Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010

Lời nói đầu D ự báo là một công cụ đắc lực của công tác lập kế hoạch, chiến lược phát triển, chiến lược kinh doanh, quy hoặch phát triển dịch vụ Viễn thông… Để có được chiến lược phát triển đúng đắn, kế hoạch phát triển khả thi và biện pháp thực hiện hợp lý nhằm phát huy có hiệu quả các nguồn lực thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội theo các mục tiêu thì rất cần công tác dự báo. Mà ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của thông tin các yếu tố bất ng

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờ xẩy ra liên tiếp đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia nên việc dự báo được các yếu tố đó là rất cần thiết đối với các nhà hoạch định chính sách của một quốc gia cũng như của một ngành. Ngành Bưu điện cũng như các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, để tồn tại và phát triển một cách bền vững thì cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, mà để xây dựng được chiến lược đúng đắn thì công tác dự báo giữ một vai trò quan trọng. Đặc biệt đối với tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam đã thực hiện đường lối đổi mới và đang phát triển theo hướng trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh và không còn là công ty độc quyền kinh doanh trên lĩnh vực viễn thông, cho nên trong tương lai có nhiều các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài sẽ tham gia vào kinh doanh các loại hình dịch vụ này, nên công tác dự báo là rất cần thiết. Nhất là đối với các dịch vụ Viễn thông mà trong đó, dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định giữ một vai trò quan trọng. Chính vì những lý do trên mà việc nghiên cứu đề tài “Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010 ” là vấn đề rất cần phải quan tâm. Trong khuân khổ đề tài này, chủ yếu nghiên cứu dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định trên phạm vi toàn quốc và những số liệu phục vụ cho đề tài này được thu thập từ nguồn số liệu của VNPT. Để giải quyết những vấn đề trên, nội dung của đề tài được chia làm 3 chương chính sau: Chương I : Những sở cứ để dự báo. Chương II: Đánh giá tình hình sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định trong thời gian qua. Chương III: Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010. Chương I : Những Sở Cứ Để Dự BáO Những định hướng phát triển kinh tế xã hội Việt nam tác động đến sự phát triển nhu cầu dịch vụ Viễn thông nói chung và dịch vụ điện thoại cố định nói riêng 1. Định hướng phát triển dịch vụ viễn thông trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đề ra trong "Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010", từ năm 2001 trở đi ngành Bưu chính - Viễn thông phải đảm bảo cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với chất lượng cao, giá cước thấp hơn hoặc tương đương với các nước trong khu vực; áp dụng giá cước ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học; Đồng thời có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông và Internet. 2. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế . Định hướng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta là chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Có sự thay đổi lớn về cơ cấu ngành nghề trong tỷ lệ dân cư, tỷ lệ dân cư tham gia vào các hoạt động dịch vụ, thương mại, công nghiệp tăng lên, tỷ lệ dân cư tham gia sản xuất nông nghiệp giảm đi. Nhu cầu giao tiếp quan hệ giữa các tầng lớp dân cư tăng cũng thúc đẩy yêu cầu phát triển các dịch vụ Viễn thông. Quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010 thì điều kiện về cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, hiện đại, mà Viễn thông là một trong những ngành đóng vai trò nền móng cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó đòi hỏi ngành Viễn thông phải phát triển toàn diện vào những năm đó. Sự ra đời hàng loạt của khu chế xuất, khu công nghiệp kỹ thuật cao và trong giai đoạn 2005-2010 nhiều chương trình kinh tế trọng điểm của Đảng, nhà nước về dầu khí, năng lượng, giao thông… sẽ thực sự phát huy tác dụng to lớncủa nó và tạo nên một bước ngoặt về kinh tế đòi hỏi nhu cầu thông tin cao và sự phục vụ của những dịch vụ Viễn thông mới. Thị trường chững khoán hình thành và việc phát hành trái phiếu quốc tế ở Việt nam trong một vài naưm tới đòi hỏi phải cung cấp các dịch vụ Viễn thông cao cấp. 3. Thu nhập của dân cư Kinh tế Việt Nam trong thời gian qua được coi là có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển viễn thông. Từ năm 1990 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm tương đối cao và ổn định, đạt khoảng 7% năm. Mặc dù năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính Châu á diễn ra ảnh hưởng xấu đến hầu hết các nước trong khu vực nhưng Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng 5,5%. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam đạt 6,84%, đứng thứ hai thế giới. Trước năm 1990, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế ở mức không đáng kể, nhưng đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Cơ cấu kinh tế có những bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ tăng từ 36,8% lên 39,1%. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng ổn định trong các năm qua, hiện nay GDP/ người của Việt Nam khoảng gần 400 USD/ người, gấp đôi so với năm 1991. Tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức thấp. Tất cả những yếu tố trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển viễn thông, tạo ra tâm lý tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có dự định đầu tư cho Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực viễn thông. Kinh tế phát triển cao và ổn định kéo theo nhu cầu sử dụng các dịch vụ viễn thông tăng lên. 4. Đặc điểm dân cư thay đổi. Cùng với sự phát triển tiến bộ của xã hội loài người, trình độ dân trí của người dân Việt nam được nâng cao không ngừng, mong muốn được tiếp cận với nền văn minh nhân loại mà sự phát triển vượt bậc của Viễn thông mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu này. Với số dân khoảng 84 triệu người vào năm 2005, khoảng 90 triệu người vào 2010 đó là thị trường rộng lớn là điều kiện thuận lợi để các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông khai thác. 5. Các yếu tố chính trị , quan hệ quốc tế tác động tới việc mở rộng thị trường Viễn thông Việt nam. Việt nam hiện đã là thành viên chính thức của ASEAN và tham gia AFTA, Việt nam cũng đang trên tiến trình gia nhập APEC và WTO. Khi đã gia nhập các tổ chức trên thì các ràng buộc về mở cửa là bắt buộc không thể tránh khỏi. Xu hướng mở cửa, hội nhập trên cùng với các nhu cầu giao lưu phát triển đã và sẽ có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của thị trường Viễn thông các nước nói chung và thị trường viễn thông Việt nam nói riêng. Vì vậy thì trường Viễn thông Việt nam phải phát triển để hạ tầng cơ sở thông tin của Việt nam ngang mức với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trên đây là những yếu tố từ nội lực nền kinh tế Việt nam tác động đến sự phát triển nhu cầu các dịch vụ Viễn thông, ngay trong bản thân ngành Viễn thông Việt nam cũng như ngành Viễn thông trên thế giới cũng tạo ra nhu cầu của chính nó. Đặc điểm và đặc trưng kinh tế các sản phẩm dịch vụ viễn thông 1. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ Viễn thông Bất kỳ một hệ thống kinh tế, một doanh nghiệp nào cũng đều phải giải quyết ba vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Để giải quyết các vấn đề này cần phải nghiên cứu đầy đủ các đặc điểm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, của doanh nghiệp. Viễn thông là một ngành sản xuất dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân, Viễn thông cũng có những đặc điểm đặc thù riêng của mình. Các đặc điểm đó bao gồm: Tính không vật chất của sản phẩm Viễn thông: Sản phẩm Viễn thông không phải là sản phẩm vật chất chế tạo mới, không phải là hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận, sản phẩm Viễn thông thể hiện dưới dạng dịch vụ như dịch vụ điện thoại cố dịnh, chương trình phát thanh truyền hình, truyền số liệu… Hiệu quả có ích này rất cần thiết cho tất cả các mặt sinh hoạt và hoạt động của con người kể cả trong lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng trong lĩnh vực tiêu dùng xã hội và cá nhân. b) Quá trình sản xuất kinh doanh gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm. Quá trình sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ Viễn thông nó khác với quá trình sản xuất ra các sản phẩm vật chất khác phải trải qua bốn khâu: sản xuất - lưu thông - phân phối - tiêu dùng mà sản phẩm Viễn thông chỉ trải qua hai khâu trùng nhau là sản xuất và tiêu dùng. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất trong điện thoại, nơi mà quá trình truyền đưa tín hiệu điện thoại là quá trình sản xuất được thực hiện với sự tham gia của người nói, tức là quá trình sản xuất xảy ra đồng thời với quá trình tiêu dùng. c) Quá trình sản xuất Bưu chính Viễn thông mang tính dây truyền. Để truyền đưa tin tức hoàn chỉnh từ người gửi đến người nhận thường có từ hai hay nhiều cơ sở Viễn thông tham gia, mỗi cơ sở chỉ thực hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh đó. Để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh mỗi cơ sở Viễn thông thường chỉ làm nhiệm vụ hoặc là “giai đoạn đi” hoặc là “giai đoạn đến”, “giai đoạn quá giang”. Vì vậy trong Bưu điện tồn tại hai khái niệm về sản phẩm là : sản phẩm ngành và sản phẩm cơ sở. Có nhiều cơ sở Bưu chính Viễn thông tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh trong khi đó việc thanh toán cước chỉ diễn ra ở một nơi thường là nơi chấp nhận tin tức đi. Chính do đặc điểm này trong giai đoạn hiện nay toàn khối thông tin phải thực hiện hạch toán tập trung. Toàn bộ doanh thu được tập trung về một mối, chi phí cân đối từ một nguồn. Những đơn vị có doanh thu, lợi nhuận cao hỗ trợ các đơn vị có doanh thu thấp. Doanh thu cước là doanh thu của ngành mà cơ sở Bưu điện thu hộ. Do vậy cần phải phân chia doanh thu cước Viễn thông nhăm mục đích xác định kết quả công tác của mỗi cơ sở Bưu điện dưới dạng giá trị. Trong thời gian tải trọng của ngành Bưu chính Viễn thông tải trọng giao động không đều theo thời gian và không gian. Nhu cầu về truyền đưa tin tức rất đa dạng, nó xuất hiện không đều về không gian và thời gian. Nhu cầu về truyền đưa tin tức có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trên trái đất. ở đâu có con người thì ở đó có nhu cầu về thông tin và nhu cầu về truyền tin tức xuất hiện không đồng đều theo các giờ trong ngày và đêm, theo các ngày trong tuần, theo các tháng trong năm. Thường nhu cầu về truyền tin phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt xã hội, vào những giờ ban ngày, giờ làm việc của các cơ quan, xí nghiệp, vào các kỳ báo cáo, các dịp lễ tết... thì lượng nhu cầu rất lớn. Chính đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn tới công tác tổ chức sản xuất kinh doanh trong ngành Viễn thông. Sự giao động không đồng đều của tải trọng cộng với những quy định về tiêu chuẩn chất lượng đã được đặt ra khiến các doanh nghiệp Viễn thông không thể “tích luỹ” tin tức được mà phải tiến hành truyền đưa tin tức đảm bảo thời gian truyền đưa tin tức thực tế nhỏ hơn hoặc bằng thời hạn kiểm tra. Để đảm bảo lưu thoát hết mọi nhu cầu về truyền đưa tin tức cần phải có một lượng dự trữ đáng kể về các phương tiện, thiết bị thông tin, về lao động. Chính sự không đồng đều của tải trọng đã làm phức tạp thêm rất nhiều cho việc tổ chức quá trình sản xuất, tổ chức lao động trong các doanh nghiệp Viễn thông. Yêu cầu phải có khả năng cho qua đảm bảo lưu thoát hết khối lượng nghiệp vụ ở giờ có tải trọng lớn nhất. Do vậy trong ngành Bưu điện nói chung và các doanh nghiệp Viễn thông nói riêng có hệ số sử dụng trang thiết bị và hệ số sử dụng lao động bình quân thường thấp hơn so với các ngành khác. Ngoài ra nhu cầu truyền đưa tin tức có thể xuất hiện bất kỳ khi nào để thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng ngành Bưu điện phải hoạt động 24/24 giờ trong ngày đêm. Sẽ tồn tại những khoảng thời gian mà phương tiện thông tin và lao động được bố trí để thường trực. 2. Các đặc trưng kinh tế của sản phẩm Viễn thông. Sản phẩm Viễn thông có những đặc trưng sau: - Đặc trưng 1: Sản phẩm Viễn thông có vai trò thiết yếu đối với đời sống xã hội. - Đặc trưng 2: Các loại dịch vụ Viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau trong giới hạn nhất định. Thay vì sử dụng điện thoại di động, người ta thường mua card phone (điện thoại dùng thẻ) để sử dụng tại các điểm điện thoại công cộng với chi phí thấp hơn nhưng khả năng tiện lợi lại kém hơn. - Đặc trưng 3: Do quá trình tiêu dùng sản phẩm Viễn thông không tách rời quá trình sản xuất nên sản phẩm Viễn thông không thể tồn tại được ngoài quá trình sản xuất để đi vào lưu thông như các sản phẩm khác, do vậy sản phẩm hay kết quả sản xuất cuối cùng của hoạt động sản xuất không thể cất giữ được ở trong kho, không dự trữ được... III. Những vấn đề chung về dự báo Khái niệm dự báo: Dự báo là sự tiên đoán có căn cứ khoa học, mang tính chất xác suất về mức độ, nội dung, các mối quan hệ, trạng thái, xu hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu hoặc về cách thức và thời hạn đạt được các mục tiêu nhất định đã đề ra trong tương lai. Tiên đoán là hình thức phản ánh vượt trước về thời gian hiện thực khách quan, đó là kết quả nhận thức chủ quan của con người dựa trên cơ sở nhận thức quy luật khách quan trong sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng. Có thể phân biệt ba loại tiên đoán: + Tiên đoán không khoa học : là những tiên đoán không có cơ sở khoa học, chỉ dựa trên cảm nhận chủ quan của con người. + Tiên đoán kinh nghiệm : là những tiên đoán dựa trên chuỗi thông tin lịch sử, ít nhiều có cơ sở khách quan. Tuy nhiên sự tiên đoán này không giải thích được xu thế vận động của đối tượng kinh tế và đa số chỉ dừng lại ở mức định tính. + Tiên đoán khoa học : là những tiên đoán dựa trên sự phân tích mối quan hệ qua lại giữa các đối tượng kinh tế – xã hội bằng phương pháp xử lý thông tin khoa học, nhằm phát hiện ra quy luật vận động của đối tượng kinh tế cần dự báo. Tính chất khoảng thời gian hữu hạn của dự báo thể hiện ở sự chênh lệch giữa thời điểm dự báo và thời điểm mà người ta gọi là tầm xa của dự báo, khoảng cách này không thể tuỳ tiện mà nó phụ thuộc vào mức độ ổn định của đối tượng kinh tế trong quá trình phát triển của nó. Chức năng và vai trò của dự báo Chức năng: Bao gồm các chức năng sau: Chức năng tham mưu: Trên cơ sở đánh giá thực trang, phân tích xu hướng vận động và phát triển trong quá khứ, hiện tại, tương lai, dự báo sẽ cung cấp thông tin cần thiết, khách quan làm căn cứ cho việc ra quyết định quản lý và xây dựng chiến lược, kế hoạch hoá các chương trình, dự án…Người quản lý và hoạch định chiến lược, lập kế hoạch có nhiệm vụ phải lựa chọn trong số các phương án có thể có, tìm ra các phương án có tính khả thi cao nhất, có hiệu quả cao nhất. Chức năng khuyến nghị hay điều chỉnh: Chức năng này dự báo tiên đoán các hậu quả có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội nhằm giúp các cơ quan chức năng kịp thời điều chỉnh mục tiêu cũng như cơ chế tác động quản lý để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Vai trò của dự báo: Dự báo có vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định quản lý đối với bất kỳ ngành, lĩnh vực nào