LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, các nhà kinh tế học đã quan tâm nghiên cứu những yếu tố tác động đến sự gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển đến các nhà kinh tế học hiện đại đều nhận thấy rằng đầu tư và tích luỹ vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng trong sản xuất. Ngày nay, vai trò của đầu tư ngày càng được khẳng định hơn khi nó góp phần đáng kể vào việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Dựa vào các lý thuyết kinh tế và đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách mạnh mẽ.
Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua có những bước phát triển vượt bậc, tăng trưởng khá cao và ổn định, mức sống người dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được nâng cao…Để có được những thành tựu ấn tượng đó phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của đầu tư. Với những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư trong và ngoài nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên trường quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, đang trở thành điểm hấp dẫn đầu tư của Châu Á trong con mắt của cộng đồng đầu tư thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn rất nhiều bất cập trong việc sử dụng vốn đầu tư để tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, các mục tiêu kinh tế xã hội đưa ra chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn.
Để làm rõ vai trò của đầu tư vói tăng trưởng, phát triển kinh tế, đồng thời tìm ra những mặt còn hạn chế trong việc phát huy vai trò của đầu tư, nhóm chúng em chọn đề tài: Dựa vào các lí thuyết kinh tế và đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Từ Quang Phương, chúng em đã cố gắng hoàn thành bài viết này. Do giới hạn về kinh nghiệm, kiến thức, tài liệu, và tính phức tạp của đề tài, bài viết của chúng em còn rất nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý thẳng thắn, nhiệt tình của thầy cô và các bạn để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ VÀ PHÂN LOẠI.
1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm về đầu tư, ở mỗi góc độ ta có một khái niệm, một cách hiểu về đầu tư, cụ thể như sau:
Trên góc độ tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và thu lời
Trên góc độ tiêu dùng: Đầu tư là sự hy sinh mức tiêu dùng hiện tại để thu về một mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Đầu tư là việc sử dụng vốn cùng các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai
Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đật được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải chịu đựng khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ
Những kết quả sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn ), tài sản vật chất ( nhà máy, đường sá. bệnh viện, trường học..), tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật..) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội
2. Phân loại đầu tư
Hoạt động đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Bốn tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
2.1. Theo mối quan hệ của chủ đầu tư với đối tượng đầu tư:
Theo tiêu thức này đầu tư được chia làm hai loại là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
* Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức trung gian để đầu tư phát triển. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá cổ phiếu, trái phiếu… để hưởng lợi tức ( gọi là đầu tư tài chính ). Đầu tư gián tiếp là phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển.
* Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới ( cả về lượng và chất ). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tăng thêm việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Đầu tư trực tiếp được thực hiện bởi người trong nước và cả người nước ngoài, được thực hiện ở nước sở tại và cả nước ngoài. Do vậy,việc cân đối giữa hai luồng vốn đầu tư ra và vào và việc coi trọng cả hai luồng vốn này là hết sức cần thiết.
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định hướng của nhà nứơc, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2.2 Theo bản chất của đầu tư
Theo bản chất của đầu tư, đầu tư được chia làm hai loại: đầu tư tài chính và đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho người vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới của nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
Đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất ( nhà xưởng, thiết bị..) và tài sản trí tuệ( tri thức, kỹ năng..), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển
Đầu tư phát triển là loại đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới của nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền linh tế mỗi quốc gia.
2.3 Theo nguồn vốn
Đầu tư dưới góc độ nguồn vốn được phân thành hai loại : nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước: Là phần tích luỹ của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ của cá nhân , các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động và quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Các nguồn vốn nước ngoài chính :
Tài trợ phát triển chính thức ( ODF ) : Nguồn này gồm Viện trợ phát triển chính thức ( ODA ) và các hình thức tài trợ khác
Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2.4 Theo cấp quản lý
Theo tiêu thức này thì đầu tư được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia , dự án nhóm A, B, C
Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng chính phủ quyết định, nhóm B, C do bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
II. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Khái niệm
Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau nhất định trong quan niệm nhưng nói chung, sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế người ta thường dùng hai thuật ngữ: tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế để phản ánh sự tiến bộ đó.
Hai thuật ngữ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế nhiều lúc được sử dụng thay thế cho nhau trong một nội dung của một phạm vi nhất định nào đó. Song giữa chúng có sự khác nhau cơ bản.
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự tăng thêm hay là sự gia tăng về qui mô sản lượng của một nền kinh tế trong một thời kỳ nhẩt định ( thường là một năm ).
Tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ tăng sản lượng thực tế, là kết quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của nền kinh tế tạo ra.
Sự tăng trưởng kinh tế được so sánh với các năm gốc kế tiếp nhau gọi là tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện bằng hai cách. Cách thứ nhất thể hiện việc mở rộng sản lượng quốc gia của một nước( sự tăng lên của Tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội..). Cách thứ hai thể hiện sự tăng trưởng mức sống của một quốc gia ( sự tăng lên của Tổng sản phẩm quốc dân trên đầu người, tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người..)
Khác với tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế bao hàm nhiều ý nghĩa rộng hơn.
Phát triển kinh tế là một qúa trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời gian nhất định
Phát triển kinh tế bao gồm tăng về qui mô sản lượng ( tăng trưởng kinh tế ), sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội.
Khái niệm trên về kinh tế phát triển bao hàm các vấn đề cơ bản như sau:
Thứ nhất là mức độ gia tăng mở rộng sản lượng quốc gia và sự tăng mức sản xuất, mức sống của quốc gia trong một thời gian nhất định.
Thứ hai là mức độ biến đổi cơ cấu kinh tế của quốc gia. Trong đó quan trọng nhất là tỷ lệ ngành công nghiệp trong tổng sản lượng quốc dân. Mức độ tỷ trọng ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân càng cao thể hiện mức phát triển càng cao.
Thứ ba là sự tiến bộ về cơ cấu xã hội, đời sống xã hội, mức độ gia tăng thu nhập thực tế của người dân, mức độ công bằng xã hội của quốc gia.
Các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế thường phải trải qua các giai đoạn bắt đầu tốc độ tăng trưởng nhanh. Sau đó chững lại, dân số tăng làm thay đổi cơ cấu tuổi dân cư trong nước. Các xu hướng tiêu dùng trong nước cũng thay đổi hẳn. Số tiền thu nhập không tiêu dùng hết vào nhu cầu thiết yếu mà có xu hướng tiến lên sử dụng các hàng hoá lâu bền, các dịch vụ và nghỉ ngơi. Then chốt của sự phát triểtn kinh tế ở đây là người dân nước đó phải là thành viên chủ yếu của sự thay đổi cơ cấu.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá
2.1. Một số thước đo của sự tăng trưởng
2.1.1. Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP)
Theo David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch, tổng sản phẩm quốc nội đo lường sản lượng được sản xuất ra bởi các yếu tố sản xuất nằm trong nền kinh tế quốc nội bất kể ai là chủ sở hữu các yếu tố đó.
Nói cách khác, tổng sản phẩm quốc nội là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ).
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản : từ sản xuất, tiêu dùng và phân phối.
Về phương diện sản xuất, GDP được xác định bằng toàn bộ giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất dịch vụ trong cả nước.
VA= GO – IC
Trong đó:
VA là giá trị gia tăng của toàn bộ nền kinh tế
GO là tổng giá trị sản xuất
IC la chi phí trung gian
Về phương diện tiêu dùng, GDP biểu hiện bằng toàn bộ hàng hoá dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường được tạo ra trong lãnh thổ quốc gia hàng năm.
GDP ( tiêu dùng ) = C + G + I + ( X- M )
Trong đó:
C: Các khoản tiêu dùng của hộ gia đình
G: Các khoản chi tiêu của chính phủ
I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp
X –M: Xuất khẩu ròng trong năm
Do tính GDP theo giá hiện hành của thị trường, nó đã bao gồm thuế gián thu ( Te ), cho nên GDP tính theo giá thị trường sẽ chênh lệch với GDP tính theo chi phí các yếu tố sản xuất một lượng giá trị, đó là thuế gián thu
GDP ( sản xuất ) = GDP ( tiêu dùng ) – Te
Về phương diện thu nhập, GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng.
GDP ( thu nhập ) = Cp + Ip + T
Trong đó :
Cp: Các khoản các hộ giađình được quyền tiêu dùng
Sp: Các khoản các doanh nghiệp tiết kiệm dùng để đầu tư ( Sp = Ip )
T: Chi tiêu của Nhà nước từ nguồn thuế.
Các cách tiếp cận trên sẽ cho GDP kết qủa bằng nhau. Nhưng thực tế có những chênh lệch nhất định do sai sót từ các thông số, thống kê hoặc tính toán.
2.1.2. Tổng thu nhập quốc dân ( GNI )
Đây là thước đo xuất hiện trong bảng SNA ( hệ thống tài sản quốc gia ) năm 1993 thay cho thước đo GNP. Về nội dung thì GNI & GNP là giống nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như GNP.
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định ( thường là một năm ).
Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần đầu có tính đến cả các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước ngoài.
Như vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh theo con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
Trong đó:
Chênh lệch thu nhập = Thu nhập lợi tức - Chi trả lợi tức
nhân tố với nhân tố từ nhân tố ra
nước ngoài nước ngoài nước ngoài
Sự khác nhau giữa GDP & GNI là ở phần chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thi GNI thường nhỏ hơn GDP vì thông thường phần chênh lệch này mang giá trị âm.
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP & GNI còn được sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia ( GDP/ người, GNI/ người ).
Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số. Qui mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung.
2.2. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành
Chỉ số cơ cấu ngành là chỉ số phản ánh tỷ lệ của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi, và quy luật của sự phát triển là tỷ lệ ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP càng cao thì tỷ lệ ngành nông nghiệp trong GDP càng giảm. Tỷ lệ ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP càng cao thể hiện nền kinh tế càng phát triển
2.2.2. Chỉ số cơ cấu xuất nhập khẩu
Chỉ tiêu này được biểu hiện bằng các tỷ lệ:
Tỷ lệ giá trị xuất khẩu / GDP.
Tỷ lệ giá trị xuất khẩu / giá trị nhập khẩu
Tỷ lệ giá trị hàng công nghiệp trong xuất khẩu
Tỷ lệ giá trị máy móc và nguyên vật liệu trong tổng giá trị nhập khẩu
Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP ( thu nhập ròng X – M ) và các tỷ lệ trên ngày càng cao
2.2.3. Chỉ số tiết kiệm - đầu tư
Tỷ lệ tiết kiệm - đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân ( GNP ) hay trong tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) thể hiện khả năng về tăng trưởng và phát triển kinh tế của quốc gia.
