Tài liệu Du lịch Tam Đảo và vấn đề phát triển bền vững: Lời nói đầu
Như ta đã biết, vấn đề ô nhiễm môi trường và sự tàn phá tài nguyên ở các điểm du lịch của Việt Nam đang là vấn đề đáng báo động. Việc làm du lịch theo kiểu “ Bóc ngắn cắn dài”, “Ăn sổi ở thì”, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà con người đã có những tác động xấu vào thiên nhiên, làm bị tàn phá, tài nguyên du lịch ngày càng bị cạn kiệt. Tài nguyên du lịch là nhân tố quan trọng tạo nên sản phẩm du lịch. Vẻ đẹp và giá trị của tài nguyên thiên nhiên là một lý do để lôi cuốn du khách đi du... Ebook Du lịch Tam Đảo và vấn đề phát triển bền vững
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Du lịch Tam Đảo và vấn đề phát triển bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lịch. Việc mất dần tài nguyên du lịch sẽ làm cho hoạt động du lịch không thể phát triển được. Như ta đã biết, du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, đó là ngành xuất khẩu tại chỗ đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Việc phát triển ngành du lịch cũng một phần góp sức làm cho dân giàu nước mạnh. Du lịch còn là thước đo cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng muốn phát triển ngành du lịch của minh. Đối với đất nước ta, để phát triển du lịch trước hết chúng ta cần bảo vệ tài nguyên du lịch, làm du lịch một cách bền vững. Một trong những cách lam đó là du lịch sinh thái. Đây là loại hình du lịch tác động đến môi trường một cách thấp nhất cho phép mà vẫn đảm bảo được lợi ích của con người mà vẫn đảm bảo cho tự nhiên xã hội phát triển.
Tam Đảo là một điểm du lịch đang áp dụng loại hình du lịch sinh thái. Tam Đảo được thiên nhiên ban tặng cho nhiều tài nguyên du lịch, là địa phương có đầy đủ các yếu tố để phát triển du lịch. Trên các phương tiện truyền thong hiện nay đề cập rất nhiều đến các vấn đề về cách làm du lịch sinh thái ở Tam Đảo, vậy chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu cách làm du lịch ở đây qua bài nghiên cứu “Du lịch Tam Đảo và vấn đề phát triển bền vững”.
I. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững.
Môi trường sống của con người là môi trường tự nhiên – xã hội. Môi trường sinh thái là môi trường có lien quan trực tiếp đến sự sống của con người và xã hội. Do vậy, vấn đề môi trường sinh thái mà ngày nay con người đang tập trung nghiên cứu để đưa ra phương án tối ưu giải quyết nó, thực chất là vấn đề về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên.
Khi nói đến vấn đề môi trường sinh thái người ta nghĩ ngay đến các hiện tượng như sự cạn kiệt của các tài nguyên thiên nhiên, nạn ô nhiễm nặng nề của môi trường sống, sự suy giảm tầng ôzôn, “ hiệu ứng nhà kính”, mưa axít,… Vấy bản chất nấp đằng sau những hiện tượng đó là gì?
Đặc trưng của vấn đề sinh thái học như là sự phản ánh các mâu thuẫn của quá trình tác động qua lại sinh thái học của những hệ thống mở với môi trường ngoài. Mâu thuẫn này diễn ra ở tất cả các cấp độ của cấu trúc vật chất, ở tất cả các hệ thống vật chất sống, từ cơ thể trở lên.
1.1. Mâu thuẫn sinh thái – xã hội:
Mâu thuẫn sinh thái – xã hội là mâu thuẫn giữa sự tác động ngày càng tăng của các phương tiện kỹ thuật được con người sử dụng trong quá trình hoạt động cải tạo thiên nhiên và sự phản ứng thích nghi của môi trường đối với những tác động đó, trước hết là các phản ứng thích nghi của các tổ chức tự nhiên nói riêng và sinh quyển nói chung. Các phương tiện càng hiện đại, sự tác động của con người lên tự nhiên thong qua các phương tiện đó ngày càng tăng và ngày càng hiệu quả, đã làm giảm sự thích nghi của tự nhiên cộng với sự khai thác thiên nhiên theo kiểu “ một kẻ đi xâm lược” của con người dẫn đến xuất hiện nhiều vấn đề sinh thái đáng lo ngại. Do đó cần có sự thay đổi về hình thức, phương hướng sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại để giải quyết mâu thuẫn sinh thái – xã hội trong tương lai.
