LỜI NÓI ĐẦU
Nằm giữa sông Đuống và sông Cầu, Bắc Ninh (Kinh Bắc xưa) là vùng đất cổ của người Việt với mật độ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh dầy đặc. Không chỉ thu hút du khách bởi những bức tranh “ bừng sáng trên giấy điệp, lặng lòng người bởi những triền đê xanh mướt, ngút ngàn cỏ và hoa cúc dại mà còn thu hút bởi những kiến trúc Phật Giáo nổi tiếng. Nhắc đến Bắc Ninh là không thể không nói đến Chùa Bút Tháp. Đây là một ngôi chùa cổ, mặc dù đã trải qua những lần trùng tu, sửa chữa nhưng
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Du lịch chùa Bút Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chùa vẫn giữ được những tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ và nét nguyên sơ hấp dẫn của nó với sự dung hội hai nền văn hoá Việt – Hoa.
Chùa Bút Tháp hiện còn khá nhiều tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ. Nổi bật là hai tác phẩm Tháp Bảo Nghiêm (có thể vì nó giống hình cái bút mà người ta gọi chùa với tên là Tháp Bút?) và bức tượng Phật Bà Quan âm nghìn mắt nghìn tay. Toàn bộ kiến trúc của ngôi chùa là một khuôn mẫu về sự kết hợp hài hòa kiến trúc của các chất liệu gạch, gỗ và đá, của sự hòa nhập kiến trúc rất gần gũi với môi trường thiên nhiên. Những ai đã từng đến đây chắc chắn sẽ bị chinh phục bởi vẻ đẹp kỳ thú và cực kỳ ấn tượng của nó.
Chùa Bút Tháp không chỉ hấp dẫn đối với người dân Việt mà còn thu hút khá đông khách Quốc tế đế viếng thăm. Đây đang thực sự trở thành một địa điểm du lịch lý tưởng và là nơi hành hương của đồng bào cả nước và của du khách thập phương.
I-Tên di tích và lịch sử xây dựng
Bút Tháp là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở đất Kinh bắc xưa. Giử vẻ đẹp trong sự thăng biến của bao đời, chùa cổ uy nghiêm và tĩnh lặng trong không gian văn hoá đất Bắc. Bút Tháp với sự huy hoàng của cái nôi Phật Giáo, dòng Lâm tế phát xuất thời Lê, tạo thành mạch nguồn đạo giáo thâm sâu trong tâm thức dân tộc. Chùa cổ dấu xưa đến nay đã trải qua mấy trăm năm, hưng tích vẫn còn với thời gian, mà lịch sử vẫn là điều chưa được thấu rõ.
1 a. Tên di tích thường gọi, tên chữ và các tên gọi khác
- Tên thường gọi : Chùa Bút Tháp
- Tên chữ là "Ninh Phúc Thiền tự", lại là chốn "Thiền lâm cổ tự". Trước đây, chùa có tên Vĩnh Nghiêm. Theo sổ sách ghi lại, đời vua Tự Đức, năm 1876, trong một lần đi qua đây vua thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm..
- Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp.
1 b. Thuộc xã phường, quận huyện – Đơn vị hành chính cũ hay mới.
Chùa nằm tại địa phận làng Á Lữ xã Nhạn Tháp huyện Siêu Loại phủ Thuận An xứ Kinh Bắc xưa nay thuộc thôn Bút Tháp xã Đình Tổ huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
2 a. Nội dung các tấm bia trong chùa
Tư liệu thành văn còn lại trong chùa và trên các tháp mộ quanh chùa được khắc trên bia đá, chuông đồng, biển gỗ có rất nhiều ý nghĩa, đó là nguồn sử liệu chứa đựng nhiều thông tin về ngôi chùa. Hiện tại chùa Bút Tháp còn lưu giữ được 17 văn bia thời Lê, một văn bia thời Nguyễn, một minh văn trên chuông thời Nguyễn niên đại Gia Long và nhiều bức đại tự bằng gỗ.