Trên thế giới mỗi nước có một tỷ lệ tiết kiệm và một lượng kim ngạch dự trữ khác nhau. những nước có tỷ lệ đầu tư cao ( từ 20- 30% GDP ) thường là các nước có mức tăng trưởng cao.
2.3. Đánh giá sự phát triển xã hội
Các chỉ số về xã hội biểu hiện sự tiến bộ xã hội do tăng trưởng kinh tế và tiến bộ của con người.
2.3.1. Mức tăng dân số hàng năm
Mức tăng dân số liên quan đến thu nhập bình quân trên đầu người của nền kinh tế quốc gia. Sự tăng dân số cao, sự bùng nổ dân số của các nước kém phát triển làm cho các nước này ngày càng nghèo đói thêm.
Mức tăng dân số hàng năm còn liên quan đến mật độ dân số đó là :
Tổng dân số quốc gia / tổng diện tích quốc gia
Tổng dân số quốc gia / tổng diện tích đất canh tác
Mức tăng dân số càng nhỏ các thể hiện mức phát triển của quốc gia càng cao.
2.3.2. Số calo bình quân trên đầu người
Số calo bình quân trên đầu người ( calo / người / ngày ) là chỉ tiêu thể hiện mức sống, mức nhu cầu về lương thực, thực phẩm của con người được qui đổi thành đơn vị năng lực cần thiết cho con người là calo
Mức thu nhập bình quân trên đầu người tăng lên thì số calo bình quân trên đầu ngời cũng tăng lên
Chỉ tiêu này chỉ có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, thể hiện một nền kinh tế giả quyết được nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm ở mức nào ? Còn đối với các nước đã phát triển vì mức sống cao nên chỉ tiêu này không còn ý nghĩa nữa.
2.3.3. Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị
Quy luật nền kinh tế - xã hội của quốc gia càng phát triển thì dân số và lao động ở thành thị ngày càng tăng lên và ở nông thôn ngày càng giảm đi.
Tỷ lệ dân số sống ở thành thị tăng lên theo mức thu nhập bình quân đầu người tăng lên.
Sự tăng dân số và lao động ở thành thị nói lên sự văn minh trong đời sống của nhân dân, sự phát triển kinh tê- xã hội của một nước
2.3.4. Chỉ số phát triển con người ( HDI )
Chỉ tiêu này kết hợp ba yếu tố là tuổi thọ bình quân được phản ánh bằng số năm sống, trình độ giáo dục được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi, mức thu nhập bình quân trên đầu người tính theo sức mua tương đương . HDI được tính theo phương pháp chỉ số và nhận giá trị trong khoang 0 và 1. Quốc gia nào có HDI càng gần 1 thì được đánh giá là càng phát triển cao.
III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ
1. Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế.
1.1. Lí thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển.
Trong lịch sử các tư tưởng kinh tế, đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất, cho việc gia tăng năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế, từ đó tạo đà cho sự tăng trưởng.
Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “Của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữu dụng và hiệu quả. Việc tích tụ vốn đầu tư sẽ cho phép dân số và lực lượng lao động gia tăng, cung cấp những người lao động với trang thiết bị tốt hơn và quan trọng hơn là có thể tạo ra phân công lao động một cách rộng rãi hơn. Chỉ có như vậy mới làm tăng tổng sản lượng toàn xã hội và sản lượng bình quân mỗi lao động, tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Còn theo David Ricardo ông cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản của sự tăng trưởng là đất đai, lao động, và vốn. Trong ba yếu tố kể trên thì đất đai là yếu tố quan trọng nhất, song đất đai cũng chính là giới hạn của sự tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng lên. Mà lương thực, thực phẩm lại là bộ phận quan trọng nhất để đảm bảo đời sống của gia đình công nhân. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng phải tăng theo tương ứng, lợi nhuận của các nhà tư bản có xu hướng giảm. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi lợi nhuận hạ thấp không thể bù đắp được rủi ro trong kinh doanh làm cho nền kinh tế trở nên bế tắc: địa tô ở mức cao, tiền công ở mức tối thiểu, lợi nhuận ở gần mức không, tích luỹ tư bản ngừng lại. Vì thế để làm giảm sự giới hạn đó theo ông cần thiết phải đầu tư vốn nhiều vào ngành công nghiệp, rồi xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ hơn từ nước ngoài vào, hoặc đầu tư cho ngành công nghiệp thúc đẩy phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp. Lí thuyết của ông thể hiện vai trò của đầu tư trong việc tăng trưởng các ngành nông nghiêp dẫn đến làm giảm giới hạn tăng trưởng chung.
1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của K.Marx
Theo Marx các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai,lao động, vốn và tiến bộ kĩ thuật. Ông cho rằng giữa cung và cầu thị trường luôn có khoảng cách, để giải quyết khoảng cách này cần thiết phải có tích luỹ sản xuất, tích luỹ hàng hóa, đây cũng là hoạt động đầu tư hàng tồn trữ.
Ông cũng cho rằng khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi, sau khi khủng hoảng nền kinh tế trở nên tiêu điều, để thoát khỏi tình trạng này các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư bản cố định với quy mô lớn làm cho nền kinh tế tiến tới hưng thịnh. Để đổi mới tư bản cố định thì việc quan trọng nhất là các nhà tư bản phải có hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ. Đây cũng chính là vai trò của đầu tư trong việc tăng trưởng kinh tế.
1.3.Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư.
Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỉ lệ nhất định về lao động và vốn. Họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công, và trong quá trình sản xuất có thể gia tăng vốn cho một đơn vị lao động để tạo sự phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất.Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và khoa học-công nghệ.
Y=f(K,L,R,T)
Trong đó:
Y: đầu ra
K: vốn sản xuất
L: lao động
R: nguồn tài nguyên thiên nhiên
T: khoa học công nghệ
Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb-Douglas, hàm này có dạng
Y=T.Kα.Lβ.Rγ
Ở đây α, β, γ là các số luỹ thừa phản ánh tỉ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào
(α + β + γ =1)
Sau khi biến đổi Cobb-Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số.
g = t + αk + βl + γr
Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k,l,r: tốc đột tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: tác động của khoa học công nghệ
Qua đó ta thấy rằng sự tăng trưởng của yếu tố vốn cũng như yếu tố đầu tư cũng góp phần vào tăng trưởng kinh tế nói chung.
1.4. Mô hình Harrod-Domar
Mô hình Harrod-Domor giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình các tác giả đưa ra hai giả định
Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động
Sản xuất tỉ lệ với khối lượng máy móc
Nếu gọi:
Y là sản lượng năm t
g = ΔY/Yt là tốc độ tăng trưởng kinh tế
ΔY là sản lượng gia tăng trong kỳ
S là tổng tiết kiệm trong năm
s = S/Yt là tỉ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR tỉ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức ICOR= ΔK/ΔY
Nếu ΔK = I ta có ICOR = I/ΔY
Mặt khác I = S = s*Y. thay vào công thức tính ICOR ta có
ICOR = ΔK/ΔY=s*Y/ΔY => ΔY=s*Y/ICOR
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế
g = ΔY/Y = s*Y/ICOR : Y
Cuối cùng ta có g = s/ICOR
Như vậy theo Harrod-Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn gốc của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (ΔK), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp làm gia tăng ΔY, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2. Mô hình của Keynes: Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu của nền kinh tế.
Các học thuyết kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ yếu quan tâm đến yếu tố cung, đồng nhất sự tăng cung với tăng trưởng kinh tế và cho rằng nền kinh tế không có khủng hoảng. Tuy nhiên, vào những năm 30 của thế kỉ 20, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn ra thường xuyên và học thuyết của trường phái Keynes ra đời đã đánh dấu sự phát triển mới về kinh tế. Lí thuyết này nhấn mạnh đến yếu tố cầu và coi tổng cầu là nguyên nhân của sự tăng trưởng cũng như suy thoái kinh tế. Theo Keynes cầu tiêu dùng giảm dần dẫn đến hàng hoá ế thừa, kinh tế trì trệ, sản xuất không bán được, các nhà sản xuất bi quan về nền kinh tế sẽ thu hẹp quy mô sản xuất hoặc nếu không sẽ bị phá sản. Chính điều này sẽ khiến thất nghiệp xảy ra, tệ nạn xã hội bùng phát. Như vậy sụt giảm cầu là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế. Để thúc đẩy kinh tế phát triển cần kích thích tổng cầu, tổng cầu tăng làm cho tổng cung tăng, nền kinh tế đạt tới trạng thái cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn mức sản lượng ban đầu.
Một trong những lí thuyết nổi tiếng của Keynes về đầu tư là lí thuyết số nhân đầu tư. Theo ông mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do vậy làm tăng việc làm và tăng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Tất cả các điều đó làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến lượt mình tăng thu nhập lại làm gia tăng đầu tư mới. Quá trình này thể hiện thông qua một đại lượng gọi là số nhân đầu tư. Số nhân đầu tư thể hiện qua tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới. Qua quá trình hoạt động này, số nhân đầu tư làm phóng đại thu nhậplên.
Số nhân đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa mức gia tăng thu nhập và mức gia tăng đầu tư. Số nhân này xác định sự gia tăng đầu tư sẽ làm cho thu nhập tăng lên như thế nào. Nếu kí hiệu dY là mức gia tăng thu nhập, dI là mức gia tăng đầu tư và m là số nhân đầu tư thì:
m = dY/dI
vì S = I nên
m = dY/dS = dY/(dY-dC) = 1/(1-dC/dY) = 1/(1-c)
Trong đó c là khuynh hướng tiêu dùng cận biên. Chẳng hạn khuynh hướng tiêu dùng cận biên của xã hội là 0.75 thì theo nguyên lí số nhân, từ 1 tỉ đồng đầu tư có thể có mức thu nhập là 4 tỉ đồng. Rõ ràng đầu tư làm tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cũng theo Keynes, hiệu quả cận biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỉ suất thu lời dự kiến của số tiền đầu tư mới chứ không phải so với phí tổn nguyên thuỷ của nó. Như vậy, cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư thì hiệu quả cận biên của mỗi đồng vốn gia tăng bị giảm sút. Bởi vì, đầu tư làm tăng thêm khối lượng hàng hoá cung ứng trên thị trường, làm giảm giá của các hàng hoá sản xuất thêm, và tăng cung ứng hàng hoá sẽ làm chi phí vốn đầu tư tăng từ đó làm giảm hiệu qủa sử dụng vốn. Mặt khác sự khuyến khích đầu tư lại phụ thuộc vào lãi suất. Người ta sẽ tiếp tục đầu tư chừng nào hiệu quả cận biên của vốn lớn hơn lãi suất huy động vốn. Khi nào hiệu quả cận biên của vốn bằng hoặc thấp hơn lãi suất huy động vốn thì người ta không đầu tư nữa. Vì vậy để kích thích đầu tư cần tìm biện pháp tăng hiệu qủa cận biên của vốn hoặc (và) giảm lãi suất.