1.2. Mâu thuẫn kinh tế xã hội
Không phải lúc nào sự tăng cường sản xuất cũng dẫn đến nâng cao hiệu quả kinh tế của nó. Từ đó đã xuất hiện mâu thuẫn giữa sự tăng cường mở rộng sản xuất với kết quả cụ thể mà nó đạt được. Mâu thuẫn này không chỉ biểu hiện trong quan hệ giữa kinh tế và xã hội, mà trên thực tế nó còn lien quan rất chặt chẽ với vấn đề sinh thái. Bởi vì, nếu các phương tiện kỹ thuật được đưa vào sử dụng và việc thực hiện các cách thức để tăng cường sản xuất không dẫn đến hiệu quả mong muốn, không nâng cao được hiệu quả kinh tế, còn ngược lại, hiệu quả kinh tế được nâng cao lên thì thường hay kèm với các hiệu quả tiêu cực về mặt sinh thái. Việc tìm kiếm con đường để giải quyết mâu thuẫn này cũng chính là quá trình tìm kiếm cách thức kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong nền sản xuất kinh tế xã hội
1.3. Môi thuẫn kinh tế - sinh thái.
Mâu thuẫn này xuất hiện trong quá trình con người sửa chữa những khuyết điểm trong hoạt động kinh tế của mình, mà những sai lầm đó đã từng tác động tiêu cực lên tự nhiên. Những giải pháp sinh thái thường làm giảm hiệu quả kinh tế của nền sản xuất hiện có, nhưng nhìn trên bình diện lâu dài thì việc làm này hết sức cần thiết. Vì con người không thể sống thiếu những điều kiện tự nhiên tối cần thiết đối với cuộc sống của một sinh vật như: nước, không khí, ánh sang… sau đó mới tính đến nhu cầu của một thực thể sống như các tiện nghi, các điều kiện văn hoá, tinh thần… Đối với cuộc sống của con người, sự tồn tại của xã hội, của các điều kiện kinh tế là rất quan trọng và cần thiết, song chưa phải là tất cả.
Con người cần quan tâm và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn này, điều hoà chúng để tiếp tục tồn tại và phát triển lâu bền.
1.4. Cơ sở triết học – xã hội của mối quan hệ “ Con người – xã hội - tự nhiên”
Xung quanh chúng ta tồn tại nhiều hệ thống lớn nhỏ khác nhau, song lớn nhất và bao phủ lên tất cả là hệ thống “ tự nhiên – con người – xã hội”. Hệ thống đó không phải hình thành một cách ngẫu nhiên mà ngay từ đầu đã là một hệ thống hoàn chỉnh với đầy đủ ba yếu tố, các yếu tố này gắn liền với quá trình tiến hoá của sinh quyển và lịch sử phát triển của xã hội loài người.
1.4.1. Yếu tố tự nhiên:
Theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Theo nghĩa này thì con người và xã hội là những bộ phận của tự nhiên, hơn nữa là những bộ phận không thể tách rời và đặc thù của tự nhiên. Đồng thời tự nhiên còn được hiểu theo nghĩa hẹp: là đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên như: môi trường địa lý, môi trường sinh thái, môi trường sống… Giới tự nhiên mà ta xem xét ở đây có lien quan trực tiếp đến sự sống của con người.
1.4.2 Yếu tố con người:
Con người xuất hiện trong quá trình tiến hoá của sinh quyển, điều đó là căn cứ để khẳng định rằng con người là con đẻ của tự nhiên, là một dạng của vật chất sống. Như vậy, vể nguồn gốc, con người từ tự nhiên mà ra, về cấu trúc thế giới, con người là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Đặc thù vì con người với tư cách là một thực thể sinh học, tồn tại trong tự nhiên như bất kỳ một động vật nào khác. Song, trong quá trình hình thành và phát triển, nhờ lao động và ngôn ngữ, con người dần dần ý thức được về mình, dần dần tách mình ra khỏi thế giới động vật, và cùng với tự nhiên, con người tạo ra cho mình một môi trường sống mới đó là môi trường xã hội.
1.4.3 Yếu tố xã hội:
Xã hội là hình thức vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và lấy sự tác động lẫn nhau giữa con người với con người làm nền tảng.C. Mac đã viết: “ Xã hội – cho dù là hình thức gì đi nữa – là cái gỉ? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”. Do đó, xã hội không thể là cái gì khác, mà chính là bộ phận đặc biệt, được tách ra một cách hợp quy luật của tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao nhất trong quá trình tiến hoá lien tục, lâu dài và phức tạp của tự nhiên.
