MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
6
PHẦN MỞ ĐẦU
8
1. Sự cần thiết của đề tài
8
2. Tình hình nghiên cứu
9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
10
5. Phương pháp nghiên cứu
11
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
11
7. Bố cục của luận văn
12
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA FDI Ở HƯNG YÊN
13
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
13
1.1.1. Các khái niệm cơ bả
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1831 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu FDI ở Hưng Yên - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n
14
1.1.2. Đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
14
1.2. Các lý thuyết giải thích sự ra đời của đầu tư trực tiếp nước ngoài và đánh giá hiệu quả FDI
17
1.2.1. Các lý thuyết giải thích sự ra đời của FDI
17
1.2.2. Đánh giá hiệu quả FDI
22
1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
30
1.3.1. Đối với nước xuất khẩu vốn
30
1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
31
1.4. Động thái dòng vốn FDI
38
1.4.1. Luồng vốn đầu tư trực tiếp hướng vào các nước tư bản phát triển và đang phát triển
38
1.4.2. Công nghiệp chế biến và dịch vụ là các lĩnh vực thu hút đầu tư mạnh nhất
39
1.4.3. Đa cực và đa biên trong đầu tư trực tiếp
39
1.4.4. Các công ty xuyên quốc gia đã và đang trở thành chủ thể đầu tư chủ yếu
40
1.4.5. Hiện tượng hai chiều trong đầu tư trực tiếp
41
1.5. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua
41
1.5.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về thu hút FDI
41
1.5.2. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua.
43
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG FDI Ở HƯNG YÊN
51
2.1. Môi trường thu hút FDI ở Hưng Yên.
51
2.1.1. Vị trí địa lý, địa điểm đầu tư.
51
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế, nguồn nhân lực.
54
2.1.3. Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ đầu tư.
60
2.1.4. Chính sách, thủ tục hành chính đối với FDI.
62
2.2. Tác động của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội của Hưng Yên.
72
2.2.1. Tác động của FDI đến chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
72
2.2.2. Tác động của FDI đến kim ngạch xuất khẩu.
79
2.2.3. Các tác động khác.
86
2.3. Các vấn đề đặt ra trong thu hút và sử dụng FDI ở Hưng Yên
90
2.3.1. Những thành công
90
2.3.2. Những hạn chế, tồn tại và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
96
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ FDI Ở HƯNG YÊN.
102
3.1. Mục tiêu, phương hướng thu hút FDI của Hưng Yên trong thời gian tới
102
3.1.1. Cơ sở định hướng
102
3.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của FDI trong thời gian tới.
104
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả FDI tại Hưng Yên
105
3.2.1. Tiếp tục đổi mới nhận thức đối với FDI
105
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới cơ chế chính sách
106
3.2.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
111
3.2.4. Làm tốt công tác quy hoạch đầu tư
114
3.2.5. Xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật
116
3.2.6. Mở rộng các hình thức thu hút và vận động đầu tư
119
3.2.7. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nâng cao chất lượng người lao động hoạt động trong khu vực FDI.
119
3.2.8. Một số vấn đề khác
120
* Kết luận
123
** Tài liệu tham khảo
124
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1
Mười nhân tố hàng đầu quyết định sự lựa chọn địa bàn đầu tư
26
Bảng 2
Các dự án FDI được cấp giấy phép tại Việt Nam
45
Bảng 3
Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo tỉnh thànhphố
- tính đến 31/1/2004
48
Bảng 4
Cơ cấu kinh tế Hưng Yên từ khi tái lập tỉnh đến nay
(1997-2003)
73
Bảng 5
GDP của Hưng Yên phân theo ngành kinh tế từ khi tái
lập tỉnh đến nay (1997-2003)
75
Bảng 6
Cơ cấu các dự án FDI vào Hưng Yên từ khi tái lập
tỉnh đến nay (1997 - 2003)
76
Bảng 7
Giá trị xuất khẩu so với GDP thời kỳ 1997-2003
80
Bảng 8
Giá trị xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài (thời kỳ 1997 - 2003)
82
Bảng 9
Giá trị xuất khẩu chia theo nước (1997-2003)
84
Bảng 10
Trình độ công nghệ, thiết bị của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hưng Yên.
(tính theo giá trị)
94
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
WB (World Bank) - Ngân hàng thế giới
IMF (International Monetary Fund) - Quỹ tiền tệ quốc tế
TNCs (Transnational Corporations) - Công ty xuyên quốc gia
TNHH - Trách nhiệm hữu hạn
WTO (World Trade Orgnization) - Tổ chức thương mại thế giới
ASEAN (Association of The South East Asian Nations) - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
KCN - Khu công nghiệp
CNH - HĐH - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
QLDA - Quản lý dự án
GTVT - Giao thông vận tải
XD - Xây dựng
CN - Công nghiệp
AFTA (ASEAN Free Trade Area) - Khu vực thương mại tự do ASEAN
UBND - Ủy ban nhân dân
HĐHTKD - Hợp đồng hợp tác kinh doanh
CNTB - Chủ nghĩa tư bản
ODA (Official Development Assistance)-Viện trợ phát triển chính thức
BOT (Build - Operate - Transfer) - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao
BTO (Build - Transfer - Operate) - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh
BT (Build - Transfer) - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao
FDI (Foreign Direct Investment) - Đầu tư trực tiếp nước ngoài
NQ - TW - Nghị quyết Trung ương
OECD (Organization for Economic Co-operation and Development) - Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế.
QĐ-UB - Quyết định Ủy ban
BCC (Bussiness Co-operation Contract) - Hợp đồng hợp tác kinh doanh
M&As (Merger and Acquisitions) sát nhập và mua lại
MIGA (Multilateral Investment Guarantee Agency) Cơ quan bảo đảm đầu tư đa phương.
UNCTAD (United Nation Conference on Trade and Development) Diễn đàn thương mại và phát triển liên hợp quốc.
NIEs - Các nền kinh tế mới công nghiệp hóa.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Vốn, công nghệ, kiến thức quản lý và marketing là những điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mọi địa phương trong cả nước, trong đó nhất là đối với những địa phương đang dựa chủ yếu vào sự phát triển của nông nghiệp.
Hưng Yên là một địa phương thuần nông nhưng lại rất ít đất đai, mới được tái lập năm 1997 từ tỉnh Hải Hưng cũ, việc phát triển kinh tế, công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn gặp không ít khó khăn. Tích luỹ nội bộ hàng năm của tỉnh để tái đầu tư phát triển còn thấp (ước tính giai đoạn 2000 - 2010 toàn tỉnh tích lũy khoảng 1.350 Triệu USD), trong khi nhu cầu vốn để thực hiện các mục tiêu phát triển của tỉnh, thời kỳ 2000 - 2010 là: 2.750 triệu USD. Như vậy, nguồn vốn huy động đầu tư phát triển hàng năm chỉ đáp ứng được khoảng 49%, số còn lại phải huy động từ mọi nguồn vốn khác. Là một tỉnh nông nghiệp lại rất ít đất đai nên số vốn trong dân rất hạn chế, bởi thế phải nhìn vào các nguồn bên ngoài.
Tuy là tỉnh thuần nông, điều kiện phát triển thấp, nhưng so với nhiều địa phương khác trong cả nước, Hưng Yên lại có khá nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đó là, vị trí rất gần Hà Nội (tiếp giáp với các KCN vành đai của Hà Nội), cơ sở hạ tầng khá tốt (mới được đầu tư nhờ chia tách tỉnh), nguồn lao động địa phương dồi dào, giải phóng mặt bằng thuận lợi (đất nông nghiệp)... Đây là những lợi thế khá hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Mặc dù có nhiều lợi thế như đã nêu trên, nhưng đến nay FDI vào Hưng Yên vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và mong đợi của Tỉnh. Hiện trạng này đã và đang đặt ra nhiều câu hỏi cho các nhà quản lý địa phương: phải chăng tỉnh chưa biết cách thu hút FDI? Các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế đầu tư vào Hưng Yên do chiến lược đầu tư của họ hay vì những cản trở từ môi trường đầu tư của tỉnh? Làm thế nào để khai thác được các lợi thế đã nêu nhằm thu hút được nhiều FDI để bù đắp khoản thiếu hụt to lớn về vốn đầu tư phát triển của Tỉnh? Mặt khác, gần đây lại xuất hiện một số quan điểm kỳ vọng vào vai trò của FDI như là “giải pháp đột phá” để nâng vị thế của tỉnh, thoát khỏi tình trạng đói nghèo (?). Việc tìm lời giải cho các vấn đề đã nêu là rất cấp bách đối với các nhà quản lý của Hưng Yên. Bởi vậy, nếu đề tài trả lời được các vấn đề này sẽ không chỉ có ý nghĩa về lý luận, mà quan trọng hơn, sẽ góp phần vào giải quyết được các vấn đề cấp bách của địa phương hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu.
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài” là chủ đề được nghiên cứu rất phổ biến hiện nay, nổi bật là các công trình nghiên cứu như:
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Nguyễn Trọng Luân (năm 2002).
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh - Lê Bộ Lĩnh (năm 2002).
- Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Mai Ngọc Cường (năm 2001).
Ngoài ra, trong thời gian vừa qua cũng có nhiều bài báo, bài viết đăng trên tạp chí và những cuộc hội thảo về vấn đề này. Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu tập trung ở phạm vi quốc gia (toàn quốc), số công trình nghiên cứu chủ đề này ở phạm vi địa phương còn rất ít (chủ yếu ở Hà Nội, thành phố lớn và các địa phương thu hút được nhiều FDI trong cả nước). Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào trùng tên và nội dung của đề tài.
Ở Hưng Yên, qua 6 năm thực hiện thu hút FDI, cũng có một số nghiên cứu về vấn đề này, nhưng phần lớn mới chỉ ở dạng báo cáo, tổng kết thực tiễn FDI của tỉnh. Mặc dù Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh đã rất quan tâm, mong muốn tiến hành nghiên cứu vấn đề này một cách có căn cứ khoa học, toàn diện và hệ thống, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Bởi vậy, đề tài nghiên cứu về “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hưng Yên: Thực trạng và giải pháp” là một đề tài mới, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần khắc phục hạn chế này và đây cũng chính là điểm mới của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Với định hướng áp dụng các kiến thức khoa học, lý luận kinh tế vào giải quyết vấn đề thực tiễn FDI ở Hưng Yên nên mục đích cơ bản của luận văn là giải thích và dự đoán các vấn đề FDI ở Hưng Yên một cách có căn cứ khoa học, toàn diện và hệ thống. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn quan trọng này ở Hưng Yên trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản của luận văn là: Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn của FDI ở nước ta và tham khảo một số địa phương điển hình thu hút FDI trong cả nước; phân tích một cách chi tiết, toàn diện và có hệ thống về hiện trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến FDI ở Hưng Yên; đánh giá tác động của FDI đối với sự phát triển của Hưng Yên từ khi tái lập tỉnh đến nay; đề xuất một số gợi ý chính sách đối với các cơ quan chức năng của nhà nước và đưa ra các biện pháp thực hiện cho các nhà quản lý Hưng Yên nhằm thúc đẩy thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là FDI và các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút, sử dụng nguồn vốn này ở Hưng Yên.
