Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn

MỤC LỤC MỞ ĐẦU Hiện nay ở Việt Nam, loại hình du lịch sinh thái phát triển khá mạnh mẽ, không chỉ thu hút các thị trường khách quốc tế mà còn nhận được sự  quan tâm, tham gia của thị trường khách du lịch nội địa. Muốn đầu tư vào du lịch sinh thái có hiệu quả phải có cơ sở lý luận cơ bản về du lịch sinh thái, nghiên cứu mô hình cơ cấu tổ chức quản lý du lịch sinh thái, nghiên cứu các đối tượng tác động và các yêu cầu nguyên tắc để phát triển du lịch sinh thái bền vững . Không chỉ trên lĩnh v

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực kinh tế, thương mại mà cả trên lĩnh vực môi trường, xã hội, văn hoá du lịch sinh thái cũng đóng vai trò quan trọng. Ngoài những lợi ích về kinh tế, thẩm mỹ, còn phải chú ý đến vần đề giáo dục môi trường, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và phát triển bền vững. Để giải đáp một phần vấn đề trên, em xin chọn đề tài :“Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn”, với mong muốn được tìm hiểu thêm nhiều kiến thức cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái đồng thời đề xuất một số ý kiến nhằm bảo vệ và phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn. Với điều kiện có hạn, em xin được giới hạn nội dung đề tài: Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái Chương II: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn 2.1. Giới thiệu chung 2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái 2.3. Thực trạng phát triển du lịch Chương III: Một số biện pháp tiếp tục phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn 3.1 Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái 3.2 Dự án do Chính phủ Đan Mạch tài trợ: Em xin cảm ơn ThS. Hoàng Thị Lan Hương, Khoa QTKD Du lịch và Khách sạn, Trường đại học KTQD Hà Nội đã giúp đỡ để bài viết của em được thành công. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH SINH THÁI 1.1. Khái quát du lịch sinh thái: Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới mẻ , đang là mối quan tâm của nhiều người ở nhiều lĩnh vực khác nhau .Có nhiều cách đặt vấn đề về du lịch sinh thái và sự tìm kiếm đi dến sự thống nhất bản chất , nhận thức của loại hình du lịch sinh thái vẫn đang được tiếp tục trên nhiều diễn đàn quốc tế và trong nước. Theo Luật Du lịch, Điều 4, khoản 19: Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Loại hình du lịch sinh thái về thực chất là loại hình có quy mô không lớn, nhưng có tác dụng hoà nhập môi trường tự nhiên với điểm du lịch, khu du lịch và nền văn hoá đó. Chính loại hình du lịch này cũng là loại hình du lịch bền vững mà hiện nay Tổ chức Du lịch thế giới đã khẳng định đối với các hoạt động du lịch nhằm vừa đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách cùng người dân ở vùng có du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng v.v.. đồng thời chú trọng tới việc tôn tạo nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch để có điều kiện phát triển hoạt động của du lịch trong tương lai. Loại hình du lịch sinh thái có nhiệm vụ: - Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự nhiên. - Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng. - Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v... Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa đảm bảo sự hài lòng đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du lịch. Cho đến nay vẫn chưa có sự xác định hoàn hảo về loại hình du lịch sinh thái. Loại hình du lịch này quả vẫn còn mới mẻ, mặc dù những năm 1997-1998 Tổ chức Du lịch thế giới và Liên Hợp Quốc đã nêu một số quan điểm chuyển mạnh sang loại hình du lịch sinh thái phù hợp với điều kiện của sự phát triển du lịch. Một số nhà khoa học về du lịch cũng đã khẳng định các loại hình du lịch sinh thái như sau: - Du lịch xanh, du lịch dã ngoại. - Du lịch nhạy cảm, du thuyền trên sông, hồ, trên biển... - Du lịch thiên nhiên, tham quan miệt vườn, làng bản... - Du lịch môi trường. - Du lịch thám hiểm, mạo hiểm,lặn biển, thăm hang động... Từ những năm 1985-1990, đặc biệt là sau năm 1990 khoa học sinh thái được chấp nhận khá rộng rãi trên thế giới và cũng từ khoa học sinh thái trở thành một lĩnh vực