Các yếu tố tự nhiên - con người – xã hội gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng luôn vận động, tác động lẫn nhau và luôn biến đổi. Sự ổn định và bền vững của tự nhiên là cơ sở đảm bảo cho sự thống nhất của các mối quan hệ giữa tự nhiên – con người – xã hội. Mọi sinh vật, kể cả con người đều sống trong mối quan hệ không thể tách rời với nhau và với tự nhiên, tất cả cùng kết hợp với nhau tạo thành hệ sinh thái. Không một sinh vật nào có thể sống mà không có ngoại cảnh, là toàn bộ thế giới vô cơ, hữu cơ quanh chúng. Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người, là điều kiện đầu tiên, thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là một trong những yếu tố cơ bản nhất của tồn tại xã hội. Chỉ có tự nhiên mới cung cấp đầy đủ nhất những điều kiện tối cần thiết cho sự sống của con người và những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. “ Công nhân không thể sang tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên,…, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta được thực hiện, trong đó lao động của anh ta tác động, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm” – C. Mac_ Angel tuyển tập I. Dù xã hội có đạt đến mức độ phát triển cao nhất, con người cũng không bao giờ có thể bỏ được tự nhiên. Ngược lại, xã hội càng phát triển con người càng cần đến tự nhiên, càng gắn bó chặt chẽ với tự nhiên. Thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, trước hết là quá trình lao động con người cải tạo và biến đổi tự nhiên, biến đổi cho phù hợp với nhu cầu sống của mình, tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Trong hệ thống tự nhiên – con người – xã hội, con người giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì con người là kẻ trực tiếp thực hiện sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, đồng thời là sự hiện than của sự thống nhất đó.
1.4.4 Ý nghĩa rút ra từ nguyên lý thống nhất vật chất của thế giới đối với việc giải quyết các vấn đề sinh thái hiện nay.
Trên cơ sở nhận thức được vị trí của con người và xã hội trong hệ thống, nắm bắt được cội nguồn của sự thống nhất và cơ chế hoạt động, để đảm bảo sự thống nhất đó, con người cần phải tìm ra phương cách thích hợp, cần thiết để giải quyết những mâu thuẫn giữa xã hội và tự nhiên.
Phải có quan điểm hệ thống, quan điểm toàn diện và phát triển trong việc giải quyết các vấn đề sinh thái hiện nay.
Sự thống nhất của ba yếu tố: tự nhiên – con người – xã hội trong hệ thống là tất yếu, khách quan và vốn có. Con người phải có trách nhiệm thiết lập lại sự thống nhất đó để tạo nên sự hài hoà giữa tự nhiên và xã hội.
1.4.5 Một số giải pháp cơ bản đối với vấn đề môi trường sinh thái hiện nay.
a. Thay đổi nhận thức – xây dựng ý thức sinh thái.
Để phát triển, con người và xã hội đã không ngừng tác động lên tự nhiên và chắc chắn ở mức độ này hay mức độ khác con người đã làm ảnh hưởng và làm thay đổi tự nhiên. Một số mâu thuẫn nảy sinh giữa hoạt động sản xuất, cụ thể là lực lượng sản xuất đang phát triển với môi trường tự nhiên đang bị lực lượng sản xuất đó biến đổi. Mâu thuẫn đó trước hêt kìm hãm sự phát triển của sản xuất, thong qua đó là sự phát triển của xã hội. Angel nói rằng: “ Trí tuệ của con người được phát triển tương ứng với vái mà họ học biến đổi tự nhiên”. Kết quả giải quyết mâu thuẫn giữa tri thức có hạn của mỗi thời đại lực lượng và môi trường tự nhiên đã cho ra đời những phát minh mới, nhanh chóng biến thành công cụ sản xuất mới để khai thác tự nhiên, mang lại hiệu quả cao hơn… Quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn giữa xã hội đang phát triển với tự nhiên là cần thiết đối với sự phát của nhân loại. Nhưng sự giải quyết mâu thuẫn của con người và tự nhiên chủ yếu chỉ nhằm phục vụ lợi ích của con người, vì sự tồn tại và phát triển của xã hộ. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phát triển của xã hội là sự suy thoái của môi trường tự nhiên. Con người hiện đại không thể sống thiếu khoa học – kỹ thuật công nghệ cũng như không thể sống thiếu tự nhiên. Chính vì lý do đó mà con người đứng trước mâu thuẫn gay gắt chưa từng có giữa sự nhận thức ( tri thức) sản xuất, xã hội với môi trường tự nhiên. Giải quyết mâu thuẫn này không chỉ dừng lại ở lợi ích của con người mà phải tính đến cả sự sống của tự nhiên, đến sự cùng tồn tại trong mối quan hệ hài hoà giữa xã hội và tự nhiên. Để giải quyết vấn đề này, trước hết cần phải bắt đầu từ việc xây đựng sinh thái, tức là phải xây dựng lại quan điểm của con người về mối quan hệ con người ( xã hội) và tự nhiên.
b. Tiến hành những hoạt động có ý thức nhằm tái sản xuất và tiến đến tái sản xuất mở rộng chất lượng môi trường sinh thái.
