LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, du lịch đã và đang trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhon của nước ta nói riêng và của toàn thế giới nói chung, tốc độ phát triển kinh tế du lịch tăng nhanh chóng trong thời gian vừa qua và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP cả nước. Một trong những hoạt động du lịch hiện nay được ưa thích bậc nhất đó là loại hình du lịch nghỉ biển, số lượng khách du lịch đi đến với biển ngày càng nhiều do đó cần có nhiều nghiên cứu về tình hình hoạt động và hướng đi du lịch
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Du lịch biển Nha Trang - Khánh Hoà. Tiềm năng, thử thách, hướng đi trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biển hiện nay.
Nước ta có điều kiện phong phú cho việc phát triển du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng, nhiều địa phương có điều kiện phát triển loại hình du lịch này như Hải Phong, Đà Năng, Khánh Hòa, Vũng Tàu , Nghệ An …. Trong đó Khánh Hòa có một lợi thế lớn hơn cả đó là có nhiều vịnh đẹp, bãi biển đẹp hấp dẫn, để phát triển loại hình du lịch biển này, tỉnh Khánh Hòa đã có nhiều hoạt động du lịch và có nhiều định hướng cho hoạt động trong tương lai
Bài viết này sẽ đề cập đến hoạt động du lịch biển tỉnh Khánh Hòa trong đó sẽ chú trọng đề cập đến hướng đi của du lịch biển trong thời gian tới.
Để hoàn thành bài viết , em đã được sự tham gia giúp đỡ tận tình của cô giáo ThS. Hoàng Lan Hương.
Em xin cảm ơn cô!
PHẦN 1
ĐIỀU KIỆN VÀ NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN PHẢI ĐỐI ĐẦU TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN GẦN ĐÂY.
1. Bối cảnh phát triển.
Việt Nam phát triển du lịch phù hợp với xu thế phát triển du lịch thế giới và khu vực.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình quân về khách 6.93%/năm, về thu nhập 11.8%/năm và trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu trong nền kinh tế thế giới.
Theo dự báo của WTO, năm 2010 lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới ước lên tới 1006 triệu lượt khách, thu nhập từ du lịch đạt 900 tỷ USD và ngành du lịch sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ việc làm chủ yếu tập chung ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương.
Trong quá trình phát triển, du lịch thế giới đã hình thành các khu vực lãnh thổ với các thị phần khách du lịch quốc tế khác nhau. Năm 2000 Châu Âu là khu vực đứng đầu thế giới với 57.8% thị phần khách du lịch quốc tế. Theo dự báo của WTO đến năm 2010 thị phần đón khách du lịch quốc tế của khu vực Đông á - Thái Bình Dương đạt 22.08% thị trường toàn thế giới sẽ vượt Châu Mỹ trở thành khu vực thứ hai thế giới sau Châu Âu và đến năm 2020 sẽ là 27.34%.
Trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, du lịch các nước Đông Nam á có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% thu nhập du lịch toàn khu vực. Theo dự báo của WTO, năm 2010 lượng khách du lịch quốc tế đến ĐNA là 72 triệu lượt với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn năm 1995-2010 là 6%.
Là quốc gia nằm ở trung tâm khu vực ĐNA, sự phát triển du lịch Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung của khu vực. Bên cạnh đó, do lợi thế về vị trí địa lý , kinh tế, chính trị và tài nguyên, du lịch Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng cường phát triển trong xu thế hội nhập của khu vực và thế giới.
Du lịch Việt Nam được đẩy mạnh trong bối cảnh mới và phát triển của đất nước.
Trong những năm qua sự nghiệp đổi mới đất nước đạt được những thành tựu lớn, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định; quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu nhiều kết quả tốt; kinh tế tiếp tục phát triển và duy trì được nhịp độ tăng trưởng khá, bình quân đạt 6.94%/năm trong thời kỳ 1996 – 2000 đạt 7.05 % năm 2002. Hệ thống kết cấu hạ tầng nhất là đường giao thông, cầu cảng, sân bay, điện nước, bưu chính viễn thông… được tăng cường. Các ngành kinh tế trong đó có các ngành dịch vụ đều có bước phát triển mới tích cực. Diện mạo các đô thị được chỉnh trang, xây dựng hiện đại hơn. Nông thôn Việt Nam cũng có những biến đổi sâu sắc, sản xuất lương thực, thực phẩm tăng mạnh và ổn định, trữ lượng lương thực được đảm bảo. Việt Nam đã đứng vào nhóm top các nước đứng đầu xuất khẩu gạo trên thế giới.
Văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Khoa học và công nghệ có chuyển biến phục vụ ngày càng nhiều hơn cho sản xuất, phát triển các ngành kinh tế và đời sống. Tình hình trên là nền tảng vững chắc cho du lịch Việt Nam phát triển.
Lợi thế phát triển du lịch của Việt Nam .
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên vùng và xã hội hoá cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham gia, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước( trích PL du lịch , 2/1999) và phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội, phát triển du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn…..(Văn kiện ĐH Đảng IX).
Việt Nam có những lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý kinh tế và chính trị để phát triển du lịch. Nằm ở trung tâm ĐNA, lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa vừa thông ra đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ và hàng không. Đây là tiền đề rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch quốc tế.
Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào , người Việt Nam thông minh cần cù, mến khách là những yếu tố quan trọng đảm bảo cho du lịch phát triển.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam phong phú và đa dạng. Các đặc điểm đa dạng về cấu trúc địa hình biển và hải đảo, đồng bằng, đồi núi, cao nguyên đã làm cho lãnh thổ Việt Nam sự đa dạng phong phú về cảnh quan và các hệ sinh thái có giá trị cao cho phát triển du lịch, đặc biệt là hệ sinh thái biển, hệ sinh thái sông hồ, hệ sinh thái rừng, hang động…..
Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài thứ 27 trong số 156 nước có biển trên thế giới và là nước ven biển lớn ở khu vực ĐNA. Bờ biển Việt Nam dài trên 3,260 km trải qua 15 vĩ độ, có 125 bãi biển có các điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghỉ ngơi nghỉ dưỡng tăm biển và vui chơi giải trí trong đó có nhiều bãi biển nổi tiếng hấp dẫn như bãi biển Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò , Thuận An, Lăng Cô, Non Nước, Văn Phong - Đại Lãnh, Nha Trang, Phan Thiết, Long Hải, Vũng Tàu, Hà Tiên, ….Đặc điểm hình thái địa hình vùng ven biển tạo ra nhiều vịnh đẹp có tiềm năng du lịch lớn như Hạ Long, Văn Phong, CamRanh trong đó Vịnh Hạ Long đã được UNESSCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới . Ngoài ra Vịnh CamRanh và Vịnh Hạ Long còn là thành viên của câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới. Trong tổng số hơn 2700 hòn đảo lớn nhỏ ven bờ nhiều đảo như Cái Bầu, Cát Bà , Tuần Châu, Côn Đảo, Phú Quốc … với hệ sinh thái phong phú cảnh quan đẹp có điều kiện phát triển thành các khu, điểm du lịch hấp dẫn.
Với khoảng 50.000km2 địa hình Karst, Việt Nam được xem như có nhiều tiềm năng du lịch hang động, thác, ghềnh to lớn trong đó có hơn 200 hang động đã được phát hiện điển hình là động Phong Nha với chiều sâu hơn 8 km mới đây đã được UNESSCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới thứ hai của nước ta.
Nguồn nước khoáng phong phú có ý nghĩa to lớn đối với phát triển du lịch. Đến nay đã phát hiện ra trên 400 nguồn nước khoáng tự nhiên với nhiệt độ từ 270 C đến 1050C. Thành phần hoá học của nước khoáng cũng rất đa dạng từ bicacbonat natri đến clorua natri có khoáng hoá cáo rất phù hợp với du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh.
Việt Nam có hệ động thực vật rừng đa dạng, tính đến nay, cả nước đã có 107 rừng đặc dụng trong đó có 25 vườn quốc gia, 75 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá lịch sử môi trường với diện tích là 2.092.466 ha. đây là nguồn tài nguyên cho du lịch sinh thái quý giá, nơi bảo tồn khoảng 12.000 loài thực vật gần 7000 loài động vật nhiều loại đặc hựu và quý hiếm trong đó vườn quốc gia Ba Bể với hồ thiên nhiên rộng được đánh giá là rộng nhất thế giới và đang được đề nghị UNESSCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam phong phú với lịch sử hàng ngàn năm dựng và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích có hơn 2500 di tích được nhà nước công nhận và xếp hạng. Tiêu biểu là cố đô Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn đã đước UNESSCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Ngoài các di tích cách mạng, lịch sử, văn hoá, nhiều làng nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét tinh tế riêng của nghệ thuật ẩm thực được hoà quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông đã tạo choddl Việt Nam có điều kiện khai thác thế mạnh du lịch văn hoá lịch sử.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch Việt Nam vừa phân bố tương đối đồng đều trong toàn quốc, vừa tập trung thành từng cụm gần các đô thị lớn, các trục giao thông quan trọng thuận tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành các tuyến du lịch bổ sung cho nhau giữa các vùng, có giá trị sử dụng cho mụch đích du lịch và sức hấp dẫn khách cao.