Phạm vi nghiên cứu là tỉnh Hưng Yên. Thời gian nghiên cứu tính từ 1997 đến 2003, tức là thời kỳ từ khi tái thành lập tỉnh đến năm 2003.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Thu thập, đọc, phân tích các tài liệu, chính sách, số liệu có liên quan đến đề tài làm cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu của đề tài. Các quan điểm, kết quả phân tích sẽ được thường xuyên trao đổi với các chuyên gia và những người quản lý FDI của tỉnh Hưng Yên. Tiếp theo là thu thập các số liệu, báo cáo và tiến hành khảo sát thực tiễn FDI ở Hưng Yên để phân tích, đánh giá hiện trạng của nguồn vốn này. Các kết quả phân tích, đánh giá sẽ được góp ý và bình luận của những người quản lý FDI và một số nhà đầu tư nước ngoài ở Hưng Yên. Tổng hợp các kết quả phân tích, đánh giá để viết bản thảo lần 1 sau đó các chuyên gia góp ý bản thảo để sửa chữa, hoàn thiện luận văn.
Ngoài các phương pháp cơ bản thường được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin (duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,…), luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, phỏng vấn chuyên gia, khảo sát thực tế và khu vực học.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn.
Cùng với việc góp phần hệ thống, khái quát những quan điểm lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nghiên cứu tác động của FDI đến phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và một số địa phương nói riêng, điểm đóng góp mới và chính của luận văn là đánh giá tác động của FDI đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên thời kỳ sau tái lập tỉnh (1997 - 2003) và đề xuất một số giải pháp để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực của FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập quốc tế một cách bền vững và đúng hướng.
Luận văn có thể được dùng làm tư liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, hoạch định chính sách, quản lý, giảng dạy và học tập FDI ở địa phương, trung ương cũng như một số trường học, cơ sở đào tạo đại học và sau đại học.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU FDI Ở HƯNG YÊN.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG FDI Ở HƯNG YÊN.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ FDI Ở HƯNG YÊN.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA FDI Ở HƯNG YÊN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.1.1. Các khái niệm cơ bản.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những hình thức của đầu tư quốc tế, được đặc trưng bởi quá trình di chuyển tư bản giữa các quốc gia trên thế giới. Mặc dù có nhiều khác biệt về quan niệm nhưng nhìn chung thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu như hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt trong việc sử dụng vốn và quản lý đầu tư. Điều đó có nghĩa là xét về mặt chủ thể thì đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài ở đây không chỉ là sự khác biệt về quốc tịch hay lãnh thổ sinh sống, mà còn xác định tư bản di chuyển trong đầu tư trực tiếp của các nước ngoài bắt buộc phải vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia.
Nội dung kinh tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài được phản ánh trong Luật Đầu tư. Ở đó, người ta đã cố gắng tạo ra những hình thức pháp lý thỏa mãn hai đặc trưng cơ bản nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là:
- Có sự di chuyển tư bản trên phạm vi quốc tế.
- Chủ đầu tư (một bên hoặc cả hai bên) trực tiếp hoặc cùng thống nhất với nhau tham gia vào việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Dưới góc độ kinh tế quốc tế có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu đồng thời là trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây chính là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm và các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo quy định của Luật Đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ: Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án, Mỹ quy định 10%.
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành quản lý.
- Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
- Đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
* Có các hình thức đầu tư trực tiếp chủ yếu sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh có một số đặc điểm như:
+ Là một hình thức đầu tư trực tiếp, chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư, do vậy nó khác với các hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế về trao đổi mua bán thông thường (các hợp đồng này không bị Luật Đầu tư điều chỉnh).
+ Không hình thành một pháp nhân mới.
+ Các bên hợp doanh vẫn giữ nguyên sở hữu riêng đối với tài sản góp vào hợp doanh.
+ Kết quả hoạt động phụ thuộc vào sự tồn tại và thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên hợp doanh.
Nội dung hoạt động kinh doanh, các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, cách thức xác định và phân chia kết quả, thời hạn hợp đồng, cách giải quyết tranh chấp… được xác định cụ thể trong hợp đồng. Hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài này phải được xét duyệt và cấp giấy phép kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước ngoài, hoặc trên cơ sở hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Doanh nghiệp liên doanh là pháp nhân Việt Nam và được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh và bên thứ ba trong phạm vi phần vốn của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính trên cơ sở hợp đồng liên doanh, phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam.
+ Doanh nghiệp liên doanh có tài sản riêng do các bên liên doanh đóng góp và là sở hữu chung của các bên liên doanh.
+ Doanh nghiệp liên doanh được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký điều lệ doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.
Cơ sở pháp lý để thành lập và hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, giấy phép đầu tư, điều lệ doanh nghiệp và pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty TNHH là pháp nhân Việt Nam. Tài sản của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thuộc tổ chức, cá nhân nước ngoài nên họ có quyền quyết định bộ máy quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư và chứng nhận đăng ký Điều lệ doanh nghiệp.
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT):
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài) với cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến hành khai thác và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời hạn thì chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Vốn để thực hiện hợp đồng này có thể là 100% vốn nước ngoài cộng với vốn của Chính phủ Việt Nam, hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam. Các chủ đầu tư có toàn quyền tổ chức xây dựng, khai thác, kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) có hiệu lực khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư.
Ngày nay, KCN, khu chế xuất đang nổi lên như một phương thức thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả nhất để phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Mục đích của việc xây dựng KCN, khu chế xuất là thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia hoạt động kinh doanh vào khu vực này.
1.2. CÁC LÝ THUYẾT GIẢI THÍCH SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ FDI.
1.2.1. Các lý thuyết giải thích sự ra đời của FDI.
Hiện nay trên thế giới đã và đang tồn tại một cách khách quan những nước giầu và nước nghèo, hay nói một cách khác là nước chậm phát triển và nước phát triển.
Khi có sự tách biệt về khả năng kinh tế, về tài chính giữa các nước thì lúc này các nước phát triển bắt đầu xẩy ra tình trạng dư thừa vốn, công nghệ và lợi nhuận giảm. Còn các nước chậm phát triển lại rơi vào tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ mới, thiếu kinh nghiệm quản lý, mặt khác ở các nước này lại có nguồn nhân công dồi dào và nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đây là một môi trường đầu tư đầy triển vọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư. Hơn nữa ở các nước phát triển tình trạng cạnh tranh rất quyết liệt. Vì vậy, để tránh rủi ro trên thị trường nội địa thì buộc các doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Hình thức đầu tư ra nước ngoài bên cạnh việc hạn chế rủi ro thì nó còn nhằm tăng vòng quay của vốn, tận dụng được công nghệ hạng 2 ở trong nước (nước phát triển).
Trong quá trình đầu tư, các nhà đầu tư cố gắng hạ thấp chi phí để đạt được lợi nhuận cao nhất. Muốn làm được điều đó buộc họ phải đầu tư ra nước ngoài để mở rộng cơ hội tối đa hóa lợi nhuận khi đầu tư vào những nước chậm phát triển nhằm tiết kiệm nhiều chi phí như chi phí đổi mới công nghệ, chi phí thanh lý công nghệ, chi phí lao động chất xám, chi phí lao động phổ thông, trong khi đó lại được ưu đãi về thuế… Đồng thời lợi nhuận lại được đảm bảo bởi các chính sách kinh tế của các nước nhận đầu tư. Với các lý do trên thì quá trình đầu tư nước ngoài thực chất là quá trình di chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nước phát triển sang nước chậm phát triển nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa.
Sau chiến tranh thế giới II, đầu tư quốc tế đã tăng lên nhanh chóng và trở thành hiện tượng nổi bật trong các hoạt động kinh tế quốc tế, do đó nó dã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu. Với các phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm, lý thuyết về nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế và những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới. Những quan điểm, lý thuyết này được chia chủ yếu thành hai nhóm: Các lý thuyết vĩ mô và các lý thuyết vi mô.
1.2.1.1. Các lý thuyết vĩ mô.
Trong các tài liệu đầu tư nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vĩ mô về lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế thường chiếm vị trí quan trọng và được coi là các lý thuyết cơ bản của đầu tư quốc tế. Các lý thuyết này giải thích hiện tượng đầu tư quốc tế dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư giữa các nước, trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát triển.
Trên cơ sở mô hình lý thuyết thương mại quốc tế của Heckcher & Ohlin (1993), Richard S. Eckaus (1987) đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế. Theo tác giả, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là nguyên nhân chủ yếu xuất hiện di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế. Richard cho rằng, nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Vì vậy giữa các nước đã xuất hiện lưu chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế.
Cùng với quan điểm trên, A.Mac Dougall (1960) đã giải thích hiện tượng đầu tư quốc tế từ phân tích so sánh giữa chi phí và lợi ích của di chuyển vốn quốc tế. Tác giả cho rằng, chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân dẫn đến lưu chuyển vốn quốc tế. Quan điểm này được M.Kemp (1964) phát triển thành mô hình Mac Dougall - Kemp (hình vẽ). Theo tác giả, những nước phát triển (dư thừa vốn đầu tư) có năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng xuất cận biên của vốn ở các nước đang phát triển (thiếu vốn). Vì thế, xuất hiện dòng lưu chuyển vốn giữa hai nhóm nước này.
M
E
O1
S
Q
n
P
N
m
e
O2
I
II
u
Mô hình Mac Dougall - Kemp
Tổng vốn đầu tư của hai nước là O1O2 , trong đó vốn ở nước đầu tư (I) là O1Q và tương tự ở nước nhận đầu tư (II) là O2Q. Năng suất cận biên của vốn ở nước (I) là O1M, tương tự ở nước (II) là O2m. Các đường MN và mn là giới hạn năng suất cận biên của vốn ở hai nước (nước I thấp hơn nước II) và đều có xu hướng giảm dần. Trước khi có sự di chuyển vốn giữa hai nước, tổng sản lượng của nước (I) là O1MNQ và của nước (II) là O2muQ. Do có sự chênh lệch năng suất cận biên của vốn ở hai nước cân bằng tại điểm P (SP = O1E = O2e). Kết quả làm tăng sản lượng hai nước là PuN, phần rôi ra ngoài tổng sản lượng của hai nước trước khi có sự chuyển dịch vốn đầu tư.
Một cách lý giải khác của K.Kojima (1978) về nguyên nhân xuất hiện đầu tư quốc tế là do sự khác nhau về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước. Cũng dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của mô hình HO, K.Kojima đã phát triển để chứng minh rằng những nước có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư. Theo tác giả, nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế là có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước và sự chênh lệch này được bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế.