Keynes cũng đã chỉ ra vai trò của chính phủ và đầu tư trong việc kích thích tổng cầu: AD = C + G + I
Trong đó:
AD là tổng cầu
C là tiêu dùng
G là chi tiêu chính phủ
I là đầu tư
Qua đẳng thức trên ta thấy đầu tư và chính phủ đều có vai trò hết sức quan trọng đối với tổng cầu. Đầu tư làm tăng tổng cầu và ngược lại. Chi tiêu chính phủ cũng góp phần làm tăng tổng cầu. Nhà nước sử dụng ngân sách của nhà nước để kích thích đầu tư của khu vực tư nhân và nhà nước. Như vậy đầu tư thông qua các chính sách của chính phủ để kích cầu, kích thích sản xuất phát triển.
3.Đầu tư tạo sự phát triển cho các ngành kinh tế mũi nhọn từ đó tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Trong các tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong đó quan trọng nhất là cơ cấu ngành vì nó phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế.
3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển của W.Rostow
Trong cuốn “các giai đoạn phát triển kinh tế”, nhà lịch sử kinh tế Mỹ Walter Rostow đã đưa ra mô hình về quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia . Ông chia quá trình phát triển thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn cần có sự đầu tư hợp lí để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành.
Giai đoạn xã hội truyền thống: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp nhìn chung nền kinh tế chưa có những biến đổi mạnh
Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: ngành công nghiệp bắt đầu phát triển, nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn
Giai đoạn cất cánh: đây là giai đoạn trung tâm trong sự phân tích các giai đoạn phát triển của Rostow. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5% đến 10% trong thu nhập quốc dân thuần tuý. Ngoài vốn đầu tư trong nước nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kì quan trọng. Khi huy động được nguồn vốn cần thiết sẽ tạo điều kiện để phát triển khoa học kĩ thuật. Từ đó tác động mạnh vào nông nghiệp và công nghiệp, công nghiệp giữ vai trò đầu tầu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi nhuận lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư phát triển sản xuất, thông qua nhu cầu thu hút công nhân, kích thích phát triển khu vực đô thị và các lĩnh vực dịch vụ. Có thể nói đầu tư đóng vai trò phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, lôi kéo các ngành khác phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của giai đoạn này là công nghiệp – nông nghiệp - dịch vụ.
Giai đoạn trưởng thành: Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là tỉ lệ đầu tư tăng liên tục, lên tới 20% thu nhập quốc dân thuần tuý. Nếu có được tỉ lệ đầu tư như vậy thì mới có điều kiện để ứng dụng khoa học kĩ thuật trên toàn bộ các mặt hoạt động của nền kinh tế, nhiều ngành công nghiệp mới hiện đại phát triển, nông nghiệp được cơ giới hoá, đạt năng suất lao động cao, nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hoà đồng vào thị trường quốc tế. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Giai đoạn tiêu dùng cao: giai đoạn này thu nhập bình quân đầu người cao, dân cư giàu có dẫn đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá dịch vụ, cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng tỉ lệ lao động có tay nghề cao, phúc lợi xã hội tốt. Cơ cấu ngành giai đoạn này là dịch vụ - công nghiêp.
Để đạt được đến giai đoạn này thì ở từng giai đoạn việc sử dụng vốn đầu tư đúng hướng là vô cùng quan trọng.
3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis
Mô hình thể hiện mối quan hệ chặt chẽ và rõ ràng giữa sự gia tăng vốn đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quan điểm cho rằng tích tụ vốn cho đầu tư là chìa khoá sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện trong các chiến lược và chính sách phát triển tại nhiều quốc gia.(Pakistan và Ấn Độ đều sử dụng kế hoạch 5năm trong những năm đầu thập kỉ 60. Trong đó nhấn mạnh đến nhu cầu vốn trong giai đoạn._. khởi đầu qúa trình công nghiệp hoá, ở đây việc sử dụng một lượng vốn lớn từ nước ngoài là có thể chấp nhận được).
Mô hình Arthus Lewis tiếp tục kế thừa quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển nhấn mạnh đến sự tăng trưởng tư bản của vốn để tăng lợi nhuận và tích luỹ. Trong mô hình kinh tế nhị nguyên, ông cho rằng vấn đề quan trọng trong lý thuyết phát triển kinh tế là hiểu được quá trình mà nền kinh tế trước đây chỉ tích luỹ và đầu tư từ 4% hay 5% thu nhập quốc gia hay thậm chí ít hơn, chuyển sang nền kinh tế mà mức tích luỹ tự nguyện là khoảng 12%-15% thu nhập quốc dân hay hơn.
Theo Lewis tất cả các quốc gia mà hiện nay đã tương đối phát triển đã từng có thời kì gia tăng mạnh mẽ về vốn trong đó tỉ lệ đầu tư thuần của các nền kinh tế này tăng từ mức 5% đến mức 12% hay hơn. Quá trình đó chúng ta gọi là cách mạng công nghiệp. Quá trình này sẽ tác động nền kinh tế chuyển sang cơ cấu tăng dần tỉ trọng trong công nghiệp, tăng thu nhâp, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Ví dụ, Ấn Độ trong những năm đầu thập kỉ 50, mức đầu tư thuần của các nước này chỉ là 4% hay 5% thu nhập quốc gia, còn thu nhập đầu người ở mức rất thấp, cho đến những năm 60 mức đầu tư ròng đạt được là 12% thì đời sống dân cư của nước này bắt đầu có cải thiện đáng kể.
Nghiên cứu sự phát triển của nhiều nước đang phát triển trong nhiều năm qua cho thấy rằng các quốc gia phát triển hàng đầu trong số các nước đó là những nước có tỉ lệ tích luỹ vốn cao nhất còn những nước kém phát triển là những nước có tỉ lệ đầu tư thấp nhất.
3.3. Mô hình hai khu vực của Oshima.
Với quan điểm hướng tới một nền kinh tế phát triển, Oshima đã đưa ra hướng quan tâm đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn với những mục tiêu và nội dung phát triển khác nhau.
Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Theo ông do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nhất là ở các nước Châu Á gió mùa là mang tính thời vụ nhỏ lẻ, lao động thất nghiệp mang tính thời vụ càng trầm trọng khi sản xuất nông nghiệp mang nặng tính độc canh, phân tán. Biện pháp hợp lí nhất để giải quyết lao động thất nghiệplà đầu tư để đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, xen canh tăng vụ, mở rộng chăn nuôi. Đầu tư cho phân bón, thuốc trừ sâu, cải cách ruộng đất để nông dân phát huy cao độ nỗ lực của mình. Những biện pháp này đòi hỏi hướng đầu tư hợplí, ban đầu vốn đầu tư cho nông nghiệp không quá lớn, phù hợp với các nước đang phát triển. Khi chủng loại nông sản sản xuất ra ngày càng nhiều với quy mô lớn nhu cầu cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp tăng cao và xuất hiện yêu cầu chế biến nông sản với quy mô lớn nhằm tăng cường tính chất hàng hoá trong sản xuất nông nghiệp, tức là đặt ra vấn đề phát triển ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ, khi đó nền kinh tế chuyển sang giai đoạn hai.
Giai đoạn hai: hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng thời cả nông nghiệp và công nghiệp. Xuất phát từ mục tiêu hướng tới giải quyết đầy đủ việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Oshima cho rằng cần đầu tư phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, và cả dịch vụ theo chiều rộng. Khi nông nghiệp đã phát triển thì việc mở rộng thị trường công nghiệp, tạo yêu cầu tăng thêm quy mô sản xuất công nghiệp cũng như nhu cầu về các hoạt động dịch vụ ngày càng lớn. Qúa trình này diễn ra liên tục trong nhiều năm sẽ kéo theo sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỉ trọng trong nông nghiệp và tăng dần tỉ trọng trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Giai đoạn sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu. Quan điểm của ông trong giai đoạn này là phải đầu tư phát triển theo chiều sâu trên toàn bộ các ngành của nền kinh tế. Một mặt trong nông nghiệp hướng tới sử dụng máy móc thiết bị theo hướng áp dụng phương pháp công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng. Mặt khác khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và hướng về xuất khẩu với sự chuyển dịch dần về cơ cấu sản xuất sản phẩm. Sự quá độ từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp được hoàn thành và nền kinh tế chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là sự quá độ từ công nghiệp sang dịch vụ. Giai đoạn ba kết thúc tức là nền kinh tế đã phát triển đến giai đoạn phát triển cao nhất
Rõ ràng rằng theo quan điểm của Oshima trong từng giai đoạn phát triển đều cần đến sự đầu tư và phân bổ vốn đầu tư hợp lí để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững.
4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Những năm đầu của thập kỉ 50 thế kỉ XX, nhà kinh tế học Ragnar Nurkse đã đưa ra học thuyết nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư và vốn đầu tư đến phát triển nền kinh tế. Nurkse cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là một nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói. Ông đã chỉ ra cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói
Về phía cung: một quốc gia có thu nhập thấp sẽ có khả năng tích luỹ thấp, tích luỹ thấp dẫn đến thiếu vốn đầu tư, thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng lực sản xuất bị hạn chế, cung không thể cao, năng lực sản xuất thấp dẫn đến thu nhập sẽ thấp.
Về phía cầu: thu nhập thấp làm cho sức mua thấp, sức mua thấp làm cho động lực gia tăng đầu tư bị hạn chế, đầu tư bị hạn chế dẫn đến năng lực sản xuất thấp và từ đó cũng sẽ lại dẫn đến thu nhập thấp.