2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển du lịch Việt Nam và mục tiêu của du lịch trong tương lai trong tương lai gần.
2.1. Thuận lợi và cơ hội phát triển du lịch Việt Nam
Trong thế kỷ XXI, tình hình thế giới sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc với sự nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ. Kinh tế tri thức sẽ có vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan, ngày càng có nhiều nước tham gia, hoà bình, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn phản ánh nguyện vọng của mỗi quốc gia, mỗi người dân. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới tăng nhanh với xu thế chuyển sang khu vực Châu á - Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực ĐNA. Đây thực sự là một cơ hội tốt tạo đà phát triển cho du lịch Việt Nam.
* Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại trong đó có du lịch phát triển. Nhà nước quan tâm lãnh đạo chỉ đạo sát sao sự nghiệp phát triển du lịch của đất nước. Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
Đất nước con người Việt Nam đẹp và mến khách; Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, an ninh đảm bảo, là điểm du lịch còn mới trên bản đồ du lịch thế giới với tiềm năng tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú là điều kiện đặc biệt quan trọng cho du lịch phát triển.
Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện dần, pháp lệnh du lịch đã được ban hành, nhiều văn bản liên quan đến du lịch được sửa đổi, bổ xung, tạo hành lang pháp lý cho du lịch phát triển.
Kết cấu hạ tầng cơ sở, hạ tầng kinh tế, xã hội đã được nhà nước quan tâm đầu tư mới hoặc nâng cấp tạo điều kiện khai thác các điểm du lịch, tăng khả năng giao lưu giữa các vùng, các quốc gia…
2.2. Những khó khăn thách thức chủ yếu.
* Cạnh tranh du lịch trong khu vực và thế giới ngày càng gay gắt. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn rất hạn chế. Trong phát triển du lịch toàn cầu và của du lịch Việt Nam cũng phải tính đến những biến đổi khôn lường của khủng khoảng tài chính, năng lượng, thiên tai, chiến tranh khủng bố, xung đột vũ trang, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo.
Du lịch Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, điểm xuất phát quá thấp so với du lịch của một số nước trong khu vực, hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào tự nhiên, chưa được tôn tạo thông qua bàn tay của con người. Kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của lực lượng lao động còn yếu và có nhiều bất cập, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật cho du lịch còn yếu kém, thiếu đồng bộ.
Tài nguyên du lịch và môi trường đang có sự suy giảm do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên tai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều địa phương trong nước.
Vốn đầu tư phát triển du lịch rất thiếu, trong khi đó đầu tư lại chưa đồng bộ, kém hiệu quả đang là một thách thức không nhỏ đối với ự phát triển của ngành du lịch Việt Nam.
Nhận thức xã hội về du lịch vẫn còn bất cập. Hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển du lịch chưa đầy đủ và đồng bộ.
2.3. Mục tiêu phát triển du lịch Việt Nam.
2.3.1. Mục tiêu tổng quát.
Phát triển nhanh và bền vững làm cho “Du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”, đẩy mạnh xúc tiến du lịch, tập trung đầu tư có chọn lọc một số khu vực, điểm du lịch trọng điểm có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, xây dựng cơ sở vật chất cho du lịch hiện đại và phát triển nhanh chóng nguồn nhân lực, tạo sản phẩm du lịch đa dạng chất lượng cao, giàu bản sắc dân tộc, có sức cạnh tranh. Từng bước đưa Việt Nam trở thành một trung tâm du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một quốc gia hàng đầu khu vực về phát triển du lịch.
2.3.2. Mục tiêu cụ thể.
Tăng cường thu hút khách du lịch: Phấn đấu đến năm 2005 đón khoảng 3.5 triệu lượt khách quốc tế vào Việt Nam va 15 – 16 triệu lượt du lịch nội địa, năm 2010 đón khoảng 5,5 – 6 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng 3 lần so với năm 2000, nhịp độ tăng trưởng bình quân 11.4%/năm và 25 triệu lượt khách nội địa, tăng hơn 2 lần so với năm 2000.
Nâng cao nguồn thu nhập từ du lịch: Dự tính thu nhập du lịch năm 2005 đạt 2.1 tỷ USD, năm 2010 đạt 4 – 4.5 tỷ USD. Đưa tổng sản phẩm du lịch năm 2005 đạt 5% và 2010 đạt 6,5% tổng GDP của cả nước. Kết hợp chặt chẽ với các ngành, địa phương để đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch, tăng nguồn thu ngoại tệ.