Ngoài ra, nguyên nhân di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế còn được giải thích bởi lý thuyết phân tán rủi ro. Lý thuyết này giải thích rằng các nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn (lãi suất cao) mà còn chú ý đến mức độ rủi ro trong từng hạng mục đầu tư cụ thể (D.Salvatore -1993). Vì lãi suất của các cổ phiếu phụ thuộc vào nhiều yếu tố của thị trường và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp, nên để tránh tình trạng mất trắng (phá sản) các nhà đầu tư không muốn bỏ hết vốn của mình vào một hạng mục đầu tư ở một thị trường nội địa. Bởi thế họ quyết định dành một phần tài sản của mình để mua cổ phiếu, chứng khoán… ở thị trường nước ngoài.
Như vậy, qua phân tích trên cho thấy các lý thuyết đã giải thích sự xuất hiện của đầu tư quốc tế về thực chất đều dựa vào nguyên tắc lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế. Mặt khác, các quan điểm lý thuyết cũng cho rằng đầu tư quốc tế có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và các nước tham gia đầu tư, trong đó nhất là thực hiện công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển.
1.2.1.2. Các lý thuyết vi mô.
Hầu hết các lý thuyết kinh tế vi mô về đầu tư quốc tế đều xoay quanh trả lời câu hỏi là tại sao các công ty, cá nhân lại đầu tư ra nước ngoài?
Các lý thuyết về tổ chức công nghiệp ra đời từ thập kỷ 60 giải thích đầu tư quốc tế (FDI) như là kết quả tự nhiên từ sự tăng trưởng và phát triển của các công ty lớn độc quyền ở Mỹ, trong đó nổi bật là mô hình lý thuyết của Stephen Hymer (1976). Theo tác giả, do kết cấu của thị trường độc quyền đã thúc đẩy các công ty Mỹ mở rộng ra thị trường quốc tế để khai thác các lợi thế của mình về công nghệ, kỹ thuật, quản lý… mà các công ty trong cùng ngành công nghiệp ở nước nhận đầu tư không có được. Charles Kindleberger (1969) và Richard E. Caves (1971) cũng cho rằng những sản phẩm mới thường có xu hướng độc quyền và có giá thành hạ. Vì thế, các công ty có sản phẩm mới đã tích cực mở rộng phạm vi sản xuất của mình ra thị trường quốc tế để khai thác lợi thế độc quyền nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Như vậy, theo các lý thuyết tổ chức công nghiệp, nguyên nhân hình thành FDI là do sự mở rộng thị trường ra nước ngoài của các công ty lớn nhằm khai thác lợi thế độc quyền.
Cách tiếp cận về chu kỳ sống của sản phẩm đã giải thích hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất hàng loạt), đạt mức bão hòa và bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả của lý thuyết này, giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển như Mỹ, vì ở đó mới có điều kiện để nghiên cứu và phát triển, có khả năng triển khai sản xuất với khối lượng lớn. Đồng thời, cũng chỉ ở những nước này thì kỹ thuật sản xuất tiên tiến mới đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới phát huy được hiệu quả sử dụng cao. Do vậy, sản phẩm được sản xuất ra hàng loạt với giá thành hạ và đã nhanh chóng đạt tới điểm bão hòa. Để tránh lâm vào suy thoái và khai thác hiệu quả sản xuất theo quy mô, công ty phải mở rộng thị trường tiêu thụ ra quốc tế, nhưng các hoạt động xuất khẩu đã gặp trở ngại bởi hàng rào thuế quan và cước phí vận chuyển. Vì thế, công ty di chuyển sản xuất ra quốc tế để vượt qua những trở ngại này. Như vậy, theo cách giải thích của Vernon thì FDI là kết quả tự nhiên từ quá trình phát triển của sản phẩm theo chu kỳ.
Trên đây là một phần nhỏ các lý thuyết về đầu tư quốc tế nhằm giải thích sự xuất hiện của FDI và bản chất kinh tế của nó. Cũng như những hạn chế của lý thuyết thương mại quốc tế, các lý thuyết vĩ mô của đầu tư quốc tế được xây dựng trên những giả định trừu tượng, phân tích ở trạng thái tĩnh, để so sánh hiệu quả của một yếu tố sản xuất (vốn) hoặc hai yếu tố (vốn, lao động) giữa các nước, trong khi dòng lưu chuyển vốn giữa các nước còn phụ thuộc quan trọng vào nhiều yếu tố khác của môi trường đầu tư. Bởi thế, các lý thuyết kinh tế vĩ mô mới chỉ giải thích được những điều kiện cần để xuất hiện đầu tư quốc tế. Do cách tiếp cận từ phân tích những điều kiện để các công ty đầu tư ra nước ngoài, các lý thuyết kinh tế vi mô giải thích một cách cụ thể hơn về nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế như là kết quả tự nhiên của quá trình khai thác các lợi thế độc quyền ở nước ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Cách luận giải này đã gắn được các đặc trưng của FDI với các đặc điểm của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Vì thế, có thể nói rằng các lý thuyết vi mô đã giải thích rõ ràng hơn về nguyên nhân hình thành FDI và tác động của nó đối với công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển.
1.2.2. Đánh giá hiệu quả FDI.
Về bản chất, FDI là dòng vốn của tư nhân nước ngoài, do vậy, hiệu quả FDI đối với nhà đầu tư trước tiên phải được xác định trên từng khoản đầu tư, theo từng dự án cụ thể, mà trên hết là hiệu quả về mặt tài chính. Tuy nhiên, đứng trên giác độ của toàn nền kinh tế, hiệu quả FDI không chỉ được xác định trên giác độ tài chính mà cần đánh giá trên cơ sở so sánh những lợi ích mà FDI mang lại cho nền kinh tế với những chi phí đã bỏ ra, đó chính là đánh giá hiệu quả ở cấp ._.vĩ mô.
Thông thường, hai loại hiệu quả này vận động cùng chiều nhau, nghĩa là một dự án FDI có hiệu quả hay có hiệu quả ở cấp vi mô thì sẽ đem lại hiệu quả cho nền kinh tế hay hoạt động FDI có hiệu quả ở cấp vĩ mô.
Tuy nhiên, hai loại hiệu quả này đôi khi có xu hướng vận động trái chiều nhau, do vậy, vai trò điều tiết của Nhà nước là rất cần thiết trong việc tạo ra hiệu quả của hoạt động FDI trên giác độ vĩ mô cũng như vi mô, làm hài hòa giữa hai loại hiệu quả này. Trên giác độ vĩ mô, đó là tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý nhằm đạt được sự phân phối hài hòa giữa các nhân tố, các ngành và trên cơ sở đó, đạt được tốc dộ tăng trưởng cao nhất với mức vốn đầu tư nhất định. Trên giác độ vi mô, đó là tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, thông thoáng, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả, trên cơ sở đó mới tạo ra hiệu quả chung.
1.2.2.1. Đánh giá hiệu quả FDI một cách toàn diện, trên cả khía cạnh kinh tế và xã hội.
Cũng như các nguồn vốn đầu tư khác, hoạt động FDI tác động đến nền kinh tế quốc dân trên cả hai phương diện kinh tế và xã hội. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả FDI, nếu chỉ xem xét trên một trong hai khía cạnh đó thì sự đánh giá sẽ trở lên phiến diện. Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nhà máy cán thép có thể tạo ra hàng trăm nghìn tấn thép cán/năm, đem lại cho nhà đầu tư mỗi năm hàng triệu USD lợi nhuận và tiết kiệm cho nền kinh tế hàng triệu USD để nhập khẩu sản phẩm này, không kể những đóng góp của nhà máy cho ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho người lao động… Tuy nhiên, do đặc thù của ngành thép là nguyên liệu và sản phẩm đều cồng kềnh, trọng lượng lớn, nên nhà máy cần phải đặt ở gần cảng hoặc trục đường giao thông, tức là tại những nơi đã có hạ tầng phát triển, phù hợp với nhiều lĩnh vực đầu tư khác, không riêng gì ngành thép. Như vậy, hoạt động đầu tư này đã góp phần làm gia tăng chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, từ đó ảnh hưởng không tốt về mặt xã hội. Bên cạnh đó, nhà máy thép cũng có thể gây ô nhiễm môi trường xung quanh nếu không có biện pháp thích hợp. Những tác động tiêu cực về mặt xã hội và môi trường có thể làm triệt tiêu hiệu quả về kinh tế mà nhà máy cán thép đem lại và nếu như bỏ qua các khía cạnh này, đánh giá hiệu quả sẽ không còn chính xác.
Trên khía cạnh kinh tế, FDI là một trong những nhân tố tạo ra và góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, khi nói đến hiệu quả FDI trên khía cạnh kinh tế, chính là nói tới đóng góp của FDI, cả về mặt lượng và mặt chất vào quá trình tăng trưởng.
Về phía tổng cầu, FDI, với tư cách là một bộ phận của đầu tư, một bộ phận của hàm tổng cầu AD như thể hiện ở công thức (1), FDI tăng lên sẽ làm gia tăng đầu tư và từ đó tạo ra sự tăng trưởng về phía cầu.
Y = AD = C + I + G + X - M (1)
Trong đó: Y là sản lượng hay thu nhập quốc dân (GDP); C là tiêu dùng của các hộ gia đình; I là đầu tư (kể cả trong nước và nước ngoài); G là chỉ tiêu của Chính Phủ; X là xuất khẩu và M là nhập khẩu.
Về phía tổng cung, FDI cũng là một bộ phận của vốn, một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, nó được kết hợp với lao động và tài nguyên để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. FDI không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế với tư cách là đầu vào của sản xuất mà còn đóng góp một cách gián tiếp thông qua việc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật do các khoản đầu tư mới mang lại, do lợi thế kinh tế nhờ quy mô, do chuyên môn hóa… đây chính là những đóng góp về chất của đầu tư, hay nói cách khác là hiệu quả của nền kinh tế đã được nâng cao. Tuy nhiên tác động này không diễn ra ngay như tác động của đầu tư tới tổng cầu mà diễn ra trong thời gian dài hơn.
Cơ cấu FDI góp phần làm biến đổi cơ cấu đầu tư của nước tiếp nhận vốn và đến lượt nó, cơ cấu đầu tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu kinh tế. Với một cơ cấu đầu tư hợp lý, sự dịch chuyển này sẽ tạo ra sự phát triển mặt chất của quá trình tăng trưởng.
Mức độ ảnh hưởng của FDI tới tốc độ phát triển còn tùy thuộc vào quy mô của nó. Nếu như nước nhận vốn đang ở trong giai đoạn phát triển theo chiều rộng với hệ số vốn đầu tư thấp thì tác động của FDI tương đối mạnh. Khi nền kinh tế chuyển sang phát triển theo chiều sâu thì lượng vốn đầu tư để tăng tốc độ phát triển trở nên lớn hơn nhiều. Nguồn vốn bên ngoài đặc biệt có tác động đối với tăng trưởng nếu nó giúp cho việc khai thông những ách tắc về ngoại hối hay tiết kiệm. Trong trường hợp đó nguồn vốn nước ngoài sẽ gây tác động dây chuyền, làm cộng hưởng tác động tích cực ở nhiều lĩnh vực với nhau. Khi nguồn vốn bên ngoài đã giúp cho nước chủ nhà tạo ra được các điều kiện về cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội cần thiết thì sẽ đến một giai đoạn nhất định các nước này không cần một sự trợ giúp về vốn to lớn như trước mà vẫn có thể duy trì được tốc độ phát triển.