trong nền kinh tế quốc dân . Cũng như vậy trong quản lý kinh tế vĩ mô đối với lĩnh vực Bưu chính Viễn thông, vai trò quan trọng của công tác dự báo trước hết được thể hiện đối với công tác kế hoạch hoá, điều đó được thể hiện ở các nội dung sau: Đánh giá thực trạng phát triển bưu chính viễn thông Dự báo các xu hướng phát triển bưu chính viễn thông đã và đang hình thành và dự kiến những xu hướng phát triển tương lai. Xác định chiến lược tổng thể phát triển bưu chính viễn thông trong thời kỳ dài hạn. Xây dựng các kế hoạch phát triển bưu chính viễn thông 5 năm và hàng năm. Soạn thảo các chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra trong chiến lược dài hạn về kế hoạch 5 năm. 3. Phân loại dự báo Người ta có thể phân loại dự báo nhu cầu theo các tiêu chí khác nhau: theo mục tiêu dự báo, thời gian dự báo, theo cấp độ … 3.1. Phân loại dự báo theo mục tiêu Tuỳ theo mục tiêu dự báo, dự báo nhu cầu có thể phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu các chính sách quản lý hoặc chiến lược khác hoặc nhằm thiết kế để tính toán cụ thể số lượng thiết bị. Đối với mục tiêu nghiên cứu các chính sách quản lý hoặc chiến lược khác, dự báo nhu cầu và chi phí tương lai để có thể đưa ra một chính sách toàn diện. Bởi vậy, thường áp dụng phương pháp dự báo vĩ mô cho quốc gia hoặc cho mỗi vùng. Đối với mục tiêu là để tính toán cụ thể kế hoặch thiết bị cho việc lắp đặt mới hoặc lắp đặt thêm các thiết bị chuyển mạch, thiết bị cáp nội hạt ở mỗi một vùng tổng đài, dự báo nhu cầu được lựa chọn dựa vào nghiên cứu chi tiết theo từng khu vực, từng nhóm dịch vụ hoặc nghiên cứu theo nhóm ở mỗi vùng tổng đài. 3.2. Phân loại theo thời gian dự báo Tuỳ theo giai đoạn làm dự báo, dự báo nhu cầu được phân thành dự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn a) Dự báo ngắn hạn Dự báo này chỉ trong vòng 1 hoặc 2 năm và dùng để dự báo kế hoặch thiết bị hàng năm. Nó đòi hỏi các thông tin chính xác về các điều kiện kinh tế, khả năng về ngân quỹ và số các đơn chở b) Dự báo trung hạn Dự báo cho 3 hoặc 5 năm tiếp theo và dùng để dự báo một kế hoặch lắp đặt mới hoặc bổ sung thêm cho thiết bị chuyển mạch và truyền dẫn. Đối với dự báo ngắn hạn và trung hạn, thường sử dụng phương pháp chuỗi thới gian. Phưong pháp này cho rằng xu hướng của chuỗi số liệu thực ở hiện tại sẽ được áp dụng cho dự báo tương lai. Phương pháp chuỗi thời gian có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh doanh hoặc các điều kiện kinh tế. Đứng trên góc độ của mỗi vùng tổng đài, nó sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi các kế hoăch phát triển đô thị hoặc các kế hoặch phát triển vùng. c) Dự báo dài hạn Dự báo dài hạn thường là 5 năm hoặc nhiều hơn, dự báo này thường áp dụng cho các kế hoặch đầu tư thiết bị với quy mô lớn. Trong trường hợp này, không thể sử dụng phương ppháp chuỗi thời gian mà còn phải xem xét đến các yếu tố khác như mức sống dân cư và sự thay đổi cuộc sống xã hội. Về căn bản phải sử dụng phương phap dự báo gián tiếp, liên quan đến so sánh quốc tế, các yếu tố điện thoại (như mật độ điện thoại) và các yếu tố nhân khẩu học. d) Điều chỉnh dự báo Đối với giai đoạn dự báo khác nhau, một loại phương pháp dự báo khác được sử dụng. Phương pháp này có thể được áp dụng cho tất cả các loại dự báo như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Bởi vậy, cần yêu cầu các bước sau: Khi sử dụng 2 phương pháp khác nhau, các giá trị dự báo chồng chéo phải được điều chỉnh. Khoảng cách giữa các đường cong tăng trưởng của 2 giai đoạn kế tiếp nhau mà không trùng nhau cũng phải được điều chỉnh. Hình 1.1 cho thấy một phương pháp điều chỉnh phần cong nối giữa hai đường cong được tạo ra bởi hai phương pháp khác nhau, những giá trị cuối của đường cong ngắn hạn sẽ là những giá trị bắt đầu của mô hình tăng trưởng trong trung hạn và dài hạn. Trung và dài hạn Dự báo lưu lượng Ngắn hạn Thời gian dự báo Hình 1.1 Điều chỉnh dự báo. 3.3. Phân loại theo cấp độ vùng dự báo Phân loại theo cấp độ vùng dự báo được chia thành hai loại : Dự báo vĩ mô và Dự báo vi mô. Dự báo cho những vùng lớn như nhu cầu điện thoại của một quốc gia thì gọi là dự báo vĩ mô, còn dự báo cho một vùng địa phương chẳng hạn như nhu cầu điện thoại của một vùng tổng đài được gọi là dự báo vi mô a) Dự báo vĩ mô Đối với dự báo vĩ mô phải thu thập rất nhiều các thống kê xã hội. Do đó, cần thực hiện những nghiên cứu tỉ mỉ. b) Dự báo vĩ mô Dự báo vi mô được phân loại thành nghiên cứu tổng quan đối với dự báo nhu cầu của tất cả các vùng tổng đài và nghiên cứu theo nhóm đối với dự báo phân bổ vùng cáp thuê bao. Dự báo vi mô cũng được áp dụng cho việc thiết kế lắp đặt các thiết bị mới hoặc các thiết bị lắp đặt thêm như cáp và kế hoạch phân bổ tổng đài. c) Điều chỉnh dự báo Giữa tổng giá trị dự báo vi mô và kết quả dự báo vĩ mô thông thường có một vài sự khác biệt. Các số liệu thống kê ổn định khó có thể thu thập được ở những vùng nhỏ và điều này có thể dẫn tới một số sai lệch. Bởi vậy, dự báo trược tiếp ở những vùng lớn thường chính xác hơn là tổng kết quả dự báo vi mô. Điều chỉnh dự báo lam tăng độ chính xác của dự báo, tạo ra sự tương xứng giữa dự báo vĩ mô và dự báo vi mô. 4. Các bước dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định. Bao gồm 5 bước sau: Bước 1: Xác định các mục tiêu dự báo Bước đầu tiên của công việc dự báo là phải xác định rõ các mục tiêu dự báo. Thông thường các mục tiêu dự báo gồm nhu cầu của dân cư và nhu cầu của các cơ quan và cũng phải xác định vùng mục tiêu dự báo là của từng tỉnh, toàn quốc hay là vùng tổng đài. Và dự báo cho giai đoạn 5 năm, 10 năm hay 15 năm… Bước 2: Các số liệu cần thu thập Trong bước này phải xác định được yếu tố nào ảnh hưởng đến các mục tiêu dự báo và những số liệu nào nên thu thập. Các số liệu thu thập được phải được phân loại và sắp xếp theo thứ tự thời gian để việc phân tích chúng được dễ dàng. Các số liệu liên quan đến dự báo nhu cầu điện thoại như sau: Nhu cầu điện thoại, mật độ điện thoại Dân số, số hộ gia đình Số các cơ quan Mức GDP/người Tốc độ tăng trưởng kinh tế Các qui hoạch phát triển vùng hay qui hoạch tổng thể phát triển của từng tỉnh thành phố hay toàn quốc Bước 3: Tiếp cận và phân tích xu hướng nhu cầu Xu hướng nhu cầu được phân tích theo quan điểm như sau: Các giá trị quá khứ Cơ cấu thị trường điện thoại Nguồn nhu cầu Mật độ điện thoại Các đặc điểm của vùng nghiên cứu So sánh với các vùng khác và các quốc gia khác Bước 4: Nghiên cứu các kỹ thuật dự báo và tính toán giá trị dự báo Các phương pháp dự báo : Phương pháp chuỗi thời gian Phương pháp mô hình hoá Phương pháp hồi qui tương quan Các phương phương pháp khác Thông qua các số liệu thu thập được để xác định phương pháp dự báo cho phù hợp. Tuy nhiên, để cho giá trị dự báo đảm báo độ chính xác cao hơn, điều quan trọng là nên chọn phương pháp khả thi nhất và chọn các giá trị tối ưu. Bước 5: Xác định các giá trị dự báo Từ việc phân tích ở bước 3 và dựa vào các kết quả dự báo sau khi sử dụng các kỹ thuật dự báo, các giá trị tối ưu sẽ được quyết định. Một số phương pháp dự báo nhu cầu thường dùng. Các phương pháp thường sử dụng khi dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ bao gồm: Phương pháp ngoại suy (chuỗi thời gian ) Phương pháp hồi quy tương quan Phương pháp chuyên gia Phương pháp nghiên cứu thị trường Phương pháp khảo sát quốc tế Phương pháp ngoại suy (chuỗi thời gian) 5.1.1 Khái niệm: Ngoại suy là một trong các phương pháp dự báo nhu cầu thường dùng trong kinh tế. Đặc trưng của phương pháp này là sử dụng các công cụ thống kê toán, phân tích các chuỗi số liệu thống kê để phát hiện ra mối liên hệ bản chất, mang tính quy luật của nhu cầu, từ đó suy rộng ra cho thời kỳ tương lai. Do vậy có thể khái niệm phương pháp ngoại suy như sau: Phương pháp ngoại suy là sự kéo dài quy luật của nhu cầu trong quá khứ cho thời kỳ tương lai. Các dạng hàm được xây dựng trên cơ sở chuỗi giá trị thực nghiệm theo thời gian của nhu cầu nhằm mô tả xu thế vận động có tính quy luật trong thời gian của nhu cầu, xem thời gian là biến số, đều là những hàm xu thế và đều thuộc phương pháp này, với tư cách là những công cụ để ngoại suy. Các phương pháp ngoại suy rất thích hợp cho dự báo ngắn hạn. Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy giới hạn thời gian dự báo tốt nhất là bằng 1/3 độ dài chuỗi giá trị thực nghiệm. Bởi vì việc phổ biến quy luật trong lịch sử chỉ có ý nghĩa, có hiệu lực và đảm bảo giá trị tin cậy khi sang một tương lai ngắn. Nhược điểm chủ yếu của phương pháp ngoại suy: Không giải thích được kết quả dự báo khi có bất thường xảy ra và nó chỉ dự báo được trong tình hình không có những biến động như đã nêu trong giả thiết. Sự tăng giảm đột ngột nhu cầu khiến cho người dự báo lúng túng vì không biết nguyên nhân của hiện tượng. Do đó phương pháp ngoại suy chỉ áp dụng cho dự báo ngắn hạn. 5.1.2 Các biểu thức dùng cho phương pháp ngoại suy: Phương trình tuyến tính và phương trình bậc hai khá phù hợp với dự báo ngắn hạn. Hàm mux và hàm logistic phù hợp cho dự báo dài hạn. * Phương pháp trình tuyến tính: yt = a + bt Khi dữ liệu theo chuỗi thời gian có dạng tuyến tính, đường này được ứng dụng cho: Dự báo ngắn hạn. Trường hợp nhu cầu ít thay đổi. Y= a + bt (b>0) Hình1.2 : Phương trình tuyến tính. * Nếu sử dụng số liệu của hai năm quá khứ T1, T2 thì chúng có thể được tính như sau: Với: T1 : mật độ thuê bao quá khứ tại năm t1 T2 : mật độ thuê bao quá khứ tại năm t2 Tuy nhiên, để tăng độ chính xác của kết qủ dự báo có thể sử dụng phương pháp bình phương bé nhất. Khi đó a, b được tính như sau: Hệ số tương quan được xác định bằng công thức: * Phương trình bậc 2: Khi dữ liệu theo chuỗi thời gian có dạng đồ thị của phương trình bậc 2, đường dự báo này ứng dụng cho: Dự báo ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, lựa chọn thời hạn dự báo phải cẩn thận cân nhắc đến thời gian xu hướng của nhu cầu hiện tại. Trong đó a, b, c là các tham số và là nghiệm của hệ phương trình: Y= a + bt + ct2 (c > 0) Hình 1.3 : Phương trình bậc 2. * Hàm mũ: Khi chuỗi thời gian có dạng hàm mũ thì được ứng dụng cho các trường hợp sau: Dự báo ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, lựa chọn thời hạn dự báo phải cẩn thận cân nhắc đến thời gian xu hướng của nhu cầu hiện tại. Y = k + a.bt ( a>0, b>1) Hình 1.4 : Hàm mũ. * Hàm mũ điều chỉnh: Khi chuỗi số liệu có dạng hàm mũ, được giả định trong tương lai sẽ đạt đến trạng thái bão hoà, dạng hàm này sẽ được áp dụng cho trường hợp sau: Dự báo dài hạn. Trường hợp xu hướng phát triển của vùng vẫn tiếp tục nhưng qui mô giảm dần. Y= K – a.bt ( a>0) Hình 1.5 : Hàm mũ điều chỉnh. Phương trình này áp dụng cho dự báo ngắn hạn ít thay đổi Trong đó: xt : biến thời gian yt : mật độ thuê bao (số thuê bao trên đầu người hoặc trên từng hộ gia đình… và có thể phân theo từng loại thuê bao khác nhau ) tại năm t. a, b là các tham số . Nếu sử dụng số liệu của hai năm quá khứ T1, T2 thì chúng có thể được tính như sau: Với: T1: mật độ thuê bao quá khứ tại năm t1 T2: mật độ thuê bao quá khứ tại năm t2 Tuy nhiên, để tăng độ chính xác của kết quả dự báo có thể sử dụng phương pháp bình phương bé nhất. Khi đó a và b được tính như sau: Hệ số tươn quan được xác định bằng công thức: * Đường logistic: Phương trình: Với: y : Tỷ lệ thuê bao (số thuê bao/100 dân hoặc 100 hộ gia đình) S : Saturation- mức bão hoà k, t: các tham số được xác định dựa trên tỷ lệ thuê bao tại năm cơ sở (p0) và năm đích (pt) Đầi vào: Tỷ lệ thuê bao năm cơ sở và năm đích : p0, pt Mức bão hoà : S Đầu ra: Tỷ lệ thuê bao tại các năm t: pt (0<t<1) Phương pháp hồi qui tương quan 5.2.1 Khái quát: Giữa các hiện tượng kinh tế luôn tồn tại mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, thậm chí ngay trong cùng một hiện tượng có nhiều tiêu thức khác nhau thì những tiêu thức đó cũng có mối quan hệ nhất định, ta gọi là mối liên hệ tương quan. Tuỳ theo mục đích mà có thể chọn một, hai hay nhiều tiêu thức. Nhình chung các yếu tố kinh tế xã hội đều có liên quan đến nhu cầu, đó là: Dân số, hộ gia đình. Số cơ quan. Tỷ lệ tăng thu nhập. Tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các kế hoạch phát triển đô thị. 5.2.2 Lược đồ phương pháp: Một cách tổng quát, từ số liệu điều tra được về nhu cầu dịch vụ điện thoại di động cần dự báo, ta xác định các biến kinh tế chủ yếu gồm biến phụ thuộc y và các biến độc lập . Bằng phương pháp thực nghiệm, ta xác định được hàm hồi quy tương qua biểu thị quan hệ giữa y với : Trong đó : y : là biến phụ thuộc (nhu cầu thuê bao, mật độ thuê bao…). b1, b2, …bn : là các hệ số thể hiện mối quan hệ về lượng giữa Yt và Xt x1, x2,…, xn : là các biến độc lập (GDP, chi tiêu cho đầu tư, chi tiêu cho tiêu dùng, dân số, hộ gia đình…). et : Là độ sai lệch của dự báo. Từ số liệu quá khứ và hiện tại của các yếu tố kinh tế y và xi, bằng phương pháp ước lượng ta ước lượng các tham số Giả sử các ước lượng đó là Khi đó ta có: (*) (*) gọi là hàm hồi quy mẫu. Hàm này phản ánh gần đúng quy luật quan hệ của các yếu tố kinh tế của đối tượng kinh tế cần dự báo, với sai số là , (e là phần dư hồi quy). Dùng phương pháp ước lượng ta sẽ dự đoán được giá trị của một số biến kinh tế chủ yếu của đối tượng dự báo. 5.2.3 Mô hình dự báo thường dùng: Mô hình hồi quy tuyến tính đơn. yt = a + bxt Hệ số a, b được xác định bằng phương pháp bình phương bé nhất như sau: Mô hình tuyến tính bội. Miêu tả bằng đường tuyến tính các biến mục tiêu (như nhu cầu) với các biến giải thích khác Mô hình hồi quy tuyến tính được biểu diễn bằng công thức sau: Yt = at + b1x1t + b2x2t + … + bnxnt + et Trong đó: Yt : biến phụ thuộc, nhu cầu thuê bao hoặc mật độ thuê bao. at : các hằng số trong phương trình cần được xác định. b1, b2,…, bn : các hệ số thể hiện mối quan hệ về lượng giữa Yt và xt x1t, x2t,…, xnt : các biến độc lập (Ví dụ: GDP, dân số, số hộ gia đình) et : độ sai lệch của dự báo Sử dụng dữ liệu quá khứ (số thuê bao hoặc mật độ thuê bao, dữ liệu kinh tế– xã hội) để tính toán các tham số at, b1, b2,…, bn của mô hình. Một số mô hình kinh tế lượng thường được sử dụng: Logarit kép, bán Logarit, Logarit đảo. Logarit kép: LnYt = a + blnXt + et Trong đó : Yt : Mật độ thuê bao năm t. Xt : biến độc lập. et : độ sai lệch. Bán Logarit : LnYt = a + bXt + et Yt = a + blnXt + et 1 Yt = a + b + et Xt Trong đó : Yt : Mật độ thuê bao năm t. Xt : biến độc lập. et : độ sai lệch. Logarit đảo : Dạng mô hình kinh tế lượng với một biến độc lập. Yt = a + bXt + et Trong đó : Yt : Mật độ thuê bao năm t. Xt : biến độc lập. et : độ sai lệch. a, b: là các tham số được xác định theo phương pháp bình phương bé nhất dựa trên dữ liệu quá khứ () thể hiện các giá trị của dự báo a, b. 1, 2, …, r : là các năm trong quá khứ. Trong đó: Lựa chọn công thức hồi quy : Công thức hồi quy thích hợp được lựa chọn theo mối quan hệ của nguyên nhân và ảnh hưởng, giữa nhu cầu và biến số giải thích. Quan trọng là mối quan hệ chung giữa nhu cầu và các hệ số giải thích sẽ được lưu giữ trong tương lai. Lựa chọn biến số giải thích : Trong các nhân tố có liên quan đến nguyên nhân và ảnh hưởng hoặc quan hệ chung với nhu cầu, có một số biến giải thích được lựa chọn theo tiêu chuẩn sau: ảnh hưởng của nhu cầu lớn. Số liệu có thể dự báo. Khi sử dụng hai hoặc hơn hai biến số giải thích, không có sự tương quan chặt chẽ giữa chúng. 