Xây dựng mới, trang bị lại cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch: Xây dựng 4 khu du lịch liên hợp quốc gia : 1. Khu du lịch tổng hợp biển, đảo Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh – Hải Phòng) với địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
2. Khu vực tổng hợp giải trí thể thao biển Cảnh Dương – Hải Vân – Non Nước ( Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng) gắn với địa bàn kinh tế động lực miền Trung.
3. Khu du lịch biển tổng hợp Văn Phong - Đại Lãnh ( Khánh Hoà).
4. Khu du lịch tổng hợp sinh thái nghỉ dưỡng núi Dankia – Suối Vàng ( Lâm Đồng - Đà Lạt).
Xây dựng 17 khu du lịch chuyên đề quốc gia, chỉnh trang, nâng cấp các tuyến, điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch có ý nghĩa vùng và địa phương. Đến năm2005 cần có khoảng 80 000 phòng khách sạn, năm 2010 là 130 000 phòng. Nhu cầu đầu tư đến năm 2005 cần 1.6 tỷ USD, trong đó cho kết cấu hạ tầng khu du lịch là 0,94 tỷ USD; Đến năm 2010 cần 2.5 tỷ USD trong đó đầu tư cho kết cấu hạ tầng khu du lịch là 1.57 tỷ USD.
Tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội: Đến năm 2010 tạo thêm 1.4 triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp cho xã hội. Trong đó đến năm 2005 tạo 220 000 việc làm trực tiếp trong ngành du lịch, năm 2010 tạo 350 000 việc làm trực tiếp .
PHẦN 2
DU LỊCH BIỂN NHA TRANG – KHÁNH HOÀ - TIỀM NĂNG, THỬ THÁCH, HƯỚNG ĐI TRONG TƯƠNG LAI
Du lịch biển ở Nha Trang Khánh Hoà - tiềm năng, khó khăn.
1.1 Tiềm năng du lịch Khánh Hoà Nha Trang.
1.1.1 Khánh Hoà - Điều kiện phát triển du lịch biển
Khánh Hoà là một tỉnh miền trung nam bộ, có quần đảo Trường Sa nằm ở cực đông của đất nước, nơi đón nhận ánh nắng mặt trời đầu tiên của đất nước. Phía bắc giáp với Phú Yên, phía tây giáp với Đăclăc và Lâm Đồng, phía nam giáp tỉnh Ninh Thuận.
Khánh Hoà có bờ biển dài hơn 200 km với trên 200 hòn đảo nhỏ trong đó quần đảo trường sa có tới hơn 100 hon đảo lớn nhỏ.
Tỉnh có nhiều món ăn đặc sản quý như là món yến sào đặc biệt, món trả cá… ngoài ta Khánh Hoà còn có 5 suối nước nóng có tác dụng chữa bệnh và khai thác làm nước uống.
Khánh Hoà có nhiều cảng biển trong đó có cảng CamRanh thuộc loại cảng biển đẹp nhất thế giới hiện nay. Có sân bay quốc tế Nha Trang và sân bay CamRanh tiện lợi cho du khách đến Khánh Hoà. Khánh Hoà nằm trên con đường quốc lộ số 1A, đường sắt nối Khánh Hoà với các tỉnh nam, bắc, cao nguyên.
Bãi biển Nha Trang - Đại Lãnh - Văn Phong tạo thành dãy bờ biển hết sức tuyệt vời cho nhu câu tham quan nghỉ dưỡng biển ngày càng tăng ngày nay.
Khí hậu : Khánh Hoà đã và đang trở thành điểm đến của du khách tham quan du lịch biển, nghỉ dưỡng, văn hoá… và lý do chính là do ở đây có một điều kiện khí hậu tuyệt vời cho việc phát triển các loại hình du lịch này.
Khí hậu Khánh Hoà gắn liền với khí hậu biển cả mặc dù chịu tác động bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa và khí hậu biển. nhiệt độ trung bình là 260C năm, số ngày nắng khoảng 300 ngày trong năm quá phù hợp với các loại hình du lịch của Khánh Hoà.
Hình ảnh Nha Trang - Nàng Kiều nữ phương đông với mùa xuân còn mãi
Nha Trang là thành phố biển được chọn làm nơi nghỉ dưỡng tuyệt vời kỳ diệu khá sớm ở đất nước ta.
Một trong những lý do là Nha Trang có một điều kiện tự nhiên tuyệt vời cho du lịch nghỉ biển.
Thành phố Nha Trang là thủ phủ của tỉnh Khánh Hoà được hình thành với dáng vẻ đằm thắm trữ tình, nhiều con đường tuy nhỏ hẹp nhưng rậm mát bóng cây cổ thụ yên ả.