Trên khía cạnh xã hội, FDI không những tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp, mà còn góp phần phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước tiếp nhận đầu tư.
Về vấn đề tạo việc làm, có hai khuynh hướng trái ngược nhau:
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường chỉ được phép đầu tư vào những lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn, do vậy không tạo ra nhiều việc làm, tỷ suất đầu tư cho 1 việc làm trong những lĩnh vực này rất cao hoặc ít nhất thì cũng cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Năm 1976, suất đầu tư cho ngành khai thác niken ở Indonesia là 220.000 USD vào năm 1980 là 467.000 USD trong ngành sản xuất giấy, hai ngành khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, suất đầu tư cho mỗi chỗ làm là 10.000 USD (Kinh tế học của sự phát triển, trang 252, 253).
- Tuy nhiên, khuynh hướng khác lại cho rằng các công ty đa quốc gia thích ứng với chi phí nhân công rẻ ở các nước đang phát triển bằng cách sử dụng những phương pháp cần nhiều lao động hơn so với phương pháp mà chính công ty đó sử dụng tại những nước công nghiệp, thậm chí một số còn nhiều nhân công hơn các công ty trong nước cùng ngành sử dụng.
Dù sao thì việc tạo ra các doanh nhiệp mới cũng tạo ra những chỗ làm mới. Ngoài việc làm trực tiếp, FDI còn gián tiếp tạo ra nhiều việc làm thông qua những ngành cung cấp nhiên, nguyên vật liệu, dịch vụ… cho các doanh nghiệp FDI và các nhà đầu tư nước ngoài. Theo kết quả nghiên cứu của Liên hợp quốc thì số công ăn việc làm gián tiếp do các công ty nước ngoài tạo ra thường lớn gấp 2 - 3 lần, tối thiểu cũng bằng số công ăn việc làm trực tiếp tạo ra. Sự gia tăng của khu vực dịch vụ thu hút được khá nhiều lao động và thậm chí số công ăn việc làm tạo ra trong các ngành này còn nhiều hơn so với trong các ngành công nghiệp truyền thống vốn vẫn sử dụng nhiều lao động; nhờ đó tình trạng bán thất nghiệp phổ biến được hạn chế bớt.
Bảng 1: Mười nhân tố hàng đầu quyết định sự lựa chọn địa bàn đầu tư.
TT
Yếu tố quyết định chọn địa bàn đầu tư
Mức độ quan trọng
1
Tiếp cận khách hàng
77%
2
Môi trường chính trị và xã hội ổn định
64%
3
Điều kiện kinh doanh dễ dàng
54%
4
Độ tin cậy và chất lượng của cơ sở hạ tầng
50%
5
Khả năng thuê chuyên viên trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao
39%
6
Khả năng thuê nhân viên quản lý
38%
7
Mức độ tham nhũng
36%
8
Chi phí lao động
33%
9
Tội phạm và an toàn
33%
10
Khả năng thuê lao động có trình độ kỹ thuật
32%
Nguồn: MIGA - Điều tra đầu tư trực tiếp nước ngoài - tháng 12/2002
Các nước đang phát triển thường có quan niệm cho rằng lợi thế về giá nhân công rẻ chính là nhân tố quyết định khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đó chính là nguyên nhân giúp các nước này tạo được nhiều công ăn việc làm thông qua thu hút vốn nước ngoài. Nhưng trên thực tế, các quan sát đã cho thấy rằng giá nhân công rẻ không đóng vai trò quyết định trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mà chính là chất lượng lao động, môi trường đầu tư và quy mô thị trường tiềm năng mới là nhân tố giữ vai trò chủ đạo. Theo điều tra đầu tư trực tiếp nước ngoài của MIGA tháng 12/2002, giá nhân công rẻ chỉ đứng thứ 8 trong 10 nhân tố hàng đầu trong việc quyết định chọn địa bàn đầu tư.
Thu nhập cao ở khu vực có vốn nước ngoài, với xu hướng thiên về các ngành tập trung nhiều vốn, có công nghệ cao hơn công nghệ trung bình ở nước nhận vốn, đã tạo ra nhu cầu đối với lao động chất lượng cao và thu hút những người lao động có trình độ cao, đồng thời tạo ra các khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước nhận vốn. Bên cạnh đó, một tác động của vốn đầu tư nước ngoài không thể không kể đến, đó là tác động đến thói quen, cách tư duy, sự tuân thủ các quy định trong lao động của người lao động ở nước nhận vốn. Các nhân tố này cũng có thể được coi như một phần của các tác động đến chất lượng nguồn nhân lực thông qua những thay đổi trong chính sách, chế độ đối với lao động cũng như trong việc cải thiện điều kiện lao động trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trong nước nhận vốn, một khía cạnh khác cũng cần phải được xem xét, đó là những tác động của FDI đến việc phân bố lại lao động có chất lượng bên trong nền kinh tế của nước nhận vốn. Về mặt lý thuyết, nguồn nhân lực có chất lượng cao được thu hút về các khu vực có mức thu nhập cao, thể hiện sử phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Trong ngắn hạn, khi Chính phủ các nước nhận vốn chưa kịp thay đổi các chính sách và mức thu nhập cho lao động của khu vực Chính phủ, mà thông thường ở các nước đang phát triển, khu vực này là khu vực có mức thu nhập thấp hơn so với các khu vực có vốn nước ngoài, thì có nghĩa là khu vực Chính phủ sẽ là khu vực có chất lượng nguồn nhân lực kém hơn tương đối so với khu vực có vốn nước ngoài.
1.2.2.2. Đánh giá hiệu quả FDI trên giác độ thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động FDI phần lớn là các TNCs, một trong những lực lượng vận hành nền kinh tế thế giới, nắm giữ nguồn vốn, kỹ thuật và kiểm soát thương mại quốc tế. Với những lợi thế to lớn về thị trường, kinh nghiệm kinh doanh lâu đời, các doanh nghiệp FDI, mà phần lớn là đầu tư của các TNCs, có lợi thế lớn trong sản xuất hàng xuất khẩu, nhằm tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thương mại và tăng khả năng cạnh tranh quốc gia của nước tiếp nhận vốn. Hoạt động FDI có khả năng to lớn trong việc thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước tiếp nhận vốn, đặc biệt là khả năng tiếp nhận công nghệ hiện đại, hội nhập thương mại, tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế…
Do vậy, khi đánh giá hiệu quả FDI, cần phải xét tới hiệu quả hoạt động FDI trong việc thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế như thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường chuyển giao công nghệ, tiếp cận với phương thức và phong cách quản lý kinh doanh hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế quốc gia…
1.2.2.3. Đánh giá hiệu quả FDI trên cả hai mặt hoạt động: Thu hút và sử dụng.
Việc thu hút được FDI để tạo nguồn vốn thực hiện mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI một cách gay gắt giữa các quốc gia đã là một nỗ lực của quốc gia tiếp nhận vốn, tuy nhiên nếu chỉ thu hút thôi thì chưa đủ. Suy cho cùng, việc sử dụng nguồn vốn đã được thu hút mới tác động thực sự tới tăng trưởng kinh tế.
Mỗi quốc gia đều cần phải xác định con đường phát triển cho riêng mình, phù hợp với điều kiện cũng như hoàn cảnh của mình. Để thực hiện được những mục tiêu này, quốc gia đó không những phải huy động được một lượng vốn cần thiết cho quá trình tăng trưởng mà còn cần phải có một cơ cấu đầu tư hợp lý. Sự hợp lý ở đây cần được hiểu là một cơ cấu đầu tư nhằm đảm bảo dẫn tới một cơ cấu kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Vai trò của Nhà nước trong việc xác định con đường phát triển là rất quan trọng, trên cơ sở đó đề ra một chính sách thu hút và sử dụng hợp lý nguồn vốn đầu tư nói chung và vốn FDI nói riêng. Một chính sách thu hút FDI hiệu quả thể hiện ở khía cạnh FDI bù đắp được một cách kịp thời cho những nguồn lực khan hiếm trong nước như vốn, trình độ công nghệ, kỹ năng tổ chức điều hành, quản lý sản xuất… theo đúng mục tiêu đã đặt ra.
Tuy nhiên, để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng không chỉ thuần túy phụ thuộc vào khối lượng vốn, mà cần chú trọng cả đến việc nâng cao yếu tố chất lượng sử dụng vốn, hiệu quả của đầu tư, tới việc hoàn thiện chính sách của Chính phủ cũng như nâng cao năng lực quản lý, năng lực quản lý hành chính của bộ máy điều hành để số vốn đó phát huy hiệu quả cao. Một chính sách sử dụng FDI có hiệu quả thể hiện ở việc đưa toàn bộ những nguồn vốn đã được cam kết vào thực tế, tạo ra năng lực sản xuất mới một cách thực sự, đóng góp vào tăng trưởng của ngành, lĩnh vực và toàn nền kinh tế. Quá trình này đòi hỏi sự vận động, điều chỉnh liên tục của các chính sách quản lý hoạt động FDI sao cho chính sách luôn bắt kịp với các tín hiệu thị trường, tạo tiền đề cho việc thu hút và sử dụng trong giai đoạn tiếp theo.
2.2.2.4. Đánh giá hiệu quả FDI một cách định lượng và định tính.
Lượng hóa các kết quả và chi phí của hoạt động FDI là việc cần thiết khi đo lường, đánh giá hiệu quả. Tuy nhiên không phải tất cả các kết quả do hoạt động đầu tư tạo ra đều có thể đo lường được một cách rõ ràng bằng các chỉ tiêu định lượng. Có nhiều kết quả của hoạt động đầu tư như góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế… rất khó có thể lượng hóa. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả FDI, nếu chỉ đánh giá một cách định lượng thì mặc dù cần thiết nhưng lại chưa đủ. Ngoài các chỉ tiêu có thể định lượng được, người ta phải xem xét chỉ tiêu định tính.
Thông thường, các kết quả của hoạt động FDI ở tầm vĩ mô như GDP, chuyển dịch cơ cấu kinh tế… là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố tác động tới nên rất khó có thể lượng hóa riêng phần đóng góp của FDI vào kết quả này, rất khó để so sánh kết quả này với chi phí để xác định hiệu quả. Mặt khác, không thể phủ nhận đóng góp của FDI vào các kết quả này.
1.3. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.3.1. Đối với nước xuất khẩu vốn.
Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá cả phải chăng. Mặt khác, đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín thương hiệu. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
- Vì chủ đầu tư nước ngoài được tham dự vào quá trình điều hành kinh doanh của xí nghiệp theo mức độ góp vốn nên họ trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Điều đó đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư được sử dụng.