Văn bia có niên đại sớm nhất tại chùa Bút Tháp là bia Phụng lệnh chỉ tạo năm Phúc Thái 4 (1646). Bia này được đặt phía bên phải trong Nhà Tổ Đệ Nhất. Bia có hình dáng cột đá, được chôn trực tiếp xuống nền đất, không đặt trên lưng Rùa. Bia là một thanh đá cao 167cm, rộng 33cm, dày 14cm, trán bia cao 22cm và được trang trí rất tinh tế. Ở giữa trán bia là một hình chạm nổi đồng tâm. Trên mặt tròn để trơn, xung quanh có các đao mác hình ngọn lửa tỏa ra, các đao được thể hiện một cách mềm mại, uyển chuyển. Xung quanh vòng tròn có hai con rồng chầu vào. Rồng được chạm rất khéo léo và đăng đối. Tuy nhiên những tấm biển gổ để khắc đại tự treo ở chính giữa gian thiêu hương còn có niên đại sớm hơn cả bia đá. Đây là trường hợp rất hiếm gặp tại các di tích cổ. Bởi vì chất liệu gỗ rất khó bảo quản lâu bền như chất liệu đá, chúng thường bị thời gian làm cho mục ruỗng. Vậy mà hiện nay tại chùa Bút Tháp vẫn còn ba tấm biển gỗ có niên đại Dương Hoà 8 (1643), là bằng chứng sớm nhất có văn bản khắc xác nhận ngôi chùa. Hai tấm biển được treo tại gian đầu tiên của chùa, một tâm khắc bằng chữ Hán.Qua đó ta có thể thấy sau khi xây dựng lại chùa Ninh Phúc và điện Đại Hùng, vào năm Dương Hoà 8 (1643) người ta mới chỉ kịp khắc chữ ghi lại vào mấy tấm biển gỗ để treo. Đến năm Phúc Thái 4 (1664) lệnh chỉ của Chúa Trịnh đã được khắc vào bia đá, đó là văn bia Phụng lệnh chỉ của Chúa Trịnh Tráng cho phép dân xã Nhạn Tháp được thu lấy toàn bộ số thuế ngạch chi dùng vào việc đèn hương lễ Phật. Năm Phúc Thái 5 (1647) có thêm bốn văn bia ghi lại quá trình xây dựng và trung tu chùa.
Ngay khi bước vào chùa ta bắt gặp 2 tấm bia đá được đặt trên lưng con rùa được khắc bằng chữ Hán Nôm.
Đi tới tòa “Cửu Phẩm Liên Hoa” được dựng trên cơ sở bia “Tích Thiện Am”
Bia Tích Thiện am là một tấm bia nhỏ ,được dựng vào giờ tốt ngày lành tháng 11 năm Tân Mùi niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691) gồm có hai mặt, một mặt có văn toàn bia, mặt kia chỉ có một dòng ghi bài vị của vị Thiền sư, kích thước mặt bia cao khoảng 70x50cm chiều ngang, chân bia chôn dưới đất, gần sát phần chữ cùng với chữ nhỏ vì thế rất khó in bia và đọc văn bản. Còn mặt sau là bài vị:” Trưởng lão tăng là Hà Đăng Đệ, tên chữ là Huệ Thông, đạo hiệu là Huyền Thanh Phổ Tế Thiền sư”
Thực tế thì văn bia không hề đưa ra một từ ngữ nào liên hệ đến chùa Bút Tháp cũng như tên đất lân cận trong vùng Thuận Thành. Năm 1659 Minh Hành mất thì Như Phúc nối đèn lên trụ trì chùa Bút Tháp, trong khoảng 30 năm không thể có điều gì khác biệt. Như vậy bia Tích Thiện am là được đem từ nơi khác về mà chúng ta không biết nguồn gốc bia từ đâu và theo thời gian cùng thói quen mà dân ta gọi tên tòa nhà Cửu phẩm liên hoa theo tên bia là "nhà Tích Thiện Am".
Ngoài ra còn 3 tấm bia quan trọng khác như: “Sắc kiến Ninh Phúc Thiền Tự “(xây dựng chùa Ninh Phúc) năm 1642 ; “Ninh Phúc Thiền Tự Tam Bảo Tế Tư Điền Bi”(bia cúng ruộng cho Tam Bảo chùa Ninh Phúc) năm 1674 ; "Ngự chế Đại hùng bảo điện năm 1642.
Với những tấm bia đá có niên đại lâu đời còn giữ được tại chùa Bút Tháp đã tôn lên giá trị cổ kính của ngôi chùa và là sử liệu vô cùng quí giá giúp cho các học giả nghiên cứu về ngôi chùa này trên nhiều phương diện khác nhau.
2 b. Năm tháng xây dựng và các đợt trùng tu nâng cấp mở rộng.
Theo Bắc Ninh phong thổ tạp kí, chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278)thời Trần, sách ghi chuyện tổ thứ ba thiền phái Trúc Lâm là Huyền Quang tôn giả(đỗ Trạng nguyên năm 1297 thăm chùa Ninh Phúc mà dựng toà "Cửu phẩm liên hoa". Nhưng sách được chép vào thời Nguyễn nên cứ liệu trên chỉ là giả thuyết để nhận định lịch sử về ngôi chùa mà thôi. Lại theo L.Bezacier trong tác phẩm Nghệ thuật Việt Nam thì chùa có niên đại từ thế kỷ 14, nhận định này cũng tương tự như Bắc Ninh phong thổ tạp kí.