Khi tác động lên tự nhiên và biến đổi nó, con người luôn đặt ra cho mình mục đích có tính chất vật chất nhằm phát triển nền sản xuất của xã hội để không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và sự phát triển của xã hội. Với mục đích đó con người lao vào khai thác tự nhiên bất chấp quy luật tồn tại và phát triển của nó. Trong thời gian qua, nền sản xuất của các quốc gia trên thế giới đã “ tiêu xài” một cách quá phung phí nguồn vốn quan trọng vào bậc nhất - nguồn tài nguyên không tái tạo được. Mặc dù vẫn thừa nhận các nguồn tài nguyên tự nhiên là nguồn vốn nhưng vì không phải mất chi phí hoặc mất ít chi phí mà có được nên con người thường quy chúng vào là thu nhập, điều này làm cho tài nguyên bị khai thác và sử dụng ồ ạt, lãng phí dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên.
Để giải quyết mâu thuẫn này, tiến đến xây dựng mối quan hệ hài hoà giữa tụ nhiên – xã hội, con người phải tái sản xuất môi trường sống. Quá trình này trước hết phải được bắt đầu từ chính ngay trong phương thức sản xuất, bằng cách đưa nền sản xuất xã hội hoà nhập như một khâu tụ nhiên của chu trình sinh học. Do đó phải thay đổi phương thức sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiên từ bề rộng sang bề sâu, cố gắng sử dụng tối đa các tính năng của nó, dể cuối cùng, nền sản xuất xã hội chỉ thải ra khỏi quá trình sản xuất những chất mà tự nhiên có thể tiếp thu và sử lý được.
c. Kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái.
Kinh nghiệm thực tế của các nước công nghiệp phát triển cho thấy, những thiệt hại về kinh tế do sự ô nhiễm môi trường tự nhiên đem lại và chi phí để khắc phục lớn hơn nhiều so với chi phí chủ động ngăn chặn ngay từ đầu sự ô nhiễm. Đồng thời, việc ngăn chặn sự ô nhiễm dễ dàng hơn việc thủ tiêu những hậu quả của nó. Do đó, đầu tư bảo về môi trường trong mọi trường hợp đều mang lại lợi ích kinh tế to lớn, đồng thời lại cải thiện và bảo toàn được chất lượng môi trường sống. Chủ động bảo vệ môi trường vừa đạt được mục tiêu kinh tế, vừa đạt được mục tiêu sinh thái. Một trong những biện pháp quan trọng nhất để kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái là thực hiện tối ưu hoá tiêu dung. Trong sản xuất, con người chưa coi nguồn tài nguyên tự nhiên là vốn sản xuất vì vậy cần phải có chi phí lớn hơn để có được tài nguyên tự nhiên và tính chi phí này vào giá thành sản phẩm. Nền sản xuất xã hội chưa quan tâm đúng mức đến hiệu quả của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, từ khâu khai thác chế biến đến các chất thải. Cụ thể, phần lớn các quá trình sản xuất chưa đáp ứng được những yêu cầu sinh thái đã thải quá nhiều chất độc ra ngoài môi trường. Việc xây dựng các trang thiết bị làm sạch môi trường sinh thái cần phải có vốn đủ lớn, giá trị của trang thiết bị thường chiếm từ 20 – 40% giá trị của vốn cơ bản của xí nghiệp. Song con người vẫn phải làm vì dù sao cũng ít hơn rất nhiều so với các chi phí để khắc phục hậu quả.
d. Hướng mọi hoạt động của con người vào mục đích phát triển bền vững.
II. Tiềm năng du lịch Tam Đảo.
2.1. Giới thiệu chung về Tam Đảo.
2.1.1. Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Tam Đảo được đánh giá là huyện có thế mạnh phát triển kinh tế du lịch, mảnh đất giàu tiềm năng này có Vườn Quốc gia Tam Đảo nơi bảo tồn thiên nhiên với thảm thực vật phong phú, lưu giữ hàng ngàn loài cây, động vật quý hiếm, có khu nghỉ mát Tam Đảo mỗi năm thu hút hàng ngàn lượt khách trong và ngoài nước tới tham quan nghỉ dưỡng. Khu di tích danh thắng Tây Thiên thờ Quốc mẫu Năng Thị Tiêu đã đi vào lịch sử dân tộc, Thiền Viện Trúc Lâm cái nôi của Phật giáo. Tam Đảo còn cả một quần thể di tích kiến trúc phức hợp có giá trị lịch sử và tín ngưỡng. Cùng với khu nghỉ mát Tam Đảo và khu di tích danh thắng Tây Thiên, hồ Làng Hà, Hồ Xạ Hương, sân Gold… tạo nên một quần thể du lịch hấp dẫn đầy tiềm năng, hàng năm đã tạo sự hấp dẫn du khách đến với vùng đất này.