- Giúp chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại.
- Cho phép các chủ đầu tư nước ngoài có thể hạ thấp chi phí sản phẩm do khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ ở nước sở tại. Từ đó nâng cao được tỷ suất lợi nhuận.
- Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nuớc sở tại vì thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chủ đầu tư xây dựng được các doanh nghiệp nằm “trong lòng” các nước thi hành chính sách bảo hộ.
Qua phân tích các đặc điểm của FDI, ta thấy FDI có những thế mạnh của nó. Dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng FDI ít phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề công nhân. Vì vậy, FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước tiếp nhận đầu tư.
1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư.
- Loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài không quy định mức góp vốn tối đa, chỉ quy định mức tối thiểu, do vậy cho phép các nước sở tại tăng cường khai thác được nhiều vốn bên ngoài.
- Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể tiếp thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của bên ngoài.
- Tạo điều kiện cho nước sở tại có thể khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý.
- Giúp cho nước sở tại nâng cao hiệu quả sử dụng phần vốn đóng góp của mình, mở rộng tích lũy và góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, đầu tư nước ngoài cũng có những hạn chế sau:
- Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học sẽ dẫn tới đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Nước sở tại phải đương đầu với các chủ đầu tư giàu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt.
- Cũng không ít trường hợp việc nhận đầu tư đi liền với sự du nhập của những công nghệ thứ yếu, công nghệ đem theo chất thải ô nhiễm.
* Một số tác động cụ thể của FDI
- Đầu tư nước ngoài góp phần tăng tổng đầu tư xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế của nước chủ nhà.
Hiện nay có hai dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài. Đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển.
Đối với các nước kinh tế phát triển. FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI, các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại các công ty, doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa - thời kỳ mà thông thường đòi hỏi đầu tư một tỷ lệ vốn lớn hơn các giai đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự cung ứng từ bên trong. FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển, tránh tình trạng tích lũy quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng xẩy ra. Thực tế ở nhiều nước đang phát triển, mà nổi bật nhất là các nước ASEAN và Đông Á, nhờ có FDI đã giải quyết một phần khó khăn về vốn nên đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa đất nước, và đã đang trở thành NIEs (thế hệ I hoặc II).
Đối với Việt Nam, từ đầu những năm 90 đến nay, các nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào nước ta đã tăng lên rất nhanh và liên tục trong thời gian dài, tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đều đặn qua các năm giúp nền kinh tế tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 7 - 8%.
- Các hoạt động đầu tư nước ngoài thường đi kèm với các hoạt động chuyển giao công nghệ.
Có thể nói, công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà cần phải có một trình độ phát triển nhất định của khả năng khoa học - kỹ thuật. Hơn nữa, đầu tư cho lĩnh vực này thường phải chịu nhiều rủi ro. Đây là những hạn chế khó khăn rất lớn ở nhiều nước, nhất là những nước đang phát triển.
Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Thông qua con đường đầu tư trực tiếp, các cá nhân hay tổ chức nước ngoài khi thành lập xí nghiệp, công ty tại nước tiếp nhận đầu tư sẽ cùng một lúc đưa máy móc, thiết bị và công nghệ mà họ cần cho quá trình sản xuất. Bằng cách này, các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận được công nghệ mới mà trực tiếp là những lao động bản xứ được làm việc trong những doanh nghiệp mới này. Quyền lợi sát sườn của nhà đầu tư đã gián tiếp mang lại công nghệ sản xuất mới, trình độ quản lý kỹ thuật cho nước tiếp nhận đầu tư. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
- Đầu tư nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm.
Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi vì nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khỏe và dinh dưỡng, giáo dục đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó đẩy mạnh tăng trưởng. Mặt khác, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Việt Nam, khi bắt đầu đi vào hoạt động, hầu như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào cũng bỏ ra một khoản chi phí khá lớn để đào tạo chung cho gần như tất cả số lao động. Đầu tư nước ngoài nâng cao năng lực quản lý của nước chủ nhà thông qua nhiều hình thức như các khóa học chính quy, không chính quy và học thông qua làm. Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức quản lý trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
- Đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng của xuất nhập khẩu.
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả tới tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh: xuất khẩu cho phép khai thác được lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất; nhập khẩu bổ sung được các hàng hóa, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng; xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua việc sử dụng nhiều yếu tố đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả nhờ quy mô (không bị hạn chế bởi quy mô thị trường nước chủ nhà), và thực hiện chuyên môn hóa sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nơi có điều kiện lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành thành phẩm.
Do những lợi ích trên, định hướng xuất khẩu ngày càng được chú trọng đối với nước chủ nhà và trong chiến lược phát triển của TNCs. Trong hơn ba thập kỷ gần đây, đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu ngày càng gia tăng và nó đã đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu của nước chủ nhà.
- Đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển.
Do tác động của vốn, của khoa học công nghệ, FDI sẽ tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động sẽ được biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Cơ cấu kinh tế được chuyển biến rõ nét nhất là cơ cấu ngành. Các nước đang phát triển chủ yếu là các quốc gia nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP là rất lớn. Khi thu hút được các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI, các nguồn vốn này chủ yếu được đầu tư vào các ngành thương mại, dịch vụ, công nghiệp đem tới sự chuyển biến trong bộ mặt kinh tế của nước chủ nhà. Đây là một điều thuận lợi cho các nước đang phát triển như Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa của mình.
* Một số vấn đề khác.
Ngoài các tác động quan trọng đã phân tích ở trên, đầu tư nước ngoài còn có một số tác động tích cực và tiêu cực khác như tác động đến liên kết các ngành công nghiệp, cạnh tranh và độc quyền, hội nhập khu vực và quốc tế…
Về ngoại tệ, FDI ngắn hạn có ảnh hưởng tích cực đối với thu chi quốc tế của nước chủ nhà, nhưng xét về lâu dài, việc TNCs chuyển lợi nhuận ra khỏi nước chủ nhà sẽ tạo ra gánh nặng ngoại tệ đối với các nước này, đặc biệt là sau khi TNCs thu hồi vốn.
Những năm gần đây do sự phát triển của khoa học công nghệ, lao động không lành nghề trở nên có hiệu suất thấp. TNCs ít sử dụng lao động tại chỗ và để hạ giá thành sản phẩm họ đã sử dụng phương thức sản xuất tập trung tư bản nhiều hơn. Nó có tác động làm giảm việc làm, đi ngược với chiến lược việc làm của các nước đang phát triển.
Trong việc thu hút FDI các nước chủ nhà còn phải chịu nhiều thiệt thòi, do tỷ lệ lợi nhuận của các nước đầu tư vào các nước đang phát triển cao hơn tỷ lệ lợi nhuận đầu tư tại nước họ. Các ngành công nghiệp mới, công nghiệp chủ yếu bị các nước đầu tư kiểm soát, kết cấu kinh tế còn bị phụ thuộc vào việc sản xuất, kỹ thuật của họ. Không chỉ vậy, do sự chuyển dịch những kỹ thuật kém tiên tiến, tiêu hao nhiều năng lượng sang các nước chủ nhà mà đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, tài nguyên thiên nhiên bóc lột quá mức.
Văn hóa xã hội là lĩnh vực nhạy cảm và mang đậm bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia. Khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài, có nghĩa là nước chủ nhà đã mở cửa giao lưu với nền văn hóa các dân tộc trên thế giới, điều này đặt ra hàng loạt các vấn đề thách thức, trong đó đặc biệt là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp nhận nền văn hóa bên ngoài để đảm bảo một xã hội phát triển lành mạnh. Đầu tư nước ngoài tác động mạnh vào mối quan hệ này trong các mặt quan trọng như: đổi mới tư duy; thái độ và đạo đức nghề nghiệp; lối sống và tập quán; giao tiếp ứng sử; bình đẳng giới và các vấn đề xã hội.
Đầu tư nước ngoài chủ yếu được thực hiện bởi TNCs. Đây là các công ty có tiềm lực mạnh về tài chính, khoa học công nghệ và mạng lưới phân phối quy mô toàn cầu. Không ít TNCs có giá trị tài sản hay doanh số bán hàng hằng năm còn vượt GDP của một số nước phát triển và bằng tổng GDP của nhiều nước đang phát triển cộng lại. Mặt khác, phần lớn TNCs mạnh đều tập trung vào các nước tư bản phát triển, trong đó đặc biệt là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Do đó khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài, nước chủ nhà, nhất là các nước đang phát triển có sự lo ngại trước sức mạnh của các TNCs có thể can thiệp vào chủ quyền quốc gia, đe dọa đến an ninh chính trị và làm lũng đoạn nền kinh tế của mình.
Tóm lại, trong việc thu hút FDI, các nước chủ nhà vừa được lợi, vừa bị thiệt, giải quyết vấn đề này hài hòa như thế nào chủ yếu nó được quyết định bởi chính sách và chiến lược thu hút FDI của nước chủ nhà. Những nước chủ nhà có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học sẽ thu hút FDI có hiệu quả.
1.4. ĐỘNG THÁI DÒNG VỐN FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những dạng đầu tư quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Trong những năm gần đây, đặc biệt những năm đầu thập kỷ 90, luồng tư bản đầu tư trực tiếp đã có sự thay đổi với những đặc điểm chủ yếu sau đây:
1.4.1. Luồng vốn đầu tư trực tiếp hướng vào các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển.
Nếu những năm đầu của thập niên 50 - 60, luồng vốn đầu tư trực tiếp tập trung vào các nước đang phát triển (chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư), phần còn lại khoảng 30% vào các nước tư bản phát triển, thì những thập niên gần đây, đặc biệt là đầu thập kỷ 90, tỷ lệ đó đã cơ bản thay đổi theo hướng ngược lại. Theo thống kê của UNIDO, tỷ lệ vốn đầu tư vào các nước đang phát triển chỉ còn chiếm khoảng 16,8%. Tuy nhiên bước vào năm 1993, 1994 tỷ lệ này có tăng thêm, nhưng vẫn ở mức dưới 30%. Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với luồng tư bản của các chủ đầu tư riêng biệt. Ví dụ, năm 1989, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ra nước ngoài tập trung chủ yếu vào Bắc Mỹ (chiếm 50,2%) và Châu Âu (21,9%). Vào những năm tiếp theo đầu tư vào Châu Á có nhích lên từ 12% (1990) tăng lên 17,5% (1992). Tuy nhiên trong các nước đang phát triển thì các nước công nghiệp mới chiếm khoảng 65 - 70% tổng vốn đầu tư do các nước này có những điều kiện đặc thù. Trong những năm 90, Trung Quốc nổi lên như một địa bàn hấp dẫn đã và đang tập trung thu hút vốn đầu tư của Mỹ, Nhật, NIEs vào nước này, làm thay đổi tỷ trọng đầu tư vào các nước đang phát triển.