Như vậy chùa Ninh Phúc đã có lịch sử từ thời Trần và một khoảng thời gian dài không có sử sách nào ghi chép về diễn biến của ngôi chùa cho đến sau này khi chùa được vua chúa nhà Lê Trịnh tu sửa vào đầu thế kỷ 17. Năm 1633 Thiền sư Chuyết Chuyết và đệ tử Minh Hành phiêu dạt sang phương Nam và đến kinh đô Đại Việt. Tại kinh đô thầy trò Thiền sư đã được vua Lê chúa Trịnh và hoàng thân quốc thích Lê triều mộ đạo sùng tín. Sau đó Chuyết Chuyết về trụ trì chùa Phật tích trên núi Tiên Du. Theo văn bia và biển ngạch (hoành phi) trong chùa ghi lại thì vua Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã cho tu sửa lại chùa và dựng biển ngạch "Sắc kiến Ninh Phúc thiền tự" cùng "Ngự chế Đại hùng bảo điện" vào năm Dương Hoà thứ 8 (1642). Điều đó cho thấy chùa có thể được dựng vào năm 1642 và thời gian Chuyết Chuyết trụ trì chùa Phật Tích thì chùa Ninh Phúc được vua Lê chúa Trịnh và thập phương tín thí cho tu sửa. Chuyết Chuyết chuyển sang trụ trì chùa Ninh Phúc được 2 năm thì mất (năm 1644), đệ tử của ông là thiền sư Minh Hành kế tục làm thủ toà chùa Bút Tháp. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng hưng lại ngôi chùa thêm khang trang và vững bền tới ngày nay với việc cho dựng hành lang đá, cầu đá và tháp Báo Nghiêm cũng như soạn dựng các văn bia năm 1647. Chính Lệnh chỉ của chúa Trịnh Tráng cũng cho "miễn sưu sai tạp dịch" trong dịp "bản xã có ngôi cổ tích danh lam là chùa Ninh Phúc nay được dựng sửa lại" (Phụng Lệnh chỉ-1646).
Sang đầu thế kỷ 18, chùa Ninh Phúc lại được tu sửa với quy mô lớn. Bia "Ninh Phúc thiền tự bi kí" dựng năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) chép rằng "trong xã vốn có danh lam cổ tích là chùa Ninh Phúc, tuy được mở dựng bởi bậc thánh đời trước, nhưng qua nhiều năm đã hư hoại" và được các quan viên như Luân Quận công họ Lê, Nhu Thuận quận chúa họ Trịnh, Thể Thái Hầu là Lê Hội, Dĩnh Quận Công Lê Đĩnh, Ninh Lộc Hầu Lê Vịnh,... cho tu sửa thêm khang trang hơn mà "chẳng tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt, lại được dân làng góp sức mời thợ cất dựng sửa sang, điện thờ nguy nga, chùa chiền rộng rải, trang điểm một bầu thế giới Lưu ly" (Khánh Lưu bi kí-1714). So với trước kia thì sau khi chùa được dựng lại thêm "dãy nhà riêng ở phía sau Phật đường", chùa đã quy mô to lớn hơn trước hơn rất nhiều.
Sau đó hơn 20 năm thì chùa lại được trùng tu một lần nữa, lần này có lẽ là lần định hình nên kiến trúc và diện mạo của chùa cho đến ngày nay, bao gồm toàn diện các toà nhà đều được trùng tu lại cho thêm mới. Bia tháp Tôn Đức dựng năm 1739 cho biết "trụ trì chùa Ninh Phúc là Sa môn Tính Hài hưng công tu sửa trang hoàng, tu dựng tượng vàng ngày lành tháng 4 năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) triều Lê". Cũng trong lần tu sửa này toà Cửu phẩm liên hoa cũng được tạo dựng.
Sau bao tan biến của bể dâu, triều chính thay đổi, dân tình nghèo đói tan tác, dấu cũ chùa xưa thêm tiêu điều, các cao tăng thạc đức của chùa vắng bóng như hầu hết các chùa trên đất Việt giai đoạn này. Cũng từ đây không còn dấu sách, văn bia nào ghi chép về các thiền sư của chùa mà chỉ còn lại đôi chút hình ảnh chùa Bút Tháp trong các thư tịch về một thắng tích còn vang bóng một thời.
Đầu thời Nguyễn, sau một thời gian đất nước dần trở về sự ổn định và nhân dân yên ổn làm ăn thì nhu cầu tâm linh của họ được chú trọng. Cùng với thời gian diện mạo chùa xưa nay đã tiêu điều, chuông cũ tiếng vang không còn được như xưa, dân tình và các quan viên hương lão đã họp bàn đúc lại chuông, bài minh trên chuông chùa cho biết chùa xưa rất lớn "vào các năm Dương Hoà, Phúc Thái tu sửa chùa chiền được 120 gian". Bài minh chỉ ghi việc đúc lại quả chuông mà thôi.
Sang thế kỷ 20, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Trọng Phu đi qua vùng Thuận Thành thấy chùa hoang vắng tàn lụi nên bàn bạc cùng quan lại thu thập tiền của mà trùng tu "từ ngày 1 tháng 10 năm Quý Mão khởi công tu sửa chùa, tới ngày 15 tháng 3 năm Giáp Thìn (1905) thì hoàn thành". Từ đó tới nay đã 100 năm, chùa lại mấy lần được sửa sang, như các năm 1937, 1940, 1957 và gần đây là đợt có quy mô lớn vào các năm 1990-1993.