khoa học có giá trị hơn nhiều nên ngành kinh tế-xã hội có ý thức vận dụng những lý thuyết cơ bản của sinh thái học. Ngành du lịch thế giới từ sau cuộc Hội nghị về Trái đất ở Rio đe Janeiro năm 1992 đã thực sự vận dụng sinh thái học dưới nhiều mục tiêu sự phát triển bền vững. Việc tổ chức và điều hành loại hình du lịch sinh thái như thế nào để có thể: - Bảo tồn môi trường tự nhiên mà du lịch đang sử dụng. - Nâng cao ý thức của du khách để họ nhận rõ đặc điểm của môi trường tự nhiên trong khi du lịch đang hoà mình vào đó. - Động viên trách nhiệm của dân cư địa phương tại khu du lịch, điểm du lịch có trách nhiệm quản lý bảo vệ và phát triển du lịch nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của môi trường du lịch và thiết thực tạo được lợi ích lâu dài. Nói chung du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào những hình thức truyền thống sẵn có, nhưng có sự hoà nhập vào môi trường tự nhiên với văn hoá bản địa, du khách có thêm những nhận thức về đặc điểm của môi trường tự nhiên, về những nét đặc thù vốn có của văn hoá từng điểm, từng vùng, khu du lịch và có phần trách nhiệm tự giác để không xảy ra những tổn thất, xâm hại đối với môi trường tự nhiên và nền văn hoá sở tại. Còn về quy mô của loại hình du lịch sinh thái thì tuỳ thuộc vào khả năng, điều kiện, biện pháp tổ chức của nhà quản lý hoạt động du lịch, có thể dần dần từ quy mô khiêm tốn để phát triển rộng rãi. Với Việt nam , một nước mới phát triển về du lịch và loại hình du lịch sinh thái hầu như còn rất mới,chưa tích luỹ được nhiều kinh nghiệm .Vấn đà đạt ra lúc này mang tính cấp bách là cần phải quan tâm đến cả hai phương diện: Một là: Thống nhất về bản chất và khái niệm của loại hình du lịch sinh thái. Hai là: Tiếp cận với xu thế và nhu cầu thị trường du lịch sinh thái trong nước và quốc tế, tiến hành xây dựng những định hướng và hoạnh định chiến lược phát triển cho loại hình du lịch sinh thái ở Việt nam. Với đặc trưng khác biệt về nguồn gốc của sản phẩm du lịch sinh thái và tính chất bền vững của nó, trong những năm qua ở lĩnh vực hoạt động du lịch sinh thái trên phạm vi toàn thế giới người ta đã rút ra nhiều bài học rất có giá trị đóng góp vào lý luận và hoạt động của loại hình du lịch sinh thái. Theo đó du lịch sinh thái là loại hình du lịch đặc biệt tổng hợp các mối quan tâm cảm giác nhiều đến môi trường thiên nhiên và tìm đến những vùng thiên nhiên nhiều tiềm năng về môi trường sinh thái để cải thiện kinh tế, phúc lợi xã hội, sức khoẻ và hưởng thụ, khám phá những cái mới, cái lạ, cái đẹp và sự trong lành của thế giới tự nhiên , tạo ra mối quan hệ hữu cơ, hoà đồng giữa con người với thiên nhiên, môi trường đồng thời hành động có ý thức trách nhiệm làm cho thiên nhiên môi trường bền vững, phong phú phục vụ trở lại lợi ích của con người cả ở hiện tại và tương lai. 1.2. Tất yếu về du lịch sinh thái tại Việt Nam Phát triển du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Du lịch sinh thái phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu ngày một tăng của khách du lịch, của cộng đồng. Nhu cầu này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển không ngừng của xã hội, đảm bảo về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của hệ sinh thái, với tư cách là một ngành kinh tế. Bên cạnh xu thế phát triển du lịch sinh thái do nhu cậu khách quan, xu thế này còn không nằm ngoài xu thế chung về phát triển xã hội của loài người khi các giá trị tài nguyên ngày càng bị suy thoái, khai thác cạn kiệt. Việt Nam là một đất nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc, thiên về chí tuyến hơn là phía xích đạo. Vị trí đó đã tạo nên một nền nhiệt độ cao, độ ẩm không khí cao, mưa nhiều. Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3000km, lưng dựa vào dãy Trường Sơn. Chính các điều kiện đó đã mang lại cho Việt Nam một hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết hợp vào đó có rất nhiều nét văn hoá dân tộc đặc sắc, đậm đà. Những yếu tố đó đã tạo nên cho Việt Nam một lợi thế to lớn trong việc phát triển loại hình du lịch sinh thái. Cùng với việc nỗ lực bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên và văn hoá phục vụ phát triển kinh tế thông qua du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Với tư cách là một ngành kinh tế mũi nhọn - Du lịch trong đó có Du lịch sinh thái ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 1.3. Những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 1.3.1. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp ( agri-cultural ecology), sinh thái khí hậu ( ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology). Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái (eco- systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats) (Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Rio de Jannero về môi trường). Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên (natural reserve), đặc biệt ở các vườn quốc gia (national park), nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn (rural tourism) hoặc các trang trại (farm tuorism) điển hình. Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm: - Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu cac đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác vói người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một người phiên dịch giỏi. - Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách. Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm. Đứng trên góc độ vật lý, “sức chứa” ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ. Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá - xã hội, kinh tế - xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập. Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng lực quản lý (lực lượng nhân viên, trình độ và phương tiện quản lý...) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xã hội. Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm. Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định “sức chứa” là quan niệm về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội khác nhau (ví dụ giữa các nước châu Á và châu Âu, giữa các nước phát triển và đang phát triển...). Rõ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng khách hoặc thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách. Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh nghiêm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm. 1.3.2. Những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái. Thị trường du lịch sinh thái hiện nay đang phát triển mạnh so với các thi trường khác. Song sự phát triển nhanh chóng này đe doạ tính bền vững của du lịch sinh thái và mở rộng ra những cái có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững. Du lịch sinh thái bản thân nó bị giới hạn phạm vi, mức độ phát triển. Nó không thể tiếp nhận một số lượng lớn du khách mà không phải là nguyên nhân dần dần làm thay đổi dẫn đến sự phá huỷ lý do mà nó tồn tại. Vì vậy vấn đề trọng tâm trong việc phát triển du lịch sinh thái bền vững là sự kiểm soát hạn chế những nguyên tắc xử lý và thực hiện. Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch . Du lịch sinh thái được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác về mức độ giáo dục cao về môi trường và sinh thái thông qua những hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. Du lịch sinh thái chứa đựng mối tác động qua lại lớn giữa con người và thiên nhiên hoang dã cộng với ý thức được giáo dục nhằm làm cho những khách du lịch thành những người đi đầu trong việc bảo vệ môi trường. Phát triển du lịch sinh thái làm giảm tối thiểu tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và cần trú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên. Sau đây là những nguyên tắc cơ bản về du lịch sinh thái: - Du lịch sinh thái phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên . - Du lịch sinh thái là không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó. - Du lịch sinh thái phải tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này . - Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đạt lên hàng đầu do đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân. - Du lịch sinh thái phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay khoa học ). - Du lịch sinh thái phải đưa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là những kinh