Bãi biển Nha Trang nằm ở chặng giữa của dải bờ biển dài 200 km thuộc tỉnh Khánh Hoà. Khí hậu thích hợp cho nghỉ dưỡng, du ngoạn vừa chịu chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính chất của khí hậu đại dương nên tính chất ôn hoà. nhiệt độ trung bình năm là 26.50 C. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1200 mm.
Thành phố biển Nha Trang ở vào vị trí thuận lợi về mặt giao thông, trên tuyến đường dài xuyên Việt và lên núi rừng cao nguyên phía tây. Đường hàng không, từ TP. Hồ Chí Minh bay chỉ mất 45 phút, đường bộ đi bằng tầu hoả hay ô tô mất tối đa là 8 giờ. Khoảng cách từ Nha Trang đến TP. Hồ Chí Minh là 448 km về hướng đông nên giữa hai thành phố này luôn gây cảm giác gần gũi đối với du khách khi đã đến một thành phố, và họ thường xuyên đi thăm hai thành phố trong một chuyến đi.
Bãi biển Nha Trang thuộc loại sâu nhất của nước ta. Đáy biển gồ ghề nơi có hàng ngàn loại san hô với nhiều cảnh sắc đẹp tích tụ ở đây hàng ngàn năm. Một số đảo có đủ điều kiện tham quan nghỉ dưỡng, vui chơi , thư giãn, ăn uống, che chắn tạo thành một vùng cảnh quan ngoạn mục, quyến rũ trữ tình, mặt nước êm đềm giống như một vùng hồ rộng, thích hợp với các hoạt động thanh niên thám hiểm đáy biển, săn bắnn. Hải sản ở đây rất nhiều loại ngon miệng.
Ngoài ra, thành phố biển Nha Trang còn có một loạt bãi biển dài, sạch sẽ nằm cạnh thành phố. Đây là lý do mà Nha Trang được gọi là thành phố biển của phía đông nước ta.
Nằm giáp với một trong những trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước – TP.HCM cũng là một trong những lợi thế lớn cho việc phát triển du lịch Khánh Hòa nói chung và phát triển du lịch biển nói riêng.
b) Một số điểm tham quan du lịch hấp dẫn ở Nha Trang,Khánh Hoà.
Khánh Hòa hiện nay là một điểm du lịch nổi tiếng thế nhưng việc mong muốn phát triển du lịch lại có từ lâu đời, bởi trong dân gian đã có lời hát từ lâu là:
Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang
Muốn tìm dấu cũ thì sang tháp Bà
Muốn trông trời biển bao la
Con thuyền nho nhỏ bơi ra hòn Chồng
Muốn xem cá lạ biển Đông
Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây
Muốn vui cùng nước cùng mây
Mây trùm suối Ngổ, nước đầy suối Tiên
Ba Hồ lắm thú thiên nhiên
Qua Sơn là chốn thần tiên về nhà
Lòng mong nương bóng bồ đề
Lên chùa Hải Đức gần kề Nha Trang
Chùa Long Sơn: Toạ tạc tại chân núi Tại Thuỷ, thuộc đường Phương Sơn thành phố Nha Trang.
Nơi đây có bức tượng phật tổ cao 24 mét, phần thân tượng cao 14 mét. Tượng được xây dựng năm 1964 - 1965.
Tháp Bà Ponaga nơi thờ mẹ xứ sở Champa, nay cũng là cơ sở tín ngưỡng của người Việt dân cư địa phương. Pho tượng Ponagar làm bằng đá thạch nguyên khối ngồi xếp bằng trên toà xen . Đây là một trong những di tích còn lại của dân tộc Champa để lại trên đất nước ta cùng với thánh địa Mỹ Sơn đã được công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Thủy cung Trí Nguyên - được thiết lập tại hòn Miễu là một địa chỉ du lịch hấp dẫn gần cầu Đá bến tàu du lịch. Tại đây mọi người có thích thú ngắm các con tàu ngày xưa được tân tạo, và đây là nơi quy tụ khá nhiều loài cá biển đủ màu sắc dùng làm cá kiểng hay cá thịt. Ngoài ra có thể dùng những loại đặc sản biển tại các nhà hàng, nghỉ dưỡng thỏa mãi hoặc đi thuyền canô ngoại cảnh biển.