1.4.2. Công nghiệp chế biến và dịch vụ là các lĩnh vực thu hút đầu tư mạnh nhất.
Với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ, các ngành và lĩnh vực có sự hấp dẫn không giống nhau đối với luồng tư bản đầu tư, thực tế cho thấy xu hướng khá phổ biến và cũng là xu hướng mới trong thập kỷ gần đây là: luồng tư bản đầu tư trực tiếp được tập trung phần lớn vào hai ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến.
Theo K.Sauvan (chuyên gia nghiên cứu về các công ty xuyên quốc gia) thì đầu tư trực tiếp vào ngành dịch vụ giữa thập kỷ 80 chiếm 50% số vốn đầu tư trực tiếp, trong đó dịch vụ ngân hàng, buôn bán chiếm phần quan trọng nhất, mặc dù khoản đầu tư trực tiếp vào quảng cáo, giao thông vận tải cũng chiếm phần không nhỏ. Các công ty xuyên quốc gia công nghiệp nắm gần một nửa đầu tư trực tiếp ra nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển, việc đầu tư trực tiếp vào ngành dịch vụ thường tập trung vào các trung tâm tài chính. Nhìn chung nhiều công t._. người nước ngoài và giảm mức thuế suất.
Bổ sung chính sách cụ thể về thu phí để hoàn vốn nhằm đưa hình thức BOT, BTO, BT vào thực tiễn.
- Chính sách lao động và tiền lương: Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phép tuyển lao động trực tiếp không cần thông qua cơ quan lao động Việt Nam, thỏa thuận mức lương bằng tiền đồng. Nhà nước chỉ cần quy định mức lương tối thiểu phù hợp với tình hình cùng thời kỳ.
- Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm: Khuyến khích xuất khẩu sản phẩm chất lượng cao, đã thông qua chế biến; sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam; nghiên cứu ban hành chính sách chống độc quyền, chống phá giá hàng hóa, xây dựng luật cạnh tranh để tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Trường hợp doanh nghiệp ĐTNN bị thua lỗ do việc bán sản phẩm dưới giá thành kéo dài vì động cơ không lành mạnh cần phải được sử lý về trách nhiệm và kinh tế. Bảo hộ thị trường trong nước bằng các biện pháp hành chính nên rất hạn chế và chỉ hướng vào một số mặt hàng nhất định.
- Chính sách công nghệ: Xây dựng chiến lược thu hút công nghệ hiện đại, coi trong xây dựng khu công nghệ cao, công nghệ sạch ở vùng thích hợp với hệ thống quy chế rõ ràng. Máy móc, thiết bị đưa vào góp vốn hoặc nhập khẩu hải quan giám định chất lượng. Xử lý thỏa đáng việc nhập thiết bị đã qua sử dụng theo nguyên tắc để nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm và tự quyết định nhưng phải bảo đảm các quy định về an toàn lao động và vệ sinh môi trường. Đào tạo cán bộ quản lý khoa học công nghệ, thường xuyên đưa một số cán bộ có phẩm chất và chuyên môn cao ra nước ngoài để tiếp cận thông tin về công nghệ, từ đó nâng cao hiệu quả giám định chất lượng công nghệ. Bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ công nghệ.
- Chính sách về giá: Việt Nam đã có lộ trình cụ thể về giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp FDI theo hướng từng bước xóa bỏ chế độ hai giá và phân biệt đối xử về giá giữa khu vực trong nước và khu vực có vốn nước ngoài. Ban vật giá chính phủ đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án điều chỉnh giá, phí để thống nhất một mặt bằng chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài và lộ trình này đã và đang được thực hiện theo hướng nâng giá áp dụng cho người Việt Nam lên và giảm giá áp dụng đối với khu vực nước ngoài. Giá điện năm 2002 cũng đã giảm đối với khu vực FDI. Cước viễn thông cũng đã được điều chỉnh giảm theo lộ trình mà đợt giảm cước gần đây nhất là từ ngày 1/4/2003. Việt Nam đã và đang triển khai thực hiện các cam kết về lộ trình giảm giá và thực hiện xóa bỏ cơ chế 2 giá.
Tuy nhiên, ngay cả khi xóa bỏ được chế độ 2 giá và thực hiện lộ trình giảm giá thì mức giá kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn ở mức rất cao so với khu vực, đặc biệt là giá điện, nước, cước vận tải đường biển, cước hàng không… làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc giảm giá không chỉ làm giảm so với Việt Nam mà phải làm giảm so với mặt bằng chung của khu vực thì mới có thể khuyến khích được dòng FDI vào. Do vậy, song song với việc đẩy nhanh xóa bỏ cơ chế 2 giá, vấn đề quan trọng hơn là phải thực hiện giảm chi phí kinh doanh.
Để thực hiện tốt việc giảm giá thì biện pháp hữu hiệu nhất là tạo ra một môi trường cạnh tranh thực sự cho các doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ hiện đang ở mức giá cao, chẳng hạn như ngành viễn thông, cung cấp nước, cung cấp điện… Những ngành này hiện nay sự tham gia của khu vực ngoài Nhà nước còn rất hạn chế. Trong thời gian trước mắt, những lĩnh vực này có thể mở rộng cho các nhà đầu tư trong nước như chính sách đang áp dụng đối với dịch vụ viễn thông rồi dần dần mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ theo cam kết tại Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là 5 - 7 năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực. Thời gian cũng không còn nhiều, do vậy, cải tổ khu vực trong nước để đủ sức cạnh tranh trước khi mở cửa thị trường là rất quan trọng.
Cụ thể, chế độ 2 giá đối với giá điện, theo lộ trình xóa bỏ cơ chế 2 giá, sẽ được loại bỏ trong năm 2004. Để làm giảm chi phí điện năng, Chính phủ khuyến khích việc đầu tư vào nguồn điện và dự thảo Luật điện đang trong quá trình soạn thảo và sẽ trình Quốc hội phê duyệt trong năm 2004. Sau khi được phê duyệt và có hiệu lực, giá điện sẽ được xác định bởi thị trường chứ không phải do Nhà nước quy định như hiện nay.
Đối với chi phí viễn thông, việc loại bỏ cơ chế 2 giá cũng được thực hiện theo lộ trình. Trong thời gian tới, cùng với việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông, giá cước viễn thông cũng sẽ được xác định theo cơ chế thị trường và tiến gần hơn với mức giá chung trong khu vực. Chính phủ quan tâm đến khía cạnh này và đang chỉ đạo sát sao các cơ quan liên quan thực hiện đề án giảm giá.
- Chính sách về lao động và thu nhập: Đối với chi phí lao động, đặc biệt là chi phí quản lý lao động bậc trung và cao cấp. Việt Nam đang sửa đổi pháp lệnh thuế, thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao theo hướng nâng mức khởi điểm chịu thuế và giảm mức điều tiết thu nhập. Dự thảo này được các doanh nghiệp hưởng ứng vì có điều kiện sử dụng lao động Việt Nam ở vị trí cao để giảm chi phí thuê người nước ngoài. Không những thế, việc sửa đổi Pháp lệnh cũng sẽ tạo điều kiện chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý cho người Việt Nam. Đối với công nhân, các mô hình đào tạo nghề đang được nghiên cứu và triển khai áp dụng để tăng cường đội ngũ lao động có kỹ năng, được đào tạo, tăng khả năng tuyển dụng và giảm chi phí đào tạo lại đối với các doanh nghiệp FDI.
- Chính sách cơ sở hạ tầng: Đối với chi phí mặt bằng, việc giảm giá cũng cần được đẩy mạnh, đặc biệt là thúc đẩy tiến độ giải phóng mặt bằng và giảm giá chi phí đền bù giải tỏa. Việc giải phóng mặt bằng cần được thực hiện cương quyết, theo đúng tiến độ. Các đơn vị cấp phường/xã, huyện/thị xã, cần mạnh dạn, kiên quyết trong công tác giải tỏa. Việc giải tỏa cần công khai, minh bạch và công bằng đối với các hộ, các đơn vị phải giải tỏa thì việc giải tỏa sẽ thực hiện đúng tiến độ.
Đối với các lĩnh vực hạ tầng như nâng cấp hệ thống cảng biển hệ thống đường quốc lộ cũng như đường tại các vùng khó khăn… Chính phủ cần tìm nguồn hỗ trợ của nước ngoài mà chủ yếu là dành nguồn ODA, tạo cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng dưới hình thức BOT, BT trong nước, phát hành trái phiếu công trình hoặc cân đối ngân sách để đầu tư nâng cấp. Việc đầu tư nâng cấp hệ thống hạ tầng sẽ góp phần làm giảm chi phí hạ tầng giao thông.
3.2.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
UBND, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng Yên và các ngành có liên quan cần rà soát lại chức trách của mình, giảm thiểu thủ tục hành chính, bộ máy gọn nhẹ, giúp tiết kiệm được thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư nước ngoài nhanh chóng đưa các dự án đi vào hoạt động cũng như thực hiện tốt những mục tiêu đề ra trong các dự án.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài không chỉ nhằm cải thiện thủ tục nhanh để có giấy phép đầu tư mà trước hết là ở những thủ tục sau giấy phép để dự án được triển khai nhanh chóng; đồng thời tăng cường công tác quản lý hoạt động đầu tư khi dự án đi vào vận hành; kiểm tra giám sát việc thực hiện có đúng tiến độ không và khi cần có thể điều chỉnh ngay, tránh phiền hà, lãng phí. Công tác kiểm tra tài chính không quá 1 lần/năm. Cần có sự phối hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo chung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đảm bảo vừa đơn giản thủ tục, vừa thống nhất quản lý chung trong cả nước. Kiên quyết từ chối những dự án không bảo đảm các tiêu chuẩn mà pháp luật quy định (đặc biệt là về môi trường) hoặc không có tác dụng tích cực trong sự nghiệp CNH - HĐH.
Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng việc nối mạng internet để cập nhật thông tin, hiểu thêm về đối tác và giới thiệu Việt Nam với thế giới. Thông qua mạng máy tính để Nhà nước quản lý thống nhất.
Tiến hành nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành trong hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua việc cơ cấu lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ, thực hiện nguyên tắc thống nhất về “một cửa”, “một mối”.
Cần nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ lý luận gắn với thực tiễn về chuyên ngành kinh tế đối ngoại. Đào tạo và đào tại lại nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Lựa chọn những cán bộ có trình độ chuyên môn vững, giỏi ngoại giao, nhạy bén, năng động trong công việc để bố trí công tác vào lĩnh vực thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài.
Cần có những quy định cụ thể về trách nhiệm kinh tế, hình sự đối với các cá nhân, tổ chức trong hoạt động đầu tư nước ngoài, tránh tình trạng trốn tránh trách nhiệm, đùn đẩy và quy trách nhiệm một cách chung chung. Chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, duy trì hoạt động của các tổ chức này.