Ngày nay chùa xưa dấu cũ vẫn trang nghiêm với những dải "ngô khoai biêng biếc", "những cô hàng xén răng đen" bên làng vùng ven sông Đuống. Bút Tháp vẫn vút trên trời xanh tâm linh của vùng Kinh Bắc, mang dư hưởng cho khách thập phương và bậc thức giả chút thảnh thơi và hiểu thêm về một chốn tổ thiền.
II – Quy hoạch và kiến trúc
Quy hoạch di tích và mô tả phương hướng, thế đất xây chùa
Quy hoạch di tích.
Chùa Bút Tháp được xây dựng trên vùng thềm Châu Thổ sông Hồng với diện tích 10.000m2. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Chùa có kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng, chặt chẽ, sinh động- là một khuôn mẫu về sự kết hợp hài hòa kiến trúc của các chất liệu gạch, gỗ, đá, của sự hòa nhập giữa kiến trúc và môi trường thiên nhiên bao quanh. Kiến trúc chùa được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng lại rất tự nhiên ở khu vực xung quanh. Người xưa đã biết kết hợp cảnh quan của cả vùng để tạo nên sự hoà nhập đó. Với cảnh quan hiện có, chúng ta thấy bên trái chùa có dòng sông Đuống, trước cửa chùa là đồng ruộng mênh mông, xa xa ở phía trái và phía phải chùa có núi Tam Đảo, núi Phật Tích bao bọc. Chúng ta có cảm giác rằng người xây dựng chùa như muốn kiến trúc này hoà nhập vào không gian mênh mông đó.
Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song hành được bố trí đăng đối trên một đường "thần đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên đó là tòa Tiền Đường, Thượng Điện, Cầu Đá, tòa Tích Thiện Am, Trung Đường, Phủ Thờ, tòa Hậu Đường và hàng tháp đá.
Sau nhà Hậu Đường bố trí đăng đối theo trục chính và phương pháp xử lý các khối kiến trúc của công trình đã tạo nên vẻ thâm nghiêm, u tịch cho cảnh chùa. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện tư tưởng về giáo lý của đạo phật, diễn tiến từ nhận thức suy lý đến thự chành chính nghiệm đã đạt được đến sự giác ngộ và giải thoát.
Lối kiến trúc này phổ biến trong các chùa làng thế kỷ 17 như chùa Keo, chùa Thầy và có lẽ bắt đầu từ chùa Phổ Minh ( thế kỷ 13 ). Gọi là kiến trúc “ nội công ngoại quốc “- trong chữ công ngoài chữ quốc - tức là nhiều lớp nhà cắt ngang một trục dọc nối liền bởi một nhà cầu, hai bên có hành lang bao bọc. Cách bố trí như vậy luôn quy gọn các công trình hình chữ nhật có cấu trúc vì kèo bên trong tạo thành một khối lớn. Các lớp nhà có thể sít nhau, có thể dãn cách để xen kẽ vào đó sân và vườn cảnh, nhưngc hủ yếu do yêu cầu phân cắt các thành phần của hệ thống tượng Phật bên trong. Không gian luôn có tính chất nửa đóng nửa mở, nửa hở nửa kín. Thiên nhiên xen kẻ trong công trình nhân tạo. Nhìn bên ngoài thì nhỏ, đi vào thấy rộng và mở mãi vào trong như không cùng làm cho ngôi chùa như rộng hơn thực tế. Giới hạn ngôi chùa với làng xóm như không quá tách biệt.
Mỗi khi đi qua một công trình kiến trúc là khách hành hương đã bước dần vào ý đạo. Có thể nói rằng người thiết kế công trình này khi vẽ đồ án xây dựng đồng thời vạch ra một chương trình tu đạo cho các phật tử. Trong các kiến trúc của chùa Bút Tháp ta có thể tìm được những bộ phận kiến trúc mang dấu ấn Trung Hoa một cách đậm nét nhất, đó là hàng lan can bao quanh tòa Thựợng Điện, lan can cầu đá, rào vây tháp đá Báo Nghiêm, một vài kiến trúc ở tòa Thượng Điện.
Ngay cả lối bố trí kiến trúc công trình theo kiểu "nội công ngoại quốc" một cách đăng đối, chặt chẽ. Ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa có lẽ thể hiện rõ nét nhất là ở cầu đá và tháp Báo Nghiêm. Cầu được tạo dáng cong vồng lên. Đường thông thủy phía dưới được xây theo hình vòm cống bằng đá hình múi bưởi, đó là kỹ thuật xây cất Trung Hoa, giống như kỹ thuật xây mộ cổ Trung Quốc mà ta thường gọi là mộ Hán.