Bãi biển Dốc Lết - bãi biển lạ lùng nằm cách Nha Trang 44 cây số về phía Bắc.Những bãi cát trắng mịn đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tình lãng mạn của các đôi nam nữ khu vực gần đó và ngày nay trở thành một điểm du lịch hấp dẫn. Nơi đây có giải cát trắng mịn chạy dài cảm tưởng như là một bãi xa mạc thế nhưng lại chứa đựng điều hấp dẫn cho mọi người tham quan. Họ muốn chạy dài bãi cát cho đến khi mệt nhoài không thể chạy tiếp mà phải lết vào và tiếp tục suống biển tắm tiếp. Bãi biển Dốc Lết cũng là một bãi biển đẹp bởi độ nông kéo dài hơn 100 mét nên ai cũng có thể bơi được mặc dù chưa biết bơi, nơi đây có dặng phi lao chạy theo bờ biển lên rất lên thơ khi di dọc bờ biển với người yêu.
Thắng cảnh hòn Chồng- đây là điểm tham quan lý tưởng cho hình thức du lịch vừa có thể ngắm cảnh, vừa có thể đi leo núi giữa thành phố.Khu vực hòn chồng là một quần thể với những khối đá lớn có hình thù kỳ dị gắn liền xếp chồng lên nhau, hòn vợ nằm dưới, hòn chồng nằm trên. Hòn chồng được gắn liền với câu truyện cổ tích của một vị thần khổng lồ và dấu ấn để lại là vết lồi lõm giống như năm ngón tay của vị thần để lại.
Suối Ba Hồ: nằm cách thành phố Nha Trang 25 km về phía bắc thuộc huyện Ninh Hoà, đây là một con suối chảy dài bắt nguồn từ đỉnh Hòn Sơn, chảy từ độ cao trên 600 mét, tên là Ba Hồ vì phía đầu nguồn trên đường vượt núi băng rừng để xuống với biển có ba lần mở lòng ngay trên lưng núi tạo liên tiếp ba cái hồ có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú.
Vịnh Văn Phong: theo các chuyên gia đánh giá thì đây là vịnh có tiềm năng vào loại hàng đầu khu vực Châu á để phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng. Vịnh Văn Phong là một vịnh lớn phía bắc được bao bọc bởi hòn Gốm- một eo cát nhỏ lối liền từ đèo Cổ Mã kéo dài 18km xuống phía nam với nhiều quả đồi nhô và nhiều ngọn núi lớn nhỏ đan xen lẫn nhau. cùng với Hòn Lớn ở phía Tây nam che chắn tạo nên Văn Phong với dáng vẻ độc đáo, sơn thuỷ hữu tình với nhiều bãi biển đầy cát trắng quanh năm hầu như lặng sóng và mặt nước luôn trong xanh đặc biệt là ở đây có được hệ sinh thái san hô phát triển khá điển hình của cả nước, thích hợp cho môn thể thao lặn biển.
ở Văn Phong có nhiều đảo đẹp như Hòn Đổ, Hòn Ông, Hòn Nước, Hòn Bịt… và các bãi biển đẹp kể đến đầu tiên là Đại Lãnh - một bãi biển tuyệt vời nơi đã được vua Minh Mạng cho chạm phong cảnh Đại Lãnh vào chín chiếc lư đồng của sân Thế Miếu.
với những vị trí như thế thì Văn Phong - Đại Lãnh trở thành một điểm du lịch trong tương lai là không còn ngạc nhiên.
ngoài ra ở Khánh Hoà - Nha Trang còn rất nhiều cảnh đẹp đáng để để tâm đến nhằm mục đích trở thành những địa điểm không thể thiếu được trong chuyến hành trình nào khi đi qua khu vực miền trung này như khu du lịch con sẻ tre, khu cổ thành Diên Khánh, Đảo khỉ, hải dương học và phân viện pasteur, chợ Đầm, Hồ cá Trí Nguyên, hòn Tằm, hòn yến .
1.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội.
* Các công ty du lịch hoạt động trong khu vực.
- Công ty du lịch Khánh Hoà: số 1 Trần Hưng Đạo Nha Trang.
- Công ty cung ứng tàu biển TM & Du lịch Nha Trang: 88A Trần Phú Nha Trang .
- Công ty du lịch Long Phú : Đá chồng, Vĩnh lương, Nha Trang.
- Công ty TM & ĐT Khánh Hoà: 68 yersin - Nha Trang.
- Công ty ĐT & PHáT TRIểN du lịch Nha Trang. 108 Thống Nhất Nha Trang.
- CN du lịch thanh niên hn tại Nha Trang. 29 nguyễn trãi Nha Trang.
…..
còn rất nhiều như vậy chứng tỏ tình hình hoạt động du lịch của các công ty lữ hành rất sôi động.
Ngoài só lượng các doanh nghiệp du lịch lữ hành thì các loại hình cư trú phục vụ cung cấp cho khách các dịch vụ cư trú ăn uống cũng không ngừng hoàn thiện.