Việc thành lập huyện miền núi Tam Đảo nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm khai thác tiềm năng du lịch ở khu vực phía Bắc, với mục tiêu xây dựng Tam Đảo thành một huyện du lịch, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Mục tiêu của tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ 2005 – 2010 là: “ Tập trung mọi nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tê, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng lấy kinh tế du lịch làm mũi nhọn, làm động lực thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế khác. Nhanh chóng khắc phục tình trạng kinh tế thuần nông, tạo tiền đề cho phát triển bền vững. Phấn đấu đến năm 2010 Tam Đảo cơ bản trở thành huyện du lịch, đến năm 2020 trở thành huyện du lịch trọng điểm, tạo động lực phát triển kinh tế của tỉnh và khu vực…". Như vậy có thể thấy được rằng lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc đã chọn du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn để xây dựng và phát triển Tam Đảo và tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 06 - 03- 1996, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 136/TTg về việc phê duyệt “ Dự án khả thi đầu tư xây dựng Vườn quốc gia Tam Đảo”. Ngày 15 - 05- 1996 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp &PTNT đã có quyết định số 601 NN- TCCB/QĐ về việc thành lập VQG Tam Đảo trực thuộc Bộ Nông nghiệp &PTNT.Hiện nay VQG Tam Đảo có diện tích 34.995 ha , nằm trọn trong dãy núi Tam Đảo và trên địa bàn của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Vườn hiện có 26.163 ha rừng - chủ yếu là rừng tự nhiên mưa ẩm thường xanh, độ che phủ chiếm trên 70 % tổng diện tích toàn Vườn. Thú rừng có chừng 45 loài, trong đó có rất nhiều loài quý hiếm như hổ, báo, gấu, sóc bay, chồn mực ... Về chim, có tới 120 loài, hầu hết là các chim ăn sâu bọ. Nhiều loài chim cảnh màu sắc rực rỡ như vàng anh, sơn tiêu trắng, sơn tiêu đỏ hoặc có giọng hót rất hay như hoạ mi, khướu bách thanh. Các giống chim quý này làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng Tam Đảo. Rừng tự nhiên ở đây bao gồm hai kiểu chính là rừng thường xanh đất thấp và rừng thường xanh núi thấp. Rừng thường xanh đất thấp phân bố ở độ cao từ 700 đến 800 m. Tính đa dạng các loài cây gỗ ở kiểu rừng này rất cao với rất nhiều đại diện của các họ Đậu Fabaceae, Dầu Dipterocarpaceae, Xoan Meliaceae, Trám Burseraceae, Sim Myrtaceae và Xoài Anacardiaceae. Đây là kiểu rừng đang bị xuống cấp mạnh. Rừng thường xanh núi thấp phân bố ở độ cao trên 800 m. Trong kiểu rừng này hầu như không còn thấy xuất hiện một đại diện nào của họ Dầu Dipterocarpaceae, các loài ưu thế thuộc vào các họ Dẻ Fagaceae, Long não Lauraceae, Mộc lan Magnoliaceae, Cau dừa Aceraceae, Chè Theaceae, Sau sau Hamamelidaceae, Sến Sapotaceae và Đỗ quyên Ericaceae. Trong kiểu rừng này cũng có đại diện của nhiều loài hạt trần như Kim giao Decussocarpus fleuryi, Dẻ tùng sọc trắng hẹp Amentotaxus argotaenia, Thông nàng Podocarpus imbricatus và
Pơ-mu Fokienia hodginsii. Ngoài hai kiểu rừng chính kể trên, Vườn Quốc gia Tam Đảo còn có 669 ha rừng lùn ưu thế bởi các loài thuộc họ Đỗ quyên Ericaceae và Chè Theaceae
Hiện nay trong rừng vẫn còn có rất nhiều loài thú và hệ thực vật quý hiếm, rừng là môi trường để các loài thú này cư trú, tránh cho các loài này khỏi bị tuyệt chủng. Vì vậy ta có thể thấy được gia trị quan trọng của vườn quốc gia Tam Đảo đối với hệ động thực vật nơi đây.
Vườn Quốc gia Tam Đảo nằm trong vùng phân thuỷ của hai con sông chính: ở phía đông bắc của khối núi là lưu vực sông Công, trong khi phía tây nam của khối núi nằm trong đường phân thủy của sông Đáy. Hầu hết các sông suối bên trong Vườn quốc gia đều dốc và chảy xiết. Ta có thể thấy được với địa hình như vậy thì vườn quốc gia Tam Đảo vừa có vai trò cản lũ vào mùa mưa, vừa có vai trò giữ nước cho cả vùng. Nếu vườn quốc gia Tam Đảo bị tàn phá thì nguy cơ lũ quét xảy ra ở vùng này là rất lớn, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống, cả về kinh tế và điều kiện sinh hoạt của người dân nơi đây.