Mảng kiến trúc ở phần cuối chót lan can của hai bên cầu càng thể hiện rõ nét hơn, nó hoàn toàn giống với bộ phận có chức năng tương ứng với bộ phận đi vào Đạt Ma Động trong chùa Thiếu Lâm Tự (Nam Trung Hoa). Hình dáng và các bộ phận kiến trúc ở tháp đá Báo Nghiêm cũng khiến chúng ta nghĩ đến Trung Hoa trong kiến trúc tháp.
Nếu đi sâu vào kiến trúc ở tháp đá này, chúng ta sẽ thấy một phần của tháp là một chiếc "đình" bát giác Trung Hoa với các bộ phận kiến trúc đặc trưng cho kiến trúc Trung Hoa đó là các "quản lạc" nằm dưới các mái hiên, đỡ các quản lạc này có các "tước thế". Trong kiến trúc Việt thế kỷ XVII chúng ta chưa gặp các cấu kiện kiến trúc này.
Song rõ ràng, những yếu tố mang đậm dấu ấn Trung Hoa trong kiến trúc đã kết hợp được một cách hài hòa với các yếu tố văn hóa truyền thống của người Việt. Sự phối hợp này không tỏ ra khiên cưỡng mà trái lại, nó thể hiện được sự hòa nhập, ăn ý.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động và độc đáo.Trang trí được thể hiện ở mọi nơi, trên các chất liệu gỗ và đá, trên kiến trúc và trên đồ thờ. Trên lan can bao quanh tòa Thượng Điện có 26 bức chạm khắc trang trí nhiều đề tài. Chúng phân bố cân đối, mặt trước mỗi bên một bức, hai bên đầu hồi mỗi bên hai bức, mặt sau mười bức không khép kín mà mở lối đi vào cầu đá.Trên lan can cầu thang đá nối với tòa Tích Thiện Am có 12 bức và ở lan can quanh sân Tháp Báo Nghiêm có 12 bức chạm đá. Như vậy, tổng cộng số các bức chạm khắc trên đá chùa Bút Tháp là 51 bức chạm với nhiều đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu, phong cách và như vậy, thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động, tươi vui, hàm chứa ý nghĩa đạo phật và đặc biệt mang đậm tính chất nghệ thuật thiền. Tất cả các bức chạm tập trung về đề tài cỏ cây hoa lá như: sen, cúc, trúc, lan, tùng, các loại động vật như: ngựa, dê, trâu, khỉ, hổ, cá, cò và những linh vật: rồng, long mã...
Với một tổng thể hài hòa bởi các tòa nhà được kết hợp giữa gỗ và đá tạo cho chùa Ninh Phúc một vẻ đẹp vừa hoành tráng cá biệt vừa giản dị mà trang nghiêm và nổi trội lên trong toàn cục đó là tòa nhà Cửu phẩm liên hoa. Nhưng xung quanh "cối xay gạo" (tòa Cửu phẩm liên hoa) này còn nhiều điều cần bàn tới về lịch sử và kiến trúc. Đó là một cây tháp gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục. Tháp đặt nhiều pho tượng Phật, Bồ tát và trang trí nhiều mảng phù điêu lấy đề tài trong Phật thoại.
Theo Bắc Ninh phong thổ tạp kí được viết dưới thời Nguyễn thì chùa Ninh Phúc từng được tổ thứ 3 phái Trúc Lâm Yên Tử là Huyền Quang đến thăm và cho dựng tòa Cửu phẩm liên hoa. Nhưng toàn bộ kiến trúc, mỹ thuật, niên đại và tôn giáo cho các thức giả nhận đoán chùa được dựng vào thế kỷ XVII, tức là chùa được xây dựng vào giai đoạn tổ Chuyết Chuyết sang lánh nạn ở nước Nam và được vua Lê chúa Trịnh cùng hoàng thân quốc thích sùng tín mà tòa Cửu phẩm liên hoa cũng được xây dựng trong các đợt tu tạo.
Cửu phẩm liên hoa là cái tên được dân ta quen gọi theo tên bia là nhà “ Tích thiện am” .Tòa nhà Cửu phẩm liên hoa cao khoảng 7 mét, với 12 mái cong, chồng diêm 3 tầng, các hàng cột giữa cao to nâng các tầng trên, cùng với kiểu thức vì kèo chồng giường tạo nên sự vững chắc, thoáng đãng mà nhẹ nhàng. Trong nhà là tòa Cửu phẩm liên hoa cao chín tầng, với 32 bức chạm khắc tỉ mỹ và công phu về nghệ thuật và hàm ý đạo giáo, thể hiện ý nghĩa mỗi tầng là một cảnh giới siêu thoát. Tín chủ mỗi lần xoay tháp tụng niệm danh Phật thì vãng sanh tịnh độ, mà được siêu sinh lên thế giới cực lạc, thế giới Di lặc, cõi vô sinh vô tử siêu thoát Niết bàn. Trong tổng thể kiến trúc, tòa Cửu phẩm liên hoa mang một vẻ đẹp tượng trưng bởi sự dung hòa các tông giáo, kết hợp Tông giáo Tịnh độ trong việc thờ Di Lặc, tôn giáo Thiền tông và Tông giáo Mật tông trong thể nghiệm ý tưởng mà ý nghĩa của nó hiện trên các bức ván chạm trổ.