Là một trung tâm du lịch lớn của cả nước, năm 2000 ngành du lịch Khánh Hoà vẫn tiếp tục phấn đấu trong đầu tư, xâu dựng, phát triển và hoạt động kinh doanh để từng bước tương xứng với tiềm năng vốn có.
Năm 2000 Du lịch Khánh Hoà đạt được khoảng 450 000 lượt khách trong đó sấp sỷ với 150 000 lượt khách quốc tế, tăng 12 - 14% so với năm 1999 và doanh thu đạt trên 200 tỷ đồng, lộp ngân sách 17 tỷ đồng. Ngành du lịch Khánh Hoà không ngừng đầu tư , nâng cấp các cơ sở lưu trú, các điểm du lịch đặc biệt là các khu du lịch sinh thái các khu du lịch hồ cá Trí Nguyên, Bốn mùa, Hòn Tằm, khu du lịch suối khoáng nóng tháp bà, khu du lịch hòn lao suối hoa lan … không ngừng được mở rộng, nâng cấp ngày càng hấp dẫn.
Nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư và phát triển du lịch, tỉnh Khánh Hoà đã tổ chức hội nghị " Khánh Hoà tự giới thiệu" tại TP HCM và quyết định ban hành chính sách ưu đãi đâu tư, đổi mới nội dung công tác quản lý nhà nước trong thực hiện luật doanh nghiệp thông thoáng, thuận lợi, chống phiền hà, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư và phát triển du lịch. Tính chất xã hội hoá của ngành du lịch từng buớc đã được thực hiện, nhờ đó năm qua môi trường du lịch đã tiến bộ rõ rệt theo hướng phát triển ổn định, bền vững. Nhiều yếu tố yếu kém đã được khắc phục , trên 140 khách sạn có 8 nhà nghỉ, 8 khu nghỉ mát vứi 3415 phòng kinh doanh.
Du lịch Khánh Hoà vẫn tiếp tục phát triển nhằm tạo đà cho những chuyển biến lớn , để bước vào thiên niên kỷ mới đón những vận hội mới , ngay từ những năm đầu của thiên niên lỷ mới du lịch Khánh Hoà thực hiện các chương trình như : Tiếp tục thực hiện công tác quy hoạch du lịch, xây dựng và phát triển năng lực kinh doanh, phát triển loại hình du lịch văn hoá, sinh thái …
Một trong những lợi thế lớn nữa của Khánh Hoà đó là Khánh Hoà được phát triển trong môi trường an toàn, một nước Việt Nam - the safest and the most friendly destination. trong khi đó các ngành du lịch của các nước khác đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do các cuộc chiến tranh vũ trang sảy ra gần đây.
1.2 Khó khăn cho du lịch Khánh Hoà ngày nay phải đối mặt trong quá trình phát triển.
Cũng như những khó khăn chung của ngành du lịch Việt Nam hiện nay. Ngành du lịch Khánh Hoà - Nha Trang đã và đang đối đầu với những thách thức khó khăn lớn cho quá trình phát triển du lịch.
1.2.1 Khó khăn từ bên ngoài không kiểm soát được.
- Chính sách pháp luật của nước ta tuy đã và đang được điều chỉnh cho hợp lý hơn đối với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tuy nhiên còn quá nhiều điều phải bàn cãi trong vấn đề này. Mâu thuẫn giữa vấn đề phát triển du lịch và vấn đề an ninh. Đây là điều mà không chỉ làm đau đầu các nhà quản lý nước ta mà làm đau đầu tất cả mọi người trong giới nghiên cứu du lịch thế giới. Mâu thuẫn thể hiện ở chỗ nếu để phát triển du lịch một cách tự do thì an ninh quốc gia sẽ có nhiều vấn đề từ những kẻ phá hoại từ bên ngoài mà chúng ta không kiểm soát được, mặt khác khi đề cao vấn đề an ninh quốc gia quá cao thì vấn đề phát triển du lịch sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút vốn vào đầu tư, thu hút khách quốc tế đến với chúng ta hơn. do đó đây là một trong những mục tiêu của ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch Khánh Hoà nói riêng phải tìm ra các giải quyết vấn đề này.
- Một số vấn đề về an ninh khủng bố .ở Việt Nam đã có biểu hiện một số vấn đề về mất an ninh điển hình như vụ nổi dậy của những người dân bị xúi bảy tại tay nguyên vừa qua sẽ tác động không nhỏ tới tình hình phát triển du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Khánh Hoà nói riêng. Khánh Hoà là tỉnh nằm tại miền trung gần với tây nguyên lên chịu tổn thất lớn trong quá trình lấy niềm tin cho khách hàng về một điểm đến an toàn của mọi người.