Quan điểm này của ông cũng giống với quan điểm của nhà kinh tế học Samuelson, Samuelson cũng đưa ra mô hình về cái vòng luẩn quẩn của sự đòi nghèo
Thu nhập thấp
Năng suất thấp
Tỉ lệ tích luỹ thấp
Trình độ kĩ thuật thấp
Vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo
Thực tế cho thấy các nước nghèo hiện nay trên thế giới hầu hết chịu cảnh nghèo đói một phần do những nguyên nhân trên. Tức là sự nghèo đói tại các quốc gia này một phần là do thiếu vốn đầu tư và sự đầu tư thích đáng, có hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng đầu tư hạn chế tại các nước này là do hoặc vì thiếu động lực thúc đẩy đầu tư hoặc là khả năng tích luỹ của nền kinh tế quá nhỏ.
Điều này cho thấy rằng, để phát triển và thực hiện xoá đói giảm nghèo thành công thì phải làm sao phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn trên. Một trong những biện pháp để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó là xuất phát từ khía cạnh đầu tư. Nền kinh tế phải tạo được sự chuyển biến tăng mức tích luỹ từ mức thấp lên mức trung bình và mức cao để tăng quy mô đầu tư từ đó tăng năng lực sản xuất và cuối cùng là gia tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
5.Đầu tư đúng hướng cho phép khai thác lợi thế tuyệt đối và tương đối, thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển.
5.1. Quan điểm của Adam Smith
Khi nghiên cứu mô hình kinh tế cổ điển chúng ta đã biết rằng các nhà kinh tế cổ điển coi đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi nhu cầu lương thực tăng lên phải sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Các nhà kinh tế cổ điển gọi đó là bức tranh đen tối của tăng trưởng. Trong điều kiện đó Adam Smith cho rằng phải đầu tư khai thác những sản phẩm mà có chi phí sản xuất thấp hơn, rồi đem đi xuất khẩu, và tích luỹ vốn để mua những sản phẩm có chi phí sản xuất cao hơn ở nước mình nhưng thấp hơn ở nước khác. Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí cao sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận, người ta gọi là bù đắp được sự yếu kém về khả năng sản xuất trong nước.
Ngày nay đối với các quốc gia đang phát triển việc khai thác lợi thế tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí có thể chấp nhận được. Việc không đủ vốn đầu tư làm các quốc gia này không thể sản xuất ra máy móc thiết bị đòi hỏi công nghệ cao, nhiều vốn, ngược lại không đủ khả năng sản xuất ra máy móc thiết bị là nguyên nhân dẫn đến đầu tư thấp. Như vậy nếu không đầu tư đúng hướng vào sản xuất sản phẩm mà mình có lợi thế thì không thể thoát ra được cái vòng luẩn quẩn đó.
5.2 Lí thuyết của Ricarđo và Heckscher-Ohlin.
Phát triển lí thuyết lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương Ricardo đã nghiên cứu lợi thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất ra sản phẩm.
Ví dụ, xem xét khả năng trao đổi sản phẩm giữa Việt Nam và Nga đối với hai sản phẩm thép và quần áo:
Chi phí sản xuất
Sản phẩm
Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam Nga
Thép (1đơn vị) 25 15
Quần áo(1đơnvị) 5 4
Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép hay quần áo đều có chi phí cao hơn Nga, lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu chúng ta xét theo chi phí so sánh thì lại có cách nhìn khác:
Chi phí so sánh
Sản phẩm
Chi phí so sánh
Việt Nam Nga
Thép(1đơnvị) 5 4
Quần áo(1đơnvị) 1/5 1/4
Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao hơn Nga: để sản xuất ra một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo của Việt Nam lại thấp hơn của Nga: để sản xuất ra một đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Như vậy Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam, Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga, việc trao đổi này đưa lại lợi ích cho cả hai nước. Nó làm cho khả năng tiêu dùng vượt khỏi đường giới hạn, nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của một nước.
Phát triển lí thuyết của Ricardo hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã cho rằng mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và mức sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm là những nhân tố quan trọng quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh. Quay lại ví dụ ta thấy rằng Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động nên tập trung vào ngành diệt may là ngành cần nhiều lao động, còn Nga tương đối sẵn có về vốn nên sẽ sản xuất và xuất khẩu thép là mặt hàng cần nhiều vốn. Lí thuyết Heckscher Ohlin đã giải thích sự có được lợi ích trong thương mại quốc tế nếu đầu tư vào những mặt hàng mà sử dụng nhiều yếu tố sẵn có trong nước, nó cho phép bất kì nước nào cũng có thể tăng thu nhập của mình thông qua ngoại thương.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1.Tổng quan về kinh tế
Sau hơn 20 năm, với chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có một bước chuyển đổi cơ bản từ một nền kinh tế tập trung thành một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Trong suốt thời kỳ này, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh. Mặc dù Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các nước giầu có, song với sự đầu tư nước ngoài ngày càng tăng và các yếu tố thuận lợi khác trong nước đang giúp cho nền kinh tế Việt Nam từng bước đi lên.
Sau đây là số liệu về tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá so sánh năm 1994 do Tổng cục Thống kê công bố:
Năm
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
GDP
109,2
113,1
120,0
125,6
132,0
193,6
151,8
164,1
178,5
195,6
213,8
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
GDP
231,3
244,7
256,2
273,6
292,5
313,2
336,2
362,4
393,0
425,2
Năm 1986, Đại hội lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam chính thức từ bỏ hình thức kinh tế kế hoạch hoá Mác xít và bắt đầu đi theo các khuynh hướng kinh tế thị trường coi đó là một phần trong kế hoạch cải cách kinh tế tổng thể, được gọi là "Đổi mới". Đổi mới, theo nhiều hình thức, tương tự với mô hình Trung Quốc, và đã mang lại nhiều thành công. Một mặt, Việt nam đạt mức tăng trưởng GDP ở mức khoảng 8% một năm trong giai đoạn 1990 tới 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu Á cuối năm 1997 cho nên tốc độ tăng trưởng của Việt Nam bắt đầu giảm từ năm 1997 đến năm 1999, đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng đạt 6,75%, cao hơn so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 5,5-6,5% và đặc biệt là đã chặn được đà giảm sút kinh tế mấy năm vừa qua, và tốc độ tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn 2000-2006 là 7,5 % /1 năm.
Trong bối cảnh khó khăn nhiều hơn thuận lợi, song dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, sự điều hành sát sao của Chính phủ, các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp và hàng chục triệu hộ sản xuất kinh doanh cá thể trong cả nước đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi để phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh dịch vụ. Nhờ đó kinh tế cả nước trong năm 2007 tiếp tục phát triển toàn diện và hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,48%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Bảng - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm từ 1997-2007 (%)
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
GDP
8,15
5,76
4,77
6,79
6,89
7,08
7,34
7,79
8,44
8,17
8,48
NLTS
4,33
3,53
5,53
4,63
2,89
4,17
3,62
4,36
4,02
3,3
3,0
CNXD
12,62
8,33
7,68
10,07
10,39
9,48
10,48
10,22
10,69
10,37
10,4
DV
7,14
5,08
2,25
5,32
6,10
6,54
6,45
7,26
8,48
8,29
8,5
(Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2006,tr 69)
Nếu không có thiên tai, dịch bệnh lớn như vừa trải qua, tốc độ tăng GDP chắc chắn còn cao hơn 8,5%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp (khu vực nông nghiệp chiếm 20%; công nghiệp và xây dựng chiếm 41,5%, dịch vụ 38,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 đạt 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2006; trong đó, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2% và khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,3%.
Khu vực dịch vụ phát triển khá. Thương mại nội địa phát triển mạnh. Nhiều hình thức kinh doanh góp phần cải thiện cơ cấu thị trường dần theo hướng đa dạng, văn minh kết hợp với hiện đại hóa. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 2007 đạt 4,171 triệu lượt khách, tăng 16,4% so với năm 2006. Lượng khách du lịch nội địa năm 2007 ước đạt 18,5 triệu lượt khách, tăng 8,82% so với năm 2006. Số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài khá lớn, đặc biệt là ở các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và một số địa phương có mức sống của dân cư cao. Các ngành vận tải hàng hóa, mạng lưới và dịch vụ bưu chính, viễn thông, internet trong nước và quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… đều phát triển khá so với năm 2006.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt trên 40 tỉ USD, vượt 3,4% kế hoạch và tăng 21,5% so với năm trước. Đây cũng là một trong những chỉ số ấn tượng nhất về giữ vững nhịp phát triển trong năm qua.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong khi thu ngân sách vượt kế hoạch thì bội chi ngân sách vẫn được khống chế dưới 5% GDP. Bên cạnh đó, do thặng dư lớn trong cán cân thanh toán quốc tế nên tạo được cơ sở để ổn định tỷ giá và giá trị đồng Việt Nam so với ngoại tệ. Không những thế, dự trữ ngoại tệ cũng tăng lên đáp ứng được các nhu cầu bình ổn thị trường ngoại tệ. Các chỉ số nợ của Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia ở mức an toàn cho phép.
Không chỉ có nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng lên mà nguồn vốn huy động từ xã hội cho đầu tư phát triển cũng rất khả quan, khoảng 462,2 nghìn tỷ đồng, bằng 40,5% GDP, tăng 15,9% so với năm 2006; trong đó nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 19,5% so với năm 2006.
2. Một số vấn đề xã hội
Cùng với tăng trưởng kinh tế là sự phát triển xã hội, phát triển con người. Chỉ số phát triển con người (HDI) do UNDP mới công bố cho thấy, HDI của Việt Nam đạt 3 điểm vượt trội.
HDI liên tục tăng qua các năm (1995 đạt 0,560, năm 2000 đạt 0,688, năm 2003 đạt 0,704, năm 2004 đạt 0,709, năm 2005 đạt 0,733, khả năng 2007 vượt 0,750).
Thứ bậc về HDI của Việt Nam tăng khá. Trong 10 nước ở khu vực, nếu năm 1995 còn đứng thứ 7 thì nay đứng thứ 6. Trong 41 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á (có số liệu so sánh), năm 1995 đứng thứ 31, năm 2000 đứng thứ 27 và năm 2005 đứng thứ 23. Trong 177 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nếu năm 1995 đứng thứ 122 thì năm 2000 đứng thứ 109 và năm 2005 đứng thứ 105.
Thứ hạng về HDI đứng thứ 105 nhưng về chỉ số tuổi thọ đứng thứ 56, về chỉ số giáo dục đứng thứ 101, cao hơn thứ bậc về chỉ số GDP bình quân đầu người (đứng thứ 123). HDI của Việt Nam còn cao hơn hàng chục nước và GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam.