Như trên đã nói tòa Cửu phẩm liên hoa được dựng từ thời Trần bởi thiền sư Huyền Quang, nhưng chứng liệu chỉ là dựa trên một cuốn sách ghi chép vào thời Nguyễn. Nhưng căn cứ theo văn bia tại tháp Tôn Đức phía sau chùa tạo năm 1739 thì chùa được Thiền sư Tính Hài "hưng công tu sửa trang hoàng, tô dựng tượng vàng", đồng thời "việc dựng các tòa điện Phật cùng tòa Cửu phẩm liên hoa đã hoàn thành viên mãn", với sự trợ duyên của Thái Tôn Thái Phi Trương Thị Ngọc Chử hiệu là Diệu Khoan và con gái là Phương Hoa Thân Trưởng Thượng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ hiệu là Diệu Huy cùng Tỳ Khưu ni là Diệu Viên và các tín thí cúng dàng công đức. Như vậy tòa Cửu phẩm liên hoa được dựng lại năm 1739 và có quy mô kiến trúc cho đến ngày nay.
Từ các cứ liệu trên cho chúng ta biết về niên đại của tòa Cửu phẩm liên hoa trong tổng thể kiến trúc và lịch sử ngôi chùa.
Sau Tích Thiện am là ba nếp nhà song song. Đó là nhà Trung, nhà Phủ thờ (có tượng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ) và nhà hậu đường thờ tượng tổ sư các đời.
Bên trái chùa còn có nhà tổ đệ nhất, thờ Thiền sư Chuyết Chuyết
Cảm quan kiến trúc và mỹ thuật với các đường cong mái vút và độ cao tòa Cửu phẩm liên hoa cũng như sự điểm xuyết của các tháp trong một tổng thể tạo nên không gian hài hòa đầy sức biểu cảm cho chốn Thiền lâm bảo sái. Bút Tháp trang nghiêm tĩnh lặng đầm ấm và bao bọc khép kín, mang dư âm của một vùng văn hóa, một vẻ đẹp còn mãi trong lịch sử và tương lai.
Phương hướng và thế đất
Toàn bộ kiến trúc của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Người Việt xưa có câu: "lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam". Đối với đạo phật, hướng Nam là hướng của trí tuệ, hướng của bát nhã, nhờ có trí tuệ chúng sinh mới đáo bỉ ngạn (đến bến bờ giải thoát- niết bàn). Theo sách “ An Tượng Tam Muội Tập” về cách chọn đất đã quan niệm:” Đất tốt là nơi đất bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, hồ ao ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, lọng báu, hoặc có hình rồng phượng, qui, xà chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Cũng lại nên cưỡi đảo lại (đảo kị), như là người cưỡi ngựa thì đầu ở phía trước. Nước thì nên chảy quay sang trái. Nếu đảo kị, thì mạch nước lại vào ở phái trước. Trước mặt có minh đường hay không có minh đường đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề thế là đất tốt…Nếu được như thế mới có thể hưng hiển được đạo pháp, người trụ trì nảy sinh trí tuệ, người thí chủ có công đức lớn, phúc ấm đến con cháu. Nếu không làm như thế thì về sau tất mau chóng đổ nát, không có công đức gì. Cho nên hãy cẩn thận”. Phải chăng thế đất hình hoa sen này là bông sen nghìn cánh mà khi đạt tới thì con người sẽ đạt được lậu tận thông, trí sáng suốt vô cùng vô tận, hiểu biết được tất cả sự huyền bí của vũ trụ.
Chùa nằm trên một khoảng đất rộng bên bờ phải sông Đuống, sát cạnh đê, ngay chố lượn dòng của con sông mà theo quan niệm thì đó là nơi “ tụ thủy”- chỗ đất lành. Ngay trong tên gọi của chùa là Ninh Phúc cũng đã ẩn chứa sự yên lành, tốt phúc. Phong thủy của chùa phản ánh sự kế thừa về truyền thống xây dựng chùa của người Việt, thể hiện ước vọng sao cho Phật pháp được bền lâu, nhà tu hành được yên nghiệp, tâm linh sáng suốt để mau chóng đạt được chứng quả.
Cảnh quan môi trường
Kiến trúc chùa được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng lại rất tự nhiên vơí cảnh quan xung quanh.
Ngoài Tháp Bảo Nghiêm, chùa còn có tháp Tôn Ðức 5 tầng, cao 10m là nơi thờ thiền sư Minh Hành, vị tổ thứ hai của chùa. Điều đặc biệt là trên đỉnh tháp vẫn có cây cỏ phát triển.