nghiêm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể. - Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia . - Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban ngành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, các hãng lữ hành và các khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi). - Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban nghành chức năng. - Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động. - Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ quốc tế cho ngành. CHƯƠNG II TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI VQG XUÂN SƠN 2.1. Giới thiệu chung Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm về phía Tây Nam của huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, trên vùng tam giác ranh giới giữa 3 tỉnh: Phú Thọ, Hoà Bình, và Sơn La. Đây là khu vực núi đá vôi có hệ sinh thái rừng điển hình của miền Bắc. Năm 2002, theo QĐ số: 49/ QĐ – TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ, khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn đã được chuyển hạng thành Vườn quốc gia Xuân Sơn. Vị trí địa lý: Tọa độ địa lý: 21003’ đến 21012’ vĩ độ Bắc. 104051’ đến 105001’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp xã Thu Cúc Phía Nam giáp với huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình Phía Tây giáp huyện Phù Yên tỉnh Sơn La Phía Đông giáp các xã: Tân Phú, Mỹ Thuận, Long Cốc và Vinh Tiền Phía Tây Nam giáp khu Bảo tồn thiên nhiên Phu Canh và Hồ thuỷ điện Hoà Bình Phía Tây Bắc giáp khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa và Hồ Thuỷ điện Sơn La Cách Khu di tích lịch sử Đền Hùng – TP Việt Trì : 90 Km Cánh TP Hà Nội: 120Km Địa hình: Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá kết hợp với hệ thống hang động, sông suối và rừng tự nhiên tạo cho VQG Xuân Sơn có cảnh quan đẹp, hùng vĩ và hấp dẫn. Diện tích Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo tạo nên đa dạng cảnh quan. Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài và một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện. 2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái: 2.2.1. Đa dạng sinh học VQG Xuân Sơn có hệ động thực vật phong phú bao, nhiều sinh cảnh quan độc đáo bao gồm rừng nhiệt đới vẫn mang tính nguyên sinh, phân bố trên núi đất và núi đá vôi vùng thấp; với 7 hệ sinh thái chính: rừng trên núi đá vôi; rừng trên núi đất; trảng cỏ cây bụi, tre nứa; nông nghiệp; khu dân cư; rừng trồng và hệ sinh thái các thủy vực. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi có nhiều nét độc đáo, tuy có bị tác động nhưng vẫn giữ được dáng vẻ nguyên sinh, với diện tích khoảng 1.661ha. Với độ cao tối đa so với mặt biển là 1.386m (đỉnh núi Voi), vùng núi đá vôi Xuân Sơn ở độ cao dưới 700m được che phủ bởi kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh cây lá rộng, ẩm, nhiệt đới, cấu trúc 5 tầng, trong đó tầng vượt tán gồm những cây gỗ lớn, đường kính hàng mét, cao tới 30-35m như: sâng, trai, nghiến… Nhiều cây quý hiếm có giá trị bảo tồn và có giá trị kinh tế cao như: lát, kim giao, chò chỉ, nghiến, củ dòm... Ở độ cao từ 700m trở lên, là kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh, cây lá rộng á nhiệt đới. Ngoài một số loại thường xanh hay rụng lá thuộc các họ long não, dẻ, hồ đào v.v.. còn gặp một số loại thuộc ngành hạt trần như dẻ tùng sọc trắng hẹp, kim giao núi đá, thông tre lá dài. Cấu trúc của kiểu rừng này có 4 tầng, không có tầng vượt tán, tầng ưu thế sinh thái cao tối đa không vượt quá 25m. Cả hai kiểu thảm thực vật vừa nêu hiện không có nhiều ở nước ta. Hệ thực vật ở đây thống kê được là 1.179 loài, 650 chi, 175 họ của 5 ngành thực vật bậc cao, chiếm 11% tổng số loài, 28% tổng số chi và 57% tổng số họ của hệ thực vật Việt Nam. Trong đó có 46 loài được ghi trong Sách đỏ, Danh lục đỏ Việt Nam và Nghị định 32/CP của Chính phủ, trong đó, 14 loài thuộc nhóm EN (nguy cấp), 30 loài thuộc nhóm VU (sẽ nguy cấp), 1 loài thuộc nhóm LR (ít nguy cấp) và 1 loài thuộc nhóm IIA (hạn chế khai thác và sử dụng). Ngoài giá trị về mặt khoa học, hệ thực vật Xuân Sơn còn là nguồn tài nguyên có ý nghĩa kinh tế, trong đó có 541 loài (chiếm 44,5% tổng số loài của hệ thực