2.1.2 Tam Đảo 1
Vị trí: Khu du lịch Tam Đảo thuộc thị trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội 86 km.Đặc điểm: Khí hậu ở đây rất độc đáo, bốn mùa trong ngày; khung cảnh thơ mộng, hùng vĩ. Mùa du lịch đẹp nhất trong năm ở Tam Đảo là vào mùa hè.
Thiên nhiên đã ban tặng cho Tam Ðảo một khung cảnh tuyệt vời: vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ, sự huyền ảo của mây gió, sương khói vờn trên đỉnh núi rồi sà xuống những thảm cỏ, những mái ngói đỏ trên sườn núi. Tam Ðảo là một dãy núi dài khoảng 80km theo hướng tây bắc - đông nam, rộng từ 10 - 15km, là khu nghỉ mát ở núi lý tưởng của miền Bắc. Tam Đảo có diện tích 253ha nằm trên độ cao 900m so với mặt biển. Từ thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc sau 1 giờ xe chạy là lên tới Tam Ðảo. Thêm 20km đường dốc, lượn qua các sườn núi thông mọc thẳng tắp nhìn lên cao vút, mờ mờ ẩn hiện Tam Ðảo trong sương.
Núi Tam Đảo có 3 đỉnh nổi lên như 3 hòn đảo: đỉnh giữa có tên Bàn Thạch cao 1.388m; bên trái là đỉnh Thiên Nhị (chợ trời) cao 1.375m, trên có tháp truyền hình cao 93m, bên phải là đỉnh Phù Nghĩa cao 1.400m.
Thị trấn Tam Ðảo rộng hơn 300ha, nằm gọn trong một thung lũng nhỏ của dãy Tam Ðảo, đồng thời cũng là một trong những vườn quốc gia lớn nhất miền Bắc. Khí hậu ở đây rất độc đáo, bốn mùa trong một ngày. Buổi sáng se se gió xuân, buổi trưa nóng ấm mùa hạ, buổi chiều lãng đãng heo may mùa thu, buổi tối lạnh giá của đông. Với khí hậu đặc biệt như vậy, Tam Đảo rất có sức lôi cuốn du khách đến thăm quan và nghỉ dưỡng.
Ðầu thế kỷ 20, người Pháp đã phát hiện ra Tam Ðảo, xây dựng ở nơi đây thành khu nghỉ mát với 200 biệt thự, khách sạn, nhà hàng, sân chơi thể thao, bể bơi, sàn nhảy.
Ðường đi lên núi Tam Đảo tuy hơi vất vả nhưng rất đẹp. Hai bên đường hoa phong lan, hoa cúc quì và các loài hoa dại nở đầy lối đi, toả hương thơm rất lạ, màu sắc rực rỡ... cộng thêm không biết bao nhiêu là bướm đủ loại rập rờn trên hoa lá. Cảnh đẹp thiên nhiên như vậy khó có thể bỏ qua khi đến với Tam Đảo. Du khách cũng có thể trải tầm nhìn ra xa để thấy được sự hung vĩ của núi rừng, nhắm mắt để cảm nhận những cơn gió mát lành lùa vào mái tóc, cảm nhận được cảm giác thực sự hoà mình vào thiên nhiên, mọi mệt mỏi ưu tư sẽ biến mất.
Từ trung tâm thị trấn, rẽ bên phải theo một con đường mòn, hút xuống thung lũng sâu, thác Bạc giấu mình trong núi, đổ xuống những dòng nước trắng bạc và chiếu sắc cầu vồng. Một dòng suối nhỏ từ trên cao 30m ào ào tuôn nước, tiếng suối, tiếng rừng, tiếng lá dội vào vách đá tạo ra những bản nhạc của núi rừng nơi đây. Bản nhạc của tự nhiên đưa con người vào thế giới bình an thư thái, quên đi mọi buồn phiên của cuộc sống. Nếu thích mạo hiểm, hãy đi xa chút nữa tới đỉnh Rùng Rình, ở đây cây cối, núi non đẹp, có nhiều cây to mấy người ôm phủ đầy hoa phong lan, tiếng chim hót ríu rít và có rất nhiều loài bướm lạ. Xa hơn nữa là Tam Ðảo 2, nơi mà vào thời Pháp cũng là điểm du lịch nghỉ mát lý tưởng, nhưng nay bị bỏ hoang mang vẻ đẹp hoang dã, cô liêu.