Nối giữa Thượng điện (Thế giới Phật Pháp lòng thành được nhận) và Tích thiên Am (Nơi cầu mong để được siêu thoát) là chiếc Cầu đá cong (Vượt qua cầu đã cao xa giữ sạch bụi trần) bắc ngang qua hồ nước tinh khiết.Đây là một tích của nhà Phật – nơi đi qua cửa Phật rũ sạch bụi trần. Bên dưới cầu là hoa sen, hoa sung thơm ngát, chen giữa màu xanh cây lá là những nhịp cầu đá chạm trổ tinh xảo, thần tình và hài hoà những sư tử, nghê, hoa lá. Đứng trên cầu ta có thế ngắm những nét đẹp riêng của cảnh chùa. Cầu dài 4 m gồm 3 nhịp uốn cong vồng, mặt cầu lát đá xanh trơn nhẵn, hai bên cầu có 12 bức lan can đã được chạm khắc rất công phu, tinh xảo và bố trí rất hợp lý. Ngồi ở vị trị này, ta có thể nhìn ngẵm được những nét đẹp rất riêng của chùa. Rất nhiều bạn trẻ đến với chùa đã chọn chiếc cầu đá làm nơi lưu lại những hình ảnh kỉ niệm.
Tháp Bảo Nghiêm, tọa lạc ngay giữa khu vườn yên tĩnh ngập tràn bóng cây với hương bưởi thơm ngát trên đỉnh có hình nậm rượu, 5 tầng, 8 mặt, cao 13m, thờ hòa thượng Chuyết Chuyết, vị sư tổ của chùa. Ngày nay, Bảo Nghiêm vẫn uy nghi in bóng nên nền trời xanh ngắt đầy uy nghiêm.Đến với chùa là đến với một điểm du lịch mang tính nhân văn cao. Trong chùa, có nhiều cổ vật quý giá, nhiều tháp to, nhỏ rất đẹp mà ở những tháp ấy là nơi đặt xá lị của các thiền sư xưa.Tham quan cảnh chùa như một bức tranh tuyệt mỹ vẽ lên trong khung cảnh đồng ruộng bao la. Những mái ngói bồng bềnh, nhấp nhô giữa mầu xanh của cây lá:Bút Tháp đẹp như một bức tranh bởi phong cảnh làng quê, đồng ruộng và lối kiến trúc tinh xảo đượm màu cảnh giới. Mái ngói chùa cong rêu phong cổ kính nhấp nhô giữa màu xanh cây lá. Đến Bút Tháp giữa trưa, du khách sẽ cảm nhận được một không gian mát mẻ và thanh tĩnh đến lạ kỳ.
Trong chùa nhiều loại cây : hoa đại, hoa sen, mẫu đơn ., đặc biệt là hoa cau - những dãy dài hun hút, than cau cao, mốc thếch trải một màu xanh mát giữa những hàng lan can đá xanh trạm khắc rất hữu tình. Những nghê, rồng, loan, phượng xen lẫn cỏ cây, hoa lá sinh động phiêu dạt thổi hồn vào đá. Người Việt tâm linh ngắm cảnh chùa lòng thấy tĩnh tại. Nghĩ đến một điều gì đó xa xăm, phải chăng là tâm linh …
“Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng rờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm mầu nước non”.
Kết cấu bộ khung gỗ toà nhà chính và chú thích tên gọi( vẽ kiểu nhà Bái Đường )
Kết cấu bộ khung gỗ tòa nhà chính.
Tam quan
Có kết cấu ba hàng chân, có bẩy ngang, vì chồng rường cánh .
Gian Bái Đường:
Đây là tòa nhà 5 gian và hai chái. Các bộ vì ở đây có kết cấu bốn hàng chân cột
3.2 Bản vẽ kết cấu bộ khung gỗ gian Bái đường và chú thích
Mô tả mái ngói, đầu đao, bờ nóc, bờ dải
Trên thực tế không có ai kì công ngồi phân biệt, chia nhóm, sắp xếp cho các mái đao của chùa bao giờ, cũng không có cái quy chuẩn thống nhất nào cho các chi tiết của mái đao chùa nhưng có thể tạm phân chia mái đao thành 2 loại dựa vào thời gian là: mái đao cổ và mái đao hiện đại:
Mái đao cổ là mái đao của những ngôi chùa cổ đã được xây dựng từ vài trăm năm trở lên, những mái đao này có những nét chung tiêu biểu cho kiến trúc chùa chiền cổ như: được làm bằng chất liệu gỗ, vật liệu xây dựng cổ; thường có hình cuộn mây hay rồng; đầu mái đao thường quay vào trong; nét tạo hình thanh thoát, hài hoà...
Mái đao hiện đại là những mái đao của các ngôi chùa được xây mới gần đây. nét đặc trưng thường thấy là được xây bằng xi măng, vữa; đầu hướng ra ngoài; có sự học tập, vay mượn nhiều của các công trình trong và ngoài nước : chi tiết rườm rà ,…..