vật) là cây thuốc; 249 loài cho gỗ; 145 loài làm thức ăn; 95 loài làm cây cảnh,… Sự đa dạng của các hệ sinh thái làm nền tảng cho sự hình thành các kiểu thảm thực vật khác nhau, không chỉ tạo ra sự phong phú về thành phần loài của hệ thực vật mà cho cả hệ động vật vì các hệ sinh thái là nơi cư trú, cung cấp thức ăn cho các loài động vật. Kết quả điều tra, khảo sát động vật có xương sống đã thống kê được 76 loài thú thuộc 24 họ, 8 bộ, 241 loài chim thuộc 50 họ, 16 bộ; 75 loài bò sát, ếch nhái thuộc 20 họ, 5 bộ và 91 loài cá thuộc 23 họ, 7 bộ. Hệ động vật có nhiều loài được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam (2007), Danh lục đỏ Việt Nam (2007) và Nghị định 32/CP, trong đó thú có 29 loài, chim 188 loài, bò sát ếch nhái có 22 loài và cá 5 loại. Về chim hiện có một quần thể công khoảng 30-40 cá thể. Đây là quần thể công duy nhất còn tồn tại ở Vườn quốc gia Xuân Sơn. Ngoài ra còn có nhiều loài động vật đặc hữu được ghi nhận như: vượn đen tuyền, voọc xám, vượn đen má trắng, sóc bay lớn, các loài khỉ, cú lợn rừng... Nhiều loài động vật có giá trị bảo tồn cao như: hổ, báo hươu, nai, báo gấm, gấu ngựa, sơn dương, vượn đen... Có 32 loài thực vật, 64 loài động vật quý hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam và sách Đỏ thế giới. Kết hợp với các hệ sinh thái nêu trên đã tạo cho VQG Xuân Sơn một cảnh quan đẹp hùng vĩ và hấp dẫn. Có thể nói, đây là mẫu rừng nguyên sinh độc đáo còn lại hiếm hoi của rừng miền Bắc cũng như của Việt Nam. Đồng thời, đây cũng nguồn tài nguyên quý để phát triển loại hình du lịch sinh thái của VQG Xuân Sơn – Phú Thọ nói riêng và Du lịch Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành hiện thực, cần biết liên kết hài hòa giữa tri thức với các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có. 2.2.2. Hang động kỳ thú Đáng chú ý là trong hệ thống núi đá vôi đã phát hiện được một hệ thống hang động phong phú, đa dạng và độc đáo do thiên nhiên ban tặng, đó là nhiều hang động đẹp có nét hấp dẫn riêng và độc đáo như: hang Lun, hang Lạng. Tại hang Lun có nhiều nhũ thạch đẹp, hang Lạng cao trung bình tới 10m, có nơi cao tới 20-30m, rộng trung bình khoảng 10 - 15m, hang này còn có suối chảy qua với chiều dài trên 7.000m. Ngoài ra, ở khu vực xóm Lấp, xóm Cỏi còn có khoảng 30 hang động khác nằm trong những núi đá thiên tạo, được tô điểm bởi các loài thực vật có hoa, có âm thanh dấu vết của các loài chim, thú, côn trùng... hoàn toàn tạo cảm giác khám phá mới mẻ cho khách du lịch và có ý nghĩa sinh học như: hang Dơi, hang Cửa Đất, hang Lấp, hang Ông Lão, động Thử Thần. Đặc biệt, động Thử Thần là một hang động có lối xuống nhỏ hẹp, thẳng đứng, chỉ đủ một người xuống nhưng khi vào trong rất rộng, có sức chứa hàng trăm người, trong hang có nhiều nhũ thạch đẹp lộng lẫy, có nhũ thạch cao tới 10m, khi gõ tiếng kêu vang lớn như tiếng chuông với nhiều âm thanh khác nhau, đặc biệt là các hang động này ở gần khu dân cư rất dễ tiếp cận. 2.2.3. Bản sắc riêng độc đáo Ở Xuân Sơn, với sự ẩn chứa trong mình một vùng du lịch sinh thái có tiềm năng lớn cần được khai thác, du khách còn được khám phá những nét văn hóa độc đáo của người Mường, người Dao là những dân tộc đại diện của vùng trung tâm Bắc bộ. Với tục cạy cửa độc đáo của người Dao, thưởng thức món rau sắng ngọt, thịt chua, để tin sính lễ Sơn Tinh: gà chín cựa – một vật quý của người Dao từ thượng cổ là con gia cầm có thật. VQG Xuân Sơn ở độ cao 1.244m, trong rừng đỗ quyên, trúc và trà my còn có cá cóc được đặc biệt coi là quý hiếm. Các nhà khoa học đang nghiên cứu nhằm tìm ra hoạt chất khiến nó có khả năng liền tay, chân và liền đuôi sau một thời gian bị đứt rời. VQG Xuân Sơn còn có chuối cô đơn, đây cũng lại là một loại cây lạ mới chỉ được phát hiện ở Hòa Bình và Khu bảo tồn Tà Cú, Bình Thuận. Chuối cô đơn, hay còn gọi là chuối bạc hà thường sống đơn độc giữa rừng già. Nó trồng bằng hạt chứ không có chuối con ấp mẹ như chuối thường. Cây cao tới 3m, đường kính thân chỗ to 0,60m, thon vót lên ngọn; bản lá có kích thước 0,60m x 3m. Cây thân kép, màu xanh nhạt có phủ lớp sáp trắng. Rất ít khi ra hoa nhưng đã ra hoa thì cực kỳ lạ: hoa chuối màu xanh cốm, rất to, đậu ít quả nhưng nhiều hạt. Tiềm năng du lịch của VQG Xuân Sơn hết sức độc đáo, đa dạng và hấp dẫn đang rất cần có sự quan tâm đầu tư của các cấp, các ngành trong chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như khai thác tiềm năng du lịch nói chung và phát triển du lịch sinh thái nói riêng. 