5.2.4 Hệ số tương quan (r): Đây là tiêu thức đặc trưng cho mối liên hệ chặt chẽ giữa tiêu thức nghiên cứu và toàn bộ các biến giải thích. Hệ số tương quan được mô tả trong công thức sau : r luôn ở trong khoảng (0,1). Trong đó r càng gần 1 thì quan hệ giữa y và các xi càng chặt chẽ, r càng gần 0 thì mối quan hệ đó càng lỏng lẻo. Nếu r > 0,75 ta nói mối quan hệ này tương đối chặt chẽ, khi không ._.có r lớn hơn thì có thể chấp nhận hàm này. Nếu r < 6,5 Không đủ chặt chẽ trong quan hệ, tìm hàm khác. Nhìn chung các nhân tố tương quan với nhu cầu là các nhân tố xã hội kinh tế như : GDP, GDP bình quân, Chi tiêu tiêu dùng cho cá nhân, đầu tư hộ tư nhân, đầu tư thiết bị và lãi suất. Ngoài các tiêu chuẩn trên còn có các tiêu chuẩn về sai số của các tham số. Việc xác định các tham số trong phương trình hồi quy thường sử dụng phương pháp tổng bình phương bé nhất. Tuy nhiên nếu phương sai của tham số ước lượng lại khá lớn so với giá trị thực của tham số thì tham số đó không còn ý nghĩa. Do đó phải xác định mức ý nghĩa của tham số. Phương pháp chuyên gia Chuyên gia: Chuyên gia là người có chuyên môn sâu, kinh nghiêm rộng lĩnh vực nghiên cứu. Họ là những nhà khoa học đầu ngành, họ am hiểu sâu sắc về sự phát triển trong quá khứ và hiện tại của ngành đó, những vấn đề mâu thuẩn, những sự kiện cần giải quyết còn đang tồn đọng. Họ là những người tâm huyết nhất về xu hướng phát triển, về phương thức giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực mình hoạt động. Họ là những người có tâm lý ổn định và có ý thức rõ ràng nhất về sự phát triển ở tương lai của lĩnh vực mình hoạt động. Do các phẩm chất trí tuệ va nhân bản đó, những ý kiến phán đoán của các chuyên gia là nguồn thông tin đáng tin cậy về triển vọng phát triển của đối tượng cần dự báo. Phương pháp chuyên gia: Về bản chất phương pháp chuyên gia là phương pháp dự báo dựa vào trình độ uyên bác và lý luận, thành thạo về chuyên môn, phong phú về khả năng thực tiễn cùng với khả năng mẫn cảm, nhạy bén thiên hướng sâu sắc về tương lai của đối tượng cần dự báo cảu tập thể các nhà khoa học, các nhà quản lý cùng đội ngũ cán bộ lão luyện thuộc lĩnh vực kinh tế cần dự báo. Đây là hoạt động dự báo dựa trên cơ sở huy động trí tuệ của các chuyên gia. Về đạo lý, phương pháp chuyên gia xuất phát từ quan điểm cho rằng, do học tập và nghiên cứu, do lăn lộn và gắn báo với công việc chuyên môn hẹp nên các chuyên gia là những người am hiểu sâu sắc nhất, giàu thông tin và có khả năng phản xạ cũng như trực cảm nghề nghiệp nhạy bén về qúa trình vận động và phát triển. Phương pháp chuyên gia có ưu thế hơn hẳn các phương pháp dự báo khác khi tiến hành dự báo nhưỡng hiện tươngj hay quá trình kinh tế có tầm bao quát rộng, cấu trúc nội dung phức tạp, nhiều chỉ tiêu, nhiều nhân tố chi phối làm cho xu hướng vận động phát triển của vấn đề cần dự báo với biểu hiện đa dạng khó định lượng bằng con đường tiếp cận trược tiếp để tính toán, đo đạc bằng các phương pháp ước lượng và bằng các công cụ đo chính xác. Có hai loại chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực dự báo : + Chuyên gia lập dự báo: là những người đánh giá, đề xuất các yếu tố liên quan đến vấn đề kinh tế cần dự báo. + Chuyên gia phân tích : Là những người thu thập, chế biến các thông tin để chuẩn bị các yếu tố cho lập dự báo và xử lý các kết quả dự báo thu được. Chuyên gia dự báo về nhu cầu dịch vụ Viễn thông phải là người có nhiều phẩm chất trí tuệ, phải có trình độ hiểu biết chung, rộng và cao, phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực Viễn thông, có quan điểm và lập trường khoa học, có khả năng tiên đoán được tương lai, có tâm lý ổn định, am hiểu thực tiễn của lĩnh vực liên quan. Nhiệm vụ của phương pháp chuyên gia là đưa ra những dự đoán khách quan về tương lai (xét về góc độ kinh tế) về nhu cầu phát triển dịch vụ Viễn thông trên cơ sở phân tích, xử lý một cách khoa học các thông tin, đánh giá, dự đoán của chuyên gia. Nội dung của phương pháp chuyên gia gồm các công việc sau: Lựa chọn và thành lập nhóm chuyên gia lập dự báo và nhóm chuyên gia phân tích. Tiến hành lấy ý kiên của chuyên gia. Tổng hợp và xử lý các đánh giá dự đoán của các chuyên gia. Lựa chọn và thành lập nhóm chuyên gia: Gồm 7 công việc lớn Công việc 1: Xây dựng cơ cấu nhóm chuyên gia. Cơ cấu nhóm chuyên gia gồm nhóm thường trực và một số nhóm lâm thời. Nhóm thường trực (Standing Committee) : Thành phần chính của nhóm thường trực là ban chủ nhiệm chương trình hoặc đề tài, từ 3 đến 4 người. Họ là những người có tín nhiệm, có trình độ cao về lĩnh vực dự báo. Nhóm lâm thời (Provisional committee) : số nhóm lâm thời bằng số vấn đề dự báo chính. Số người của mỗi nhóm lâm thời dựa vào các điều kiện sau đây để lựa chọn: dưạ vào đặc điểm của đối tượng dự báo, vào nguồn nhân lực và vào nguồn tài chính. Công việc 2 : Thu thập và xây dựng các thông tin về lĩnh vực dự báo. Bao gồm : Cac thông tin thống kê qúa khứ ; các thông về hiện trạng đối tượng cần dự báo; các văn kiện của đảng, nhà nước liên quan đến sự vận động phát triển của đối tượng dự báo; các tư liệu thông tin của nước ngoài liên quan đến vấn đề dự báo. Công việc 3 : Xác định xu hướng của đối tượng dự báo. Dùng phương pháp ngoại suy để xác định dạng hàm cho mỗi chuỗi số liệu quá khứ để tìm xu thế phát triển ban đầu. Sau đó căn cứ vào chủ trương, đường lối đầu tư, định mức tiêu dùng tương lai để ngoại suy theo nghĩa rộng và phác thảo một số phương án phục vụ cho việc soạn thảo câu hỏi trưng cầu ý kiến chuyên gia. Công việc 4: Xây dựng biểu câu hỏi để lấy ý kiến chuyên gia. Khi có các thông tin cơ sở để đưa ra các câu hỏi cần căn cứ vào các yêu cầu dự báo mà soạn thảo các câu hỏi để thu thập thông tin đánh giá các mặt, các khía cạnh, ở mọi mức độ về quan hệ định lượng và định tính của các yếu tố liên quan đến vấn đề dự báo. Công việc 5: Cung cấp những thông tin cần thiết cho các chuyên gia. Giải thích các cơ sở của phương án phác thảo. Chú ý cung cấp cho chuyên gia cac thông tin gốc nguyên thuỷ. Không được lồng quan điểm cá nhân vào nội dung thông tin. Công việc 6: Đánh giá năng lực chuyên gia. Chất lượng dự báo phụ thuộc vào chất lượng chuyên gia. Danh sách chuyên gia là do các chuyên gia khác giới thiệu, cần phải tiến hành chọn các chuyên gia giỏi đạt được các yêu cầu dự báo đặt ra. Việc tuyển chọn các chuyên gia có thể thực hiện bằng 2 phương pháp: phương pháp chuyên gia tự đánh giá mình (Phương pháp tự cho điểm) và phương pháp trắc nghiệm (tự điền vào các mục in sẵn của bản tự khai). Công việc 7: Thành lập các nhóm chuyên gia: Song song với quá trình tuyển chọn chuyên gia ta phải xác định chuyên gia cần thiết của mỗi nhóm sao cho vừa đạt được độ chính xác cao nhất của vấn đề dự báo, vừa tiết kiệm chi phí. Có nhiêu phương pháp lựa chọn số liệu tối ưu các chuyên gia, trong đó thường dùng phương pháp cho điểm trung bình sau đây: Chọn n người tiến hành cho điểm từng chuyên gia. Tính điểm trung bình Ti cho chuyên gia thứ i (i=1,k). Xếp danh sách các chuyên gia theo thứ tự điểm trung bình Ti giảm dần của mỗi nhóm. Tính điểm trung bình cho từng nhóm k chuyên gia theo công thức sau: 5.4 Phương pháp nghiên cứu thị trường Sau khi chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt nam đã đạt được nhiều thành quả to lớn. Cùng vơí đời sống xã hội được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng không những tăng nhanh cả về số lượng mà còn đòi hỏi cao cả về chất lượng, nhiều chủng loại hàng hoá và dịch vụ được đưa ra nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của xã hội. Cơ chế thị trường tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, đồng thời đem quyền lợi cho người tiêu dùng ngày càng có nhiều hơn sự lựa chọn về các loại hàng hoá và dịch vụ. Một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường có sự cạnh tranh khắc nghiệt thì việc nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng, nghiên cứu các hoạt động của đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ hơn về đối tượng