép cao nhất. Quy mô vốn trung bình 12,5 triệu/dự án .Vốn FDI đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư- kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư- kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, các hạn chế kinh doanh dần được tháo gỡ. Vì vậy, FDI tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước. Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông) từ cơn bão tài chính 1997. Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn FDI vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với kế hoạch, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với._.ẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp, xây dựng đất nước” Thứ hai, gắn chặt việc thu hút và sử dụng hiệu quả FDI với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ ba, phải đặt nhiệm vụ thu hút, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một bộ phận khăng khít của chính sách phát triển kinh tế đối ngoại và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, vốn FDI đóng vai trò vừa là động lực, vừa là nguồn lực quan trọng thúc đẩy nhanh công cuộc Công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Các bộ phận của kinh tế đối ngoại liên quan mật thiết với nhau: FDI gắn với thương mại, du lịch và dịch vụ quốc tế; FDI và các hình thức thu hút đầu tư nước ngoài khác. Trong bối cảnh hiện nay, để phát huy tổng thể kinh tế đối ngoại, không thể coi nhẹ FDI phải coi nó như một bộ phận quan trọng để phối hợp và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, trước hết là xuất nhập khẩu, du lịch và các dịch vụ quốc tế liên quan (vận tải, viễn thông, tài chính, ngân hàng, tư vấn…). Do vậy, FDI còn có vai trò làm cầu nối, thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, nó phản ánh sự kết hợp hài hoà việc phát huy nội lực với khai thác sử dụng các nguồn lực bên ngoài để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Chiến lược thu hút FDI là cơ sở để xây dựng các quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, lĩnh vực kinh tế và vùng lãnh thổ. Thứ tư, đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn FDI phải gắn liền với việc nâng cao hiệu quả trong phân bổ, sử dụng một cách toàn diện và hợp lý để phát huy cao nhất vai trò, tác dụng của FDI đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế địa phương và khu vực. Thứ năm, FDI phải góp phần thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Kết hợp kinh tế- xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển kinh tế- xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị; củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế-xã hội.“Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển KT-XH”. 3.2.Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.2.1.Hoàn chỉnh qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội, qui hoạch về xây dựng công nghiệp, chương trình thu hút và sử dụng vốn FDI từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020. - Khẩn trương xây dựng “Chiến lược thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI”. Trong chiến lược, phải cụ thể hóa một cách đầy đủ, có hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng phát triển FDI mà các Nghị quyết Đại hội IX, X ,XI đã đề ra. Chiến lược phải phản ánh quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu đề ra tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và phát huy được lợi thế so sánh, tiềm năng của Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược phải đề ra được mục tiêu tổng thể có tính lâu dài đến năm 2010 và xa hơn; đồng thời phải chỉ ra những mục tiêu cụ thể cho từng thời kỳ (bao gồm cả mục tiêu về chất lượng hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI). Chiến lược này còn chỉ ra các nguồn lực và lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn cụ thể với hệ thống các giải pháp tích cực có tính khả thi cao; chú ý tới các cơ chế, chính sách thật sự hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao, có tính ổn định, đồng thời có tính linh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Chiến lược thu hút và sử dụng FDI phải được coi là bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở để xây dựng các quy hoạch tổng thể và kế hoạch thu hút FDI theo ngành, khu vực và theo từng KCN, KCX. Để xây dựng chiến lược có chất lượng, sát với tình hình thực tế, cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong nước và quốc tế, tăng tính mở, tính linh hoạt trong các phương án để thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường và xu hướng vận động của các luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. - Trên cơ sở chiến lược, phải xây dựng được quy hoạch và các chương trình, kế hoạch đồng bộ, ăn khớp, cụ thể hóa cho từng giai đoạn, trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm cần tập trung khuyến khích thu hút FDI và hệ thống giải pháp phù hợp, nhằm tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong nhận thức và hành động cụ thể của tất cả các ngành, các cấp, tạo ra sức bật mới trong thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác lập quy hoạch, kế hoạch, cụ thể hóa, chính xác hóa, cập nhật hóa danh mục dự án thu hút FDI, làm cơ sở cho việc tổ chức thực hiện được rõ ràng, đồng bộ và thuận lợi. Trước mắt, phải rà soát để bổ sung, hoàn thiện danh mục dự án kêu gọi FDI trong những năm sắp tới. Danh mục dự án kêu gọi FDI phải được xây dựng trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch thu hút FDI đã được phê duyệt. - Song song với việc xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút FDI, cần tiến hành rà soát, bổ sung và điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Để thực hiện việc này cần rà soát, bổ sung các quy hoạch phát triển ngành, gồm: quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, du lịch, thương mại, nông nghiệp, giáo dục - đào tạo, văn hoá - thông tin, y tế… Cũng cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch xây dựng các tỉnh thành phố , thực hiện đồng nhất các quy hoạch chi tiết, rà soát điều chỉnh thường xuyên, đảm bảo phù hợp với quy hoạch chung. Cần gấp rút thực hiện quy hoạch thêm một số khu công nghiệp, khu công nghệ cao để chuẩn bị đón đầu các làn sóng đầu tư mới sau khi tham gia vào WTO. Để thực hiện những giải pháp quy hoạch nêu trên, chúng ta phải tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quy hoạch. Một mặt đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn đối với đội ngũ hiện có, mặt khác mời các công ty tư vấn giỏi trong nước và nước ngoài cùng tham gia thực hiện công tác quy hoạch thành phố, đặc biệt đối với các khu trung tâm, các điểm nhấn kiến trúc và các công trình mang tầm vóc, quy mô lớn. Sau khi đã hoàn thành quy hoạch, cần công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và nước ngoài để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nắm bắt và tìm hiểu cơ hội đầu tư. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bảo đảm chấp hành nghiêm theo đúng quy định của pháp luật. 3.2.2.Áp dụng ban hành & thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư. Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006-2007 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ và nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm R & D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam... 3.2.3.Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư. Cải thiện cơ sở hạ tầng: - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước như vốn ODA, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển phi chính phủ khác ; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; hành lang kinh tế- Đông Tây giữa các nước Đông Dương.. nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu. Hoàn thiện chính sách thuế, ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Tiếp tục hoàn thiện Luật thuế giá trị gia tăng và thuế lợi nhuận công ty. Đây là hai loại thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động ổn định (các ưu đãi về thuế lợi tức, thuế giá trị gia tăng của Việt Nam chưa thật hấp dẫn so với các nước trong khu vực và còn nhiều vướng mắc, bất cập). - Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính đối với nhà đầu tư như: vấn đề hoàn thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển lợi nhuận về nước. Không hạn chế hoặc không đưa ra quy định bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn bằng tiền mặt khi họ đang gặp khó khăn. - Xoá bỏ ấn định tỷ lệ nguồn vốn trong các dự án và lĩnh vực cần phát triển mà vốn trong nước không đủ, không có khả năng đầu tư. - Cần tiếp tục đề ra và thực hiện các cam kết về ưu đãi thuế trong khuôn khổ AFTA, WTO. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để xử lý nghiêm theo luật định những hành vi trốn thuế, lậu thuế. - Rà soát, củng cố lại các công cụ tài chính - kế toán để tăng cường giám sát kiểm tra hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục những sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích quốc gia (đặc biệt là vấn đề chuyển giá). Cải thiện chính sách lao động, tiền lương: - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỉ trọng lao động vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỉ trọng lao động sản xuất nông nghiệp. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. - Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các KCN, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động. - Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. Cải cách hành chính:  - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án FDI, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Thực tế Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế cũng như các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT. Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và nước ngoài trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát. - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. - Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. - Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư . - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. 3.2.4.Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tổ chức bồi dưỡng, nâng cao trình độ về pháp luật, chính sách, chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ làm công tác hợp tác đầu tư với nước ngoài, hướng tới đáp ứng yêu cầu hội nhập và giao lưu quốc tế. Có kế hoạch đào tạo thường xuyên, liên tục cán bộ đối ngoại, cán bộ làm công tác quản lý đầu tư nước ngoài, cán bộ trực tiếp tham gia vào các liên doanh không chỉ giỏi về kinh tế, quản lý mà phải am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế, trong đó chú ý cán bộ chủ chốt hoạt động kinh tế đối ngoại: có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, giàu về kiến thức, thông thạo ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật và có khả năng đàm phán quốc tế để có thể đảm bảo làm việc tốt, có hiệu quả trong môi trường vừa hợp tác vừa đấu tranh. . Về lâu dài, cần tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi thuộc các chuyên ngành như: kinh tế đối ngoại, luật kinh tế, kinh tế đầu tư... vào làm việc theo chế độ công chức dự bị tại Sở KH-ĐT, Ban Quản lý các KCN; sau đó tổ chức cho thi công chức và nếu trúng tuyển cho đi đào tạo tiếp ở nước ngoài. Đây là nguồn nhân lực có chất lượng cao bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN đối với hoạt động FDI, đồng thời có thể cử họ tham gia vào Hội đồng quản trị các doanh nghiệp liên doanh mà đối tác phía Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước. Công tác cán bộ và đào tạo phải hướng vào việc nâng cao trình độ quản lý của cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi để đảm trách những công việc trong các DN FDI. Không chỉ thông qua hệ thống các trường chuyên ngành trong nước để đào tạo cán bộ chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực FDI mà cần mạnh dạn gửi ra nước ngoài đào tạo cũng như thuê các chuyên gia hàng đầu của nước ngoài vào làm việc ở những khâu mà ta chưa đảm đương được hoặc còn yếu (chẳng hạn kiểm toán...). Điều chỉnh mạnh về nhân sự, nhất là cán bộ chủ chốt liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại và đặc biệt là trong lĩnh vực FDI. Có đề án dài hạn về đào tạo và sử dụng cán bộ nguồn trẻ, được tạo cơ bản và xuất thân từ những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc các trường đại học trong nước hoặc ngoài nước. Đó cũng chính là cách để nhanh chóng tiếp cận được những kỹ năng trong hoạt động đầu tư đáp ứng tốt hơn cho công việc trước mắt và lâu dài. Song song, với công tác đào tạo cán bộ, cần chú trọng tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các DN FDI theo các chương trình phù hợp nhu cầu và triển vọng sử dụng thực tế số lao động này. Khuyến khích và có quy định cụ thể đối với các DN FDI về đào tạo tay nghề, nhất là huấn luyện kỹ thuật; có chính sách yêu cầu các DN FDI có kế hoạch đào tạo công nhân và cán bộ quản lý doanh nghiệp. Trên cơ sở từng ngành đã có quy hoạch chi tiết cho việc gọi vốn FDI theo từng dự án cụ thể, phải có quy hoạch cán bộ dự kiến tham gia các dự án liên doanh, qua đó có các kế hoạch đào tạo cụ thể nhằm chuẩn bị cán bộ đủ điều kiện cử vào tham gia các chức vụ chủ chốt trong liên doanh. Đối với đội ngũ cán bộ đang tham gia ở các liên doanh cần có kế hoạch biện pháp quản lý, giúp đỡ, bồi dưỡng thông qua các cuộc sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo để nâng cao trình độ. Kiên quyết xử lý các cán bộ công chức nhà nước ở bất cứ cương vị nào có thái độ và hành động sách nhiễu, gây khó khăn cản trở nhà đầu tư nước ngoài; có chế độ phụ cấp, khen thưởng cho những người có nhiều thành tích trong công tác đầu tư nước ngoài; Biểu dương các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả và có nhiều đóng góp cho Việt Nam. 3.2. Các giải pháp đối với các doanh nghiệp & tổ chức. 3.2.1. Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy Ban quản lý các KCN, KCX, trung tâm xúc tiến đầu tư. Hoạt động của Ban Quản lý các KCN và chế xuất lâu nay hiệu quả chưa cao, chẳng hạn việc một Phó Chủ tịch UBND thành phố kiêm chức danh Trưởng Ban Quản lý các KCN và chế xuất chưa phải là giải pháp tối ưu về mặt nhân sự. Hoạt động xúc tiến đầu tư giữa Ban Quản lý các KCN và chế xuất các tỉnh và Trung tâm Xúc tiến đầu tư còn chồng lấn nhau, đôi khi gây mâu thuẫn với nhau. Chúng ta cần tìm ra một giải pháp tối ưu hơn. Phương án thứ nhất: Vẫn duy trì hai tổ chức như hiện nay, đều là các cơ quan trực thuộc UBND tỉnh. Ban Quản lý các KCN và chế xuất làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và xúc tiến các dự án đầu tư nước ngoài vào các KCN thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư theo thẩm quyền được giao. Trung tâm Xúc tiến đầu tư thuộc Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh thực hiện chức năng xúc tiến các dự án đầu tư ngoài KCN, thẩm định và trình UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh, trình Bộ kế hoạch và Đầu tư đối với các dự án lớn vượt quá thẩm quyền Phương án thứ hai: Sáp nhập hai tổ chức này thành một tổ chức gọi tên là Ban Quản lý các KCN và thu hút đầu tư, thực hiện nhiệm vụ của hai bên gộp lại, tạo thành một đầu mối tập trung thống nhất về hoạt động, tạo cho nhà đầu tư cảm giác yên tâm và thông tin nhất quán, tinh giảm bớt bộ máy hành chính. Trong trường hợp này, bộ máy lãnh đạo cơ quan này phải có đủ năng lực, năng động, giỏi ngoại ngữ thì mới có thể đáp ứng được nhiệm vụ giao. Đối với công việc xúc tiến đầu tư: - Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư, chọn lựa những cán bộ trẻ, khỏe, thực sự năng động, sáng tạo, tâm huyết, đồng thời nghiên cứu có chính sách hỗ trợ kinh phí phụ cấp ngoài lương cho đội ngũ này yên tâm công tác lâu dài, ổn định. - Xây dựng hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu điện tử như website riêng của các KCN, KCX, in và phát miễn phí giới thiệu tóm tắt về quy hoạch phát triển, chính sách thu hút FDI cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thường xuyên cập nhật các cơ chế ưu đãi mới nhằm hỗ trợ đắc lực cho công tác tìm kiếm thông tin của nhà đầu tư . - Thành lập Văn phòng đại diện của Trung tâm Xúc tiến đầu tư tại một số nước (Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Hoa Kỳ) để thường xuyên bám sát các nhà đầu tư lớn. Thiết lập đội ngũ cộng tác viên với Trung tâm Xúc tiến đầu tư cả trong nước và nước ngoài nhằm hỗ trợ cho các hoạt động Trung tâm, nhất là trong việc viết dự án cơ hội, nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin. - Tăng kinh phí từ ngân sách cho hoạt động của Trung tâm Xúc tiến đầu tư để đẩy mạnh các hoạt động quảng bá hình ảnh, tổ chức các đoàn công tác ra nước ngoài kêu gọi đầu tư tuy nhiên cần có chọn lọc và trọng điểm tránh tình trạng dàn trải kém hiệu quả,gây tốn kém và lãng phí. 3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý và uy tín thương hiệu của các doanh nghiệp trong nước để phát triển liên doanh với nước ngoài Chính quyền các tỉnh thành phố thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhằm phát hiện những khó khăn, những yêu cầu chính đáng của doanh nghiệp để có những biện pháp giải quyết, hỗ trợ thích đáng và kịp thời. Đẩy mạnh phát triển thành phần kinh tế tư nhân, khuyến khích thành lập các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để các doanh nghiệp cùng liên kết, hỗ trợ nhau phát triển. Tiến hành khảo sát, lựa chọn một số cán bộ quản lý điều hành doanh nghiệp nhà nước trẻ, giỏi, phẩm chất tốt đưa đi đào tạo ở nước ngoài để nâng cao kỹ năng quản lý điều hành, hợp tác quốc tế nhằm sẵn sàng đại diện cho phía Việt Nam khi tham gia liên doanh. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác khuyến khích đầu tư trong nước, kêu gọi một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp mạnh trong nước mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh nhằm góp phần tạo nên thị trường hàng hoá đa dạng, phong phú, chất lượng cao; tạo lập môi trường làm ăn sôi động đủ sức hấp dẫn, lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài . 3.2.3. Phát triển các dịch vụ phát triển kinh doanh và các ngành sản xuất phụ trợ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ. Công nghiệp phụ trợ là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ kiện, phụ tùng... Ngành công nghiệp phụ trợ hoặc thầu phụ (outsourcing) đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn FDI. Ngoài hiệu quả tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa, công nghiệp phụ trợ đóng vai trò rất quan trọng trong việc tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình CNH theo hướng vừa theo chiều rộng (broadening) vừa theo chiều sâu (deepening). Do sự phân công lao động quốc tế ngày càng cao nên không phải tất cả các công ty trên thế giới đều sản xuất ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, một sản phẩm có thể được lắp ráp từ các bộ phận khác nhau do các nước khác nhau sản xuất. Xu hướng chung là sản phẩm cuối cùng đưa ra thị trường phải gần thị trường tiêu thụ lớn để giảm bớt chi phí sản xuất, vận chuyển, vận hành bảo dưỡng... Nếu công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu, đồng thời giảm bớt tính cạnh tranh