2.1.3. Dự án Tam Đảo 2.
Theo ông Nguyễn Ngọc Tung, phó giám đốc Sở Xây Dựng Vĩnh Phúc cho biết, cái tên Tam Đảo 2 không có tên trong bản đồ hành chính và bản đồ nhưng lại có từ rất lâu. Có lẽ do người Pháp trước đây xây dựng Tam Đảo 1 với mục đích nhà nghỉ cho người Pháp với quy mô nhỏ, không có công trình vui chơi giải trí, sau đó, người Pháp thấy có thể phát triển thành nơi nghỉ dưỡng cao cấp hơn nên tìm khu mới là Tam Đảo 2.
UBND tỉnh Vĩnh Phúc dự kiến sẽ sử dụng gần 200ha đất tại vùng lõi VQG Tam Đảo để xây dựng Khu du du lịch sinh thái (thực chất đây là một khu nghỉ cao cấp có khu villa, sân gold, sòng bạc…).
Vĩnh Phúc dự kiến thực hiện xây dựng Tam Đảo 2 vì ba lý do: Xuất phát từ ý tưởng người Pháp đã làm, có cơ sở hạ tầng đường sá, có lợi thế về độ cao, khí hậu, mặt bằng, phong cảnh phục vụ cho phát triển du lịch; tiếp đó, Vĩnh Phúc nằm trong chiến lược phát triển du lịch cả nước trong đó có Tam Đảo.
Lý do cuối cùng được nêu ra là, trong Quy hoạch phát triển du lịch cũng như Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội và phát triển đô thị của Vĩnh Phúc từ 2010-2020 và trong Nghị quyết của tỉnh cũng nêu vấn đề phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn và tập trung nghiên cứu khai thác Tam Đảo, dãy Tam Đảo có thể phát triển du lịch sinh thái, trong đó có Tam Đảo 1 và Tam Đảo 2.
Trước ý tưởng đó, Công ty Belt Collin Hawaii Ltd và Công ty Vietnam Patrers LLC (Hoa Kỳ) đã đưa ra 3 phương án xây dựng Tam Đảo 2. Cụ thể, phương án 1 tập trung phát triển phần lớn cho khu vực lòng chảo hoặc thung lũng ở phía trên các khu đất. Phương án này duy trì vùng đất ướt và vùng đệm như là công viên thiên nhiên và trở thành không gian mở đặc thù của vùng.
Ở đây sẽ có một trung tâm môi trường gồm các hạng mục trong nhà và ngoài trời. Đây không phải là vườn thú, bể cá hay vườn thực vật mà gồm tất cả các công trình này gộp lại thành một khu nhà tập hợp 3 vùng sinh thái của miền Bắc Việt Nam (vùng rừng nhiều mưa Tam Đảo, vùng đất nông nghiệp miền trung du và đồng bằng sông Hồng).
Tại đây cũng sẽ xây khu nhà nghỉ cao cấp, Trung tâm Hội nghị và sòng bạc (nếu được cho phép) công trình gồm 200-400 phòng sẽ được bố trí tuỳ thuộc phương thức khai thác khách sạn, chiều cao và hình khối nhà, chỗ đỗ xe và các công trình phụ trợ. Đồng thời, xây dựng một sân golf 9 lỗ và các khu giải trí: công viên thiên nhiên, chuồng ngựa, thuỷ cung, thuỷ viên, vườn thú, vườn ươm và vườn ươm thực vật...
Phương án 2 và phương án 3 hầu như giữ nguyên các hạng mục, chỉ thay đổi vị trí của khu nghỉ cao cấp, các khu giải trí, sòng bạc chính (nếu được cho phép).
III. Phân tích đánh giá thực trạng phát triển
du lịch Tam Đảo
3.1. Hiệu quả kinh tế.
Tam Đảo được thiên nhiên ban tặng nhiều ưu đãi: có khí hậu ôn hòa, cảnh quan môi trường tuyệt đẹp, núi non hùng vĩ. Từ lâu Tam Đảo đã là điểm du lịch lý tường, hấp dẫn nhiều du khách. Biết khai thác những thế mạnh, tiềm năng sẵn có, người dân ở đây đã và đang tập trung phát triển kinh tế du lịch, dịch vụ. Để nền kinh tế của thị trấn phát triển theo đúng hướng và có trọng tâm, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân huyện Tam Đảo đã có nghị quyết chuyên đề hàng năm xác định rõ lấy thương mại – du lịch làm mũi nhọn, tăng cường xây dựng khu nghỉ mát Tam Đảo. Trên thực tế Tam Đảo vẫn là một huyện nghèo của tỉnh Vĩnh Phúc, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, tiềm năng du lịch của huyện rất lớn nhưng việc đầu tư còn thấp, khai thác chưa có hiệu quả, chất lượng các hoạt động du lịch, dịch vụ còn thấp và manh mún; cơ sở hạ tầng kỹ thuật thấp kém và còn nhiều bất cập, tỷ lệ lao động không có việc làm còn cao, mặt bằng dân trí, chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp ... những điều đó đã gây khó khăn cho phát triển du lịch ở Tam Đảo.