Phong cách xây dựng đình, chùa ở Việt Nam chịu ảnh hưởng và có lẽ bắt nguồn từ cách xây dựng các công trình này của Trung Quốc. Trong những thứ chịu ảnh hưởng đó thì có cả phần xây dựng các đầu đao ở các góc mái đình, mái chùa. Tuy có sự "sao chép" nhưng các nghệ nhân Việt Nam xưa đã có sự "cải tiến", cũng chính ở phần đầu đao này.Có thể thấy là đầu đao "Trung Quốc" rất đơn giản, không được trang trí hoa văn nhiều. Phần mái chùa được xếp thẳng, khi đến gần góc đầu đao thì hầu như không có sự chuyển tiếp mà giống như có 1 "nếp gấp" và phần mái ở góc được "gấp" dựng đứng lên. Chính vì có "nếp gấp" này mà đầu đao Trung Quốc luôn hướng thẳng ra ngoài. Mái chùa Việt Nam được tạo hình xếp thành một đường cong uốn lượn ở góc mái, tạo cảm giác mềm mại chứ không "cứng" như mái chùa Trung Quốc. Cùng với nét uốn mềm mại của mái chùa thì đầu đao theo đó được uốn cong lượn vào phía trong. Thêm vào đó là những nét trang trí đặc sắc cho đầu đao Việt Nam mà chùa Trung Quốc không hề chú trọng.
Không chỉ nhằm mục đích thẩm mỹ khi thiết kế mái đình, chùa uốn lượn và đầu đao uốn vào phía trong, các nghệ nhân Việt Nam xưa còn nhằm đạt tới nhiều mục đích khác:
- Mái chùa cong lên đều và lượn lên ở góc sẽ tăng khả năng tiếp nhận ánh sáng từ phía các góc mái. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt Nam vì khí hậu nóng ẩm quanh năm, cần có nhiều ánh sáng để các vật dụng không bị ẩm mốc.
- Cũng vì mái chùa nhô ra và cong lên ở góc nên cần có 1 bộ phận để giữ phần góc mái. Không thể đưa cột chống, cũng không thể đưa xà ngang để đỡ phía dưới, các nghệ nhân Việt Nam đã sử dụng chính đầu đao làm "tay kéo" phía trên mái, vừa trang trí vừa làm vững chắc cho mái chùa. Mái chùa Trung Quốc không cong lên nên họ cũng không phải quan tâm việc chăm chút góc mái, và vì vậy bỏ qua đầu đao.
Đi sâu vào nghiên cứu chùa Bút Tháp ta có thể nhận thấy cũng như các chùa Việt Nam khác,mái ngói của chùa trải rộng ra, bao phủ toàn bộ không gian tạo cảm giác ngôi chùa rất rộng. Đầu đao cong uốn lượn bồng bềnh duyên dáng, trên kiến trúc là những bức chạm trổ tinh xảo nghệ thuật.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Giống như những ngôi chùa đất Bắc khác, mái chùa Bút Tháp không cao, cửa điện không rộng, khiến người ta phải cúi mình, nhấc chân cẩn thận trong từng bước đi, cử chỉ, lời nói, ánh mắt. Ở góc, người ta muốn nâng mái cao lên vì vậy người ta xây thêm cột chốn. Gian Bái Đường rất lớn, tuy có bốn chân nhưng cột cao vì thế mái dốc nên có thể kéo dài được. Ở giai đọan thế kỷ XVII, thường cấu trúc vừa có bốn hoặc sáu hàng chân. Còn trước đó thời nhà Trần, chỉ còn lại bốn hàng chân. Vì chùa Bút Tháp được xây dựng từ thời nhà Trần nên tất nhiên được xây dựng theo cấu trúc bốn cột trụ. Giữa hai cột cái có câu đầu. Trên câu đầu có giá chiêng để đỡ thượng lương. Hai bên cột cái là hai cột quân không có xà nách mà chạy chéo gọi là kẻ.Toàn bộ tam giác trên đó gọi là vì kèo, do khônh có xà nách nên không có bẩy vì vậy kẻ kéo dài đều theo đầu mái. Trọng lượng của mái rất nặng vì được lợp ba tầng ngói. Các viên ngói được xếp đan xen khăng khít.Trọng lượng từ thượng lương chuyển sang hai cột chốn của giá chiêng chuyển trọng lượng xuống cho tòan bộ câu đầu. Hai bên câu đầu phải rất cân. Nó sẽ chuyển tiếp trọng lượng vào đầu những cây cột. Như vậy, cột đóng vai trò công năng đỡ toàn bộ mái này, có bao nhiêu cột thì phải chia trọng lượng mái ra cho các cột. Cột đỡ phải là cột đứng sẽ không bị bẻ cong, nếu nằm ngang thì dù là bê tông cốt thép nếu không đủ thong số kỹ thuật cũng sẽ bị bẻ cong. Cột cái bao giờ phải là cột to nhất vì phải đỡ nặng nhất trọng lượng của mái chùa. Sau đó đến cột quân, cột con. Cột con chỉ đỡ trọng lượng của mái hiên. Trước đây, những cột chốn này được làm bằng gỗ, nay được làm bê tông mới đỡ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22454.doc