của sản phẩm do tăng chi phí nhập khẩu, vận chuyển… Khảo sát thực tế về doanh nghiệp FDI hoạt động cho thấy, do tình hình hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp nội địa, các doanh nghiệp FDI rất muốn tăng tỷ lệ nội địa hoá để giảm giá thành sản phẩm nhưng ít tìm được nguồn cung cấp nguyên vật liệu phụ trợ đáng tin cậy. Đặc biệt những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc những doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu có khuynh hướng dùng linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất. Bên cạnh đó, các dịch vụ phục vụ cho nhà đầu tư nước ngoài đến phát triển kinh doanh ở Việt nam cũng còn yếu kém. Từ dịch vụ hàng không, cảng biển, ngân hàng, bãi biển cho đến khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí. Do vậy, việc phát triển các dịch vụ và các ngành sản xuất phục vụ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ là vô cùng quan trọng nếu chúng ta muốn cải thiện môi trường đầu tư của mình. Các biện pháp cần tập trung là các doanh nghiệp trong nước cần nỗ lực và có sự hỗ trợ của Nhà nước đầu tư sản xuất các ngành công nghiệp phụ trợ trên một số lĩnh vực như điện tử, cơ khí, dệt may, hoá chất... thu hút các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng thêm một số khu nghỉ mát 5 sao ven biển, các khách sạn 5 sao ở khu vực trung tâm, chung cư cao cấp, văn phòng cho thuê, phát triển dịch vụ ngân hàng, dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng sân golf, tennis.. tiếp tục mở thêm các trường quốc tế, bệnh viện quốc tế. Thực tế cho thấy, thành tích về số vốn đầu tư, số lượng dự án tất nhiên là quan trọng, nhưng nhìn trên toàn cục, việc “thông” giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa trong nền kinh tế mới quan trọng hơn cả. Một trong những mục đích lớn của thu hút FDI là tạo ra những hiệu ứng lan tỏa từ khu vực FDI tới khu vực doanh nghiệp trong nước. Khi doanh nghiệp nước ngoài tiêu thụ các sản phẩm sẵn có trong nước, thay vì nhập khẩu sẽ dẫn đến tăng thu nhập và lợi nhuận cho công ty nội địa, mang lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Kết luận. Nguồn vốn FDI đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghị quyết Đại hội X,XI của Đảng và các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh rằng: kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng đối với các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, đẩy mạnh thu hút vốn FDI nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ mang tính chiến lược, lâu dài, là yếu tố quyết định sự phát triển của Việt nam . Việt Nam thời gian qua đã có nhiều cố gắng trong thu hút vốn FDI nhưng nhìn chung còn tồn tại nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trong giai đoạn tới nhằm đạt thắng lợi mục tiêu chiến lược đề ra thì vấn đề thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó tập trung đổi mới công tác qui hoạch đầu tư nước ngoài gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lí nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, bên cạnh đó phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm thu hút đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước và làm tăng hiệu ứng tạo việc làm gián tiếp từ khu vực đầu tư nước ngoài…. Cuối cùng xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt đã giúp đỡ tác giả trong quá trình làm đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo kế hoạch kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010, Hà nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo tình hình thu hút FDI 2006. CIEM: Kinh tế Việt Nam 2006. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nxb CTQG, HN. GS.TS.Vũ ngọc Phùng(2006): Giáo trình Kinh tế phát triển, nxb LĐXH, HN Lê Xuân Bá (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Luật Đầu tư 2005, nxbCTQG, HN. Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài(1987),nxbCTQG, HN. Một số vấn đề phát triển kinh tế của Việt nam hiện nay. Nguyễn Bích Đạt(2005) : Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài& nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Kế Hoạch & Đầu Tư, nxb CTQG, Hà nội. Nguyễn Văn Tuấn(2005):Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, nxb Tư pháp, HN. PGS.TS.Nguyễn bạch Nguyệt, PGS.TSTừ Quang Phương(2007): Giáo trình Kinh tế Đầu tư,nxb ĐHKTQD, HN Thời Báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2006-2007: Việt Nam và thế giới. Tạp chí Kinh tế & Phát triển. Tạp chí Kinh tế& Dự báo. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán. Tạp chí Thông tin tài chính. Tạp chí Quản lý kinh tế. Website: . Website: . Website: . Website: . Website: http:// vietnamnet.vn Website: Website: Website: Website: Website: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24731.doc
Tài liệu liên quan