Năm 2007 nhìn chung đời sống của dân cư tiếp tục ổn định và từng bước được cải thiện. Đời sống cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hưởng lương đã được cải thiện, qua 1 năm thực hiện Nghị định 94/2006/NĐ-CP và Nghị định 03/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung. Thu nhập bình quân một tháng của một lao động trong khu vực Nhà nước đạt 2064,2 nghìn đồng, trong đó lao động do Trung ương quản lý 2522,6 nghìn đồng và lao động do địa phương quản lý 1764,0 nghìn đồng. Tuy nhiên, mức thu nhập giữa các ngành, các loại hình doanh nghiệp, các địa phương không đồng đều.
Mặc dù chịu tác động của nhiều yếu tố như giá tiêu dùng liên tục tăng, sản xuất nông nghiệp ở một số vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ, nhưng đời sống của đại đa số dân cư ở nông thôn vẫn giữ được mức ổn định, do giá nông sản, thực phẩm tăng đã khuyến khích nông dân sản xuất hàng hóa, tăng thêm thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007 vượt kế hoạch đề ra (16%).
Vị trí quốc tế của Việt Nam gia tăng với việc chính thức trở thành thành viên WTO, được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc,...
II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TÁC ĐỘNG VÀO TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM
1. Dựa vào vai trò của đầu tư tác động lên tổng cầu
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm khoảng 24 đến 25 % trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Sự tăng lên của đầu tư làm cầu các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội… tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế. Năm 2007 là năm chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư phát triển. Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước (đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và tăng 15,8% so với năm 2006, trong đó vốn khu vực Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn và tăng 8,1%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% và tăng 24,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và tăng 17,1%.
Trong vốn nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sánh nhà nước (gồm vốn dự án và chương trình mục tiêu) thực hiện 97 nghìn tỷ đồng, bằng 101,6% kế hoạch năm, trong đó vốn do địa phương quản lý 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 107,2%, vốn trung ương quản lý đạt thấp hơn so với dự toán, chỉ bằng 92,2%; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 40,3 nghìn tỷ đồng, đạt kế hoạch năm và vốn của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức nhà nước khác khoảng 62,7 nghìn tỷ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD.
Sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư cũng có nhiều tác động tích cực trong việc duy trì ổn định và phát triển kinh tế. Năm 2007 Việt Nam giải quyết được việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, tăng dần tỷ trọng trọng lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp. Ở đầu ra, tăng trưởng cao đạt được ở kênh tiêu thụ trong nước và kênh xuất khẩu. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng khá so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn còn tăng 13,5%, cao gấp gần 1,6 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Dung lượng thị trường ở Việt Nam đạt quy mô khá, một phần do dân số đông (đứng thứ 13 thế giới), hàng năm vẫn tăng trên 1 triệu người; một phần do thu nhập bình quân đầu người tăng, nhu cầu tiêu dùng tăng lên cả về số lượng, mẫu mã, chủng loại, một phần quan trọng hơn là do tỷ lệ mua bán thông qua thị trường tăng nhanh.
2. Dựa vào vai trò của đầu tư tác động lên tổng cung.
Khi những kết quả đầu tư phát huy tác dụng thì tổng cung trong dài hạn tăng lên. Sản lượng tăng làm giá giảm dẫn đến tiêu dùng tăng. Từ đó kích thích sản xuất, tăng tích lũy phát triển kinh tế. Ở Việt Nam đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vật chất máy móc, trang thiết bị ngày càng được nâng cao làm cho sản xuất không ngừng mở rộng tạo thu nhập cho người tiêu dùng.
Dưới góc độ mô hình của Ricardo:Ông cho rằng đất đai là yếu tố quan trọng nhất và là giới hạn của tăng trưởng .Khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ làm cho giá lương thực thực phẩm tăng lên tương ứng, lợi nhuận của nhà tư bản do đó mà giảm,dẫn đến sản xuất trì trệ. Từ đó ông đề ra phương pháp giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ từ nước ngoài hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp.
Việt Nam là nước có dân số đông, đất nông nghiệp ngày càng giảm về số lượng lẫn chất lượng. Từ thực tế đó, Việt Nam đã đầu tư sang công nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong những năm và cả giai đoạn trước mắt Đảng ta đã xác định cơ cấu và phương hướng phát triển công nghiệp tập trung vào những nội dung sau :
- Công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Một số ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp may mặc, da dày, điện tử, tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng có ưu thế. Hiện nay tỷ trọng của ngành này chiềm khoảng 80% trong giá trị gia tăng công nghiệp và 76% trong giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp, 53% trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước .
- Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng …
- Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao nhất là công nghệ thông tin, viễn thông điện tử, tự động hóa. Công nghiệp điện tử tin học trở thành nghành mũi nhọn, công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển vượt trội . Phát triển những ngành này vừa để đáp ứng nhu cầu hiện đại của nền kinh tế, vừa để tăng nhanh giá trị xuất khẩu mà nguồn nhân lực nước ta có khả năng vươn lên.
- Phát triển cơ sở quốc phòng cần thiết. Kết hợp công nghiệp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng.
- Quy hoạch phân bổ có hiệu qủa các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng các khu công nghệ cao thành cụm khu công nghệ lớn, khu kinh tế mở đồng thời phát triển rộng các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ, nhất là công nghiệp ở nông thôn.
Dưới phương hướng phát triển công nghiệp như trên sản xuất công nghiệp năm 2007 tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, nhất là khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 theo giá so sánh 1994 tăng 17,1% so với năm 2006, bao gồm khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 10,3% (Trung ương quản lý tăng 13,3%, địa phương quản lý tăng 3%); khu vực ngoài Nhà nước, tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Nguyên nhân khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng thấp là do chúng ta đang tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp và cổ phần hoá nên số doanh nghiệp khu vực này giảm. Khu vực ngoài Nhà nước vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ba khu vực, chủ yếu do Luật doanh nghiệp mới đã tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Công nghiệp chế biến chiếm 87,6% giá trị sản xuất toàn ngành, tăng 19,1%; sản xuất, phân phối điện, ga và nước chiếm tỷ trọng 5,6%, tăng 12,8%; công nghiệp khai thác mỏ chiếm 6,8%, giảm 1,1% so với năm trước, chủ yếu do khai thác dầu thô giảm.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm 2007 tăng cao so với năm 2006 là: Máy công cụ tăng 69,8%; ô tô tăng 52,8%; điều hòa nhiệt độ tăng 51,9%; động cơ điện tăng 24,3%; xe máy các loại tăng 23,9%; máy giặt tăng 21,3%; bia tăng 19,2%; quạt điện tăng 18,6%. Bên cạnh đó, có một số sản phẩm tăng không cao, thậm chí còn bị giảm như: Thủy sản chế biến tăng 12,6%; xi măng tăng 11,8%; than sạch tăng 11,5%; thép cán tăng 10,8%; dầu thô giảm 7,8%; khí hoá lỏng giảm 10,2%.
Những địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp trên địa bàn lớn, năm nay vẫn đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất cao hơn mức tăng chung 17,1% của toàn ngành như: Vĩnh Phúc tăng 41,4%; Bình Dương tăng 25,3%; Hà Tây tăng 25,1%; Cần Thơ tăng 23,4%; Đồng Nai tăng 22,4%; Hà Nội tăng 21,4%; Đà Nẵng tăng 19,7%; Hải Phòng tăng 18,2%. Riêng thành phố Hồ Chí Minh chỉ tăng 13,8% và Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 1,2%.
Lĩnh vực nông nghiệp được hỗ trợ đầu tư để thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Để công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, Nhà nước đã điều chỉnh quy hoạch và nâng cấp hệ thống thủy lợi, chú trọng điện khí hóa, cơ giới hóa nông thôn, áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp .Vì thế, giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2007 theo giá so sánh 1994 đạt gần 200 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông nghiệp tăng 2,9%; lâm nghiệp tăng 1% và thuỷ sản tăng 11%. Do ảnh hưởng của mưa bão, lũ ở nhiều địa phương và dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; chi phí đầu vào tăng, nhất là chi phí cho chăn nuôi nên giá trị tăng thêm của khu vực này chỉ tăng 3,41% so với năm trước, gồm có nông nghiệp tăng 2,34%; lâm nghiệp tăng 1,1% và thủy sản tăng 10,38%. Tình hình sản xuất của các ngành cụ thể như sau:
Sản lượng lúa tính chung ba vụ đạt 35,87 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm 2006, trong đó sản lượng lúa đông xuân 17,03 triệu tấn, giảm 3,2% (diện tích giảm 0,2%, năng suất giảm 3%); lúa hè thu 10,11 triệu tấn, tăng 4,3% (năng suất tăng 9,6% bù lại diện tích giảm; lúa mùa 8,73 triệu tấn, tăng 1,9% (năng suất tăng 2,1%, diện tích giảm nhẹ). Năm 2007 cũng là năm được mùa ngô với sản lượng 4,11 triệu tấn, tăng tới 8,2% so với năm trước. Tính chung cả lúa và ngô thì sản lượng lương thực có hạt năm nay đạt gần 40 triệu tấn, tăng 0,8% so với năm 2006.
Sản lượng nhiều loại cây công nghiệp hàng năm như đay, mía, lạc đậu tương đều tăng so với năm trước, do tăng cả diện tích và năng suất. Sản lượng hầu hết cây có giá trị xuất khẩu cao như cao su, hồ tiêu, điều chè tăng từ 8,3 đến 14,4% do mở rộng diện tích và tăng năng suất. Riêng cây cà phê, tuy diện tích tăng 1,9% nhưng do sâu bệnh nên năng suất thấp, kéo theo sản lượng giảm 2,4%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, tốc độ chăn nuôi năm nay tăng không cao, chưa ổn định và thiếu đồng đều giữa các địa phương, đặc biệt bệnh dịch tai xanh đã làm chết nhiều gia súc. Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/8/2007, cả nước có gần 3 triệu con trâu, tăng 2,6% so với năm 2006; 6,7 triệu con bò, tăng 3,3%; 226 triệu gia cầm, tăng 5,3%. Tuy dịch lợn tai xanh đã được khống chế và dập tắt, nhưng đàn lợn, chỉ có gần 26,6 triệu con, giảm 1,1% so với năm trước.