Để khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh du lịch của Tam Đảo, góp phần phát triển ngành du lịch Vĩnh Phúc trong những năm tới, Đảng bộ huyện Tam Đảo xác định mục tiêu là tập trung mọi nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế theo hướng lấy kinh tế du lịch, dịch vụ làm mũi nhọn, làm động lực phát triển các ngành kinh tế khác. Nhanh chóng khắc phục tình trạng kinh tế thuần nông, tạo tiền đề cho phát triển bền vững. Phấn đấu đến năm 2010, Tam Đảo trở thành huyện du lịch trọng điểm, tạo động lực phát triển kinh tế của tỉnh và khu vực ... Đây là quan điểm và cách nhìn nhận đúng đắn mà Đảng bộ huyện Tam Đảo đã xác định. Tam Đảo là một vùng nằm trong thung lũng của dãy núi Tam Đảo, đường xá đi lại không mấy thuận lợi để có thể phát triển công nghiệp. Tam Đảo là một trong số những điểm du lịch được nhà nước chú trọng đầu tư để nâng cấp trở thành khu du lịch trọng điểm của nước ta. Đó là những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự phát triển của du lịch Tam Đảo nói riêng và cho kinh tế huyện Tam Đảo nói chung.
Khu du lịch Tam Đảo đã được thực dân Pháp xây dựng từ rất lâu rồi, tuy nhiên, huyện Tam Đảo mới được thành lập năm 2003. Trong những năm qua, nhất là sau gần 3 năm thành lập, trong điều kiện còn ngổn ngang bề bộn của một huyện mới thành lập, nhưng Đảng bộ và nhân dân huyện Tam Đảo đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn và đã đạt được một số kết quả bước đầu khả quan, như: đã làm tốt công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, triển khai các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, thu hút được nhiều nhà đầu tư vào khu du lịch Tam Đảo, Tây Thiên... tạo điều kiện cho kinh tế của huyện có tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất thương mại, dịch vụ, du lịch ở Tam Đảo đã có những bước chuyển tích cực, từ 32,39 tỷ đồng (năm 2000) lên 83,076 tỷ đồng (năm 2005),tốc độ tăng trưởng đạt 22,95%/năm; tăng 15,13% so với năm 2004. Đây là những kết quả bước đầu quan trọng tạo động lực cho du lịch huyện Tam Đảo phát triển.
Chủ trương của huyện đến năm 2015, Tam Đảo sẽ trở thành huyện du lịch và đến năm 2020 trở thành huyện du lịch trọng điểm. Dự kiến đến năm 2010 huyện sẽ đầu tư khoảng 2.000 tỷ đồng cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp, du lịch dịch vụ, thương mại và phát triển văn hoá - xã hội... đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trong đó là tập trung khôi phục và phát triển mạnh các làng nghề truyền thống, tạo ra các sản phẩm phục vụ du lịch, dịch vụ, đầu tư quy hoạch lại các khu du lịch, như: Tây Thiên, khu du lịch Tam Đảo 1, Tam Đảo 2, khu du lịch thác Thậm Thình, nâng cấp các trụ sở xã, mở mới và nâng cấp các tuyến đường giao thông nông thôn, điện, nước sạch, điểm bưu điện văn hoá xã, kênh mương. Nguồn vốn sẽ được huy động từ ngân sách, huy động các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ và huy động nguồn vốn nhàn rỗi của nhân dân. Để thu hút các nhà đầu tư, huyện Tam Đảo sẽ thực hiện một số chính sách như đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, ưu tiên mặt bằng và các dịch vụ, tạo hành lang pháp lý thông thoáng về chính sách thuế, nguồn nhân lực, đáp ứng tốt các dịch vụ về tài chính, tín dụng thu hút các nguồn lực.
Chủ trương trên đặt ra cho ngành du lịch Tam Đảo phải không ngừng tăng giá trị sản xuất và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế (đến năm 2010 đạt 46%), tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, tăng thu ngân sách để có điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo. Để du lịch phát triển nhanh, đúng định hướng trong những năm tới, Đảng bộ, chính quyền huyện Tam Đảo tập trung vào các giải pháp chính như sau:
+ Gắn công tác quy hoạch phát triển du lịch với quy hoạch chung của tỉnh với các tỉnh phía bắc và cả nước. Đồng thời phải đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Trong đầu tư khai thác và phát triển du lịch cần phải được xã hội hóa các nguồn lực Nhà nước, các thành phần kinh tế, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, các hình thức liên doanh, liên kết ... nhằm sử ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12035.doc