mà mình phục vụ, biết được điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh và củ bản thân doanh nghiệp, từ đó tìm ra những lợi thế trong qúa trình sản xuất, kinh doanh… để tận dụng. Mặt khác, việc xem xét nhu cầu của người tiêu dùng, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh còn giúp cho doanh nghiệp lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, đảm bảo những thông tin, dữ liệu thu thập được đầy đủ và có độ chính xác cao. Tuỳ theo góc độ tiếp cận mà có thể lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu thị trường thì có 3 phương pháp sau là thích hợp nhất và thường được sử dụng trong việc nghiên cứu thị trường, đó là phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm và phương pháp điều tra. Phương pháp quan sát: Phương pháp quan sát là phương pháp dùng các giác quan hoặc các thiết bị hỗ trợ để ghi nhận các hiện tượng hoặc tác phong của còn người mà có thể không cần đế sự hợp tác của đối tượng quan sát. Có nhiều cách quan sát khác nhau, có thể quan sát hành vi khi nó diễn ra một cách tự nhiên hoặc trong sự sắp xếp nhân tạo. Quan sát trực tiếp liên quan đến việc theo dõi hành vi thực sự, quan sát gián tiếp liên quan đến việc phỏng đoán hành vi bằng cách nhìn vào các kết quả của hành vi đó. Khi quan sát, đoán hành vi bằng cách nhìn vào các kết quả của hành vi đó. Khi quan sát, không phải mọi thông tin đều được ghi nhận những thông tin cần thiết cho cuộc nghiên cứu. Dữ liệu thu thập được bằng phương pháp quan sát có độ tin cậy cao, đồng thời nó cũng mang tính khách quan hơn vì đối tượng quan sát có thể không biết mình đang được quan sát. Phương pháp quan sát thích hợp với nghiên cứu thăm dò. Nó có thể sử dụng để tìm hiểu hành vi, thói quen của khách hàng, thu thập những thông tin mà người ta không muốn hoặc không thể cung cấp được. Tuy nhiên, phương pháp này cần có sự kết hợp với phương pháp khác như phỏng vấn để tăng độ tin cậy cho dữ liệu. Phương pháp pháp thực nghiệm: Phương pháp thực nghiệm thực sự là hình thức đặc biệt của phương pháp quan sát và phỏng vấn. Các nhà nghiên cứu điều khiển các điều kiện nhất định trong một môi trường và sau đó đo lường ảnh hưởng của những điều kiện đó. Phương pháp thực nghiệm được coi là phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp có tính thuyết phục nhất và là tiêu chuẩn của nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, phương pháp thực nghiệp tốn kém nhiều chi phí và rất phức tạp. Phương pháp thực nghiệm đề cập đến 2 loại khung cảnh thực nghiệm đó là thực nghiệm có tính chất phòng thí nghiệm và thực nghiệm hiện trường Trong nghiên cứu thị trường, phương pháp thực nghiệm là phương pháp thích hợp nhất để thu thập thông tin mang tính nhân quả, thường được sử dụng đối với các sản phẩm dịch vụ mới. c) Phương pháp điều tra: Phương pháp điều tra là cách tốt nhất thích hợp cho việc thu thập thông tin thuộc về mô tả. Một doanh nghiệp muốn biết về học vấn, tín ngưỡng, sở thích, sự hài lòng hoặc hành vi mua của đối tượng thì có thể tìm thấy được bằng cách hỏi trực tiếp. Nghiên cứu điều tra có thể được lập sẵn (có kết cấu sẵn) hoặc không lập sẵn. Điều tra có kết cấu sử dụng bảng câu hỏi chính thức để hỏi tất cả đối tượng được hỏi theo cùng cách thức như nhau. Điều tra không có kết cấu sử dụng một khuôn khổ tự do để phỏng vấn, thăm dò người được phỏng vấn và hướng dẫn cuộc phỏng vấn, tuỳ theo câu trả lời của họ. Có một số phương thức điều tra tiếp xúc với khách hàng như: Bằng câu hỏi gửi theo đường bưu điện (thư tín) : là phương pháp gửi các bảng câu hỏi soạn thảo sẵn qua con đường thư tín đến tay đối tượng phỏng vấn, yêu cầu họ điền câu trả lời và gửi lại cho ta. Phỏng vấn bằng điện thoại : là phương pháp sử dụng mạng điện thoại để thu thập thông tin dựa trên bảng câu hỏi có sẵn. Phỏng vấn trực tiếp : Là phương pháp nghiên cứu mà theo đó những người nghiên cứu đặt ra các câu hỏi cho các đối tượng điều tra và thông qua câu trả lời của họ để nhận được những thông tin mong muốn. Xét về thực chất đây là phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp. Hai phương pháp thông dụng trong công tác nghiên cứu thị trường là : Phương pháp phỏng vấn trực tiếp các cá nhân và Phương pháp phỏng vấn nhóm tập trung. Trong ba phương pháp trên, tuỳ theo trường hợp cụ thể mà các nhà nghiên cứu lựa chọn phương pháp nào để tiến hành nghiên cưú. Tuy nhiên, trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu thị trường có quy mô lớn thì điều tra là phương pháp hữu hiệu hơn cả. Với các phương pháp phỏng vấn, sử dụng bảng câu hỏi đúng quy cách… các thông tin thu thập được thường mang tính đại diện cho tổng thể nghiên cứu và có độ chính xác cao, phục vụ tốt cho quá trình ra quyết định của nhà quản trị. 5.5 Phương pháp khảo sát quốc tế 5.5.1 Phương pháp chuyên gia: Đây là phương pháp định tính để dự báo thị trường trên cơ sở trưng cầu ý kiến của một tập thể chuyên gia và xử lý kết qủa trưng cầu ý kiến theo nguyên lý hội tụ : độ đặc đám đông các ý kiến đánh giá cá thể dưới dạng các tham số làm ý kiến đại diện cho cả tập thể chuyên gia. Nội dung cơ bản của nó được trình bày theo một thủ tục logic bao gồm các bước sau: Bước 1: Xác định đối tượng dự báo, mục tiêu và yêu cầu dự báo. Bước 2: Xác định nội dung và chỉ tiêu dự báo, lựa chọn thể thức và phân lập phạm vi dự báo. Bước 3: Soạn thảo hệ thống câu hỏi trưng cầu ý kiến và thông tin hội chợ. Bước 4: Thành lập nhóm chuyên gia (từ 10 đến 15 người) và xác định rõ số lượng, kết cấu, chất lượng chuyên gia. Bước 5: Trưng cầu sơ cấp: cung cấp hệ thống câu hỏi và thông tin hỗ trợ. Bước 6: Tổng hợp và xử lý sơ cấp. Giá trị ước lượng. Độ tập trung của các ý kiến. Các ước lượng cực đoạn. Bước 7: Trưng cầu thứ cấp: Công bố kết quả xử lý vòng trước. Yêu cầu giải thích, luận chứng, bảo vệ ý kiến. Cung cấp thêm thông tin hỗ trợ. Bước 8: Tổng hợp và xử lý thứ cấp: Ước lượng chung. Độ phân tán của các ý kiến. Các ước lượng cực đoan. Bước 9: Kiểm định kết quả: Phân tích kinh tế, đối chiếu với mục tiêu đề ra, kết hợp với kết quả của các phương pháp dự báo khác. Kết quả chưa đạt yêu cầu thì quay lại bước 7. Nếu kết quả đã đạt yêu cầu thì hình thành báo cáo cuối cùng và kết quả dự báo. Như vậy phương pháp chuyên gia là một quá trình lặp lại gồm nhiều bước và chỉ dừng lại khi đã thu thập được những ước lượng có độ tập trung cao. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi phải có được đội ngũ chuyên gia giỏi cả về nghiên cứu thị trường và am hiểu về sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu không thì các yếu tố chủ quan trong đánh giá của chuyên gia có thể làm sai lệch kết quả thu được. Vì vậy thường phải kết hợp nó với các phương pháp định lượng khác. Các phương pháp thống kê: Các phương pháp thống kê để dự báo nhu cầu thị trường bao gồm lớp phương pháp cấu trúc và lớp phương pháp theo hành vi. Trong các phương pháp theo cấu trúc thì mô hình phổ biến hơn cả là mô hình hồi quy tương quan bôị. Phản ánh sự phụ của đối tượng dự báo, chẳng hạn nhu cầu thị trường vào các yếu tố giải thích như giá cả, thu nhập, quy mô thị trường, sở thích tiêu dùng… Để áp dụng được mô hình hồi quy bội cần thoả mãn một số yêu cầu sau: Phải xác định được một cách chính xác các yếu tố có ảnh hưởng đến đối tượng dự báo. Phải dự báo được sự biến động của bản thân các yếu tố đó trong tương lai. Dạng liên hệ được xác định trong mô hình phải được tiếp tục giữ nguyên như vậy trong tương lai. Trong dự báo thị trường nước ngoài, cần chú ý là độ chính xác của dự báo không phụ thuộc vào mức độ phức tạp của các mô hình dự báo mà chủ yếu phụ thuộc vào việc lựa chọn đúng đắn phương pháp dự báo khác nhau để có kết quả dự báo đạt độ chính xác cần thiết. IV. Tiêu chuẩn lựa chọn phương pháp dự báo và các phương pháp đánh giá