Cần xây dựng quy chế phối hợp cụ thể giữa Chính phủ các Bộ quản lý các ngành với UBND tỉnh Hưng Yên trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài theo đúng thẩm quyền. Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính và trách nhiệm cá nhân công chức cụ thể ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các công trình, thời hạn sử lý các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Trước mắt tỉnh tập trung tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
- Mở rộng diện đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án quy mô vừa và nhỏ. Đối với các dự án khuyến khích đầu tư thì được được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài đã có giấy phép đầu tư mà muốn kinh doanh các ngành nghề khác có liên quan thì chỉ phải đăng ký ngành kinh doanh với Sở Kế hoạch và Đầu tư Hưng Yên.
- Thực hiện tốt thời gian cấp giấy phép, chậm nhất là 45 ngày đối với dự án cần thẩm định và 15 - 30 ngày đối với dự án đăng ký (đối với một số dự án trong KCN có quy mô nhỏ thì được cấp phép dưới 10 ngày).
- Đơn giản hóa thủ tục hải quan: nên tiến hành kiểm tra tại cửa khẩu với thời gian ngắn, hạn chế thời gian gửi hàng tại kho để kiểm tra. Sửa đổi các quy định hiện hành về cấp thị thực xuất nhập cảnh và giảm mức thu lệ phí cấp thị thực xuất nhập cảnh đối với người nước ngoài.
- Việc đền bù giải phóng mặt bằng do phía Việt Nam đảm nhận và chi phí được tính vào vốn góp.
- Mở rộng quyền quản lý đầu tư cho Hưng Yên.
- Hưng Yên được cấp phép cho tất cả các dự án đầu tư vào tỉnh, không bị ràng buộc ở mức vốn và diện tích sử dụng trừ danh mục cấm hoặc danh mục do Thủ tướng quyết định. Các dự án đầu tư vào KCN hoặc khu chế xuất cũng như khu công nghệ cao không cần phải xin giấy phép, chỉ cần đăng ký với các điều kiện được công bố trước.
UBND tỉnh Hưng Yên là chủ đầu tư các công trình cho tỉnh để các dự án đầu tư thực sự hiệu quả, sát mục đích sử dụng.
Hưng Yên được phép ra các quyết định thu hút đầu tư như miễn giảm thuế, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, tư vấn miễn phí…
3.2.4. Làm tốt công tác quy hoạch đầu tư.
Tỉnh cần bổ sung, hoàn thiện quy hoạch ngành, quy hoạch không gian cho từng huyện, thị xã để tạo ra một cơ cấu không gian, cơ cấu sản phẩm hợp lý, phát triển đồng bộ các vùng kinh tế, các ngành kinh tế của tỉnh, mở rộng không gian đầu tư ở tất cả các huyện.
Công tác làm quy hoạch cần phải được thay đổi. Để triển khai làm quy hoạch, cần có đầu tư phù hợp cho công tác khảo sát, đánh giá một cách toàn diện hoạt động FDI từ trước tới nay, khảo sát đánh giá hiệu quả trên từng ngành, từng vùng theo từng đối tác với các hình thức đầu tư để có được cái nhìn toàn diện về hiệu quả hoạt động FDI thời gian qua. Việc tham khảo ý kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước trong quá trình xây dựng quy hoạch cũng là cần thiết và nên làm. Việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm thành công và thất bại của các tỉnh bạn cũng là rất cần thiết.
Việc xây dựng quy hoạch FDI cần phải quán triệt các quan điểm sau:
- Quy hoạch FDI phải gắn liền, là bộ phận không tách rời của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, cũng như gắn liền với quy hoạch phát triển vùng, ngành, trên cơ sở cân đối các nguồn lực trong và ngoài nước.
- Quy hoạch FDI phải đảm bảo sự rõ ràng, cụ thể nhưng cũng đồng thời phải có tính cởi mở, tính thay thế, tính định hướng.
- Quy hoạch FDI phải bám sát vào các khả năng, điều kiện hiện có của tỉnh, nhận định những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế đất nước nói chung và hoạt động FDI nói riêng đề hiện thực hóa các mục tiêu đề ra trong quy hoạch.
- Quy hoạch FDI phải hội đủ cả tính khoa học và tính khả thi.
Từ những quan điểm trên đây, việc xây dựng quy hoạch cần được tổ chức thực hiện theo quy trình sau:
- Điều tra tổng thể tình hình hoạt động và đánh giá hiệu quả của FDI tìm ra được những mặt được và chưa được của hoạt động này, chỉ ra những ngành, huyện, thị trấn thu hút và sử dụng FDI có hiệu quả. Để thực hiện được bước này thì điều quan trọng nhất là xây dựng được hệ thống tiêu chí, quan điểm đánh giá hiệu quả.
- Nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của một số quốc gia, vùng trong công tác quy hoạch.
- Xây dựng dự thảo quy hoạch thu hút và sử dụng vốn FDI, chỉ ra những ngành có lợi thế trong thu hút FDI, những ngành không có khả năng thu hút FDI, những ngành cần thu hút FDI nhất là ngành có kỹ thuật cao phải có chính sách, biện pháp thích hợp.
- Tổ chức lấy ý kiến các nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước.
- Hoàn chỉnh quy hoạch và ban hành.
- Tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện.
- Tổng kết đánh giá định kỳ và thực hiện những sử đổi bổ sung cập nhật nếu cần thiết. Việc sử đổi bổ sung cập nhật cũng cần thực hiện theo quy trình xây dựng ban đầu (tuy theo nội dung sửa đổi bổ sung hay cập nhật mà lựa chọn vai trò và phạm vi thích hợp).
Việc xây dựng quy hoạch đòi hỏi phải được sự quan tâm đúng mức và nguồn kinh phí nhất định. Nguồn kinh phí này do Nhà nước và tỉnh Hưng Yên đầu tư là hợp lý nhất trên cơ sở tận dụng tối đa hỗ trợ từ các nguồn khác như phối hợp với các tổ chức quốc tế trong công cuộc khảo sát, điều tra, đánh giá và xây dựng hệ thống quan điểm hiệu quả, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài…
Việc xây dựng quy hoạch tốt vừa là giải pháp, vừa là điều kiện để toàn bộ hoạt động FDI, kể cả hoạt động quản lý trở nên có hiệu quả.
Ưu tiên tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp tạo sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghiệp nghệ cao như chế tạo máy công cụ và động cơ, lắp ráp chế tạo ôtô xe máy; đồ điện tử. Phát triển từng bước trung tâm thương mại, thị trường tài chính - ngân hàng, thị trường dịch vụ, tư vấn kỹ thuật, tiếp thị, dịch vụ khách sạn. Hình thành một số siêu thị, trung tâm dịch vụ tổng hợp… Các Bộ, ngành trung ương phối hợp chặt chẽ với tỉnh trong việc xây dựng quy hoạch phát triển Hưng Yên, từ đó xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư và công bố cho các nhà đầu tư nước ngoài để họ dễ dàng lựa chọn dự án, chọn địa điểm đầu tư có hiệu quả.
Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể nói chung và quy hoạch đầu tư nước ngoài nói riêng sẽ tránh được tình trạng đầu tư tràn lan, đầu tư theo phong trào làm phung phí nguồn lực, giảm hiệu quả các dự án FDI, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài giảm lòng tin.
3.2.5. Xây dựng hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật.
- Một trong những nguyên nhân khiến chi phí kinh doanh tại Hưng Yên nói riêng và Việt Nam nói chung quá cao là do cơ sở hạ tầng quá thấp kém, cả về số lượng cũng như chất lượng. Việc đầu tư cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để hoạt động của khu vực FDI nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung có hiệu quả. Việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng cần một khối lượng vốn đầu tư rất lớn, do vậy, trong hoàn cảnh của Hưng Yên nói riêng và Việt Nam nói chung, không thể đầu tư dàn trải mà phải đầu tư có trọng điểm, cân nhắc thời điểm và quy mô đầu tư cho các công trình hạ tầng.
- Đối với những vùng địa phương trên địa bàn tỉnh có cơ sở hạ tầng phát triển, cần tiếp tục đầu tư để duy trì, cải tạo và nâng cấp để tạo động lực phát triển, tạo điều kiện thu hút các dự án FDI mới cũng như tạo thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép hoạt động là hết sức cần thiết. Cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh do trình độ phát triển hạ tầng đã tốt hơn so với trước đây, khả năng chi trả cho việc sử dụng hạ tầng cũng cao hơn, do vậy, ngoài nguồn vốn Nhà nước có thể huy động các nguồn vốn khác, các phương thức như BOT, BT, BTO (trong nước hoặc nước ngoài) hoặc dùng hình thức trái phiếu, tín phiếu công trình để đầu tư cho hạ tầng. Việc tiếp tục đầu tư cho các vùng này, tạo điều kiện cho vùng, trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển mạnh, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển ở các vùng phụ cận.
- Đối với các huyện có cơ sở hạ tầng chưa phát triển, cần dành các nguồn vốn tài trợ, vốn theo các chương trình mục tiêu của Nhà nước, vốn ưu đãi… để đầu tư cho hạ tầng, từ đó mới có khả năng huy động được vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác để phát triển nhằm thu hút tối đa các thành phần kinh tế nhất là nguồn vốn FDI.
- Nâng cao vai trò của Nhà nước trong xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Khi cấp giấy phép đầu tư, tỉnh phải bố trí vốn để thực hiện mạng lưới hạ tầng. Nên xác định chi phí này như là một nguồn vốn đối ứng thực hiện FDI, nếu tỉnh không đủ vốn thì cho phép vay ưu đãi hoặc được phát trái phiếu công trình để xây dựng. Có kế hoạch huy động các nguồn lực của toàn thể nhân dân để đầu tư vào các công trình trọng điểm, khoản thanh toán được trả bằng nguồn thu từ thuế của các dự án đầu tư nước ngoài. Thực hiện nghiêm túc việc hoàn trả số tiền cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã ứng trước để xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào với quy định cụ thể thời gian hoàn trả vốn cho nhà đầu tư để các nhà ĐTNN thực hiện dự án nhanh hơn.
Khuyến khích tư nhân bỏ vốn đầu tư vào phát triển hạ tầng KCN. Như vậy sẽ tạo lòng tin cho các nhà ĐTNN, giúp họ chỉ việc tiến hành sản xuất kinh doanh ngay sau khi được cấp giấy phép đầu tư. Công tác triển khai dự án được diễn ra nhanh hơn, vốn đầu tư vào sản xuất lớn hơn, sản phẩm được bán ra phù hợp với thị trường và đúng thời cơ.
3.2.6. Mở rộng các hình thức thu hút và vận động đầu tư.
Cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu để mở rộng quy mô đầu tư. Một số tập đoàn có nhiều dự án đầu tư được phép thành lập công ty quản lý vốn để điều hành chung và hỗ trợ các dự án đã đầu tư.
Cho phép các nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, ngành nghề và địa điểm đầu tư. Xử lý linh hoạt hơn việc chuyển đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với các dự án sử dụng công nghệ cao, xuất khẩu phần lớn sản phẩm, xây dựng hạ tầng KCN ở địa bàn kinh tế- xã hội khó khăn, xem xét việc cho phép dự án quảng cáo theo hình thức liên doanh.