2.2. Thực trạng phát triển du lịch Tuy có tiềm năng to lớn, nhưng du lịch sinh thái trong phạm vi cả nước nói chung và trong VQG Xuân Sơn nói riêng còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Các hoạt động đa số mang tính tự phát, chưa có sản phẩm và đối tượng phục vụ rõ ràng, chưa có sự đầu tư quảng bá, nghiên cứu thị trường và công nghệ phuc vụ cho du lịch sinh thái, chưa có sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của các cấp các ngành do vậy mà thực tế là sự đa dạng sinh học đang bị đe doạ. Vì vậy nên còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức và nhiều vấn đề cần được đưa ra xem xét, tìm hiểu để có hướng giải quyết với xu thế phát triển bền vững. Sự phát triển hiện nay vẫn đứng trước những thực trạng lớn là mối quan tâm chính của các tổ chức, các nhà đầu tư và các cấp quản lý. 2.1.1. Những kết quả đạt được Để biến nguồn tiềm năng du lịch thành hiện thực phải bám sát mục tiêu và phương hướng mà đề án phát triển du lịch đã đề ra. Phát huy nội lực, ưu tiên phát triển kinh tế phục vụ du lịch, từng bước đưa kinh tế phục vụ du lịch trở thành ngành kinh tế có thế mạnh, chiếm tỷ trọng cao trên cơ sở phát huy các lợi thế về địa lý, tài nguyên, sản phẩm truyền thống của địa phương giúp chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của huyện. Huy động các thành phần kinh tế, chính trị và cộng đồng tham gia sản xuất hàng hóa phục vụ du lịch dưới sự chỉ đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền các cấp vừa thu hút nguồn lực vừa giải quyết việc làm trên địa bàn huyện. Phát triển kinh tế phục vụ du lịch theo hướng bền vững đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản săc văn hóa truyền thống, tăng cường giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Từ đó góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng dịch vụ - nông, lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào năm 2015 - 2020. Tạo việc làm cho trên 8.000 lao động trong phát triển kinh tế phục vụ du lịch, tăng sự hấp dẫn, thu hút khách du lịch đến với các điểm du lịch của huyện đã được quy hoạch, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Để đạt được mục tiêu đó huyện sẽ chỉ đạo triển khai các chương trình chủ yếu đó là: Sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch từ trồng trọt gồm: Phát triển giống lúa chất lượng cao - nếp đặc sản; trồng ngô địa phương (ngô nếp); trồng khoai tầng; trồng chuối phấn vàng; thâm canh chè chất lượng cao (chè PT95, Hùng Đỉnh Bạch, Phúc Vân Tiên, Keo Am Tích) chè Bát Tiên, chè Núi Thiếp; trồng và khai thác cây rau bản địa (rau chuôi, rau sắng, rau dớn, cải nương, hoa chuối rừng, măng đắng, vừng đen); trồng, khai thác, chế biến các loại cây thuốc, dược liệu quý. Phát triển các sản phẩm phục vụ du lịch từ chăn nuôi gồm có: Chương trình nuôi gà nhiều cựa, gà ri, gà tre, chăn nuôi vịt suối, nuôi lợn lửng, lợn rừng lai, nuôi ong lấy mật, phát triển đàn dê. Đồng thời cũng tập trung cho chương trình sản xuất các sản phẩm ẩm thực, sản xuất các sản phẩm đặc trưng mang bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống. Mấy năm gần đây khi UBND tỉnh Phú Thọ đặt một trong năm mũi nhọn phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh là phát triển du lịch sinh thái ở Xuân Sơn. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển tiềm năng du lịch nơi đây. Tỉnh đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để mở đường vào khu rừng quốc gia. Cán bộ và nhân dân Xuân Sơn ngày càng có ý thức sâu sắc bảo vệ, nuôi dưỡng cảnh đẹp và những gì quý giá mà thiên nhiên ban tặng để tạo ra môi trường du lịch thật tốt. Việc quan trọng đầu tiên là phải bảo vệ rừng. Để ngăn chặn những kẻ phá rừng, hai hạt kiểm lâm: Thanh Sơn và Xuân Sơn đã đặt hai trạm gác rừng ở thế hiểm yếu của đường bộ, đường sông là: trạm Co - M._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25299.doc
Tài liệu liên quan