Dưới góc độ mô hình tân cổ điển :
Trường phái tân cổ điển cho rằng khoa học -kĩ thuật đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế. Dưới góc độ này Việt Nam đã bắt đầu chú trọng đầu tư vào khoa học công nghệ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 khẳng định: “phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước’’. Bình quân giai đoạn 1996-2000 đầu tư cho KHCN chỉ chiếm trên dưới 0,4%/GDP, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách chiếm gần 70%. Những năm sau đó tuy mức đầu tư có tăng lên về số tuyệt đối nhưng tính theo số tương đối thì tỷ lệ đầu tư cho KHCN so với tổng chi NSNN hầu như không tăng, đến năm 2001 tỷ lệ này được nâng lên và đến năm 2003 đạt 2% tổng chi NSNN, xấp xỉ khoảng 5% GDP. Còn đến năm 2006 thì đầu tư cho khoa học và công nghệ là 428 triệu đô la Mỹ, chiếm khoảng 0,17% GDP. Hàng năm nguồn vốn của nhà nước cho khoa học công nghệ khoảng 2% ngân sách và tiếp tục tăng đầu tư, huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ . Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện các chính sách bảo hộ trí tuệ. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc. Chính vì thế đã thu được một số thành tự đáng kể, trong công nghiệp và xây dựng đã cải tiến một số dây chuyền sản xuất, xây dựng… Trong nông nghiệp ứng dụng một số thành tựu của công nghệ sinh học, đưa một số giống mới vào sản xuất đại trà cho năng suất cao, phẩm chất tốt.
3.Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển
Mở cửa đất nước để đón nhận những luồng gió mới nhằm chấn hưng nền kinh tế là chủ trương xuyên suốt trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Một năm ngay sau khi tiến hành công cuộc Đổi mới, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài (FDI), tạo lập môi trường pháp lý để huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Sau đó 7 năm, vào năm 1993, khi điều kiện đã chín muồi, Việt Nam đã nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế và tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn FDI đã tạo thành các kênh vốn đầu tư từ bên ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Kênh đầu tư trực tiếp (FDI)._.hững vụ việc thất thoát mà thanh tra, điều tra phát hiện được là dựa vào đơn thư tố giác của dân. Thực tế tình hình thất thoát tiền đầu tư hiện nay là phổ biến, nhưng số vụ việc mà lực lượng thanh tra, điều tra đưa ra ánh sáng được còn rất ít, rất ít vì có ít đơn thư tố cáo, rất ít vì dân còn chưa giám nói, dân chưa giám nói vì tư tưởng “muốn yên thân”, vì “ngại va chạm”, vì sợ “đấu tranh – tránh đâu”, vì dân chưa tin vào quyết tâm chống thất thoát của lãnh đạo. Tài sản công là tài sản của dân, nghĩa là dân là “người chủ” nhưng tinh thần làm chủ của “người chủ” chưa được phát huy. Quyền làm chủ chưa được phát huy vì thiếu cơ chế thực hiện quyền làm chủ cụ thể trong xây dựng cơ bản, hoặc có mà chưa được coi trọng, hoặc vì “người chủ” thiếu thông tin. Do vậy những việc cần làm ngay là: phát huy tinh thần làm chủ của “người chủ ” trong phòng và chống thất thoát tiền đầu tư của “người chủ ”. Các biện pháp cụ thể như sau:
- Xây dựng hoàn chỉnh cơ chế để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong quản lý dự án, có chế tài để đảm bảo cơ chế này được tôn trọng.
- Có cơ chế đảm bảo sự công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, trong xây dựng, mua sắm, trong thanh, quyết toán để “ngừơi chủ” có thể giám sát quá trình đầu tư tốt hơn.
- Phải có chính sách, biện pháp cụ thể bảo vệ có hiệu quả những cá nhân đứng ra tố giác những hành vi cố tình làm trái các quy định quản lý, pháp luật, tố giác những cán bộ tham ô, nhận và đưa hối lộ. Đồng thời kiên quyết xử lý theo đúng pháp luật mọi cá nhân cố tình vu khống, tố cáo sai sự thật để phục vụ mục đích xấu của họ.
Các giải pháp liên quan đến việc phát huy vai trò của thông tin đại chúng
Dư luận xã hội, ý kiến của các chuyên gia, của những người trong cuộc, của các đại biểu Quốc hội đánh giá tình trạng thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là “kinh khủng”, là “rất phổ biến đối với đầu tư xây dựng của nhà nước ” …thế nhưng số những dự án được phát hiện có lãng phí, thất thoát; được xử lý và đưa ra công luận còn rất ít có thể đếm trên đầu ngón tay – vậy tại sao? Có ý kiến cho rằng đưa ra báo chí nhiều quá làm bôi đen xã hội ta, làm mất uy tín của cán bộ …Tôi cho rằng ngược lại. Tìm, kiên quyết xử lý nghiêm minh và đưa ra công luận nhiều hơn nữa những dự án đầu tư có thất thoát và lãng phí để thu hồi tiền bị thất thoát; để răn đe từ đó ngăn chặn sự phát triển của tình trạng lãng phí, thất thoát hiện nay; để chứng minh bằng hành động quyết tâm chống thất thoát, lãng phí của Chính phủ.
Vừa qua, thông tin đại chúng mới phản ánh một số ít dự án thất thoát, lãng phí thôi nhưng đã có tác dụng rất lớn, hiệu quả cao, điều đó chứng tỏ vai trò to lớn của thông tin đại chúng. Vì vậy để chống thất thoát, lãng phí quyết liệt hơn, báo chí không chỉ đưa tin kết quả thanh tra, điều tra mà cần phải tham gia điều tra phát hiện.
2.Điều chỉnh cơ cấu đầu tư Nhà nước
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hiệu quả đầu tư của Nhà nước phụ thuộc vào mức độ hợp lý của việc điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành kinh tế và việc ưu tiên vốn Nhà nước cho các mục tiêu nhất định
Đối với vốn đầu tư của Ngân sách:
Trong thời gian tới cần tập tăng đầu tư cho khu vực nông nghiệp và hạ tầng cơ sở xã hội đặc biệt là cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ. Việc điều chỉnh này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới nhằm phát huy nội lực tiềm năng sẵn có trong nước để sẵn sàng cho việc hội nhập kinh tế khu vực cũng như kinh tế thế giới
- Đối với các khu công nghiệp xây dựng dịch vụ vốn ngân sách đầu tư cho các dự án có tác động tầm quốc gia như: cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, công trình truyền tải điện về nông thôn, hệ thống giao thông quốc gia về liên tỉnh, liên huyện, công trình thông tin liên lạc phục vụ cho các vùng nông thôn, hệ thống cầu cống quan trong phục vụ phát triển nông nghiệp. Thời hạn ưu tiên vốn ngân sách cho hạng mục này là 5 năm tới và sau đó sẽ chuyển dần sang hình thức hỗ trợ qua ưu đãi tín dụng hoặc thu hút vốn đầu tư của tư nhân
- Nhà nước tập trung ngân sách Nhà nứơc đầu tư nông lâm ngư nghiệp:
+ Hệ thống đê điều quan trọng, hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp chăn nuôi thuỷ sản như hồ chứa nước, kênh dẫn thoát nước trạm bơm, tưới tiêu.
+ Thời hạn ưu tiên vốn ngân sách cho hạn mục này là 10 năm, sau đó nhà nước sẽ đảm nhận một vài công trình quan trọng như đê điều quan trọng và hệ thống thuỷ lợi tại một số vùng khó khăn, đồng thời huy động các hình thức đầu tư tư nhân theo hình thức thu phí dịch vụ.
- Tập trung ngân sách đầu tư phát triển theo hướng sau:
+ Trong những năm tới: đồng thời ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế. Do ngân sách Nhà nước có hạn nên chỉ tăng dần ngân sách cho lĩnh vực này. Đối với dịch vụ xã hội phi cơ bản cần huy động các loại vốn khác ngoài ngân sách.
+ Về dài hạn: Nhà nước nên tăng ngân sách đầu tư hai lĩnh vực này một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng nền kinh tế bền vững.
+ Đầu tư phát triển công nghệ giống phân bón, công nghệ sinh học… phục vụ sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản có giá trị trong nước và xuất khẩu. Nghiên cứu này mang tính ứng dụng cho điều kiện khí hậu, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam và sau đó chuyển giao cho nông dân
+ Công nghệ thông tin chủ yếu tập trung vào nghiên cứu phần mềm.
+ Hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
+ Điều chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc, đồng thời giảm đầu tư xây lắp. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và theo xu hướng chung của cả nước. Đầu tư vào thiết bị máy móc cần thoả mãn tiêu chuẩn về tính đồng bộ, chất lượng, hiện đại, bảo vệ môi trường và các điều kiện tiêu chuẩn chất lượng hiện hành.
Bên cạnh đó Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai. Nhà nước hỗ trợ cung cấp thông tin và chi phí này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Đồng thời gắn đầu tư với việc chuyển giao công nghệ thông qua thu hút vốn ODA, FDI với các nguồn vốn đầu tư gián tiếp khác của nước ngoài.
Đối với vốn tín dụng ưu đãi: Nên tập trung cho các dự án kinh tế thuộc lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, dịch vụ tạo việc làm, có khả năng thu hồi vốn, có tác động đến tăng trưởng kinh tế- xã hội của địa phương / ngành / lãnh thổ . Kiên quyết không áp dụng hình thức cho vay này với các dự án không thoả mãn các điều kiện trên. Điều này làm tránh khả năng các doanh nghiệp không trả được nợ hoặc đầu tư không có mục đích rõ ràng, dự án không phát huy được hiệu qủa mà vẫn được vay vốn dẫn đến tình trạng Nhà nước phải xoá nợ, tương đương với hình thức bao cấp vốn.
Đối với vốn tự đầu tư của DNNN, doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng. Do nguồn vốn này không lớn nên Nhà nước không nhất thiết phải qui định cứng nhắc mục đích sử dụng mà có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn này để mở rộng qui mô, đổi mới trang thiết bị.
3.Thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư.
Để ngăn chặn hiện tượng phân bổ vốn đầu tư XDCB dàn trải, tình trạng đầu tư chắp vá, cần thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý theo các hướng sau:
Đẩy mạnh phân cấp cần đi đôi với trách nhiệm:
- Nâng cao trách nhiệm thẩm định dự án đầu tư. Cần qui định cụ thể trách nhiệm vật chất và trách nhiệm trước pháp luật đối với người tham gia xây dựng dự án, thẩm định, ra quyết định đầu tư cuối cùng đối với dự án đầu tư sử dựng vốn Nhà nước mà sau khi hoàn thành các công trình này không phát huy tác dụng cho phát triển kinh tế địa phương, ngành, lãnh thổ không gắn với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Mục đích của qui định này là buộc các ngành, các cấp, các cơ quan và người có thẩm quyền đầu tư có trách nhiệm phải xem xét kỹ tính khả thi, hiệu quả của dự án trước khi ra quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Qua đó hạn chế chi phí không đáng có như đập đi làm lại, sửa chữa...gây thất thoát vốn và nhằm tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư đối với hiệu qủa sử dụng vốn, hiệu quả kinh tế- xã hội của công trình đầu tư bằng vốn Nhà nước.