dự báo 1. Tiêu chuẩn để lựa chọn phương pháp dự báo Có 5 tiêu chuẩn quan trọng để chọn phương pháp dự báo thích hợp với một vấn đề cụ thể, đó là: Độ chính xác của dự báo Chi phí của dự báo Tính tổng hợp và khả năng của phương pháp Thời gian dự báo Cơ sở dữ liệu để dự báo Các Phương pháp đánh giá dự báo: Mỗi dự báo cho dù được chuẩn bị kỹ lưỡng như thế nào đi chăng nữa thì đều vẫn có sai số dự báo, mà dự báo lại là cơ sở cho việc ra quyết định quản lý. Do đó các kết quả dự báo phải được đánh giá theo ý nghĩa của dự báo, chất lượng của dự báo. Đánh giá dự báo được tiến hành cả trước và sau khi dự báo. 2.1. Đánh giá trước dự báo: Đánh giá trước dự báo nhằm kiểm tra trước khi các giá trị được quan sát trong khoảng thời gian dự báo. Sự đánh giá trước bao gồm việc kiểm tra các tiền đề, các điều kiện cho việc tiến hành thực hiện dự báo như: + Kiểm tra thông tin về tính đầy đủ, chính xác, phù hợp với mục tiêu dự báo, độ dài chuỗi quan sát, cấu trúc chuỗi thời gian. + Kiểm tra các biến tham số đại diện cho các mối quan hệ của chúng tới đối tượng dự báo. + Kiểm tra dạng hàm hoặc mô hình dự báo sử dụng. 2.2. Đánh giá sau dự báo: Chất lượng của dự báo được đánh giá sau bằng các hương pháp thống kê, chủ yếu dựa trên tính toán sai số dự báo, tức là độ sai lệch giữa giá trị thực tế và giá trị dự báo. Nếu ký hiệu là giá trị dự báo ở thời điện t là giá trị thực tế của đối tượng quan sát tại thời điểm t Và et là sai số dự báo ở thời điểm t Khi đó sai số dự báo sẽ là: et = yy - Trong thực tế người ta dùng bốn chỉ số để đánh giá sai số dự báo: Độ lệch tuyệt đối trung bình (MAD) Đây là một chỉ số đo lường sai số dự báo tương đối dễ tính toán hay được sử dụng trong thực tế. MAD là trung bình các sai số dự báo theo thời gian của đối tượng dự báo mà không quan tâm tới đó là sai số vượt quá hay sai số thiếu hụt. MAD đôi khi còn được gọi là sai số tuyệt đối trung bình (MAE). Công thức tính toán MAD như sau: Sai số bình phương trung bình (MSE) Khi tính sai số tuyệt đối trung bình. Chúng ta không có tính trọng số của các quan sát, và chúng ta cho các quan sát một trong số như nhau. Còn trong trường hợp này, các sai số lớn thì có trọng số lớn (trọng số là chính giá trị sai số), sai số nhỏ thì có trọng số nhỏ. Như vậy, sai số bình phương trung bình (MSE) được tính theo công thức: c) Sai số dự báo trung bình (MFE) Một mô hình dự báo tốt không những có sai số trung bình nhỏ mà còn phải đảm bảo tính không chệnh. Một mô hình được gọi là không chệch nếu như các sai số dương và sai số âm là tương đương. Hay nói cách khác, tổng giá trị các sai số dự báo này càng gần tới giá trị không (MFE = 0), và MFE được tính như sau: Nếu MFE càng xa không có nghĩa là dự báo càng chệnh và ngược lại, ví dụ MFE = -5 có nghĩa là dự báo vượt quá giá trị thực tế một lượng trung bình là 5 đơn vị trên một thời kỳ (giai đoạn). d) Phần trăm sai số tuyệt đối trung bình Sai số tương đối mà một dự báo mắc phải có thể được đo lường bằng phần trăm sai số tuyệt đối trung bình (MAPE). MAPE được tính theo công thức : MAPE nói rằng giá trị dự báo sai khác bao nhiêu phần trăm so với giá trị trung bình là bao nhiều phần trăm. Chương II : Đánh giá tình hình sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định trong thời gian qua I. Nghiên cứu nhu cầu thị trường dịch vụ điện thoại cố định 1. Phân loại thị trường theo đặc điểm kinh tế – xã hội của vùng. 1.1 Vùng đô thị phát triển – Khu trung tâm công nghiệp – Thương mại – Du lịch – Dịch vụ phát triển: * Đặc điểm của vùng: Những vùng đô thị phát triển thường là nơi có điều kiện về tự nhiên, kinh tế xã hội thuận lợi hơn các vùng khác, mật độ dân cư rất đông, cơ cấu lao động chủ yếu là lao động công nghiệp và thương mại, dịch vụ, tỷ lệ này chiếm tới 70% - 80% dân số của vùng đô thị. Dân cư của vùng đô thị chủ yếu là những người đã được qua đào tạo có trình độ văn hoá, dân trí khá cao hơn hẳn các vùng khác. Các công trình văn hoá, giáo dục, thể thao, giải trí, y tế, các trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá lớn, các đầu mối giao thông quan trọng đầu tập trung ở đô thị. Mật độ xây dựng ở các khu đô thị không ngừng tăng lên. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật và hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng ở đô thị phát triển cao và hoàn thiện hơn những nơi khác. Thu nhập của người dân ở những vùng đô thị cao, thường gấp đôi so với thu nhập bình quân cả nước. * Xu hướng của nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định Dịch vụ điện thoại cố định là dịch vụ là một trong những dịch vụ truyền thống, nó xuất hiện tương đối sớm so với các dịch vụ khác, nhất là ở các vùng đô thị phát triển, trung tâm thương mại… Cho nên ở các vùng này dịch vụ điện thoại cố định đã trở nên phổ biến và thông dụng đối với tất cả mọi người. Nên xu hướng những năm tới nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định có tốc độ phát triển chậm lại. 1.2 Vùng nông thôn, biên giới, hải đảo * Đặc điểm vùng: Mật độ dân cư thấp, có nơi thưa thớt và có những nơi dân cư phân bố rải rác. Trình độ văn hoá, dân trí thấp. Lao động chủ yếu là lao động giản đơn làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Những vùng này còn rất nghèo nàn, thu nhập thấp. Thiên nhiên khắc nghiệt. Kết cấu hạ tầng như giao thông, mạng lưới điện, nước, thông tin… còn rất yếu kém, chưa phát triển. * Xu hướng của nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định: Do những đặc điểm trên nên nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định ở những vùng này vẫn chưa phát triển, nên trong giai đoạn tới cần phải có chính sách để khuyến khích, thúc đẩy họ sử dụng. 1.3 Khu chế xuất – khu công nghiệp * Đặc điểm vùng Các công trình KCHT như viễn thông thực sự phải là nền tảng đi trước thì hoạt động của những khu này mới có hiệu quả. Đầu tư cho KCHT ở khu vực này được chú trọng và ưu tiên cả trong KCX, khu CN và ngoài khu phục vụ cho dân cư sinh sống. Thu hút nhiều lao động có trình độ tay nghề cao, đã qua đào tạo. Hoạt động sản xuất mang tính chuyên môn hoá cao độ, phân công lao động và hợp tác hoá chặt chẽ. Có nhiều công ty nước ngoài đang hoạt động, sản phẩm chủ yếu cho xuất khẩu. Thu nhập của lao động cao hơn hẳn so với các nới khác. *Xu hướng của nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định: Nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định ở khu vực này là rất lớn một phần là do các khu này mới xuất hiện, phát triển đi thẳng vào hiện đại, công nghiệp, phần khác là do sự đòi hỏi rất lớn của công việc sản xuất kinh doanh có trao đổi tin tức rất nhiều với nước ngoài. Xu hướng những năm tới nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định ở các khu vực này vẫn phát triển rất cao. Do nước ta là nước đang phát triển nên sẽ có rất nhiều khu chế xuất – khu công nghiệp mọc lên. do đó nhu cầu tiềm năng ở các khu vực này là rất lớn. 2. Các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định. 2.1. Khái niệm về nhu cầu: Nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định là số lượng khách hàng lớn nhất có thể sử dụng dịch vụ ở từng khu vực. Đặc điểm của nhu cầu dịch vụ Điện thoại cố định: Là loại nhu cầu phát sinh. Nhu cầu này ít có khả năng thay thế. Giá cả có tác động chậm đến nhu cầu sử dụng dịch vụ. Nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định mang tính đặc trưng theo hướng và mang tính thời điểm rõ rệt. Nhu cầu dịch vụ điện thoại cố định có độ co dãn chậm và mang tính xã hội xâu sắc. 2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định: Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Kinh tế phát triển, đời sống được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng đòi hỏi ngày càng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong tương lai, theo xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, thị trường Viễn thông mà đặc biệt là thị trường dịch vụ Điện thoại cố định có sự phát triển rất mạnh mẽ. Nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ cho các quan hệ kinh tế, giao lưu xã hội tăng nhanh. Xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá, tiến hành thương mại hoá dịch vụ Điện thoại cố định tạo cho thị trường Viễn thông hay thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức. Những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường yêu cầu mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải gắn kết với thị trường, phải nắm bắt được nhu cầu của khách hàng. Do vậy, việc tìm ra và nghiên cứu các yếu tố tác động đến nhu cầu dịch vụ Điện thoại cố định là rất cần thiết. Nó làm định hướng cho các đơn vị cơ sở xây dựng kế hoạch thực hiện nhằm thoả mãn tốt hơn nhu cầu thị trường, chiếm lĩnh thị trường trước khi bước vào cạnh tranh thực sự. Dự báo nhu cầu bị tác động bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố đó có thể được phân chia thành các yếu tố nội sinh và các yếu tố ngoại sinh, được thể hiện trong hình 2.1. Dự báo nhu cầu phải dựa vào và phân tích các yếu tố này để xác định nhu cầu tương lai về số lượng. Các yếu tố ngoại sinh Các yếu tố nội sinh Các yếu tố kinh tế tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ tiêu dùng dân cư GDP bình quân đầu người ở khu vực Cơ cấu ngành nghề trong khu vực Các yếu tố xã hội Dân số và mật độ dân cư Số hộ gia đình Số người đang làm việc Văn hoá, phong tục, tập quán Thói quen, thị hiếu người tiêu dùng Nhà cung cấp * Sản phẩm: chủng loại sản phẩm chất lượng sản phẩm * Giá lắp đặt. * Cước: Giá thiết bị Cước cơ bản Cước phụ trội * Phân phối * Chiến lược marketing Chiến lược sản phẩm Chiến lược quản cáo và các chính sách xúc tiến yểm trợ Nhu cầu Hình 2.1: Các yếu tố tác động đến nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định II. Hiện trạng về mạng viễn thông - Tình hình phát triển dịch vụ Điện thoại cố định Trong thời gian qua. 1. Hiện trạng về mạng Viễn thông : Đến nay Viễn thông Việt Nam đã xây dựng được mạng Viễn thông quốc tế hiện đại, tiên tiến. Mạng Viễn thông trong nước hiện đại, vững chắc và đều khắp. Mạng Viễn thông Việt Nam hôm nay về qui mô tuy còn nhỏ bé, nhưng về công nghệ đã đạt trình độ các nước tiền tiến trong khu vực. Mạng Viễn thông Việt Nam đã thực hiện số hoá toàn bộ các hệ thống chuyển mạch, truyền dẫn cấp I và cấp II. 100% tỉnh lỵ và huyện thị của Việt nam đã được trang bị tổng đài điện tử truyền dẫn kỹ thuật số hiện đại. Nhờ đó việc gọi liên tỉnh và quốc tế quay số trực tiếp được thực hiện ở tất cả các trung tâm tỉnh lỵ, thị xã trong toàn quốc. Đây là một trong những cố gắng lớn của Ngành Bưu điện trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng cũng như phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Người tiêu dùng hôm nay đã có thể quay các cuộc gọi liên tỉnh, quốc tế trực tiếp từ nhà, công sở hoặc các ghi sê của Bưu điện thay vì phải túc trực hàng giờ, hàng buổi để chờ nhân viên Bưu điện đấu nối nhân công trước đây. Các tổng đài điện tử kỹ thuật số có tính năng linh hoạt có thể thay đổi, mở rộng dung lượng khi cần thiết và khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ phong phú cùng với các tuyến truyền dẫn băng rộng được đưa vào khai thác trên mạng lưới đã cho phép Ngành Bưu điện cung cấp cho khách hàng nhiều loại hình dịch vụ hiện đại, phong phú, đa dạng kể cả các dịch vụ cơ bản cũng như các loại dịch vụ giá trị gia tăng có tiêu chuẩn và chất lượng quốc tế, đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng tăng của nền kinh tế mở, hội nhập. * Viễn thông quốc tế: Mạng Viễn thông quốc tế Việt nam đã được xây dựng hiện đại, tiên tiến với cả hai phương thức liên lạc hiện đại: + Qua vệ tinh: Hiện có 7 trạm mặt đất thông tin vệ tinh, 3 tổng đài cửa ngõ (gateway) tại Hà nội, Đà nẵng và TP.HCM cung cấp hơn 2.000 kênh liên lạc vệ tinh đi trực tiếp hơn 30 nước và qua quá giang đi tới hơn 200 nước còn lại. + Cáp quang: qua hệ thống cáp quang biển có trạm cặp bờ T-V-H [ Việt nam – Thái lan – Hồng kông ] có dung lượng hơn 7000 kênh mỗi hướng( được đưa vào khai thác từ tháng 2/1996), ngoài ra Việt nam còn mua chủ quyền dung lượng của nhiều tuyến cáp quang biển khác. Cho đến nay Việt nam đã có trên 5.000 kênh liên lạc quốc tế, năm 2000 đã chuyển tải gần 500 triệu phút lưu lượng quốc tế. * Viễn thông trong nước: Mạng viễn thông trong nước được xây dựng theo hướng số hoá hiện đại, vững chắc và đều khắp bằng những công nghệ hiện đại nhất hiện nay như: Tổng đài điện tử kỹ thuật số, viba số và cáp quang v.v… Năng lực truyền tải [ chỉ tính riêng đối với điện thoại] trong năm 2000 mạng viễn thông trong nước đã chuyển tải được gần 2,5 tỷ phút điện thoại đường dài liên tỉnh. Đối với các hệ thống chuyển mạch: Hiện 100% tỉnh lỵ, huyện thị đã được trang bị tổng đài điện tử kỹ thuật số. Đã có hơn 4 triệu số tổng đài đã được lắp đặt trên mạng viễn thông Việt nam. Hệ thống chuyển mạch quá giang liên tỉnh trước đây được trang bị 2 tổng đài TANDEM TDX – 10 [ Hàn quốc] tại Hà nội, TP.Hồ Chí Minh, năm 1995 đã được trang bị bổ sung thêm hai tổng đài trung chuyển – TOLL AXE-10 [Thuỵ điển] với dung lượng mỗi nơi gần 10.000 số có trang bị tín hiệu số 7 làm nhiệm vụ lưu thoát lưu lượng liên tỉnh cho khu vực và các tuyễn trục, chuẩn bị cho việc xây dựng xa lộ thông tin và đưa các dịch vụ băng rộng, dịch vụ đa phương tiện vào phục vụ. Đối với các hệ thỗng truyền dẫn: Đường trục Bắc – Nam hiện đang khai thác: Cáp quang dọc quốc lộ 1A 34Mbs đã được nâng cấp lên 2,5 Gbs [30.000 kênh liên lạc tiêu chuẩn ], song song là tuyến cáp quang 2,5 Gbs trên đường dây 500KV tạo thành 4 mạch vòng Ring khép kín, tăng độ an toàn cho tuyến trục Bắc – Nam là tuyến có lưu lượng lớn nhất hiện nay. Tuyến Viba số băng rộng 140 Mbs [dung lượng ban đầu 1.920 kênh – hiện đã được nâng cấp cấu hình 2+1] Các kênh liên lạc qua vệ tinh thông qua các đài mặt đất tại Hà nội, Đà nẵng và TP.Hồ Chí Minh. Các tuyến liên lạc liên tỉnh: 100% các tuyến liên lạc liên tỉnh đều đã được số hoá. Hiện nay các tuyến liên lạc liên tỉnh đều được toả từ ba trung tâm viễn thông lớn của toàn quốc là Hà nội, Đà nẵng và TP.Hồ Chí Minh bằng các tuyến cáp quang hoặc bằng các tuyến Viba số có dung lượng 34-140Mbs. Trên các tuyến thông tin của các vùng địa bàn kinh tế trọng điểm có lưu lượng lớn như : Hà nội – Hải phòng – Quảng ninh, Tp.Hồ Chí Minh – Biên hoà - Vũng tầu, ngoài các tuyến Viba số còn được trang bị thêm song song bằng các tuyến cáp quang 622Mbs công nghệ đồng bộ số [SDH], góp phần phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế xã hội của các vùng trọng điểm kinh tế đầy năng động này. Nằm trong chiến lược cáp quang hoá mạng lưới, hiện nay ở nhiều tuyến liên lạc liên tỉnh ngoài phương thức liên lạc bằng Viba số còn đang chuẩn bị được bổ sung bằng cáp quang nhằm tăng độ an toàn và dung lượng cho mạng lưới. Đối với mạng nội tỉnh, ở nhiêu tỉnh, thành cùng với việcđưa tổng đài số vào hoạt động, các hệ thống trung kế liên đài đi cùng cũng đã được cáp quang hoá, đặc biệt là ở Hà nội, TP.HCM hệ thống trung kế liên đài hầu như đã được cáp quang hoá 100%. Trong khi đó đối với mạng cáp thuê bao tình hình chung là mặc dù đã được thay thế nhiều hiện cáp treo vẫn còn nhiều, vừa gây mất mỹ quan thành phố, vừa đảm bảo độ an toàn thông tin. Ngoài ra từ năm 1995 Viễn thông Việt nam đã xây dựng và đưa vào hoạt động mạng VSAT có trạm chủ [GUB] đặt tại TP.Hồ Chí Minh. Đến nay đã phát triển được hơn 50 trạm VSAT, cung cấp dịch vụ viễn thông cho khách hàng ở vùng sâu, vùng xa, huyện đảo vv… nơi v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5281.doc
Tài liệu liên quan