Cho phép các ngân hàng tự quyền quyết định việc mua bán và ngoại tệ cho doanh nghiệp ĐTNN. Xúc tiến hoạt động thị trường của thị trường tài chính một cách đầy đủ theo hướng tự do hóa. Đồng thời quản lý và xử lý tốt các hoạt động tín dụng thương mại quốc tế để đảm bảo tín nhiệm trong thanh toán quốc tế, đặc biệt phải có bước chuẩn bị chu đáo, xúc tiến việc thành lập thị trường chứng khoán.
Gắn công tác vận động, xúc tiến đầu tư với chương trình, dự án, đối tác, địa bàn cụ thể. Bộ, ngành, UBND phải có trách nhiệm hướng dẫn các nhà đầu tư trong khâu tìm hiểu, chuẩn bị dự án, xem xét cấp giấy phép và triển khai.
Các Bộ, ngành cần tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế thị trường đầu tư, chính sách của Nhà nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và các công ty lớn để có chính sách vận động đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực để kịp thời có những đối sách phù hợp, tránh bị động và lạc hậu.
Xây dựng nội dung để đưa lên mạng Ineternet, các tạp chí quốc tế, các dự án, các công trình, chính sách kêu gọi đầu tư vào Hưng Yên để các doanh nghiệp, tư nhân nước ngoài dễ dàng nghiên cứu tìm hiểu. Gửi tới các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức Việt kiều danh mục các dự án ĐTNN cần thu hút đầu tư. Tổ chức thường kỳ các hội nghị với các doanh nghiệp nước ngoài, các nhà tài trợ, các cuộc họp mặt, tiếp xúc với nhà đầu tư, họp báo để giới thiệu cơ hội đầu tư.
3.2.7. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và nâng cao chất lượng người lao động hoạt động trong khu vực FDI.
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần tuyển chọn những người có đủ trình độ, năng lực để làm công tác quản lý.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần được thường xuyên cập nhật kiến thức, thông tin về FDI cũng như tình hình kinh tế chung về lĩnh vực hay ngành mà mình phụ trách. Mỗi cán bộ quản lý cần được đào tạo căn bản về nghiệp vụ quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI nói riêng.
Thứ ba, thường xuyên cập nhật các kiến thức, quan điểm, chính sách mới của các ngành, lĩnh vực có liên quan cho các cán bộ quản lý do ban quản lý FDI liên quan đến hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần được thường xuyên bổ xung các kiến thức cần thiết, bổ trợ cho công tác hoạt động như ngoại ngữ và kỹ năng máy tính. Kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng giao tiếp cũng là các kỹ năng cần thiết đối với các cán bộ quản lý hoạt động FDI.
Thứ năm, điều kiện làm việc của cán bộ quản lý FDI cần được quan tâm đuúng mức, đảm bảo các trang thiết bị cần thiết cho hoạt động quản lý. Trong thời đại của công nghệ thông tin hiện nay, việc trang bị các trang thiết bị cần thiết lại càng trở nên quan trọng.
Thứ sáu, đội ngũ cán bộ quản lý FDI cần định kỳ nắm tình hình ở cơ sở để không xa rời thực tiễn. Đối với cán bộ quản lý cấp trung ương, việc đi cơ sở có ý nghĩa và yêu cầu cao hơn bởi vì ngoài nắm tình hình trực tiếp từ các doanh nghiệp còn phải nắm được tình hình quản lý hoạt động FDI.
Với những yêu cầu như vậy, đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động FDI cần có mức đãi ngộ xứng đáng để tận tâm với công việc. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ với đội ngũ công chức trong bộ máy quản lý Nhà nước nói chung và quản lý Nhà nước trong khu vực FDI nói riêng không thể xử lý riêng biệt mà phải được xử lý tổng thể trong việc đổi mới chính sách lương, thưởng… cho toàn đội ngũ cán bộ làm việc trong khu vực FDI.
3.2.8. Một số vấn đề khác.
Cần nhanh chóng rà soát, phân loại và đánh giá tình hình thực hiện của tất cả các dự án trên địa bàn để có biện pháp xử lý, hỗ trợ cho phù hợp. Tập trung chỉ đạo điều hành xử lý nghiêm hành vi vi phạm của các nhà ĐTNN, cũng như giải quyết nhanh các vấn đề khó khăn phát sinh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này vượt qua.
* Đối với các dự án chưa đi vào sản xuất kinh doanh.
Kiểm tra tình hình triển khai các dự án, tìm ra các nguyên nhân gây ách tắc từ đó tập trung tháo gỡ. Bãi bỏ một số thủ tục không cần thiết, công bố rõ ràng quy trình trách nhiệm, thời gian xử lý các thủ tục. Cố gắng tập trung đầu mối về Sở Kế hoạch và Đầu tư Hưng Yên tránh gây tình trạng phân quyền trong quá trình xử lý, gây khó khăn, nhũng nhiễu. Thực hiện xử lý công bằng, nghiêm minh các hiện tượng vòi vĩnh gây sách nhiễu đối với các nhà đầu tư.
Hỗ trợ vốn cho các dự án khó khăn về tài chính, cung cấp, giới thiệu cho các doanh nghiệp nước ngoài những đối tác trong nước có tiềm lực tài chính, phù hợp với từng dự án cụ thể.
* Đối với các dự án đang hoạt động.
Tiếp tục kiểm tra hoạt động của các dự án này, cho phép được hưởng những ưu đãi của các quy định mới về thuế, giá thuê đất. Xem xét miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp thực sự lỗ vốn. Cho phép các dự án tồn đọng chuyển đổi chủ đầu tư, mục tiêu và hình thức đầu tư cho phù hợp với điều kiện kinh doanh thị trường.
Cho phép các dự án kinh doanh hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn được phép tăng tỷ lệ tiêu thụ trong nước, nếu những sản phẩm đó vẫn phải nhập khẩu và thị trường trong nước có nhu cầu.
* Đối với các doanh nghiệp phải bán ngoại tệ: Cần đơn giản hóa thủ tục, có giải pháp khắc phục rủi ro về thay đổi tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi cần có thể mua đủ và kịp thời lượng ngoại tệ đã quy định. Hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đang thực sự khó khăn do khủng hoảng tài chính, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp.
Xem xét việc cấp giấy phép xây dựng mới và giãn tiến độ xây dựng các KCN phải chuyển trọng tâm vào hoạt động vận động đầu tư để lấp đầy diện tích cho thuê. Khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan, phân tán, cạnh tranh không lành mạnh giữa trong và ngoài KCN, giữa các KCN với nhau.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính có vốn ĐTNN nhằm khắc phục sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích của bên Việt Nam.
Đôn đốc các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo tài chính theo đúng quy định hiện hành nhằm hỗ trợ cho các cơ quan quản lý Nhà nước nắm bắt được kịp thời tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để có biện pháp quản lý thích hợp với từng thời kỳ.
Duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước bằng các hình thức thích hợp trong quá trình xây dựng chính sách và cơ chế quản lý hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài, nhằm bảo đảm các chính sách mới ban hành sớm được thực hiện và có tính thực thi cao.
Nâng cao vai trò và năng lực của cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh để một mặt nhanh chóng tiếp thu được kinh nghiệm về quản lý kinh doanh, mặt khác có thể trực tiếp theo dõi và phát hiện các hoạt động sai trái của phía nước ngoài như chuyển giá, bán phá giá…
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam nói chung, Hưng Yên nói riêng những năm qua đã thu được những thành tựu đáng khích lệ, đặc biệt trong bối cảnh đất nước còn khó khăn: thiếu vốn, công nghệ, trình độ quản lý… Những kết quả này là sự hấp dẫn đầu tư cũng như sự thông thoáng của luật đầu tư nước ngoài.
Đối với Hưng Yên, nguồn vốn FDI ngày càng gia tăng và ngày càng phát huy được hiệu quả rõ rệt trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của tỉnh nói riêng, đất nước nói chung.
Tuy nhiên, Hoạt động FDI trong những năm qua tại Hưng Yên cũng bộc lộ một số hạn chế. Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý và hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp còn chưa cao; môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện; thủ tục hành chính còn rườm rà…; đặc biệt thời kỳ (1997 - 2000), do nhiều nguyên nhân, hoạt động của lĩnh vực này rất yếu kém, trong vòng 4 năm chỉ thu hút được vài dự án. Từ năm 2000 tới nay đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc. Vì vậy, việc cải thiện toàn diện môi trường FDI tại Hưng Yên là vấn đề tất yếu trong giai đoạn hiện nay và hy vọng rằng các giải pháp nêu trên sẽ đóng góp được phần nhỏ bé trong nỗ lực giải quyết vấn đề này.
Những năm đầu thế kỷ 21 này, tỉnh Hưng Yên đang có nhiều cơ hội đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đặc biệt phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về xuất khẩu, về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các tỉnh khác và từ các nước trong khu vực. Nhưng sự ổn định về chính trị cùng với chính sách nhất quán và lâu dài, những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh cho môi trường đầu tư của tỉnh Hưng Yên. Cùng với những nỗ lực và quyết tâm thu hút FDI của tỉnh Hưng Yên chắc chắn đây sẽ là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Thị Ngọc Anh, Liên doanh và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1998.
2. Phùng Quốc Chí, Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Hưng Yên, Tạp chí Kinh tế thế giới (tháng 2 năm 2004).
3. GS.TS. Tô Xuân Dân, Giáo trình Kinh tế học quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1999.
4. Đỗ Đức Định (chủ biên), Công nghiệp hóa - hiện đại hóa: phát huy lợi thế so sánh, kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.
5. Đỗ Đức Định (chủ biên), Kinh tế đối ngoại, Xu hướng điều chỉnh chính sách ở một số nước Châu Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội 2003.
6. Vũ Chí Lộc, Giáo trình Đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1997.
7. Nguyễn Trọng Luân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
8. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công nghiệp hóa ở Malaysia - Kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 2000.
9. Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2001.
10. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên), Một số xu hướng phát triển chủ yếu hiện nay của nền kinh tế thế giới, Nhà xuất bản Khoa học - Xã hội, Hà Nội 2003.
11. GS.TS. Nguyễn Ngọc Trân (2003), Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay, Nhà xuất bản Thế giới.
12. TS. Bùi Anh Tuấn, Tạo việc làm cho người lao động qua đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 2000.
13. TS. Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
14. Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ năm1995 đến 2003.
15. Báo cáo hàng năm về tình hình thu hút FDI của tỉnh từ 1997 - 2003, Sở kế hoạch và đầu tư Hưng Yên.
16. Công nghiệp hóa và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997.
17. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Học viện Quan hệ quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
18. Hướng dẫn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
19. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000.
20. Những điều cần biết về chính sách khuyến khích đầu tư đối với người Việt Nam định cơ ở nước ngoài và người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội, tháng 5 năm 2002.
21. Niên giám thống kê hàng năm của tỉnh từ năm 1997 - 2003, Cục thống kê tỉnh Hưng Yên.
22. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2010 và một số định hướng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37196.doc