đồng thời dịch Sars đã tác động tới ngành du lịch Việt Nam rất lớn do đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới ngành du lịch Khánh Hoà.
Khó khăn nguyên nhân nội tại tỉnh Khánh Hòa
- Vấn đề gặp phải đầu tiên đó là khả năng truyền tin kém hiệu quả. Nếu không phải là đã đến Việt Nam hoặc là người Việt Nam thì mọi người có biết đến một Khánh Hoà - Nha Trang có nhiều tài nguyên đến vậy, cũng không biết đến một Nha Trang đẹp như nàng tiên cá trong chuyện cổ tích. Như vậy vấn đề đầu tiên cần đối mặt trực tiếp đó là vấn đề quảng bá sản phẩm du lịch cho khách hàng.
- Tiếp đến, không xa lạ gì trước vấn đề thường nhắc tới trong tất cả các hội nghị phát triển du lịch đó là vấn đề môi trường. Môi trường tự nhiên là yếu tố quyết định cho việc phát triển du lịch thế nhưng du lịch lại là kẻ thù của môi trường. Do đó phải có chính sách cần thiết cho việc bảo vệ môi trường tự nhiên tại các điểm du lịch.
- Không thể quên khi nhắc tới khó khăn đó là cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc phát triển du lịch. Số khách sạn cao cấp có ở các khu du lịch Khánh Hoà rất ít, tại Nha Trang, theo thống kê thì mới có tất cả là 184 khách sạn trong đó mới có 1 khách sạn 5 sao, 3 khách sạn 4 sao, 5 khách sạn 3 sao, 8 khách sạn 2 sao 52 khách sạn một sao (theo thống kê mới nhất quý 1 năm 2004). Hiện tại số lượng khách sạn trên có thể đáp ứng được cung cấp dịch vụ lưu trú cho lượng khách lơn nhưng khi vào mùa du lịch thì các khách sạn phải thường xuyên hoạt động quá tải, đồng thời số lượng khách sạn có chất lượng cao còn quá ít. Chính vì thế khó có thể để đưa Khánh Hoà - Nha Trang trở thành một khu du lịch nổi tiếng của khu vực nếu không cải thiện lại cơ sở vật chất kỹ thuật hiện tại.
Trình độ nguồn nhân lực cũng là vấn đề phát triển trong ngành du lịch. Vấn đề hàng đầu phải là đào tào một đội ngũ lao động mạnh về nghiệp vụ, vững về tinh thần và luôn coi phục vụ khách là niềm vui của một người làm trong ngành du lịch.
Tiếp theo là khả năng khai thác các điểm tham quan du lịch của Khánh Hoà. Với một vịnh Cam Ranh được kết lạp là thành viên thứ 27 vào câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới vậy mà chưa đóng vai trò quan trọng trong vai trò trong quá trình phát triển du lịch ngành, một hệ thống bãi biển được coi là có tiềm năng phát triển lớn nhất khu vực Đông Nam á như Văn Phong, Đại Lãnh, Nha Trang ….chưa được hoạt động phù hợp với tiềm năng thì quả là rất lãng phí cho việc phát triển du lịch biển.
Còn nữa, dân trí ở khu vực tham quan còn không cao, những hàng quán bán thực phẩm cho du khách còn rất bừa bãi, chưa được quy hoạch lại một cách tổng thể thu gom lại một nơi cho phù hợp với cảnh quan khu vực tham quan nghỉ dưỡng.
Môi trường, du lịch biển là một trong những ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất cho môi trường mặc dù vẫn được coi là ngành công nghiệp không khói, một ngành xuất khẩu tại chỗ, nguyên nhân chính cũng là do chưa có quy hoạch phát triển du lịch bền vững tại khu vực du lịch, và vấn đề này tại Nha Trang – Khánh Hòa cũng không phải là khỏi ngoại lệ. Môi trường du lịch hiện nay của Khánh Hòa ngày càng kém chất lượng và có nguy cơ cao nếu không được cải thiện môi trường , những chính sách về môi trường cho phù hợp.
Đó mới chỉ là một số khó khăn của được đưa ra đòi hỏi phải khắc phục ngay trước mắt để đưa ngành du lịch Khánh Hoà phát triển ngang với tiềm năng du lịch của tỉnh.
2. Hướng đi trong tương lai của du lịch biển Nha Trang - Khánh Hoà
Theo ông Nguyễn Đức Huy, trưởng phòng du lịch trong nước c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- H0099.doc