Hằng năm chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc chắn khả năng nguồn vốn.
Chỉ đưa vào kế hoạch các dự án đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục đầu tư theo qui định. kế hoạch vốn phải bố trí theo dự án được duyệt và đảm bảo đủ vốn để thực hiện theo tiến độ đã được phê duyệt. Nếu không thực hiện đúng tiến độ, cần qui định rõ chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về vật chất và trách nhiệm trước pháp luật nếu như không có lý do chính đáng do thiên tai hoặc lý do bất khả kháng khác.
4.Nâng cao chất lượng của công tác qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội gắn với qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội nói chung, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và 5 năm.
Để các dự án đầu tư có hiệu quả, công tác qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội nói chung và quy hoạch xây dựng hạ tầng nói riêng là khâu trọng yếu nhất. Thực tế chứng minh rằng, việc qui hoạch tổng thể của quốc gia, của ngành, của địa phương thiếu chính xác, thiếu thống nhất, không khớp nhau sẽ dẫn đến sai lệch trong xây dựng các dự án.
Do tầm quan trọng của các công trình cơ sở hạ tầng đối với phát triển nền kinh tế- xã hội, quy hoạch tổng thể cần được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, gắn với chiến lược kinh tế đã đề ra trong thời kỳ trung và dài hạnu, nhưng cần có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển của mỗi thời kỳ. Vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho công tác khảo sát, xây dựng qui hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị…), nâng cao chất lượng của công tác này. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương sẽ xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sơ hạ tầng cho phù hợp với điạ phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi thực tế cho thấy đã có sự chạy đua trong xây dựng một số công trình dẫn đến thừa năng lực ( ví dụ : cảng biển..), không khai thác hết công suất, lãng phí vốn ngân sách Nhà nước trong khi nhiều công trình cần thiết khác lại thiếu vốn đầu tư.
5.Đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực đầu tư.
Để chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH, từ nay đến năm 2010 cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây:
Một là, quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện tốt chiến lược Dân số & Phát triển, duy trì vững chắc mức giảm tỷ lệ sinh 0,07% trong các năm 2006 – 2007 và 0,06% đến năm 2010. Đồng thời, giải quyết từng bước và có trọng điểm một số yếu tố về chất lượng dân số, nâng cao thể lực, trí lực của con người, thực hiện bình đẳng giới, nâng cao phúc lợi xã hội, xây dựng gia đình văn hoá, phát triển bền vững… làm cho nhân tố con người thật sự trở thành thế mạnh của đất nước trong công cuộc đổi mới. Để đạt được các mục tiêu trên, cần kiện toàn, củng cố và ổn định hệ thống cán bộ làm công tác dân số ở các cấp và đặc biệt ở cấp cơ sở. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác dân số. Phát huy cao nhất sự hợp tác tích cực giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức tham gia công tác dân số để từng bước quản lý có hiệu quả các biến động dân số, nguồn lao động. Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình. Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức về sức khoẻ thông qua các tổ chức Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.
Để nâng cao thể lực cho người lao động, cần thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, có biện pháp phòng ngừa dịch bệnh, các bệnh xã hội nhất là HIV/AIDS. Bảo đảm tốt về an toàn vệ sinh thực phẩm, môi trường với vệ sinh an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động.
Hai là, đổi mới phương thức đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Đây là một trong những giải pháp đột phá, tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ hội việc làm trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa đào tạo, phát triển nguồn nhân lực với thị trường, thực chất là phải chuyển căn bản từ phương thức đào tạo theo hướng cung lao động, hướng vào việc cung cấp lao động có chất lượng chuyên môn kỹ thuật, tay nghề, sức khoẻ, kỷ luật, tác phong công nghiệp, bản lĩnh văn hoá… đồng thời có khả năng thích ứng với môi trường, sự thay đổi nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ mới.Để nâng cao trình độ học vấn và kỹ thuật chuyên môn cho người lao động, cần coi trọng việc giáo dục cơ bản, giáo dục đào tạo chất lượng cao, chọn lọc, bồi dưỡng nhân tài nhằm tạo nguồn và xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, kinh doanh, quản lý có trình độ cao, đặc biệt đối với lao động trẻ.
Đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động. Nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo lên 40% so với tổng số lao động. Trong đó khoảng 70% người lao động được đào tạo ở trình độ trung cấp, công nhân kỹ thuật đáp ứng cho lao động phổ thông ở các khu kinh tế phát triển tập trung. Tăng cường dạy nghề phổ thông cho thanh niên nông thôn để thúc đẩy nhanh chuyển dịch kinh tế nông nghiệp. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo (trường, lớp, trung tâm thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và các tổ chức xã hội, đoàn thể, tư nhân); tổ chức học lý thuyết và thực hành theo nhóm, lớp, kèm cặp theo đơn vị sản xuất, tại nhà… lấy thực hành là chính, vừa học vừa làm; đẩy mạnh chuyển giao KHKT - công nghệ mới. Củng cố và tăng mức đầu tư cho cơ sở dạy nghề, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, làng nghề ở nông thôn. Lồng ghép chương trình phổ cập nghề cho người lao động với chương trình quốc gia giải quyết việc làm gắn liền với chương trình phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, từng địa phương, khu kinh tế, khu dân cư.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực gắn liền với tạo việc làm cho người lao động. Tạo việc làm tại chỗ bằng các biện pháp phát triển sản xuất, sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao, xuất khẩu. Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, thâm canh tăng vụ, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chế biến, dịch vụ. Khuyến khích các nhà đầu tư về nông thôn, miền núi. Chuyển một phần đáng kể lao động nông thôn ra khỏi nông nghiệp bằng các biện pháp đào tạo nghề cho lực lượng thanh niên có sức khoẻ, văn hoá để cung cấp cho thành thị và các khu công nghiệp, vùng động lực kinh tế và xuất khẩu lao động. Đối với vùng ven đô thị nơi có sự biến động lớn về đất đai, cần phải có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho phù hợp với thị trường đang cần. Trong chi phí đền bù có chi phí về học nghề và quy chế khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo, tuyển dụng tại chỗ. Xây dựng hệ thống dịch vụ việc làm từ tỉnh đến huyện thị. Cung cấp thông tin về thị trường lao động, thực hiện giới thiệu, cung ứng lao động, các dịch vụ khác về lao động, việc làm. Hình thành mối liên kết người sử dụng lao động với các cơ sở dạy nghề, các đơn vị sản xuất, tạo điều kiện, cơ hội cho người lao động có việc làm, thu nhập. Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước với chiến lược tăng cường đầu tư mở thị trường xuất khẩu lao động sang các nước, trong đó ngành giáo dục đào tạo phải đảm trách về đào tạo và chất lượng của ngoại ngữ, pháp luật và tay nghề. Phát triển mạnh hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương, tiểu chủ ở nông thôn phát triển bằng cơ chế chính sách tài chính; hỗ trợ pháp lý cho người lao động, cho nông dân, người nghèo nhằm triệt để giải phóng sức lao động, thúc đẩy dân chủ, công bằng xã hội phát triển phù hợp với tăng trưởng kinh tế của đất nước. Sứ mệnh lịch sử của ngành Giáo dục & Đào tạo rất nặng nề, song vinh quang và ắp đầy tính nhân văn cao cả. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng đã rõ hướng đi, hướng mở. Hệ thống pháp luật tuy chưa đồng bộ, nguồn lực vật chất còn nhiều khó khăn đã trở thành rào cản, thách thức đối với ngành. Song, với truyền thống văn hoá, lịch sử của đất nước và quyết tâm đổi mới, tự vận động, tự khẳng định mình chắc chắn sẽ đưa sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực lên tầm cao mới, đáp ứng tốt hơn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
6. Triển khai mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật - công nghệ
Phải coi trọng khoa học - công nghệ là một trong các giải pháp hàng đầu, trước hết tập trung vào các khâu trọng yếu, các chương trình phát triển và ứng dụng trong nhóm: công nghệ phục vụ chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực thực phẩm; công nghệ sinh học, nhóm điện tử tin học, năng lượng chương trình đưa tiến bộ khoa học và công nghệ hỗ trợ phát triển nông thôn.
Đa dạng hoá các nguồn vốn nhằm tăng lượng đầu tư tài chính cho công tác nghiên cứu triển khai và đổi mới công nghệ. Phấn đấu đến năm 2010 vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ từ các nguồn (ngân sách Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp, vốn của các tổ chức tài chính, tài trợ của các tổ chức quốc tế và nước ngoài) đạt khoảng 2,5% GDP. Trong vốn đầu tư cơ bản bắt buộc phải dành một tỷ lệ thích đáng tuỳ theo từng ngành cho đổi mới công nghệ, đảm bảo tốc độ đổi mới công nghệ cao hơn tốc độ tăng đầu tư cơ bản.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ của tỉnh. Dành một tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc tăng cường các cơ quan làm dịch vụ công nghệ (đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm lại công nghệ...).
Xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin khoa học và công nghệ nối mạng với hệ thống của cả nước; phục vụ đắc lực cho lựa chọn công nghệ.
Có chính sách đồng bộ về thuế để khuyến khích thúc đẩy khoa học và công nghệ. Miễn thuế đối với phần vốn dành cho công tác nghiên cứu và đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp. Miễn, giảm thuế có thời hạn cho các dự án sản xuất thử.
Có chính sách và biện pháp phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ. Thực hiện đồng bộ các biện pháp để trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học ở các cơ sở nghiên cứu, triển khai. Có chế độ đặc biệt ưu đãi các nhân tài và đào tạo các cán bộ đầu đàn. Có chính sách đặc biệt thu hút lực lượng chuyên gia Việt kiều làm công tác chuyển giao trí thức và chuyển giao công nghệ cho vùng.
Liên kết với các Viện khoa học ở thành phố lớn trong cả nước và các Viện nghiên cứu ở nước ngoài để tăng cường nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ về công nghệ và kĩ thuật đối với các ngành chủ động tạo nhanh khối lượng sản phẩm lớn xuất khẩu.
7.Các ngân hàng thương mại cần tăng tỉ trọng huy động vốn trung và dài hạn
Phát triển và đa dạng hoá các công cụ huy động vốn trung, dài hạn
Các công cụ ấy là: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi trên 1 năm và trái phiếu. Đây có thể coi là giải pháp quan trọng để huy động vốn trung và dài hạn. Một số Ngân hàng thương mại quốc doanh như ngân hàng Công thương. ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã tổ chức nhiều đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu ngân hàng) để huy động vốn trung hạn (từ 1 đến 5 năm), phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại để huy động vốn dài hạn. Hiện nay, chỉ có các ngân hàng thương mại quốc doanh là đã thực hiện phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu cả nội tệ và ngoại tệ, tuy chưa thường xuyên đều đặn. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại cổ phần chưa thực hiện các hình thức huy động vốn này. Để khuyến khích các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu, ngân hàng Nhà nước cần tạo quyền chủ động cho các ngân hàng thương mại, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng trong lĩnh vực phát hành các công cụ huy động vốn trung và dài hạn.
Phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Hiện nay chỉ có trái phiếu của ngân hàng đầu tư và phát triển được phát hành và giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung, còn các ngân hàng khác chủ yếu là bán lẻ trực tiếp cho công chúng. Do đó, Ủy ban chứng khoán Nhà nước và ngân hàng Nhà nước cần phối hợp để có các biện pháp khuyến khích các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung; đồng thời, có các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu hiện đang đóng băng.
Đổi mới điều hành chính sách lãi suất khuyến khích huy động vốn trung và dài hạn
Hiện nay về cơ bản, lãi suất đã được tự do hoá, tuy nhiên, khả năng can thiệp để điều chỉnh lãi suất bằng các công cụ gián tiếp, thông qua nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước là rất hạn chế. Do đó, khi lãi suất huy động bị đẩy lên quá cao, ngân hàng Nhà nước tỏ ra lúng túng trong việc điều tiết, gây khó khăn trong công tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước cần có các giải pháp hoàn thiện các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để có đủ năng lực điều tiết cung cầu về vốn, điều chỉnh lãi suất tạo thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại.
Áp dụng hình thức cho vay đồng tài trợ của các ngân hàng thương mại
Các dự án đầu tư trung và dài hạn thường là các dự án có quy mô lớn, nhu cầu về vốn cao, vì vậy, các ngân hàng thương mại Việt Nam thường gặp khó khăn trong việc cho vay tiềm lực tài chính hạn chế. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vốn điểu lệ lớn nhất cũng chỉ vào khoảng 3700 tỷ VND, tương đương 250 triệu USD, vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất cũng chỉ khoảng 300 tỷ VND, tương đương 20 triệu USD. Chính vì vậy các ngân hàng thương mại Việt Nam thường phải sử dụng phương thức cho vay đồng tài trợ đối với các dự án có quy mô lớn. Giải pháp quan trọng để đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn là tăng tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trong thời gian tới, do việc tăng vốn tự có của các ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn và cần phải có thời gian, để đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại có thể sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ. Hình thức cho vay này sẽ phần nào giải quyết khó khăn do hạn chế về tiềm lực tài chính, đồng thời chia sẻ rủi ro giữa các ngân hàng tham gia đồng tài trợ.
Đối với các dự án cho vay trung và dài hạn, cán bộ tín dụng phải có khả năng phân tích, thẩm định và đánh giá hiệu quả dự án. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ, khả năng này của cán bộ tín dụng thuộc các ngân hàng thương mại Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy, nâng cao khả năng phân tích, thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng thông qua việc đào tạo, đào tạo lại, tuyển chọn... là một giải pháp quan trọng.
Bên cạnh việc triển khai tín dụng trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại cần từng bước đa dạng hoá và phát triển hoạt động đầu tư trung và dài hạn, như góp vốn liên doanh, mua cổ phần của các doanh nghiệp. Hoạt động này sẽ giúp ngân hàng thương mại đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, phân tán rủi ro và mở rộng khách hàng.
Phát triển thị trường chứng khoán
Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, lựa chọn một số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả để tiến hành cổ phần hoá và gắn chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước với việc đưa các doanh nghiệp này niêm yết trên thị trường. Bên cạnh đó, đẩy nhanh việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo nguồn cung hàng hoá có chất lượng cao cho thị trường.
Phát triển thị trường trái phiếu thông qua khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu công ty để vay vốn dài hạn, các ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu ngân hàng huy động vốn trung, dài hạn. Đặc biệt, cần đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu công trình đô thị để huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. Đây là hình thức huy động vốn phù hợp với cơ chế thị trường, đã thực hiện thành công ở một số địa phương. Phát hành trái phiếu công trình đô thị, một mặt, huy động vốn bù đắp phần thiếu hụt trong tổng chi các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng; mặt khác, tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Đối với trái phiếu công ty hay trái phiếu đầu tư, hai yếu tố cơ bản nhất quyết định sự hấp dẫn đối với công chúng đầu tư là tính khả thi của dự án và lãi suất. Do đó, để thúc đẩy thị trường trái phiếu, cần thành lập tổ chức định mức tín nhiệm nhằm thông tin về rủi ro của các công cụ nợ và định hướng cho người đầu tư.
Phát triển các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán
Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển và hoạt động không ổn định một phần là do thiếu các tổ chức tài chính trung gian, thiếu các nhà đầu tư có tổ chức hoạt động trên thị trường. Để thị trường chứng khoán phát triển và hoạt động sôi động, bên cạnh việc áp dụng nhiều biện pháp thu hút các nhàg đầu tư cá nhân tham gia thị trường, cần phát triển các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, đồng thời, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Khuyến khích hình thành và phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán đặc biệt là các quỹ đầu tư phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng để thu hút vốn đầu tư dài hạn của các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán, đồng thời, khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán, qua đó, thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội.
Hệ thống các công ty chứng khoán đã được hình thành, tuy nhiên quy mô hoạt động nhỏ bé và hoạt động nghiệp vụ còn sơ khai, kém đa dạng. Do đó, cần nâng quy mô vốn, mở rộng hoạt động nghiệp vụ và đào tạo, củng cố đội ngũ nhân viên hành nghề của các công ty chứng khoán. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở thêm các chi nhánh và đại diện nhận lệnh ở các khu đông dân cư để thu hút thêm các nhà đầu tư cá nhân. Đồng thời, phát triển số lượng công ty chứng khoán nhằm tạo sự cạnh tranh, cho phép các công ty chứng khoán chuyển nhượng vốn cho đối tác nước ngoài, cho phép lập công ty liên doanh với nước ngoài, cho phép sáp nhập các công ty chứng khoán và thực hiện việc niêm yết cổ phiếu công ty chứng khoán.
Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán
Cần khuyến khích các tổ chức trung gian tài chính nước ngoài và liên doanh với nước ngoài như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán. Đặc biệt, có cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá...
Tăng cường chứng khoán là lĩnh vực còn khá mới mẻ đối với đại đa số công chúng, các nhà kinh doanh và các nhà quản lý. Vì vậy, cần tăng cường đào tạo, thông tin, tuyên truyền rộng rãi về thị trường chứng khoán. Nội dung của chương trình đào tạo cơ bản và chuyên sâu phải đáp ứng yêu cầu chất lượng ngày càng nâng lên phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển thị trường. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các đối tượng khác nhau.
Trên đây chỉ là một số giải pháp còn mang tính sơ bộ, chưa có điều kiện đi sâu vào phân tích, nhưng phần nào cũng giải quyết được một số hạn chế trong quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế của nước ta được đánh giá là cao so với các nước trên thế giới. Đóng góp vào sự tăng trưởng này bao gồm nhiều yếu tố trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của vốn đầu tư. Vốn đầu tư là một bộ phận không thể thiếu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đạt được các mục tiêu đề ra.
Theo những nhận định ở trên, ta có thể thấy hoạt động về thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn qua đã có nhiều tiến bộ. Nguồn vốn trong nước đã có nhiều cải thiện và được phân bổ hợp lý hơn đồng thời cũng thu hút nhiều hơn nguồn vốn nước ngoài đóng góp vào tăng trưởng, phát triển kinh tế. Một phần là do nhà nước ta đã đưa ra những chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư đồng thời cũng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nhằm mục tiêu thu hút nhiều hơn vốn trong và ngoài nước. Tuy nhiên, những hạn chế trong cơ chế, chính sách của nhà nước, tệ nạn quan liêu tham nhũng... đã và đang làm thất thoát rất nhiều nguồn lực của đất nước. Những mặt tiêu cực này đã hạn chế khả năng huy động thêm nguồn vốn và cũng làm cho việc sử dụng nguồn vốn hiện có chưa thực sự có hiệu quả, chưa tạo ra sự thay đổi đáng kể về tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là tăng trưởng bền vững.
Đất nước ta đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, với việc trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, cần phải có những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế trong hoạt động vốn. Công việc này không phải chỉ là của Đảng, Chính phủ mà còn là của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân cùng chung sức để đạt mục tiêu phát triển đề ra.
Nhóm thực hiện đề tài chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo PGS.TS Từ Quang Phương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế đầu tư. NXB Đại học KTQD
2. Giáo trình kinh tế phát triển. NXB Lao động xã hội
3. Lịch sử các học thuyết kinh tế - Robert B.ekelund,
Robert F. Hébert -NXB Thống kê
4. Những vấn đề chủ yếu về kinh tế phát triển.
NXB Chính trị Quốc gia
5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 345 - Tháng 02/2007
Số 346 - Tháng 03/2007
Số 347 - Tháng 04/2007
Số 348 - Tháng 05/2007
Số 356 - Tháng 01/2008
6. Tạp chí kinh tế và dự báo Số 406 - Tháng 02/2007
Số 408 - Tháng 04/2007
Số 409 - Tháng 05/2007
Số 411 - Tháng 07/2007
Số 415 - Tháng 11/2007
7. Tạp chí kinh tế và phát triển Số 124 - Tháng 10/2007
Số 126 - Tháng 12/2007
8. Báo cáo phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
9.Niên giám thống kê các năm và Bộ Kế hoạch - Đầu tư.
10.Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
11.Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
12.Webside:www.gso.gov.vn.
13. www. vir.com.vn
14. www.mpi.gov.vn
15. www.wikipedia.ogr
16. www.vafi.org.vn
17. www.dantri.com.vn
18.www.vnexpress.net
19.www.vietnamnet.vn
MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………...63
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 30346.doc